Translate

Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2012

KHẢO CỨU VỀ CHỢ VIỆT XƯA - II

Từ chợ nông thôn, chợ thành thị …đến chợ chuyên doanh

Do nhu cầu xã hội tăng vọt và là trung tâm thương mại toàn Đại Việt nên các chợ đầu mối chuyên doanh đã sớm tụ họp vào thế kỷ 17 ở những nơi thuận tiện nhất. Cửa sông Tô Lịch, nơi giao tiếp với sông Hồng xuất hiện chợ chuyên doanh gạo thuộc làng Giang Nguyên (làng Nguồn Sông). Toạ lạc nơi cửa sông chợ Gạo rất thuận tiện cho các tàu thuyền lớn thu mua gạo từ các trấn khác chở về Đông Kinh xuống hàng rồi từ đây phân phối đi khắp các chợ trong vương quốc và chứng tích mong manh là cái tên phố Chợ Gạo còn mãi đến ngày nay. Thậm chí nhiều ghi chép còn lại cho thấy thương lái phương tây đã từng tham gia một cách tích cực vào nghề kinh doanh béo bở này. “…Ngày 12-6-1682 tàu Croonvogel- Hà Lan, tải cùng với hàng khác đến Đàng Ngoài 40 kiện gạo …Tháng 5-1688 tàu Gaasperdam tải đến Đàng Ngoài hơn 80 kiện gạo… được chúa Trịnh Căn để cho buôn bán được dễ dàng…..Tháng 7-1689 tàu đó lại chở đến 80 kiện gạo nữa [3:109]. Có thể đoán định rằng số lượng gạo lớn như vậy phải được phân phối chủ yếu bằng đường thuỷ qua chợ đầu mối là Chợ Gạo Giang Nguyên.
Chợ Cá ở phố Hàng Cá ở sát ngay bên sông Tô Lịch thuộc thôn Đồng Thuận tổng Hậu Túc huyện Thọ Xương. Nơi đây từng có trại “tiên ngư” (cá tươi) vốn là nơi chuyên doanh về cá của kinh thành. Hồ Tây “kho thuỷ sản” tươi sống vô tận cho chợ Cá còn nổi tiếng cho tới ngày nay bởi loại cá Chép và tôm Bạc thơm ngon . A. Rhodes từng nhận xét: “cá ở đây có bán rất nhiều và rẻ mạt, những con ngon nhất và to nhất cân nặng từ 10-12 cân anh [1:90]. Sách Thượng kinh phong vật chí cho biết: “To mà béo là cá Hồ Tây kém gì cá Lư sông Tùng, cá ngon ở hàng bính, cá chép ở sông Hà, cá mè sông Lạc”[2:90]
Chè là một mặt hàng chuyên doanh khác ở khu vực thôn Hương Mính (Chè thơm) ở phía đông bắc Hồ Hoàn Kiếm. Làng này vốn tên nôm là hàng Chè, từ năm Minh Mạng thứ 11 mới bị đổi thành tên Hán- làng Hương minh chạy từ khoảng phố Cầu Gỗ tới khu đền Bà Kiệu ngày nay. Đây là mặt hàng cao cấp của giới thượng lưu, nho sĩ, các gia đình danh gia vọng tộc chốn kinh kỳ. Thế kỷ 17-18 loại chè Mạn Hảo - đặc sản vùng trung du tây bắc Đại Việt (vùng đất này đã được nhập vào bản đồ Vân Nam theo thoả thuận Pháp Thanh cuối thế kỷ 19). Đó cũng chính là nguồn gốc danh từ “chè Mạn” còn tồn tại tới nhữmg năm cuối thế kỷ 20. Các nhà quyền quý thời này uốngtrà rất công phu, họ còn đặt hàng trước các loại chè hiệu “Chính sơn” để phô trương sự sành điệu trà nghệ của mình.
Thời phong kiến, tầng lớp nho sĩ, học trò đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội đó chính là “nguyên khí” của quốc gia. Đối với ho, giấy là mặt hàng thiết dụng tưởng còn cần hơn cả “cơm ăn nước uống”. Câu chuyện Hà Tông Huân, một danh sĩ nhà Trịnh (đỗ Bảng nhãn năm 1724) từng thưởng cho cậu học trò Phan Kính 30.000 tờ giấy viết, đến nỗi không có chỗ để ở nhà trọ phải xin thầy cho gánh dần về dùng đủ thấy lượng giấy tiêu thụ trong xã hội lớn biết nhường nào. Những nhu cầu ấy đã tạo nên cả một chợ chuyên doanh giấy bên bờ sông Tô duyên dáng vùng Dịch Vọng. Chiếc cầu “Thượng gia hạ kiều” nằm kề gần chợ thuộc địa phận làng làm giấy Thượng Yên Quyết cũng được dân chúng đặt tên là “Cầu Giấy”.
Khu phố thương mại Đông Kinh còn có một chợ chuyên doanh mặt hàng đặc biệt nữa-Chợ Yếm Lụa. Trong dân gian từng truyền tụng câu ca dao cổ:
Ước gì sông hẹp một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
Hình ảnh văn chương về dải yếm đào đã phần nào nói lên vai trò quan trọng của nó trong đời sống phụ nữ Việt xưa. Yếm vốn không chỉ là một bộ phận trang phục để che đôi “Bầu mơ” mà còn như một món thời trang, trang điểm tôn vinh vẻ đẹp của phái “liễu yếu đào tơ”. Thường yếm để mộc hoặc chuội trắng.Với những cô gái trẻ thích nhuộm màu hoa đào làm đỏm, các phu nhân, mệnh phụ lại dùng màu điều đỏ thắm để tỏ cái vẻ đoan trang chững chạc với đời. Đông Kinh- Kẻ Chợ đã từng có hẳn một chợ chuyên doanh y phục phụ nữ: chợ Yếm Lụa nằm ở phường Đồng Lạc (đoạn đầu phố Hàng Đào). Gần đây người ta đã tìm thấy tấm bia gắn trên tường số nhà 38 Hàng Đào nguyên là đình Đồng Lạc. Nội dung bia khẳng định đây chính là ngôi đình “… Quyến yếm lụa thị (chợ yếm lụa) có từ xa xưa là đình của phường buôn bán yếm và y phục phụ nữ, năm nay hư hỏng nặng được trùng tu”(Bia do cử nhân Phạm Đình Viên soạn năm 1856). Phường Đồng Lạc còn có Chợ Tơ cạnh Hàng Đào chỉ chuyên bán buôn tơ lụa không bán lẻ, họp phiên vào ngày 1 và ngày 6 hàng tháng[11:106]. Thế kỷ 17,18 là thời kỳ “lên hương” của sản phẩm tơ Đại Việt. Chất lương tốt, giá thành rẻ đã đưa tơ xứ Đông Kinh trở thành một trong hai mặt hàng xuất khẩu chính theo các thương thuyền Hà lan, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây ban Nha, Nhật ngựơc xuôi trên hải trình giao thương quốc tế đương thời. Lụa Vạn Phúc là mặt hàng chủ đạo được bán buôn ở chợ Cầu Đơ (Hà Đông) và là đầu mối cung ứng hàng hoá quan trọng cho phố Hàng Lam, Hàng Đào trong kinh thành.
Các chợ chuyên doanh còn xuất hiện theo làng nghề ở các vùng quanh kinh đô. Đó là làng Đa Ngưu chuyên buôn thuốc Bắc ở Hưng Yên từ mấy trăm năm nay. Từ thế kỷ 17, Thổ Hà đã có một nơi chuyên bán đồ gốm ở chợ Tam Bảo.Tấm bia đá khắc năm Chính hoà 14 ghi rõ: “Chợ Tam bảo xã ta mỗi tháng 12 phiên cang sành giao dịch” (KTTCN Triều Nguyễn trang 95).
Chợ chuyên mua bán trâu bò năm ngày họp một phiên ở phía nam Kinh thành. Đi kèm với chợ này là nghề mổ thịt cổ truyền đem bán tại các chợ nhỏ được ghi tạc trong tấm bia dựng năm 1669: “phá xương trâu bò thì dùng búa rìu, cắt thớ thịt thì dùng dao nhọn…”. Lò mổ ở phường Hồng Mai, vùng này còn được triều đình giành cho đặc quyền giết thui trâu bò cung ứng trong các dịp lễ tết [7:54]. Một số chợ chuyên doanh khác được ghi nhận như Chợ gà vịt ở thôn Tân Lập-Tân Khai (gần phố cửa Đông), Chợ thịt chó và chó thịt ở gần thành (phố Hàng Bồ). Thương gia Dampier người Anh (1688) còn cung cấp những thông tin lý thú khác: “……người ta thấy bán ở chợ những loại hàng như lợn, khá nhiều lợn sữa(lợn giống), trứng gà vịt đủ loại to nhỏ tươi và ướp, bã mắm và nước mắm. Ở Kẻ Chợ ta còn thấy bán cả thịt chó, thịt mèo mà người ta còn nói đến cả châu chấu nữa” [8:27].
Khác với chợ ở thành thị, chợ vùng nông thôn, vùng ven kinh đô họp theo phiên nhiều ít tuỳ tình hình kinh tế từng vùng. Đặc điểm của chợ nông thôn là loại chợ tự sản tự tiêu kiểu “cây nhà lá vườn” chợ nông thôn không có hàng quán cố định, không có người thường trực. Chợ thường họp ở bãi đất rộng, đường cái, bến đò ngang. Thực sự chợ nông thôn chủ yếu là nơi đổi chác sản phẩm tự sản của cư dân địa phương phục vụ nhu cầu sinh hoạt hơn là tính thương mại thu lợi nhuận chuyên nghiệp. Người có ổ trứng gà, quầy chuối, ổ chó vv… mang bán đổi lấy miếng thịt lợn, miếng đường phên, manh quần tấm áo tạo dựng từ một hình thức thương mại sơ cấp.
Tuy nhiên dù là chợ nông thôn hay thành thị thì chủ yếu vẫn là phụ nữ tham gia. Du khách Trung quốc Phan Đỉnh Khuê có mặt ở Đông Kinh năm 1688 đã cho biết “việc buôn bán ở Kẻ Chợ bao giờ cũng do phụ nữ đảm nhiệm”. Thậm chí Domoutier còn đếm rõ”… cứ trong 100 người đi chợ, người ta đếm được 84 người là đàn bà con gái”. Chuỗi dãy tư liệu trong các tập nhật ký của Kofler, Gion Oet đều khẳng định vai trò chủ đạo của họ, cả ở việc mối lái chạy hàng với thương gia nước ngoài và một số không ít trong họ đã trở thành vợ của thương gia nước ngoài đảm đương việc gom hàng, đặt hàng khi chồng đi vắng.
Một điều hết sức thú vị là gi cả hàng hoá ở các chợ xưa rất ổn định. Trong sách “Tình hình công thương nghiệp Việt nam thời Lê mạt” của Vương Hoàng Tuyên nêu rõ: “năm1741 giá một con bò là 5 quan tiền… 61 năm sau năm1802 giá một con bò cày cũng đựoc định là 5 quan tiền… Năm1663, 100 thùng thóc giá 3 quan tiền…Đến năm 1741, 1 quan tiền 50 bát thóc tính ra thùng thì chừng hơn 3 quan 100 thùng thóc, giá thóc đã gần như ổn định suốt gần một thế kỷ với biết bao sự biến thiên, vật đổi sao dời.. Hai thí dụ trên cho ta thấy trong suốt hàng trăm năm các mặt hàng thiết yếu của xã hội gần như không có biến động.
Ngày nay ai cũng phiền lòng về các chợ tự phát và chợ “chồm hổm” lấn áp phố phường, cản trở giao thông…song ít ai biết rằng đó là một tập quán xa xưa của người Việt. Hình ảnh này từ các thế kỷ trước đã được cc gio sĩ phương ty ghi nhận “…người thương nhân ngồi ngay xuống đất bày hàng hoá ra trước mặt họ…tất cả ngồi thành hàng quanh khu đất trống…ở giữa để chừa ra một lối đi cho người cưỡi ngựa hoặc xe bò”, “…việc thành lập một cái chợ không tốn kém gì cả mà chỉ cần đến thời tiết tốt. Người nông dân ngồi ngay xuống đất, trên đường phố, hàng hoá để trong một vuông vải hay trong một cái làn…” [2:86
Vãn chợ Đông Kinh Kẻ Chợ xưa cho ta thấy lại cái không khí sầm uất náo nhiệt một thời của trung tâm thương mại Đông Kinh - Kẻ Chợ thủa cực thịnh. Sẽ thật có ích, nếu chúng ta có thể tìm lại dấu ấn đời sống thương mại của dân chúng Kẻ Chợ xưa góp phần dần tái hiện lại chân dung về một đô thị Thăng long – Đông Kinh trung đại đầy ký ức vàng son, một phần gương mặt của văn hóa Việt Nam.
T.Q.Dũng 11/2008
Ti liệu tham khảo:
[1] Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài. Alexandre De Rhodes. UBĐK Cơng gio 1994.
[2] Thăng Long H Nội TK 17, 18, 19. Nguyễn Thừa Hỷ. Hội Sử học Việt Nam 1993.
[3] Thương mại Việt Nam TK 17, 18, 19. Thành Thế Vĩ. Nxb. Sử học 1961.
[4] H Nội nửa đầu TK XX. Tập 3. Nguyễn Văn Uẩn. Nxb. Hà Nội, 1995.
[5] Vũ trung tuỳ bút. Phạm Đình Hổ. NXB Trẻ. 1989
[6] Một số văn bản pháp luật VN TK 15-18. Viện Nhà nước và Pháp luật. NXB. KHXH 1994.
[7] Lịch triều hiến chương loại chí. Phan Huy Chú. NXB Hà Nội 1961.
[8] Voyages and Discoveries 1688. Wiliam Dampier, London 1931.
[9] Văn hóa Việt Nam qua các bưu ảnh cổ. Hội Mỹ thuật VN. NXB Mỹ thuật 2001.
[10]Description du royaume de Tonquin. S.Baron (1680). RI 1914-1915.
[11] Trăm năm chuyện Thăng Long-Hà Nội. Siêu Hải. NXB Thanh niên 2000.
*Bài viết do tác giả Trịnh Quang Dũng gửi riêng cho Nguyễn Xuân Diện-BLOG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét