Translate

Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

TRÀ THƯ I


Chúng tôi được phép của tác giả Đức Chính cho phép đăng toàn bộ quyển 1 có tựa là Trà Thư  cho độc giả tham khảo. Đây là một quyển trong Tác phẩm Trà Luận bao gồm 3 quyển: Trà thư (biên khảo), Trà đạo (dịch từ cuốn Book of Tea của Okakura Kakuzo) và Trà phong (Biên khảo).
Thay mặt độc giả, blog chúng tôi cám ơn tác giả đã cho phép đăng tải toàn bộ tập tư liệu này.



tựa a
(quyển 1: Trà thư)
Biên khảo: Đức Chính
Lời tựa 1.
1.- Trà: huyền thoại và lịch sử.
2.- Truy lại cội nguồn nền văn hóa trà.
3.- Trà thư.
4.- Danh trà.
5.- Thú chơi trà.
Phụ lục 1: Giai thoại và tản mạn chuyện trà.
Viết theo nhiều nguồn tư liệu sưu tập

tựa
Thay lời tựa
Tôi là người có tật xấu từ thời trai trẻ thích uống trà và cà phê, nên thường lê la quán xá. Quán trà hay cà phê là cái nôi của chuyện phiến “trên trời dưới đất”. Tôi là thành tố của nó nên chẳng thoát ra được, thường hay tranh cãi đủ mọi việc trên đời, trong đó không ít lần liên quan đến trà. Gặp người thích tranh thắng cũng đỏ mặt tía tai tranh luận cho bằng được, thậm chí có sừng sộ rồi không nói chuyện với nhau một thời gian. Cũng có kẻ thích bịa chuyện không thấy ghi trong sách vở để mà ta đây, tôi lại bỏ công tốn sức đi tìm tư liệu chứng minh để ăn thua. Một cuộc đời cứ rong chơi trong phù phiếm như vậy. Một hôm, vô tình tranh cãi về Kim Thánh Thán, tôi về tìm đọc nhân vật này. Lần qua đống sách, tôi đọc cuốn “Cái Cười Của Thánh Nhân” do Thu Giang Nguyễn Duy Cần biên soạn. Trong đó có bài “Sướng” trích lời của Kim Thánh Thán, một đoạn viết: “… Qua phố thấy có hai bác đồ gàn, cãi nhau về một chuyện … Cả hai đều đỏ mặt, tía tai, tưởng chừng không đội trời chung. Vậy mà còn chắp tay lên, khom lưng xuống, đâu mồm chi, hồ, giả, dã. Câu chuyện kéo dài, có thể mấy năm không xong. Bỗng có tay tráng sĩ vung tay đi lại, ra oai quát to một tiếng. Thế là nín thin thít. Chẳng cũng sướng sao!” Đọc xong tôi lấy làm hổ thẹn về mình; gần một cuộc đời mình đã gàn ngông đến ngu dại.
Dẫu vậy tôi cũng không bỏ được thói nghiền trà, nghiền cà phê; cứ lê la quán này tiệm nọ. Nhưng được cái là tự rèn mình. Ai tranh cãi quá quyết liệt thì lặng yên chịu thua, nghe để rút tỉa được gì chắng. Ai nói sai coi như bài học kinh nghiệm người ta trả học phí cho mình sau này tránh vấp phải. Nhưng xét cho cùng cũng là hoang phí thời giờ, vì cuộc đời bao la đâu phải thứ gì cũng học trong khi thứ mình cần lại không có thì giờ. Lại tìm cờ ngày kia bàn chuyện sách Kỷ Lục Guiness, ai đó trong lúc trà dư tửu hậu nói: “Sách này ra đời vì chủ một quán rượu mang cùng tên thấy khách hàng tranh cãi nhau nhiều vấn đề quá nên thu thập và xác minh sự việc viết thành sách xuất bản hàng năm.” Điều này đúng sai không biết, nhưng là một bài học tuyệt vời. Tôi gom góp những điều nghe được về trà, đem xác minh với tư liệu, rồi viết cuốn sách này. Mong sao nó cứu vãn một phần cho cuộc đời hoang phí của mình.
Lời sám hối không có giá trị nếu không biến nó thành sự việc. Hy vọng đây là lời sám hối hay hay của đời tôi.
Đức Chính
Mùa Hạ năm Kỷ Sữu -2009
I.- Trà: huyền thoại và lịch sử
Hình như tất ca những gì có người Trung Hoa tham gia vào đều có bên cạnh một vài huyền thoại. Trà cũng không ngoại lệ, ít ra người Trung Hoa có hai huyền thoại về trà: một huyền thoại mang sắc  thái người Hoa Bắc và một mang sắc thái người Hoa Nam.
Huyền thoại thứ nhất của người Hoa Bắc cho rằng cho rằng người đầu tiên phát hiện ra trà chính là Thần Nông (2737- 2697 Tr. Công Nguyên). Truyền thuyết này lại được giới thiệu trong cuốn Trà Kinh của Lục Vũ (vào năm 780 sau Công nguyên).

trà-1
Vua Thần Nông là vị Hoàng Đế huyền thoại rất giỏi về nông nghiệp và y dược. Ngài nếm nhiều loại cây cỏ để tìm dược tính trị bệnh cho dân; “Thần Nông một ngày nếm thử một trăm loại thảo dược và gặp bẩy mươi loại độc và tự mình giải độc.”. Sự tích tìm ra cây trà của Thần Nông cũng được dệt bằng một huyền thoại thần bí. Một hôm, Vua Thần Nông cùng vợ con lên núi, giữa chừng núi vua thấy khát nước thì ngay lúc đó một chiếc lá rơi xuống cạnh chân Ngài. Thần Nông lượm lên và vò nát trong tay mình, chất nhựa dính vào ngón tay và Ngài đưa lên miệng nếm. Vị đăng đắng cho Thần Nông biết nó có dược tình và cảm thấy cơn khát mất đi. Thần Nông bèn đem chiếc lá đó sắc lên, và Ngài là người đầu tiên uống trà. Lại có truyền thuyết nói Thần Nông đun nước dưới một gốc cây, lá cây này rụng và rơi vào nồi. Nước trong nồi có màu vàng xanh và mùi vị thơm ngon, uống vào hết khát: đó là trà.
Người Trung Hoa chứng minh huyền thoại này bằng cách trưng ra cuốn ‘Thần Nông Bản Thảo” , trong đó có ghi tính dược cây trà. Nhưng thực ra tác phẩm này là một biên khảo vào thời Tần-Hán (khoảng năm 220 sau Công Nguyên) do nhiều nhà y học ghi chép và về sau Đào Hoằng Cảnh (457 – 536) chỉnh lý lại và người đời sau bổ sung và sửa đổi khá nhiều. Có điều chúng ta cần lưu ý trong Trung Y (y học trung Hoa) không thấy cổ phương danh tiếng nào dùng trà làm vị thuốc và trong các hiệu thuốc đông dược chẳng thấy ai dùng đến trà cả.
.Người Trung Hoa nói thế. Các học giả phương Tây dựa vào tài liệu Trung Hoa thuật lại thế và chúng ta nhắm mắt tin thế. Rồi người Nhật phụ họa thêm truyền thuyết trà là một cây thuốc như sau: vào đời Chiến Quốc một danh y truyền dạy y thuật cho con trai, nhưng chỉ mới truyền được bảy phần thì ông qua đời. Tưởng là phần còn lại thất truyền, nào ngờ nơi mộ ông ta mọc lên một loại cây hội đủ dược tính phần y thuật còn truyền sót; đó là cây trà. Càng về sau, các tài liệu đều ghi: “Khởi đầu trà là một vị thuốc, sau trở thành thứ nước uống giải khát.”
Củng cố thêm cho nguồn gốc cây trà và văn hóa trà xuất phát từ Trung Hoa, người Hoa Bắc còn đưa ra huyền thoại “Các vua nhà Chu đã dùng trà tế lễ từ năm 221 trước Công Nguyên”. Huyền thoại này thực sự có cơ sở chăng?! Nếu từ thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc người Trung Hoa đã dùng trà trong tế tự, ắt điều này phải có ghi trong các kinh lễ của các bậc thánh nhân như Chu Công và Khổng Tử. Đáng tiếc, Kinh Lễ hay Lễ Ký do Đức Khổng Tử san định cũng không hề thấy nói đến trà; sách Luận Ngữ do học trò ngài ghi lại các lời Ngài dạy hàng ngày cũng chẳng thấy nói đến trà; Kinh Thi cũng do Ngài san định là một tác phẩm ghi chép lại các bài ca dao trong dân gian không hề có một chữ trà hay chữ đồ. Trở ngược dòng lịch sử, sách Chu Lễ ghi rất chi li lễ tiết đời Chu cũng không thấy có chữ trà, Hoặc quay xuống đến đời Hán chúng ta thấy có cuốn Sử Ký của Tư Mã Thiên (khoảng những năm 90 trước Công Nguyên, có một thiên Lễ Thư), hay Hán Thư cũng không dành cho trà một chữ. Qua đó có thể nói ít nhất đến đời Hán trà chưa hề được biết đến ở Trung Hoa.
Trái lại chúng ta dễ dàng thấy chữ “tửu” trong các tác phẩm vừa nói, với câu nói nổi tiếng “Vô tửu bất thành lễ”. Điều này cho thấy việc vua nhà Chu dùng trà tế lễ là sự gán ghép đời sau. Nho gia không phải rồi, vậy trà có phải của Đạo gia chăng?! Chắc chắn là không vì biểu tượng thường đi kèm với các vị tiên gia là phất trần và bình rượu chứ không phải ấm trà, và giới đạo gia có thứ rượu Quỳnh tương trên tiên giới thần diệu như nước cam lồ bên Phật giáo. Chỉ mãi sau đến đời Chu Hy (cuối Nam Tống) mới xuất hiện một bài thơ gắn ông tiên với lò nấu trà (xem chương 4 “Thú chơi trà” quyển này)
Như vậy có thể nói điều Lục Vũ ghi trong Trà Kinh “Thần Nông là ông tổ cây trà” có thể chỉ là lời lượm lặt trong dân gian thích thêu dệt huyền thoại của người Trung Hoa mà thôi.
Huyền thoại thứ hai của người Hoa Nam. Huyền thoại này cho rằng chính Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidarma), Sơ tổ Thiền Trung Hoa, là người mang cây trà từ Ấn Độ vào Trung Hoa (năm 519 sau Công Nguyên). Nhờ cây trà mà Ngài thức suốt 9 năm để ngồi nhìn vách đá quán tưởng công án. Tin vào truyền thuyết này nên về sau Thiền Nam Tông có nghi thức uống trà trước tượng Bồ Đề Đạt Ma. Xoay quanh Bồ Đề Đạt Ma lại có một huyền thoại thần bí hơn, lại do người Nhât phụ họa: Sau ba năm diện bích, tổ Đạt Ma kiệt sức và ngủ lịm đi. Khi tỉnh dậy, tổ hối hận và lo lắng, cắt hai mi mắt mình liệng xuống đất. Ít lâu sau nơi đó mọc lên một loại cây bụi, tổ Đạt Ma lấy lá của nó nấu lên uống thì tỉnh ngủ hẳn. Và Ngài tiếp tục diện bích cho hết 9 năm.
Huyền thoại quanh Bồ Đề Đạt Ma rất được người Ấn Độ ủng hộ, họ cho rằng dùng trà là một tập quán rất phổ biến của tu sĩ Phật giáo. Tập quán này xuất phát từ rất xa xưa và trưng ra tư liệu trong cuốn sử thi Ramayana (có vào khoảng năm 750-500 trước Công Nguyên) thuật lại thần khỉ Hanuman được phái lên dãy Hi-mã-Lạp-Sơn tìm lá trà (sử thi gọi là cây Sanjeevani; ngày nay có nhà nghiên cứu khẳng định cây này không thuộc chi Camellia) về làm thuốc trị bệnh. Người Ấn Độ đưa ra dẫn chứng vùng phía đông dãy Hi Mã Lạp Sơn là nơi có nhiều cây trà hoang và hiện nay là vùng sản xuất trà nổi tiếng thế giới. Lại nữa, họ dựa vào tài liệu năm 1598 của nhà thám hiểm Hà Lan, Jan Huyghen van Linschoten, ghi chép lại: người Ấn Độ ăn một loại lá trộn tỏi và dầu dùng làm rau ghém và loại lá này còn được nấu lên làm nước uống. E rằng bấy nhiêu không đủ cơ sở về thời gian để nói xuất xứ văn hóa trà từ Ấn Độ.
Như chúng ta đã biết, các bộ kinh kết tập lần đầu tuy tập trung vào các giáo lý nhưng có giá trị như những tác phẩm văn học. Các bộ kinh như Trường A-hàm, Tạp A-hàm, trung A-hàm, Tăng Nhất A-hàm mô tả rất rõ các sinh hoạt của tăng sĩ bên cạnh các giáo pháp của Phật Thích-ca; đặc biệt bộ Tứ Phần Luật (Luật Tạng) còn ghi rất chi tiết các sinh hoạt và vi phạm luật tăng sĩ thời Đức Phật. Cũng đáng tiếc chẳng tìm được chữ trà hay từ nào khác có thể dẫn chứng là trà. Thứ đến, người ta thường hay nói đến trà-thiền, nhưng truy lục lại các tư liệu Thiền Trung Hoa chúng ta sẽ mau chóng nhận ra trà xuất hiện và càng ngày càng nhiều kể từ đời Lục Tổ Huệ Năng về sau. Và người Tích Lan (nay gọi là Sri Lanka) là nơi từng có dấu chân Phật giảng kinh Nhập Lăng-già, cũng là nơi giữ nhiều dấu tích và tập tục của Phật giáo nguyên thủy, nhưng trà cũng do người Anh du nhập vào mới gần đây; hiện nay họ lại dùng trà theo kiểu người Anh. Hơn nữa, các tư liệu và truyền thuyết dân gian của Ấn Độ chẳng nói gì về trà và mãi đến cuối thập niên 1830 Ấn Độ mới hình thành văn hóa trà qua hoạt động thương mại của Công Ty Đông Ấn của Anh.

trà-2
Vậy sao nói trà và thiền gắn với nhau! Điều này quả không sai, nhưng Phật giáo vào Trung Hoa không phải chỉ có một đường trực tiếp từ Ấn Độ qua. Chúng ta sẽ thấy ở chương kế tiếp nguồn gốc cây trà có khả năng từ nước Đại Lý (vùng Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên và vùng thượng du Bắc Việt hiện nay) và nước này quốc giáo là Phật giáo Mật tông. Dòng thiền Hoa Nam chịu ảnh hưởng rất không phải là ít giáo pháp và tập quán Phật giáo Đại Lý; chính các dòng thiền Việt Nam ngay đời Trần cũng còn chịu ảnh hưởng này (trước đời Lý-Trần ảnh hưởng rất mạnh do các tăng sĩ từ ngõ Đại Lý sang). Trong chừng mực nào đó chúng ta có thề đặt giả thuyết trà-thiền thoát thai từ Đại Lý. Vậy có phải Trung Hoa có nền văn hóa trà kể từ thời Lục Tổ (tức nhà Đường) chăng? Câu hỏi này sẽ lần lượt được bàn nhiều lần kể từ chương sau (chủ yếu chương 2 “Trà pháp Trung Hoa”, quyển 3). Ở đây chỉ muốn nói các huyền thoại lưu truyền nói trên cần xem xét kỹ hơn, tránh nghe nói sao tin vậy.
Cũng lưu ý là các tác phẩm như Hán Sở Tranh Hùng, Tam quốc Chí có nhiều lần nói đến việc uống trà, nhưng điều này không thể khẳng định trà có từ đời Hán vì các tác phẩm này viết vào đời nhà Minh, thời trà Trung Hoa đang ở giai đoạn hoàng kim. Việc các cây bút văn chương lồng một số chi tiết nho nhỏ quen thuộc đương thời vào câu chuyện không phải là điều không xảy ra nếu không muốn nói rất thường.
Tại Hàn Quốc cũng có truyền thuyết nói chính người Ấn Độ đã mang trà vào trung quốc. Bản Trà Lễ Panyaro có viết như sau: “từ thế kỷ đầu của Công Nguyên một công chúa của tiểu vương quốc Ayudya ở Ấn Độ đã mang trà vào Hàn Quốc khi cặp tàu vào vương quốc Gaya nằm phía Nam bán đảo triều Tiên, sau khi lưu trú một thời gian ở Trung Hoa. Nàng công chúa này trở thành hoàng hậu Heo Hwangok, vợ vua khai sáng ra vương quốc Gaya, Kim Suro”. Tài liệu này còn phỏng đoán: “Vùng Tây-Nam Trung Hoa mà nàng công chúa này từng lưu lại chính xác là vùng trồng cây trà rất lâu năm trước đó.” . Nếu lưu trú ở vùng này thì nàng công chúa đó không thể đến Hàn Quốc bằng thuyền, nên có thể nàng lưu trú tại miển Bắc Việt Nam (nhiều khả năng là vùng Thanh Hóa, nơi đây hiện vẫn còn rất nhiều cây trà cổ thụ mọc hoang).
Còn nếu lấy huyền thoại làm chứng cứ thì e rằng người Việt biết uống trà và có một nền văn hóa trà sâu xa từ thời Hùng Vương (ngang đời nhà Chu). Ai trong chúng ta cũng đều biết câu chuyện cổ tích Trương Chi – Mỵ Nương , hai chữ Mỵ Nương đủ khẳng định bối cảnh câu chuyện xảy ra vào thời Hùng Vương rồi. Chuyện kể tóm tắt rằng: Chàng lái đò Trương Chi có giọng hát thật hay làm xiêu lòng Mỵ Nương. Nhưng khi gặp khuôn mặt xấu xí của chàng lái đò Mỵ Nương đâm thất vọng, ngược lại trước nhan sắc của Mỵ Nương Trương Chi về ốm tương tư rồi mất. Trương Chi chết hóa thành một hòn ngọc, người thợ đá tạc thành một cái chén uống trà dâng cho gia đình Mỵ Nương. Cứ mỗi lần rót nước trà vào chén Mỵ Nương thấy trong đó có hình chiếc đò bơi qua bơi lại và một tiếng hát từ cõi xa xăm nào đó vọng lại. Thương cảm, Mỵ Nương khóc, giọt nước mắt rơi vào chén trà và chén trà tan thành nước.
Chẳng lẽ câu chuyện quanh ly trà này không là một nền văn hóa trà sâu sắc hay sao?! Nhưng dù sao huyên thoại hay chuyện cổ tích không là tư liệu quyết định. Xưa hơn nũa thì Lạc Long Quân và bà Âu Cơ đã mang cây trà từ Hồ Động Đình về Việt Nam rồi.
*****
Bên cạnh, người Trung Hoa trưng ra một số tư liệu lịch sử để chứng minh nguồn gốc cây trà của họ. Sự viện dẫn này dựa vào thương mại để chứng minh cây trà và văn hóa trà có nguồn gốc từ Trung Hoa.
Dẫn chứng đầu tiên là Con Đường Trà Cổ (Trà Mã Cổ Đạo – 茶馬古道). Đây là con đường núi ngoằn ngoèo đi xuyên qua vùng núi Vân Nam – Tứ Xuyên phía Tây Nam trung Hoa, phương tiện vận chuyển chủ yếu là lừa và ngựa. Theo tư liệu của Trung Hoa con đường này hình thành vào đời nhà Đường (618-907), và trà của Trung Hoa theo đường đó bán cho các nước phía Nam.
Điều này không mấy hữu lý vì tính theo thời gian vùng này thuộc về đất nước Nam Chiếu – Đại Lý mà chúng ta sẽ có dịp nói chi tiết hơn ở chương 2 “Truy lại cội nguồn nền văn hóa trà”, quyển này; đồng thời sử liệu còn ghi chép gần kết thúc thiên niên kỷ này Đinh Liễn còn phải cống trà cho nhà Tống. Vật cống là vật quý hiếm đối với “Thiên Quốc” (cùng với ngọc trai, ngà voi, sừng tê giác, …) thì lấy đâu dôi ra mà xuất bán ngược về các nước phía nam. Thực tế cũng cho thấy đời Đường chưa cai trị được vùng đất này, nếu không muốn nói có nhiều chiến tranh qua lại giữa Trung Hoa và các bộ tộc (nhất là khi vùng này hình thành quốc gia) tại nơi đây. Cứ liệu đáng tin nhất; năm 629 khi Đường Tam Tạng có ý qua Hồ Quốc (tức Ấn Độ) thỉnh kinh, ông phải lén đi vì Đường Thái Tông cấm đi ra nước ngoài. Lý do cấm đoán đó là vì các vùng biên giới không yên ổn và nhà Đường lúc đó không đủ sức thảo phạt . Tình hình như thế cho thấy con đường này thực sự dưới quyền kiểm soát của Nam Chiếu – Đại Lý, trà từ vùng này chuyển đi các vùng lân cận và Hoa Nam để bán . Luận cứ này cho thấy con đường Trà Mã Cổ Đạo này không do nhà Đường mở ra, thực tế nó là một con đường tự phát nhằm trao đổi hàng hóa nhỏ lẻ với Hoa Nam và các nước lân cận Đại Lý. Trà quả là sản phẩm của con đường này nhưng chủ nhân là Đại Lý chứ không phải Trung Hoa. Chính vì thế ta sẽ thấy tập quán uống trà những nước quanh Đại Lý cũ không hề giống thói quen uống trà của người Trung Hoa

trà-3
Người Trung Hoa lại viện dẫn đến Con Đường Tơ Lụa, họ cho rằng chính nhờ con đường này trà và văn hóa trà Trung Hoa truyền bá đi xa.
Nếu nói đến Con đường Tơ lụa chúng ta phải nói cụ thể có 2 con đường tơ lụa chứ không phải một. Con đường tơ lụa thứ nhất ở phía bắc (còn gọi Con đường Tơ lụa trên bộ, từ thế kỷ thứ 2 trước CN, bắt đầu từ Trường An) và Con đường Tơ lụa thứ hai ở phía nam (còn gọi Con đường Tơ lựa trên biển bắt đầu từ thế kỷ thứ 7, khởi hành từ Quảng Châu chuyên mua bán đồ gốm). Hai con đường này đi qua các địa danh nổi tiếng như Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trường An) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Con đường cũng còn đi đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Mặt hàng mua bán chủ yếu gồm: đá quý và quý kim, tơ lụa và vải vóc, ngà voi (mua về Trung Hoa), đồ sơn mài, gia vị, thủy tinh, san hô, … nhưng chưa thấy tài liệu nào nói buôn trà cả.
Thực tế cho thấy các nước có Con đường Tơ lụa đi qua du nhập trà vào nước mình rất trễ (sau khi con đường này bị tàn lụi) và tập quán uống trà khác xa với người Trung Hoa. Điều này sẽ được chứng minh qua các biên niên ở chương 5 “Tập quán uống trà ở một số nước khác”, quyển 3. Sự kiện này gần như hiển nhiên vì đến đời nhà Minh (khoảng từ thế kỷ 15 trở đi) trà mới trở thành sản phẩm thương mại, đặc biệt khi trà được canh tác mở rộng về hướng Đông như Phúc kiến; chứ không thu hái hoang dã nữa. Trước đó, vào thời Đường-Tống, trà là sản phẩm quý tộc thường được dùng ban thưởng cho các công thần, các sứ thần phiên quốc; ngược lại các nước chư hầu trồng được cây trà thì trà là sản phẩm triều cống. Sách An Nam Chí Lược của Lê Tắc từng ghi rằng: “Kế lập được bảy năm, năm Tân-Vị Khai-Bửu thứ 4 (971), Thái-Tổ nhà Tống khiến đại-tướng Phan-Mỹ qua đánh Lĩnh-Nam. Liễn sợ, dâng biểu-văn, khiến sứ vào cống, xin nội-phụ, Thái-Tổ xuống chiếu phong Liễn làm Tiết-Độ-Sứ An-Nam đô-hộ. Tháng 5 năm thứ 8, (975), Liễn tiến cống vàng lụa, sừng tê, ngà voi, trà thơm. Ngày mồng 7 tháng 8, Thái-Tổ xuống sắc-chế, phong cha Liễn là Bộ-Lĩnh làm Giao-Chỉ Quận-Vương; thực ấp 1.000 hộ.” Sử Nhật Bàn và Hàn Quốc cũng có ghi chép những trường hợp được Thiên Triều ban thưởng hay phải cống lễ sản phẩm trà. Với tình hình sản lượng như vậy thì khó là sản phẩm đi buôn đường dài theo Con đường Tơ lụa được và vì thế trà đến các nước khác không phải qua con đường này.
Một sự kiện khác: vùng Tân Cương của Trung Hoa hiện nay vẫn còn tập tục dung trà rất xa lạ với tập quán trà Trung Hoa: trà bánh và trà bơ. Hai thứ trà này gần giống lối dùng trà của Mông Cổ và Vân Nam – Tây Tạng cho thấy nó chỉ được truyền bá đến vùng nhiều sa mạc này từ thời Nguyên Mông. Nếu theo Con Đường Tơ Lụa của người Trung Hoa ắt phải mang đậm dấu ấn của Trung Hoa; nhiều người nhầm lẫn về yếu tố thời gian và tập quán này.
Trung Hoa còn một con đường buôn bán trà nữa đã được chứng minh có cứ liệu chính xác, nhưng thời điểm không biện minh cho cội nguồn văn hóa trà của Trung Hoa. Con đường Buôn Trà thứ hai nằm ở phía bắc Trung Hoa gọi là Con đường Tây Bá Lợi Á. Con đường này kéo dài từ phần nước Nga Châu Âu, qua Tây Bá Lợi Á (Sibérie) và đến Trung Hoa. Nó được Sa Hoàng cho khởi công vào ngày 22 tháng 11 năm 1689 và hoàn công vào năm 1730, theo Hiệp Ước Nerchinsk. Gọi là Con đường Trà vì phần lớn trà sản xuất ở Trung Hoa qua Châu Âu đi theo con đường này bằng lạc đà. Trà xuất khẩu theo con đường chủ yếu là trà bánh. Do vậy Okakura Kakuzo cho rằng đến thế kỷ 18 Châu Âu mới biết đến trà có lẽ căn cứ vào sự kiện này.
Thực tế đây chỉ là con đường nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường vốn có. Bởi vì trà đến với nước Nga từ năm 1638 thông qua quà tặng của vua Mông Cổ; còn lô trà đầu tiên đến Châu Âu không phải bằng con đường trà Tây bá Lợi Á mà thông qua một con tàu Hà Lan của công ty Dutch East Company ghé vào Java đổi mấy thùng hoa sôn lấy mấy thùng trà. Nước Anh đón nhận trà từ năm 1652 và trà mau chóng trở thành thức uống thời thượng. Sau đó, suốt thế kỷ 17 và 18, trà trở thành quân bài kinh tế chính trong cuộc chiến thương mại giữa Anh và Hà Lan. Con đường Tây Bá Lợi Á chỉ là hệ quả của một quá trình thương mại trà có từ mấy thế kỷ trước đó.

Sưu tầm từ:http://khanhhoathuynga.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét