Translate

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Mật Mã Tây Tạng 2 (phần A)

http://www.thanglong.com.vn/data/Mat%20ma%20Tay%20Tang%202_resize.jpg
Dịch giả: Lục Hương
Đó là một bí mật kín bưng cho dù Tây Tạng đã mở cửa cho toàn thế giới!
Công nguyên năm 838, vị vua cuối cùng của dân tộc Thổ Phạn là Lãng Đạt Ma lên ngôi Tán Phổ, tuyên bố diệt Phật. Trong cuộc tàn sát ấy, các tăng lữ đã mang một lượng lớn kinh điển và thánh vật đi chôn giấu tại một nơi bí mật, ở đó họ dựng lên một ngôi thần miếu, đặt tên là Bạc Ba La. Thời gian dần trôi, chiến tranh không dứt, ngôi thần miếu ẩn chứa biết bao báu vật Phật gia đã hoàn toàn biến mất trong lớp bụi lịch sử…

Nhiều năm sau, Trác Mộc Cường Ba, một thương nhân đồng thời là kẻ ưa thích chó ngao Tây Tạng, loài chó dũng mãnh nhất thế giới, nhận được một phong thư lạ. Trong đó có hai bức ảnh chụp Tử Kỳ Lân, một loài linh thú từ thời viễn cổ, một con ngao hoàn mỹ nhất trên đời. Và thế là, không có gì có thể ngăn cản anh ta dấn thân vào một chuyến phiêu lưu vào sâu trong vùng đất băng giá khốc liệt Tây Tạng để truy tìm giấc mơ trọn đời. Để rồi, theo dấu Tử Kỳ Lân cũng là theo dấu Bạc Ba La thần miếu vĩ đại. Cả một nền văn hóa Tây Tạng mênh mông và huyền hoặc đã dần dần hiện ra. Cùng một giáo sư khuyển học uyên thâm mà hiếu động, một chàng đặc nhiệm lực sĩ và bồng bột, và một kỳ nữ đỏng đảnh nhưng thuần hậu, Trác Mộc Cường Ba đã có cơ hội khám phá những kinh nghiệm sống tột cùng đáng say mê…
CHƯƠNG 8
XUẤT PHÁT RỪNG AMAZON
Bốn người đi trên sông, hai bên cây lớn, lòng sông hơi hẹp, càng nhìn càng thấy ngút ngát, thi thoảng lại có một vài con vẹt đuôi dài châu Mỹ bay qua đầu, bộ lông vũ rực rỡ lấp lóa dưới ánh mặt trời chói mắt. Cảnh tượng này so với rừng vân sam ở Xishuangbana mà họ từng đi qua thì thật là hai thế giới hoàn toàn khác nhau.



Tập Kích


Tấm màn vén lên không ngờ lại là Lạt ma Á La. Một con diều hâu đen đậu trên vai ông, móng sắc bấu chặt, hai mắt sáng lấp lánh như chớp điện, cảnh giác dò xét môi trường xa lạ này. Lạt ma Á La nhìn cuộn giấy trong tay, điềm đạm nói: “Đến lúc rồi, chúng ta cũng phải xem thành tích huấn luyện của nhóm người này ra sao mới được.”
Lữ Cánh Nam thân thiết hỏi: “ Có đầu mối mới rồi ạ?”
Lạt ma Á La nở nụ cười hiếm thấy, vỗ vỗ lên vai. Con diều hâu liền đập cánh bay lên, chớp mắt đã hóa thành một điểm đen trên bầu trời xanh thăm thẳm, cơ hồ như chưa từng xuất hiện. Lat ma Á La nói như ra lệnh: “ Bản đồ.”
Trên bàn, một tập bản đồ thế giới cỡ giấy A3 mau chóng được mở ra, lạt ma Á La nhanh nhẹn lật tới trang có bản đồ châu Mỹ, miệng lẩm bẩm: “Trong sử thi Cát Đức Ni Mã Cổn(1) mà chúng ta thu thập được có nhắc đến đoạn, vị sứ giả vĩ đại nhất mang tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu tới, mọi sự thiêng liêng đều được bảo tồn hoàn hảo trong Bạc Ba La thần miếu. Sau đó tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu ấy vốn phải giao về cho Tây Thánh sứ Bì Ương Bất Nhượng, nhưng Y Tây Ốc Bá lại không muốn giao hòa thành được ánh sáng tỏa chiếu này, bèn lén lút dùng bùn đất và gạch đá để phục chế một tòa thành khác, vì không dám hủy đi thánh vật, nên đã hạ lệnh cho thuộc hạ len lén mang ánh sáng thần thánh ấy đi tới nơi xa tận chân trời, vĩnh viễn không ai có thể tìm được. Còn những chữ bột vàng mới được dịch ra thì không hoàn toàn như thế, sứ giả vĩ đại nhất mang đến tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu thì không sai, nhưng khi sứ giả đến Trái Đất Nhượng thì đã thay đổi chủ ý, ông ta không giao tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu cho Tây thánh sứ Bì Ương Bất Nhượng nữa, mà trực tiếp hạ lệnh cho Y tây Ốc Bá phái người hộ tống, ông ta muốn mang tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu ấy đến chân trời- điểm này có khác biệt rất lớn với sử thi. Y tây Ốc Bá tặng cho sứ giả tiền lộ phí, phái những dũng sỉ xuất sắc nhất mang theo chiến ngao, cùng sứ giả trèo núi vượt non, vượt qua biển lớn mênh mông, đến một đất nước xa laj thần bí. Cây cối ở đó xa lớn tới tận chân troifwsinh sôi dày đặc, taọ thành rừng rậm âm u, bốn bề đều là nguy hiểm, khắp nơi chỗ nào cũng có những động vật và loài cây ăn thịt người mà họ chưa bao h trông thấy, thậm chí người ở đó cũng tàn bạo hiếu sát, ăn thịt người sống; các công trình kiến trúc ở đó cao lớn hùng vĩ, đò sộ hơn bất cứ tòa cung ddienj nào họ từng nhìn thấy; miếu thần ở đó giồng như một lăng tháp, các mặt hình tam giác chụm lại với nhau, nhìn như một ngọn núi cao chọc trời, bậc thang dẫn thẳng lên tận mây xanh, văn tự ở đó là hình đầu người và hình vẽ các loài động vật…”

Lữ Cánh Nam lẩm bẩm nói: “ Kim tự tháp?Nhưng ở đó là sa mạc chứ, tại sao lạ là rừng rậm?”

Lạt ma Á La cười điềm đạm: “ Còn chưa hiểu à? Rừng rậm nhiệt đới đấy. Những người phục mệnh trở về nói, bọn họ để tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu ấy trong một ngôi thần miếu của nền văn minh khác, nhà vua ở đó đã đồng ý với họ, để tòa thành của thần thánh mãi mãi bị giam cầm trong bóng đêm.”
Lữ Cánh Nam lập túc hiểu ra, nhưng vẫn không giám tin đó là sự thật, cô hỏi: “ Kim tự tháp Maya?Không thể nào …thời đó làm sao có thể vượt Thái Bình Dương đến tận châu Mỹ cơ chứ? Hơn nữa còn trở về được nữa chứ.”

Lạt ma Á La nói: “ Trên thế giới này, những chuyện người hiện đại làm được, ai có thể khẳng định là người xưa không làm được? Đừng quên những câu chuyện trong Sơn Hải kinh và người Ân vượt biển, thời điểm đó chẳng phải còn sớm hơn sứ giả của vương triều Cổ Cách cả ngàn năm đấy sao?
“ Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu? Rốt cuộc là cái gì vậy?” Lữ Cánh Nam trầm ngâm.

Lạt ma Á La nói: “ Ta cũng không biết. Nhưng một người có thể bí mật mang nó đi, hẳn cũng không lớn lắm, vậy thì chúng ta hãy lấy chuyện vượt qua khu rừng rậm để làm bài kiểm tra giữa kì đi…” Lạt ma Á La vạch một vòng tròn trên bản đồ.

Lữ Cánh Nam nhìn cái vòng Lạt ma Á La vừa vẽ, kinh ngạc thốt lên: “ Theo con được bik , văn minh Maya chỉ giới hạn trong bán đảo Yucatan , chỗ này có phải là hơi xa không?”

Lạt ma Á La nói: “ Không sai, tuy ta cũng không hiểu rõ lắm, nhueng đàu mối của họ rất rõ ràng, con xem đi, ở đây có vết này…những di tích của văn minh Maya được phát hiện cho đến nay chủ yếu phân bố ở phía Nam Mexico, Guatemala, Brazil, Belize, khu vực phía Tây Honduras và El Salvador, xa nhất cũng dừng lại ở núi Andes. Còn ở phía đông dãy Andes đọ cao trung bình trên 6000 mét đã là phạm vi của nền văn minh Inca cổ rồi. Quan điểm phổ biến hiện nay là người xưa không thể nào vượt qua dãy Andes hiểm trở được. Nhưng vài năm trước, các nhà khảo cổ Brazil đã phát hiện sâu trong rừng rậm Amazon có một nền văn minh nữa hoàn toàn khác biệt với văn minh Inca cổ đại, có đò gốm được chế tác rất tinh xảo, có đặc trung của cuộc sống thị tộc bộ lạc, có đường, cầu, khu canh nông, khu chăn gia súc, đền thờ thần và đàn tế, là di chỉ của một xã hội văn minh phát triễn cao độ. Ba năm sau, lại phát hiện trong rừng sâu một đài quan sát thiên văn rất giống của người Maya cổ đại, một điều không thể tưởng tượng được là bọn họ dử dụng vật liệu là những tảng đá khổng lồ, kĩ thuật xây dựng hết sức cầu kì, điều này hoàn toàn trái ngược với quan điểm khu vực khu vực này trước khi các nhà thám hiểm đổ bộ năm 1942 là một cánh rừng hoang vu không có dấu ấn của con người , và khu vực rừng nhiệt đới Amazon không thể nào có các công trình đá quy mô lớn. Kết quả ngiên cứu cho thấy, người Maya cổ hoàn toàn có khả năng vượt qua dãy Andes dến rừng rậm Amazon , đặt nền móng cho cuộc sống mới , và con đường họ đã đi có lẽ là sau khi xuống dãy Andes thì dọc theo sông Amazon mà tiến lên . Cách lí giải này đã được nhà khảo cổ tại quốc gia thuộc lưu vực sông Amazon tán đồng, mỗi nước ít nhất phái đi hai đội khảo cổ tìm kiếm trong cánh rừng nguy hiểm ấy, mấy ngày trước đã có một phát hiện kinh người.”
Lữ Cánh Nam không biện bác được gì, cô mới chỉ tìm hiểu lướt qua về lịch sử văn hóa di tích cổ vùng Nam Bắc Mỹ, nên đành trầm ngâm nói: “ Từ Putumayo ( một tỉnh tây nam Colombia, sát biên giới Ecuador va Peru ) đến Saint Mary, liệu nơi này có hơi quá nguy hiểm với mọi người không, hơn nữa, lưu vực Amazon rộng lớn như vậy, làm sao có thể xác định được thứ chúng ta muốn tìm vẫn ở vùng đất này chứ?”

Lạt ma Á La hạ giọng giải thích: “ Phải, không ai có thể khẳng định, nhưng theo như nhũng thông tin đáng tin cậy, gần đây đã phất hiện ra một thành phố chết ở khu vực này, quy mô rất lớn, trong đó chắc hẳn là có miếu thần, chỉ là đén giờ vẵn chưa tìm tháy mà thôi.”
Lữ Cánh Nam lại hỏi : “ Vẫn chia làm hai tổ chứ?”

Lạt ma Á La gật đầu: “ Phải, như vậy mới là khảo hạch chứ.”

Lữ Cánh Nam có vẻ lo lắng: “ Vậy chúng ta nên nói cho họ thực sự hay là…”

Lại ma Á La cúi đầu suy tư, đôi mắt ông lúc này đã lộ ra vẻ trầm ngâm nặng nề, nghĩ ngợi một lúc, cuối cùng ông cũng lên tiếng: “Tạm thời chưa nói với họ vội.”

Lữ Cánh Nam kinh ngạc thốt lên: “Tại sao vậy?”
Lạt ma Á La mỉm cười nói:  “Trong chuyến đi Khả Khả Tây Lý của Trác Mộc Cường Ba, có một số chuyện rất kì quái, ta muốn tìm hiểu cho rõ đã.”

Lữ Cánh Nam gật gật đầu như hiểu được gì đó, nhưng cô vãn không giám khẳng định, ngần ngừ giây lát rồi mới hỏi: “ Thầy Á La, ngài chắc chắn nó ở đó ư? Dù di chỉ ở trong phạm vi này, nhưng cũng đâu thể khẳng định hai tổ của chúng ta nhất định sẽ đi qua đó được chứ?”

Lạt ma á La nói: “ Phật sống vĩ đại toàn năng sẽ chỉ cho chúng ta con đường sáng, chớ nên bỏ qua bất cứ cơ hội nào, cứ đi thử một phen xem sao. Ta sẽ dẫn tổ của mình tiến thẳng về nơi đó, còn tổ của Cường Ba thiếu gia, bọn họ sẽ tuân theo sự sắp xếp của số mệnh. Dù thế nào ta cũng nhất định phải đến di chỉ ấy xem sao.” Giọng nói của ông mạnh mẽ kiên quyết, đến cả Lữ Cánh Nam cũng không giám phản đối câu nào.

Lạt Ma Á La ngẩng đầu, nhìn theo hướng con diều hâu đã biến mất, sắc tối đã dần buông , ông nhủ thầm: “ Maya, Maya, rốt cuộc ngươi từ đâu tới ? Rốt cuộc ngươi ẩn chứa bao điều bí mật?” Rồi ông lại nhớ đến Đức Ni đại lạt ma, Đức Ni đại lạt ma đứng trước cửa hang trên đỉnh núi, gió thổi tung bay râu tóc, tà áo, ông dang 2 tay , ngẩng mặt kêu lớn với trời xanh giữa cơn cuồng phong lồng lộng: “Một ngàn năm rồi!Chúng ta đã chờ đợi suốt một ngàn năm rồi..” Tiếng vọng từ hang núi nghe như thần linh hồi đáp: “Một ngàn năm!Một ngàn năm!...” Vô số âm thanh như tiếng chuông tiếng trống vang rền trong lòng Lạt ma Á La.

Còn ở một góc ngoài lán doanh trại, một bóng đen từ đầu chí cuối vẫn đứng trước của sổ của Lữ Cánh Nam, người đó chỉ lặng lẽ lắng nghe, lặng lẽ...

Trác Mộc Cường Ba rời nơi làm việc của Lữ Cánh Nam , đi thẳng đến chỗ giáo sư Phương Tân. Giáo sư đang ngồi trước máy vi tính làm tổng kết cho đợt đi thực tiễn vừa rồi ở rừng rậm Việt Nam, ông đã phân loại sắp xếp các vấn đề gặp phải trong rừng và những điểm còn thiếu sót mới bộc lộ ra một cách cực kì chi tiết. Trác Mộc Cường Ba bất bình kể lại cho ông cuộc nói chuyện của gã với Lữ Cánh Nam , cuối cùng nói: “ Thầy giáo, thầy nói xem, rõ ràng là có nhiều đầu mối như thế, tại sao lại không nói cho chúng ta, để chúng ta còn đi tìm Bạc Ba La chứ?”

Chẳng ngờ, giáo sư Phương Tân chỉ cười điềm đạm, nói: “ Cường Ba à, xem ra anh vẫn chưa hiểu hết vị trí của mình rồi. Trước khi tham gia khóa huấn luyện đặc biệt tôi đã hết sức trịnh trọng và nghiêm túc nói với anh rồi mà, đội huấn luyện đặc biệt của nhà nước không phải đội thám hiểm nhỏ mà chúng ta tự tổ chức đâu, hơn nữa, chuyến đi này còn có cả tính chất thám hiểm nữa. Anh có thực sự hiểu được ý nghĩa của 2 chữ thám hiểm là gì không hả?”
Trác Mộc Cường Ba đờ đẫn nói: “ Nghĩa là gì?”
Giáo sư Phương Tân đáp: “ Trước chúng ta,  nhà nước đã tổ chức không biết bao nhiêu đội ngũ chuyên nghiệp tìm kiếm Bạc Ba la thần miếu rồi. Khả năng sinh tồn nơi hoang dã của họ , khả năng đoàn kết phối hợp giữa các thành viên trong đội của họ, kiến thức chuyên môn về lịch sử của họ, tất cả đều hơn chúng ta không biết bao nhiêu lần, thế nhưng, bọn họ, không một ngoại lệ nào, tất cả đều đã thất bại, gọi là thất bại...” Ánh mắt giáo sư sa sầm, giọng nói trầm xuống: “ Phải nói là toàn bộ đã hy sinh vì nhiệm vụ mới đúng. Sau khi tổn thất một số lượng lớn các chuyên gia, công tác tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu đã có một độ bị đình trệ, một là do không có đầu mối gì mới, hai là bồi dưỡng nhân tài tốn thời gian. Giờ đây, đột nhiên lại có đầu mối xuất hiện, nhà nước không dám mạo hiểm phái đoàn chuyên gia đi, thế nên mới có đội thám hiểm được huấn luyện đặc biệt là chúng ta đây xuất hiện. Nếu như nói, các đội tìm kiếm Bạc Ba la thần miếu do nhà nước tổ chức khi xưa là cấp chuyên nghiệp, vậy thì, nhóm của chúng ta đây chỉ có thể thuộc vào loại nghiệp dư trong nghiệp dư mà thôi. Ai cũng bik, tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu không phái đi du lịch, mà là chuyện nguy hiểm thập tử nhất sinh, các bậc tiền bối hy sinh vì nó đã lên tới số ngàn số vạn rồi đó. Còn mục đích chủ yếu của việc thành lập nhóm chúng ta chính là để dò đường , cho dù chúng ta có hy sinh trong quá trình tìm kiếm đi chăng nữa, chỉ cần có thể truyền về hoặc ghi lại những thông tin có ích, công việc của chúng ta có thể coi như hoàn thành. Vì vậy, chưa huấn luyện chúng ta thành một cách quân thép, họ sẽ không dễ dàng gì cho chúng ta ra chiến trường vội đâu. Còn về lợi ích của chúng ta khi tham gia đội ngũ này, một là có thể nâng cao thực lực bản thân, hai là nếu có thể sống sót trong quá trình tìm kiếm, thì chúng ta chính là những người đầu tiên tìm ra dấu vết. Lẽ nào anh thật sự cho rằng nhóm người chúng ta đây sẽ trỏ thành quân chủ lực tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu của nhà nước hay sao? Ha ha , chúng ta chưa đến tầm ấy đâu, về điểm này thì anh phải cố hiểu cho rõ vào.”
Trác Mộc Cương Ba lấy làm chán nản. Chẳng trách cứ bắt bọn gã huấn luyện rồi lại tiếp tục huấn luyện, mà lại lần nữa không chịu nói cho bọn gã biết chuyện liên quan tới Bạc Ba La thần miếu, gã còn ngỡ rằng, bọn gã chính là cánh quân chủ lực duy nhất được nhà nước gửi gắm hy vọng tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, thậm chí còn có một độ nghĩ rằng sau khi gia nhập đội huấn luyện đặc biệt, nhà nước sẽ mang hết những tư liệu về Bạc Ba La thần miếu nguyên nguyên vẹn vẹn đưa hết cho bọn gã, sau đó dốc hết sức ủng hộ bọn gã đi tìm kiếm ngôi thần miếu kia, ai ngờ gã lại bị giáo sư Phương Tân giội cho cả một chậu nước lạnh, làm nguội hết cả lửa nhiệt tình đang bừng bừng trong lòng. Chỉ nghe Trác Mộc Cường Ba nói: “ Nhưng mà, cả một chút tin tức cũng không để lộ với chúng ta, thì cũng thật không ra làm sao cả.”
Giáo sư Phương Tân hiền hòa vỗ nhẹ lên vai Trác Mộc Cường Ba, mỉm cười nói: “ Anh cho rằng nhà nước cần phải nói với chúng ta những nội dung gì chứ? Nào, trước tiên để tôi phân tích cho anh xem đội ngũ của chúng ta do những người nào hợp thành đã nhé...” Giáo sư Phương Tân bẻ bẻ ngón tay nói, “Người trong giới thương nhân, giáo sư về hưu, Hoa kiều ngoại hải...Mẫn Mẫn có thể coi là 1 nửa Hoa kiều rồi còn gì, còn cả người của phía tôn giáo nữa, 2 anh chàng lính quèn, thậm chí còn có cả người đang chịu án tù, anh nói đi, một đội quân ô hợp do đám người như vậy ghép vào, anh muốn biết được bao nhiêu điều đây? Hơn nữa, chẳng phải anh cũng nói Lữ Cánh Nam bảo chúng ta huấn luyện vẫn chưa đủ hay sao? Anh cần phải nhẫn nại, đến lúc nói với chúng ta, cô ấy tự nhiên sẽ nói thôi. Thế nào? Đã nghĩ thông chưa hả? Không hiểu cũng chẳng vấn đề gì, nghĩ cho kĩ vào, anh phải nghĩ đến tầng sâu hơn của vấn đề, không thể chỉ dừng lại ở mặt của sự việc. Nhà nước có suy tính của nhà nước, chúng ta có mục đích của chúng ta, hai chuyện này hoàn toàn không có mâu thuẫn, nghĩ cho kỹ mà xem...”
Nỗi u uất trong lòng Trác Mộc Cường Ba cũng dần tan đi, Lữ Cánh Nam cũng đã nói rồi, nếu vượt qua được lần khảo hạch này, cô sẽ cho bọn đi tìm Bạc Ba La. Gã ra khỏi phòng, một mình ra bãi tập, móc người ngược trên thang một lúc, rồi lại trèo lên dây thừng, đi qua dây thép, xuống bằng vách đá khác, cảm giác thoải mái lạ thường, cả nhịp thở cũng chẳng hề thay đổi chút nào. Lúc này, cả thể xác lẫn tinh thần của gã đều ở trạng thái đỉnh cao, gã cảm thấy đây chính là lúc thời cơ thích hợp nhất để xuất phát, nếu còn chần chừ gì nữa, thời tiết chuyển lạnh tuyết lớn sẽ bịt kín đường vào núi, có khi còn phải đợi đến sang năm cũng không chừng. “ Khảo hạch giữa kì hả? Sẽ khảo hạch thế nào đây nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba không tốn chút sức lực chụp lấy sợi dây thừng đu người qua hố cát cắm đầy cọc nhọn, thả mình xuống đất thầm nhủ.
Gã luyện tập chừng nửa tiếng, trên người đã lấm tấm mồ hôi, đang chuẩn bị về phòng nghỉ ngơi, bỗng “cách” mội tiếng, mặt đất bên cạnh Trác Mộc Cường Ba bắn tóe ra hoa lửa. Trác Mộc Cường Ba nhảy bật lên theo bản năng, còn lờ mờ trông thấy phía xa xa có ánh lửa tóe lên, gã không chút do dự, vội lăn tròn dưới đất 1 vòng, đồng thời hét lớn vè phía doanh trại: “ Có người tập kích!” Viện đạn thứ 2, cơ hồ vừa sượt qua đầu gã.
Nghe thấy tiếng hét của gã, một bóng đen cầm súng chạy vọt vào rừng. Nếu đổi lại là trước đây, chắc chắn Trác Mộc Cường Ba không cần nghĩ ngợi gì đã lao theo gã rồi, nhưng lúc này gã hiểu rất rõ rằng trong buổi hoàng hôn thế này, khoảng cách nơi ánh lửa tóe lên và gã ít nhất cũng phải năm trăm mét, vậy mà đối phương lại có thể sử dụng súng không có thiết bị ngắm xa đặc biệt nhắm vào gã một cách chuẩn xác như thế, kẻ này nhất định đã trải qua huấn luyện đặc biệt gần như của quân nhân chuyên nghiệp, gã tay không tất sắt thế này mà đuổi theo hắn thì thật chẳng khác nào tự chui đầu vào chỗ chết.

Người trong doanh trai bị kinh động, Trương Lập và Nhạc Dương chạy ra đầu tiên và hét lớn: “Ai tập kích?” Đương Mẫn chạy phía sau cuống quýt hỏi: “ Cường Ba, anh có bị thương không?”
Giáo sư Phương Tân cũng theo ra, hỏi: “Chuyện gì thế?” Ông xách theo 2 khẩu tiểu liên M4, rồi ném cả cho Trương Lập. Trương Lập xông lên phía trước, Trác Mộc Cường Ba cũng đuổi theo sau, đồng thời cũng bắt lấy một khẩu súng. 2 người phối hợp hết sức ăn ý, Trác Mộc Cường Ba vừa chạy vừa nói: “Chỉ có một người, hình như cầm AR15, nhưng rất lờ mờ, chạy về phía Tây rồi, hình như là nhằm vào tôi hay sao ấy.”
Trương Lập ngoảnh đầu nhìn, thấy bọn Nhạc Dương đã trở lại doanh trại lấy vũ khí chạy theo, liền giơ tay ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba, 2 người chia 2 hướng trái phải chạy theo đường vòng.
Người phía trước cứ chạy mãi chạy mãi, đột nhiên biến mất tăm mất tích. Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập lập tức có phản ứng, cả 2 lách người 1 cái, cũng nấp vào phía sau một cái cây lớn đủ che kín thân mình. Trác Mộc Cương Ba đưa mắt ra hiệu với Trương Lập đang đứng cách mình khoảng 20 bước, rồi ngước lên trên. Trương Lập hiểu ý, lập tức khoác súng ra sau lưng, 2 tay ôm thân cây, “Soạt soạt soạt” nhoáng 1 cái trèo ngay lên chạc ba, động tác linh hoạt như khỉ, lập tức có tín hiệu đưa xuống, đối phương đang nấp sau gốc cây thứ 4 phía trái Trác Mộc Cường Ba, cách 2 người tầm 300 bước.
Lúc này, những người khác cũng đã lục tục chạy tới, đầu tiên là Ba Tang, rồi Ngải Lực Khắc, giáo sư Phương Tân, lạt ma Á La và cả Lữ Cánh Nam. Trác Mộc Cường Ba giơ 2 tay lên, ngón cái hướng về phía sau chia ra 2 bên, mấy người bọn giáo sư Phương Tân liền tản ra tự tìm chỗ núp, một vòng vây lặng lẽ hình thành, khép kẻ kia vào chính giữa, chín người mõi người cách nhau chừng trăm bước. Thủ ngữ của Trác Mộc Cường Ba đã cho mọi người đều biết tình huống hiện tại, Nhạc Dương cẩn thận lắp ống phóng lựu đạn vào phần dưới khầu M4, lấy ra một quả lựu đạn hơi cay, Lữ Cánh Nam gật gật đầu, bọn họ chuẩn bị bắt sống kẻ tập kích đột nhiên xuất hiện này.
“Suỵt...” Trác Mộc Cường Ba giơ ngón tay cái lên với Nhạc Dương, Nhạc Dương lại trợn tròn mắt, tỏ ý mình vẫn còn chưa bắn phát nào, mọi người cẩn thận thò đầu quan sát, chỉ thấy 1 màn khói trắng đã bốc lên giữa vòng vây. Là lựu đạn khói, xem ra đối phương cũng ý thức được tình thế gay go mà ra tay trước rồi, lại có thêm mấy lựu đạn bốc khói nghi ngút được ném ra, loáng 1 cái cả nhóm đã không xac định được vị trí chính xác của kẻ bị bao vây kia ở chỗ nào nữa. Hai tiếng súng nổ, tiếng đầu tiên là của Trương Lập, anh ta ra dấu tay ý nói đối phương đã trèo lên cây nhảy thoát khỏi vòng vây, tiếng súng thứ 2 vang lên từ phía Ngải Lực Khắc, mọi người vội vàng chạy tụ lại về phía đó, động tác hết sức nhanh nhẹn gọn gàng.
Người kia chạy rất nhanh, thỉnh thoảng lại ngoảnh đầu lại bắn tỉa vài phát, có lúc còn ném ngược lại 1 trái lựu đạn tay F1 của Nga chế tạo, uy lực cực lớn, khiến bọn Trác Mộc Cương Ba truy đuổi cực kì khó khăn, Đường Mẫn, Ngải Lực Khắc suýt bị thương mấy lần.Trác Mộc Cường Ba vô cùng tức giận, nếu như muốn giết chết đối phương, gã chỉ cần kéo cò súng, sẽ có thể bắn y thủng lỗ chỗ như tổ ong ngay lập tức, nhưng tâm tư mọi người đã nhất trí, nhất định phải làm rõ xem đây là chuyện gì, không thể giết người bừa bãi được. Trác Mộc Cường Ba đột nhiên thụp người xuống, rút con dao săn cá sấu ra khỏi vỏ, ném “vù” một tiếng, rõ ràng đã nghe thấy tiếng dao cắm “phập” vào người rồi, vậy mà tên kia vẫn không kêu tiếng nào, tiếp tục mang cả con dao lao đi vun vút
Cứ đuổi mãi đuổi mãi, bước chân của bọn Trác Mộc Cường Ba dần chậm lại, bọn họ đã tập trung huấn luyện một thời gian rất lâu rồi, vô cùng thông thuộc địa hình quanh đây, ai nấy đều biết rõ, phía trước là một vách núi dựng đứng, tuy chỉ cao có mấy chục mét, nhưng rơi xuống thì khó mà tránh khỏi gãy chân gãy tay, tên kia lại đang bị thương, nhất định không thể nào chạy thoát được.Tên kia vừa trông thấy phía trước cùng đường, liền quay đầu lại giương súng quét bừa 1 loạt đạn, rồi rút chốt 2 trái lựu đạn, miệng hét lớn: “ Không được qua đây! Không ai được qua đây, tao chỉ cần Trác Mộc Cường Ba đền mạng, không liên quan gì đến bọn mày hết!”
Trác Mộc Cường Ba chỉ cách hắn chừng trăm bước, đã nhìn rõ được khuôn mặt đối phương, liền kinh ngạc hốt lên: “Là mày hả!” Tên kia chẳng phải ai khác, mà chính là Ngưu Nhị Oa bị Trác Mộc Cường Ba đánh cho chạy tóe khói ở Khả Khả Tây Lý, lúc ấy Trác Mộc Cường Ba cũng suýt chút nữa là chết dưới lưỡi dao của hắn nên có ấn tượng rất sâu đậm.
Ngưu Nhị Oa cười sằng sặc điên cuồng, giơ quả lựu đạn về phía Trác Mộc Cường Ba nói: “Mày còn nhớ tao hả, tốt lắm, đã đến lúc mày phải đền mạng rồi.” Con dao săn cá sấu cắm phập vào mông hắn, máu nhuộm đỏ cả chiếc quần bò sẫm màu, lúc nãy Trác Mộc Cường Ba cũng nương tay nên lưỡi dao không sâu lắm. Ngưu Nhị Oa dường như không hề cho họ thời gian suy nghĩ, vung tay ném luôn quả lựu đạn về phía Trác Mộc Cường Ba, gã vội né người lao vào bãi cỏ phía sau thân cây, tiếng nổ vang lên, mọi người lập tức tản ra xa. Ngưu Nhị Oa lại ném ra 1 quả lựu đạn khói nữa, rồi con dao săn cá sấu kia lao vút qua mà khói bay tới chỗ Nhạc Dương đang ngắm chuẩn họng súng về phía tên họ Ngưu, lưỡi dao lạnh toát lướt qua gò má Nhạc Dương, làm anh chàng toát hết cả mồ hôi lạnh. Khói mù tan đi, tên Ngưu Nhị Oa kia đã ở bên dưới vách núi, mấy người đang chuẩn bị tiếp tục truy kích, bỗng nghe “cách” một tiếng, lại 1 tên bắn tỉa nữa xuất hiện, bọn Trác Mộc Cường Ba không biết viên đạn ấy bắn từ hướng nào tới, đành phải tiếp tục nấp phía sau các gốc cây, mở mắt trân trân nhìn Ngưu Nhị Oa tấp ta tấp tểnh chạy đi xa dần.
Mười phút trôi qua, sau khi chắc chắn kẻ địch đã bỏ đi, mấy người mới từ từ ra khỏi các lùm cây, Nhạc Dương sắc mặt tái nhợt nói: “Chuyện này là thế nào vậy? Anh quen hắn hả Cường Ba thiếu gia?”
Trác Mộc Cường Ba xị mặt thuật lại mối thù giữa gã và Ngưu Nhị Oa, khi ấy người nổ súng bắn chết anh trai Ngưu Nhị Oa là chính hắn chứ không phải gã, kể xong hắn thắc mắc nói: “Tại sao hắn biết mà tìm tới chỗ này nhỉ?Tại sao lại biết tên tôi? Với cả lần trước đụng độ với tôi hắn cũng có lợi hại thế này đâu?”
Mọi người chỉ biết đưa mắt nhìn nhau, vào lúc tất cả đều cho rằng nhóm huấn luyện này đã là 1 đội ngũ rất mạnh rồi, không ngờ lại để 1 kẻ bị thương chạy thoát ngay trước mũi, ko ít người trong nhóm tự vấn lại:  “Sau cả 1 thời gian huấn luyện dài như thế, liệu mình đã mạnh lên thật chưa nhỉ?”
Lữ Cánh Nam từ đầu vẫn chỉ đứng 1 bên quan sát chứ không ra tay, lúc này mới lên tiếng hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Chẳng phải anh cho rằng mình đã huấn luyện đủ rồi hay sao? Nếu tên vừa rồi và kẻ địch của mọi người ở đây, tức là nhóm người muốn đi tìm thần miếu kia, có quan hệ gì đó sao? Anh còn khăng khăng cho rằng với năng lực hiện nay là đã đủ đối phó rồi hay không?”
Trác Mộc Cường Ba tắc tị không nói được gì. Đường Mẫn liền lên tiếng biện bạch giúp gã: “Chuyện đó khác nhau mà, chẳng qua chỉ vì chúng ta muốn bắt sống hắn, còn hắn thì lại muốn liều mạng. Nếu như nổ súng sớm hơn thì làm sao hắn thoát được chứ.” Lữ Cánh Nam nở 1 nụ cười khinh khỉnh, nói: “Về doanh trại tôi sẽ tuyên bố với mọi người địa điểm khảo hạch giữa kì.”

Ở 1 nơi cách doanh trại huấn luyện của họ 2 quả núi, có 1 doanh trại nhỏ hơn, bên trong lều bạt khói bay mù mịt như muốn làm người ta ngạt thở, Max bước vào trong rồi cũng không nhịn nổi mà ho lên sặc sụa.Merkin miệng ngậm điếu xì gà hỏi: “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì?”
Max đáp: “Là...Ngưu Nhị Oa.Lúc nãy Lôi Ba trở về báo cáo, Ngưu Nhị Oa thăm dò được đám người kia đã trở về liền nhẫn nhịn không nổi đi tới đó báo thù cho anh trai hắn, bây giờ bị thương trở về rồi.Cũng may là có Lôi Ba bắn tỉa từ xa chặn chúng lại, bằng không thì hắn đã bị bọn người kia bắt sống rồi.”
“Khốn nạn!” Max giật nảy người, Merkin vỗ bàn chửi bới, “Rặt 1 lũ ngu xuẩn, suýt nữa làm hỏng hết cả kế hoạch của tao rồi.Cũng không xem rõ đối phương là ai trước đi, tưởng rằng huấn luyện vài tháng là bay lên trời được chắc! Sĩ quan huấn luyện của bộ đội đặc chủng mà dễ đụng đến vậy sao?”
Trên bàn Merkin có 1 tập hồ sơ đóng dấu tuyệt mật màu đỏ, tấm ảnh trên bộ hồ sơ đó rõ ràng chính là ảnh Lữ Cánh Nam.Merkin nhắm mắt lại, không khỏi nhớ đến cuộc bán đấu giá hồi mấy tháng trước...
“Hai mươi triệu, quý ngài số 012 đã trả giá 20 triệu rồi, còn ai muốn trả thêm nữa không? Đúng là 1 trận long tranh hổ đấu, xem ra mọi người có hứng thú đặc biệt với món vật đến từ phương Đông này thì phải, tôi nghĩ, giá trị của nó nhất định còn hơn giá trị bề ngoài mà chúng ta nhìn thấy rất nhiều. 20 triệu lần thứ nhất...” Trán người điều hành đấu giá đã lấm tấm mồ hôi. Một cuộn tranh cổ giá tiêu chuẩn có 30 ngàn đô la Mỹ, vừa khai giá đã được nâng lên nâng lên đến 3 triệu đô, liên tiếp mấy lượt liền, không ngờ lên đến hơn chục triệu đô, sàn đấu giá của họ xưa nay chưa bao h xảy ra trường hợp nào như thế này cả, đồng thời nhìn thần thái ung dung của vị khách mua thần bí kia, người điều hành đấu giá lão luyện đoán được, nếu có người cạnh tranh với nhà sưu tầm này, giá mua cuối cùng của món vật phẩm này có thể vượt quá 50 triệu đô cũng không chừng.
“20 triệu đô lần thứ nhất, nếu không còn ai muốn trả thêm, cuộn tranh cổ xưa quý giá này sẽ thuộc về quý ngài mang số 012 đây. Có thể nhìn thấy được, món đò này toàn thân đều toát lên vẻ thần bí mà cổ xưa của phương Đông, thật đúng là vật quý hiếm thấy ở đời đây...” “ A, 21 triệu, quý ngài số 103 trả 21 triệu.”
Khách mua số 012 chính là Merkin, hắn không khỏi tò mò ngoảnh đầu lại nhìn, kẻ vừa ra giá là 1 người đàn ông châu Á tướng mạo rất bình thường, hoàn toàn không có gì đặc biệt cả, ngược lại cô gái phương Đông xinh đẹp bên cạnh y thì lại khiến người ta để ý nhiều hơn, cô gái ấy toát lên vẻ quyến rũ của 1 người đàn bà đã trưởng thành, cao ngạo nhưng xinh đẹp, chỉ có điều ánh mắt lại toát lên vẻ lạnh lùng như người ở trên cao nhìn xuống dưới vậy.Người khác có lẽ sẽ nghĩ rằng cô ta là loại người xinh đẹp băng giá, nhưng Merkin thì hiểu rất rõ, ánh mắt ấy không phải là ánh mắt của người bình thường, mà là ánh mắt sắc lạnh đủ để giết người, chỉ có thể rèn luyện trên chiến trường mà thôi. Cô ta là vệ sĩ của người đàn ông kia? Cũng thú vị đấy.
Lúc này Merkin vẫn còn chưa thấy hoảng loạn gì, hắn đã quyết đoạt cho bằng được cuốn tranh này, trước đấy hắn đã chuẩn bị 100 triệu đô la tiền mặt và séc vủa ngân hàng Thụy sĩ. Đây cũng là quy củ của sàn đấu giá ngầm, chỉ nhận tiền mặt và séc của ngân hàng Thụy Sĩ, những thứ khác nhất loạt đều không chấp nhận.
Có điều, khi giá leo lên đến 80 triệu đô la thì Merkin bắt đầu thấy hoảng, bởi vì người đàn ông tướng mạo tầm thường kia vẫn giữ nguyên nét mặt bình tĩnh ung dung ấy, chuyện này tuyệt đối không thể nào xảy ra được. Nên biết rằng, đấu giá không chỉ là sự thể hiện của khả năng tài chính, mà quan trọng hơn chính là khảo sát năng lực nhận biết giá trị của người mua đối với vật phẩm được rao bán. Một thứ như cuộn kinh thư kiểu này, giá được đưa ra bao giờ đã vượt xa giá trị thực tế của nó, tất nhiên, cái giá này không thể nào so sánh với giá trị ẩn tàng bên trong kinh thư là chắc chắn rồi. Vấn đề là, mục đích của đối phương rõ ràng cũng giống như y, quyết lấy cho bằng được cuộn kinh thư cổ này, lẽ nào họ cũng biết giá trị của nó? Không thể có chuyện ấy được, đây chỉ mới là nửa quyển thôi mà, ngoài bản thân y ra, còn có người nào khác cũng tìm hiểu về chuyện này? Mấy người kia rốt cuộc lai lịch ra sao? Merkin nghiến răng, lại 1 lần nữa giơ tấm biển lên. “A. 85 triệu đô la...trời ơi, cái giá này thật đúng là quá bất ngờ rồi, 85 triệu đô la lần thứ nhất...ấy không, 88 triệu đô la, tôi có nhìn lầm không vậy?Không nhầm, là 88 triệu đô la, 88 triệu đô la lần thứ nhất, 8..9, 90 triệu... 91 triệu....”
Merkin bắt đầu toát mồ hôi, y kinh ngạc quay đầu lại, đối phương chẳng cần thời gian suy nghĩ, thằng cha này rốt cuộc là làm gì đây nhỉ? Có nên ám sát bọn chúng không? Đợi bọn chúng ra khỏi nơi này? Cô gái kia xem ra không phải loại cao tay tầm thường đâu, còn người đàn ông, đáng chết thật, sao nhìn thế nào cũng đoán không ra thế nhỉ? Tại sao họ lại xuất hiện ở chốn này cơ chứ?
Nghĩ đến chuyện lần đó, Merkin hơi bực bội nói: “Rốt cuộc bọn chúng muốn huấn luyện đến tận bao giờ đây?”
Max không để lỡ thời cơ nói ngay: “Việc này...Ngưu Nhị Oa có mang về một tin tức.”
“Ừm?” Merkin lập tức hỏi, “Người đang ở đâu”
Ngưu Nhị Oa nằm trên giường, sắc mặt tái nhợt, 1 người khác đang giúp hắn cầm máu, hắn đau đến nỗi nghiến răng kèn kẹt, nhát dao kia của Trác Mộc Cường Ba đã đâm vào tận động mạch, không nhổ ra còn đỡ, vừa nhổ ra là máu tuôn như suối. Merkin không thể không cúi sát người xuống cạnh Ngưu Nhị Oa nghe hắn thì thầm rên rỉ, càng nghe, gương mặt lạnh lẽo của y dần hiện lên 1 nụ cười. “Thật không?” Merkin hỏi. Ngưu Nhị Oa yếu ót gật đầu thay lời đáp.
Merkin tức khắc trở lại lều lớn, đồng thời dặn dò: “Tìm bản đồ lên đây cho tao, bản đồ chi tiết khu vực Nam Mỹ ấy!”
\
Max căng thẳng đứng hầu bên cạnh, chỉ thấy Merkin hưng phấn đến nỗi quên cả châm thuốc, ko ngừng lấy bút vạch lên bẩn đồ những vòng tròn khác nhau. Một tiếng đồng hồ trôi qua, cuối cùng y cũng ngẩng đầu lên, mừng rỡ nói: “Đúng là như vậy rồi!” Rồi lại như sực nghĩ ra điều gì, y tức giận quát lớn: “Hừ! Dám gạt tao hả!”
Max không hiểu rốt cuộc ông chủ đang giận dữ hay mừng rỡ, chỉ biết run rẩy dè dặt hỏi: “Rốt cuộc...rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy, ông chủ?”
Ánh mắt sắc bén của Merkin quét qua, làm Max lại càng thấp thỏm ko yên. Một lúc lâu sau mới thấy nét mặt Merkin dãn ra cười cười nói: “Bọn chúng có đầu mối mới, xem ra chúng ta phải xuất phát đến nơi rồi, chuẩn bị vé máy bay đi Colombia cho tao. Để tao nghĩ đã, thành phố nào thì tiện hơn nhỉ?”
Max tưởng mình đã nghe lầm, tìm báu vật ở Tây Tạng với Colombia thì có gì liên quan đến nhau chứ? Hắn ngờ vực hỏi lại lần nữa: “ Colombia ? Ông chủ. Ông nói là Colombia phải không ạ?”
Merkin ngẩng đầu lên nói: “Đương nhiên, từ những năm 50 thế kỷ trước người ta đã suy đoán ra thứ rất có thể đã bị tổ tiên người tạng mang đến Chây Mỹ, đồng thời biến mất cùng với nền văn minh Maya cổ đại.Tao khai quật nhiều di chỉ Maya như thế chẳng lẽ là để nghiên cứu lịch sử chắc? Chủ đích của tao là tao muốn tìm một trong 3 đầu mối quan trọng mà Stanley tốn cả đời cũng không tìm ra, chỉ tiếc là đến giờ tao vẫn chưa đào được cái gì.Càng về sau di chỉ của Maya càng bị người ta khai quật nhiều, cơ hội tìm thấy món vật đó cũng càng nhỏ bé dần đi.  Phát hiện lần này, rất có thể là nhóm di chỉ thành cổ Maya cuối cùng rồi. Mấy ngày trước tao cũng nhận được tin đấy, nhung cũng không chú ý cho lắm, giờ nghĩ lại mới thấy đúng, thứ đó rất có thể trong khu thành cổ mới phát hiện lần này.”
Nhìn kí hiệu trên bản đồ, Max nói: “Ông chủ, tôi nhớ ông đã từng bảo với tôi là, đế quốc Maya thời kì phồn thịnh nhất cũng không thể vượt qua được dãy Andes, chỗ mà ông vừa vẽ...”
Khóe miệng Merkin nở ra 1 nụ cười lạnh lẽo: “Ừm, chuyện ấy từ lâu lắm rồi, hồi đó tao chỉ là kẻ mới được học nghề, chỉ biết những thứ trên sách vở. Nhưng lần này thì khác, tao đảm bảo 100% trong rừng rậm Amazon có tàn tích của văn minh Maya, từ Venezuela, Colombia, Ecuador, kéo dài đến tận Brazil, chỗ nào cũng có hết!”
Max kinh ngạc thốt lên: “ Sao ông chủ chắc chắn như vậy được?”

(1)   Hậu duệ của vua Thổ Phồn, Tùng Tán Can Bố đã chạy đến Tây Tạng sau khi Thổ Phồn bị diệt vong.

Chuẩn bị trước khi lên đường
Merkin nói: “Bởi vì mấy năm trước chính tao đã được người ta dẫn đi khai quật một tòa thành cổ Maya khổng lồ ở khu vực này. Mấy thằng cha lý thuyết kia chỉ biết nói thôi, cái gì mà trong rừng rậm nhiệt đới không có nhiều nguyên liệu đá, không thể xây dựng thành trì bằng đá cỡ lớn kia chứ. Bọn họ đánh giá sức mạnh và trí tuệ của cổ nhân quá thấp rồi. Người dẫn tao đi hồi ấy còn nói, người Maya cổ chẳng những có thể vượt qua dãy Andes cao năm ngàn sáu trăm mét, mà còn khai thác được những tảng đá nặng đến mấy trăm tấn ở núi Andes, rồi lợi dụng đường thủy vận chuyển sâu tận trong rừng rậm cách đó mấy ngàn cây số để xây dựng thành bang, dựng nên một nền văn minh mới.”
“Vậy rốt cuộc chúng ta phải tìm thứ gì?” Max lại hỏi.
Merkin mỉm cười thần bí: “Nếu tao không lầm, thì có lẽ là một tấm gương.” Nói xong, nụ cười của y liền trở nên âm trầm lạnh lẽo: “Bọn chúng cũng xảo quyệt lắm, bề ngoài thì chỉ là tiến hành huấn luyện bình thường, cơ hồ chẳng liên quan gì đến chuyện tìm kiếm lần này. Thực ra chắc chắn là còn một đội ngũ khác trong bóng tối chuyên thu thập các đầu mối cho bọn chúng nữa, cả tao cũng suýt chút nữa là bị gạt rồi. Tìm chó? Hừ, từ đầu tao đã nói thế nào với mày ấy nhỉ, trên cái thế giới này, căn bản không thể nào có người vì một con chó mà trả giá lớn như vậy. Chắc chắn là bọn chúng đã nhắm đến thần miếu chứ chẳng sai đâu, tìm chó chẳng qua chỉ là cái cớ che đậy mà thôi. Người Trung Quốc hả, hừ, giảo hoạt thật đấy! Lần này chúng ta nhất định phải đi trước chúng một bước, báo cho tất cả chúng nó, nhổ trại về Lhasa , ngày mai tao muốn thấy mặt trời trên cảng Assis (1). Nói tới người Trung Quốc giảo hoạt, nụ cười trên mặt Merkin phút chốc biến mất. Y nhớ đến người lần đó đã dẫn y đi, nhớ lại đôi mắt u uất đó, không hiểu tại sao, mỗi lần nhìn thấy đôi mắt u uất ấy, lúc nào y cũng thấy trong lòng run run.

Lữ Cánh Nam tuyên bố quy định chi tiết của chuyến khảo hạch lần này, vẫn chia thành hai tổ như mọi lần trước, tổ nào rút được lá thăm màu đỏ sẽ được xuất phát trước một ngày, khởi hành từ Putumayo ở Ecuador, không được sử dụng các phương tiện giao thông hiện đại, phải tự nghĩ cách tránh quân biên phòng của Ecuador và Peru, cũng có thể đi qua Colombia, đích đến là Saint Mary ở Peru, tất cả mọi người đều chỉ có thời gian một ngày để thu thập và sắp xếp tư liệu, vì không thể vận chuyển trang bị và vũ khó tới Ecuador, nên tất cả mọi thứ thiết yếu đều chỉ có thể đến Ecuador rồi tự tìm lấy, hành trình này tổng cộng khoảng hai trăm cây số, mỗi đội có thời gian mười ngày, nếu sau mười ngày mà không thấy đến địa điểm tập kết thì sẽ triển khai hành động giải cứu.
Cuối cùng Lữ Cánh Nam nói: “Chúng ta phải tính toán đến tình huống xấu nhất, nếu kẻ vừa tẩu thoát kia chính là người của đối thủ cạnh tranh, không may lại để hắn nghe được tin tức này, vậy thì trên đường mọi người rất có thể sẽ gặp phải trở lực hết sức lớn, hơn nữa, chúng ta còn phải đến nơi trước bọn chúng nữa.”
Trương Lập hỏi: “Không phải đấy chứ? Chúng ta chỉ khảo hạch thôi mà, nếu ở đó nguy hiểm, bọn chúng cần quái gì phải đi theo chúng ta mà chịu khổ chứ. Chẳng lẽ bọn chúng muốn luyện tập chung với chúng ta chắc?” Những người xung quanh nghe vậy đều cười ồ lên, lạt ma Á La ngầm đánh mắt ra hiệu với Lữ Cánh Nam , cô liền nói: “Tóm lại…cẩn thận vẫn hơn.”
Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm: “Câu này là ý gì nhỉ? Đến nơi trước bọn chúng là sao?”
Trải qua tập huấn và học tập một cách có hệ thống, giờ mọi người đều biết rõ, trước khi xuất phát đến một nơi nào đó, thu thập chỉnh lý các dữ liệu liên quan là việc không thể thiếu được, dữ liệu đó chẳng những giúp họ đến nơi một cách nhanh chóng tiện lợi, mà còn có thể cứu mạng họ trong những lúc quan trọng nhất. Mạng Internet nối với trang Web thư viện Britica rất nhanh, họ tìm trong kho dữ liệu lớn nhất thế giới ấy những thông tin liên quan tới các nước Nam Mỹ, đặc biệt là tất cả thông tin về ba nước Colombia, Peru, Ecudor.
Trương Lập vừa di chuột vừa nói: “Tôi thấy lần khảo hạch giữa kỳ này cũng dễ quá chứ nhỉ, mười ngày đi hai trăm cây số, dù đi như di dạo cũng xong được còn gì.”
Nhạc Dương đang dùng máy tính bên trái Trương Lập, nghe vậy liền nói: “Không đâu, xem ra anh còn chưa hiểu rõ tình hình ba nước này cho lắm rồi, vậy thì nói theo cách khác chắn chắn sẽ làm anh thấy hấp dẫn hơn – rừng rậm Amazon đấy!”
Trương Lập sực hiểu ra: “Amazon! Có điều chúng ta đã tới Xishuangbana, địa hình không phải cũng đại khái như nhau hay sao?”
Trác Mộc Cường Ba ngồi bên phải Trương Lập, đang nhập vài từ khóa tìm kiếm, cũng lên tiếng hỏi:” Anh biết gì về rừng rậm Amazon rồi?”
Trương Lập nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: “Tôi biết có cá ăn thịt người. Hình như còn là rừng mưa nhiệt đới lớn nhất thế giới phải không?”
Ba Tang ngồi bên phải Trác Mộc Cường Ba, đang chép tư liệu trên mạng vào một cuốn sổ, nghe Trương Lập trả lời thế liền cười khẩy một tiếng.
Nhạc Dương cũng bắt đầu ghi chép dữ liệu trên mạng, vừa ghi vừa nói: “Không chỉ có vậy thôi đâu. Lưu vực sông Amazon là khu rừng nhiệt đới nguyên sinh lớn nhất thế giới, còn gọi là lá phổ của hành tinh. Trong hơn hai mươi ngàn loài thực vật được biết đến trên thế giới, Nam Mỹ đã có đến hơn mười chín ngàn loài rồi, bảy mươi phần trăm trong số đó đều phân bố trong khu vực rừng mưa nhiệt đới. Diện tích rừng Amazon chiếm hai phần ba diện tích rừng toàn cầu, anh thử nghĩ mà xem.” Đột nhiên anh ta rú lên: “Tìm thấy rồi, nhìn dòng Amazon chạy vắt ngang Nam Mỹ này mà xem, khởi nguồn từ dãy Andes ở Peru . Sông dài 6.440 cây số, là con sông dài thứ hai thế giới, chỉ kém sông Nile dài 6.695 cây số mà thôi. Lượng nước rất dồi dào, mỗi giây đổ 116.000 mét khối nước ngọt vào Đại Tây Dương, chiếm một phần năm lưu lượng nước sông đổ ra biển trên toàn cầu. Trong các nhánh sông, có bảy nhánh dài trên 1.600 cây số, dài nhất là sông Madeira, dài ước chừng 3.200 cây số.”
Trác Mộc Cường Ba bổ sung thêm: “Không chỉ có vậy, tài nguyên động thực vật của lưu vực sông Amazon có thể nói là phong phú nhất trên thế giới, hiện nay chỉ riêng số lượng các loài cá phát hiện được đã lên tới hơn hai ngàn sáu trăm loài, chim có hơn một ngàn sáu trăm loài, ngoài ra còn có vô số loài động thực vật khác chưa được ghi chép trong sách vở nữa.”
Ba Tang lạnh lùng nói: “Ngoài cái tên lá phổi của địa cầu, nó còn được gọi bằng cái tên khác nữa, chính là địa ngục màu xanh, ý muốn nói người ở trong rừng nguy hiểm như là vào địa ngục vậy. Chỉ cần hơi bất cẩn một chút là chết lúc nào không hay chứ chẳng chơi đâu.”
Trương Lập cười khẽ một tiếng, đột nhiên trợn tròn mắt lên nhìn chằm chằm vào một bức ảnh, miệng há hốc như muốn chảy nước miếng đến nơi, thích thú nói: “Nhìn đi, nhìn đi! Thì ra đàn bà thổ dân sống trong rừng chẳng ai mặc quần áo hết cả này!”
Nhạc Dương ở bên cạnh nghe thế liền thò đầu lại xem, rồi tán thưởng: “Hay quá còn gì, anh có thể đến đấy làm rể đấy, nhìn chữ giới thiệu bên dưới đi, đừng có kích động quá mà không đọc nổi tiếng Anh đấy nhé.”
Trương Lập nhìn từ tiếng Anh bên dưới tấm ảnh trên màn hình, đúng là không biết chữ gì, đành cầu cứu Nhạc Dương: “Nghĩa là gì vậy?”
Nhạc Dương hạ giọng giải thích: “Bộ lạc ăn thịt người!”
Trác Mộc Cường Ba lên tiếng: “Đừng đùa nữa, tôi càng xem càng cảm thấy nơi này nguy hiểm, chỉ sợ còn nguy hiểm hơn tất cả những nơi chúng ta từng đi qua cộng lại thôi. Chủ yếu là vì nhân tố nguy hiểm ở khu vực này quá nhiều, nếu để sau mười ngày mới đến đích thì mới mất mặt đấy.”
Trương Lập nói: “Thực ra vượt qua khu rừng này cũng không khó lắm, vấn đề là có rất nhiều thứ đã dùng quen tay rồi mà không thể mang theo, không có công cụ thuận tay thì khó tiến lắm.”
Trác Mộc Cường Ba lắc lắc cổ tay, nói: “Sai rồi, chỉ có vũ khí là không mang theo được thôi, còn đa số công cụ chúng ta vẫn hay sử dụng đều có thể mang theo cả.” Trên cổ tay gã đang đeo một chiếc đồng hồ nguyên tử, thiết kế tạo hình thoạt nhìn không khác gì đồng hồ điện tử thông thường cả, nhưng loại đồng hồ sử dụng năng lượng mặt trời này vĩnh viễn không bao giờ phải thay pin, thời gian sai lệch không quá một giây trên ba trăm năm, khả năng chống nước chịu chấn động cũng đạt tiêu chuẩn đặc biệt, có thể chịu áp lực ở độ sâu năm mươi mét dưới mặt nước, cũng có thể chịu được sóng xung kích của mười cân thuốc nổ TNT sản sinh trong một phạm vi một mét vuông; hơn nữa ngoài màn hình dạ quang ra, nó còn có thêm một đèn pha cỡ nhỏ, phạm vi chiếu sáng lên đến năm mét, trong khoảng cách một trăm mét trở xuống có thể sử dụng như thiết bị truyền tín hiệu cỡ nhỏ, ngoài ra còn một số công dụng nhỏ khác nữa. Đeo loại đồng hồ này trên tay, không hải quan ở sân bay nào giữ lại xét hỏi làm gì. Tất nhiên, do yếu tố giá cả quyết định nên ngoài những người như Trác Mộc Cường Ba, số lượng nhà thám hiểm sử dụng nó cũng cực kỳ hiếm hoi.
Trương Lập nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Phải rồi, Cường Ba thiếu gia, không biết con dao găm quân dụng của anh có mang đi được không nhỉ?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Chắc là được thôi, đến lúc ấy rồi nghĩ cách vậy.” Nói đoạn, gã bất giác đưa tay sờ con dao săn cá sấu giắt ở ống chân. Gã rất thích con dao này, tạo hình theo kiểu cổ, thân dao rộng mà dày, lưỡi dao dài chừng ba mươi centimet, sống dao có các lưỡi móc như răng cá sấu, vì vậy gọi là dao săn cá sấu hay dao găm cá sấu; lưỡi dao cực kỳ bén, ngay cả da tê giác dày như thế mà cũng dễ dàng cắt rời ra được, nên còn gọi là dao mổ tê giác. Loại dao này còn to hơn cả dao lính dù của bộ đội đặc chủng, trong rừng có thể trực tiếp dùng như dao pha để chặt cây mở đường, răng cá sấu trên sống dao nghiến đứt được dây thép đường kính năm milimet, có điều người không có sức khỏe thì thịu không tài nào dùng nổi. Trương Lập và Nhạc Dương thì thích dùng loại dao đặc biệt của đội Navy Seal của Mỹ, nhỏ mà sắc bén, có thể dùng làm phi đao luôn, nghe đâu bảo là do một người Trung Quốc thiết kế sản xuất nữa. Ba Tang quen dùng dao quắm của người Kurds, một loại dao quắm cổ xưa rất nổi tiếng, phần trên thân dao hơi cong như giọt nước, lưỡi dao hướng vào trong, nghe nói một người lính Kurdistan đạt chuẩn có thể dùng dao quắm loại chém đứt đầu bò đực chỉ bằng một nhát duy nhất.
Nhạc Dương liếc mắt ra cửa, nói: “Cường Ba thiếu gia, công chúa của anh đến rồi kìa.” Đường Mẫn đứng ngoài cửa, đang trợn tròn đôi mắt to của mình lên tìm Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba dẫn Đường Mẫn ra ngoài, thấp giọng hỏi: “Tổ của em đã chuẩn bị xong tư liệu rồi à?”
Đường Mẫn cúi gằm mặt xuống, gật gật đầu: “Ừm”
Cô e thẹn vòng tay ôm Trác Mộc Cường Ba. Úp mặt vào bộ ngực vạm vỡ của gã, một hồi lâu sau cũng không nói gì, rồi lại ngẩng đầu lên, muôn vàn tình cảm dâng trào lên trong cặp mắt đẹp long lanh mê hồn, bặm môi nói: “Cường Ba à, hành trình lần này nguy hiểm lắm đấy.”
Trác Mộc Cường Ba vuốt nhẹ lên mái tóc mềm mại của cô, dịu dàng nói: “Sao thế? Em sợ hả?”
Đường Mẫn bướng bỉnh giận dỗi nói: “Không sợ.” Cô lại áp mặt vào chặt hơn nữa, thầm thì nói: “Chỉ cần được ở bên anh, em chẳng sợ gì hết.” Nhưng vừa nói dứt lời, mí mắt đã đỏ mọng lên.
Trác Mộc Cường Ba biết rõ, Đường Mẫn vì muốn theo gã nên mới tham gia kế hoạch lần này, cô cũng đã chịu khổ không phải ít, đôi bàn tay như búp măng kia đã chai hét cả, làn da trắng như ngọc bị phơi nắng đến độ chuyển sang màu cà phê, chỉ vì câu ước hẹn kia – dù sống dù chết cũng không rời xa nhau lần nào nữa. Còn chuyến đi lần này thực ra Đường Mẫn rất sợ, cô không sợ cạm bẫy hay lũ hung đồ cầm súng cầm dao, mà sợ nhất là những loài động vật nhỏ xấu xí không biết tên nào đó, mà trong rừng rậm nhiệt đới thì cái giống ấy là nhiều nhất. Trác Mộc Cường Ba nâng gương mặt thân thiết ấy lên, hôn phớt lên trán cô như chuồn chuồn điểm nước, dịu dàng an ủi: “Yên tâm đi, không xảy ra chuyện gì đâu. Giáo sư Phương Tân và chú Mao Lạp sẽ chăm sóc em, phải kiên cường lên, dũng cảm lên, biết không?”
Đường Mẫn vùng vằng lắc đầu, tinh nghịch nói: “Ừm. Anh cũng phải cẩn thận đấy. Cả tổ của anh người nào người nấy đều là phần tử phá hoại, em lo lắm, lần này khác với những lần trước, trong rừng ẩn chứa rất nhiều nguy cơ chí mạng đó.”
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười: “Yên tâm đi, họ biết thế nào là nguy hiểm mà, em mới phải chú ý đấy, không được bướng bỉnh quá, phải nghe lời giáo sư, em là người nghịch ngợm nhất trong tổ đấy.” “Làm gì có chứ.”…
Trác Mộc Cường Ba trở lại máy tính, ngồi chưa được hai phút, Trương Lập đã “sụy suỵt” thì thầm: “Cường Ba thiếu gia, bà chằn đến kìa!”
Trác Mộc Cường Ba thở dài một tiếng, ngẩng đầu lên nhìn, quả nhiên Lữ Cánh Nam đã đứng trước cửa, chỉ ngón tay về phía gã ngoắc ngoắc, ra hiệu cho gã ra ngoài. Trác Mộc Cường Ba lại đứng lên đi ra, Lữ Cánh Nam nhìn gã với vẻ mặt rất nghiêm túc, lúc này không ai biết trong lòng cô đang nghĩ gì cả. Trác Mộc Cường Ba lên tiếng hỏi trước: “Giáo quan, tìm tôi có chuyện gì vậy?”
Khóe miệng Lữ Cánh Nam khẽ giật giật một chút, cô trầm tư trong thoáng chốc, cuối cùng chỉ buông ra có một câu: “Lần này, phải cẩn thận.”
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười lịch sự, đáp: “Cảm ơn.”
Nhìn Trác Mộc Cường Ba đi ra đi vào, Trương Lập xuýt xoa nói: “Ôi, sao không ai tìm tôi thế nhỉ?”
Nhạc Dương Cười nói: “Anh không nhìn lại mình đi, người ta là Cường Ba thiếu gia, cao to anh tuấn, thân hình dũng mãnh, gia tài bạc triệu, lại có kinh nghiệm sống, lại biết cách quan tâm phụ nữ, lại có cảm giác an toàn và đáng tin cậy của người đàn ông, muốn trí tuệ có trí tuệ, muốn cơ bắp có cơ bắp, nhép con như anh thì có gì chứ?”
Trương Lập gãi đầu nói: “Nói cũng phải nhỉ.”
Nhạc Dương tiếp tục nói: “Loại thượng hảo hạng trong đám đàn ông như thế, ngoài trong tiểu thuyết với trên phim ra tôi chưa thấy ở đâu cả đâu, nếu tôi mà là đàn bà chắc tôi cũng chỉ mong sao được bám đuôi anh ta cả ngày, rồi gọi một tiếng…” Vừa nói Nhạc Dương vừa làm bộ hai tay ôm ngực, thẽ thà thẽ thọt nói: “Anh Cường Ba ơi, anh Cường Ba à, anh Cường Ba…” làm Trương Lập rởn hết cả tóc gáy, nhưng trong lòng vẫn lấy làm không phục tự nhủ: “Đàn ông thượng hảo hạng cái gì chứ? Thế sao còn phải ly hôn làm gì nữa?”
“Làm gì thế?” Trác Mộc Cường Ba đứng sau lưng hỏi, Nhạc Dương giật bắn mình, vội nói: “Quay lại nhanh thế à!”
Trương Lập tức khắc nhổm lên, hỏi: “Thế nào rồi? Bà chằn đó nói gì với anh thế Cường Ba thiếu gia?”
“Liên quan gì đến cậu?”
“Nói đi mà, Cường Ba thiếu gia.”
“Nhạc Dương, cả cậu cũng muốn quậy nữa hả?”
“Cô ta có tỏ thái độ gì không thế?”
“Phải đấy phải đấy, có không?”
“Nhàn rỗi quá hả, sao không học theo anh Ba Tang kia kìa, đi chuẩn bị tư liệu đi…”
“Còn hỏi nữa hả!”


Cảng Asis cách thủ đô Bogota của Colombia hơn tám trăm cây số, vì nằm ở vùng hẻo lánh, giao thông không thuận tiện lắm, nên thành phố ven sông này rất giống một thị trấn nhỏ châu Mỹ hồi những năm năm mươi sáu mươi của thế kỷ trước. Trên những con phố vắng lặng hiếm khi có xe chạy qua, những người bán hàng rong cất tiếng rao nhịp nhàng, người ta hoàn toàn không thể nhìn ra đây là địa điểm thường xuyên xảy ra xung đột giữa lực lượng vũ trang địa phương và quân đội chính phủ. Cảng Asis nối liền với sông Inca, xuôi theo dòng sông xuống hạ lưu chính sẽ tới Putumayo , dọc đường có rất nhiều bộ lạc người Anh điêng sinh sống.
Merkin chỉ dẫn theo một mình Max đến một biệt thự kiểu châu Âu ở ngoại ô Assis, chủ nhà béo lùn lại còn đen thui, vẻ ngoài lẫn nụ cười đều toát lên vẻ nham hiểm, người này đeo kính gọng vàng, răng bọc vàng, cổ đeo dây chuyền vàng to bằng ngón tay cái, mười ngón tay đeo mười bốn cái nhẫn vàng, trong đó có hai chiếc còn khảm hai viên ngọc bích to tướng, cổ tay cổ chân đều đeo vòng vàng lắc vàng, mặc một chiếc áo lụa tay ngắn gần như kiểu Đường trang (2) màu trắng lấp lánh ánh vàng, toàn thân trông mà lóa hết cả mắt. Merkin và người này nói chuyện có vẻ rất thân thiện, thỉnh thoảng lại phá lên cười lớn, hai điếu xì gà Cuba giống nhau cũng càng thể hiện hai người thân thiết vô cùng. Nói qua nói lại, Merkin bảo Max đặt va li tiền đang xách lên bàn, còn người đàn ông béo lùn kia cũng bảo một gã lực lưỡng đứng sau lưng xách ra một va li bột trắng, cả bọn lại hiểu ý cười phá lên một chặp.
Người đàn ông béo lùn kia chuẩn bị bảo thuộc hạ thu tiền thì Merkin đưa tay chặn chiếc va li lại nói: “Đợi chút đã, Gonzales, tôi muốn nhờ anh một chuyện nhỏ.”
Tên béo Gonzales kia toét miệng cười lộ ra hàm răng vàng chóe: “Quan hệ của chúng ta mà anh còn không yên tâm à, có yêu cầu gì cứ thoải mái nói đi.”
Merkin nói: “Mấy người này, trong một hai ngày tới chúng sẽ đến cảng Putumayo, hy vọng anh có thể để ý ‘chăm sóc’ chúng, tôi không mong chúng bị tổn hại gì nhiều, cũng không mong chúng rời khỏi cảng này nhanh quá, cầm chân chúng được mấy ngày là tốt nhất.”
Gonzales cầm tư liệu về mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba lên xem qua, cười cười bảo: “Không thành vấn đề, chúng tôi sẽ chờ ở Ospina (3), chỉ cần bọn chúng lộ mặt, sẽ giúp anh cầm chân chúng ở đấy. À, phải rồi, viên thạch anh Phi châu lần trước còn không? Tôi rất thích nó, giá cả không thành vấn đề.”
Merkin cười cười nói: “Cái đó thì phải về xem mới biết được, anh cũng thấy đấy, đồ tôi tích trữ nhiều quá, không phải thứ nào cũng rõ như lòng bàn tay được đâu.” Gozales lại càng cười to hơn: “Ha ha ha, được lắm được lắm, bạn của tôi, nhất định phải nhớ đấy nhé.”
Nửa tiếng sau, Merkin và Max ngồi trên một chiếc thuyền gỗ đi trong rừng già Amazon tĩnh lặng, y mở va li, rải từng bao từng bao cocain thành phẩm xuống nước. Max nhìn mà thấy tiếc rẻ trong lòng, dù thế nào thì cũng là mười mấy cân ma túy chứ đâu phải đùa, hắn thắc mắc: “Ông chủ, ông làm gì vậy?”

Merkin nói: “Mang theo cũng có ăn được đâu, lại còn thêm phiền phức với nguy hiểm, dù mang được sang Mỹ thì lợi nhuận cũng thấp quá, tao xưa nay có bao giờ hứng thú với cái món này đâu.”
Max không hiểu: “Vậy tại sao còn phải giao dịch với con Cú Độc ấy?
Merkin cười cười: “Cái này thì mày không hiểu rồi, Gonzales là con bò ngu xuẩn, chỉ cần mày mua hàng của hắn, hắn sẽ coi mày là bạn, còn nếu mày không mua, hắn sẽ nghi ngờ mày, lúc nào cũng chỉ nghĩ cách tính toán với mày thôi. Hắn có liên hệ rất mật thiết với lực lượng vũ trang cách mạng, thế lực ở vùng này cũng tương đối lớn, mục đích của tao chỉ là muốn lợi dụng hắn cầm chân lũ người Trung Quốc kia lại thôi.”
Max nói: “Tôi vẫn không hiểu, chúng ta có quân cơ mà, phái mấy thằng đợi ở Putumayo chẳng phải là xong chuyện sao? Sao phải vòng một vòng lớn nhờ tên Gonzales ấy xử lý chuyện này làm gì chứ?”
“Soạt,” Merkin lại chọc mũi dao rạch ra một bao nữa, vừa ngậm thuốc vừa đổ cocain xuống sông, rồi bảo Max: “Thằng ngu, lính của chúng ta quý như vàng ấy chứ, cần giữ lại để làm chuyện lớn. Những chuyện vặt vãnh này giao cho quân vũ trang địa phương thông thuộc địa hình với bọn buôn ma túy  quanh năm qua lại biên giới mấy nước này giải quyết chẳng phải tốt hơn sao, mà tốn có mỗi mấy đồng.”  Merkin đổ sạch túi bột trắng cuối cùng, hài lòng xoa xoa tay vào nhau rồi đứng dậy: “Mua nhiên liện đúng trong vùng sản xuất, chẳng phải rất rẻ hay sao?”
Max vội nịnh hót lấy lòng: “Thật không ngờ ông chủ lại quen biết rộng đến thế, cả Cú Độc Colombia cũng chịu giúp chúng ta nữa.”
Merkin khinh miệt nói: “Có đáng gì đâu chứ, bọn ấy đứa nào chẳng muốn rửa tiền, có cách rửa tiền nào tốt hơn là sưu tầm một tác phẩm nghệ thuật đâu chứ?” Nói đoạn y liếc sang nhìn Max, hai tên hiểu ý nhau, cùng nở một nụ cười âm hiểm.
Bỗng nhiên, Merkin hình như chợt nhớ ra điều gì đó, y ngưng cười, nói với Max: “Phải rồi, nói đến người của chúng ta, không biết đám ấy bây giờ thế nào rồi, đặc biệt là mấy thằng mới ấy, hồi trước chúng nó là một nhóm, hơn nữa…bọn chúng chỉ tuân thủ quy tắc trò chơi của riêng chúng thôi. Tốt nhất là đừng gây chuyện gì, nhất là những lúc tao không có mặt ở đấy.”
Max nói: “Ông chủ, ông cứ yên tâm, bọn chúng đều đang tiến hành  huấn luyện kiểu địa ngục ở núi Đường Cổ Lạp, có Thiết Quân trông nom, Tây Mễ cũng đáp ứng quản thúc thủ hạ của hắn. Hơn nữa buổi đêm tôi còn sắp đặt tiết mục đặc biệt cho cái đám tinh lực dồi dào bọn chúng có chỗ phát tiết, thoải mái triệt để, chắc chúng không gây chuyện gì đâu.”
Merkin gật đầu: “Ừm, khá lắm, cái thằng Tây Mễ ấy cũng là một nhân vật đấy.”

Sườn Nam núi Đường Cổ Lạp, nơi này đã được cải tạo thành một quân doanh bí mật, ở sâu tít trong rừng, dù có dùng vệ tinh chụp ảnh cũng không tài nào phát hiện ra được. Trên một bãi đất trống, có hai gã cao to như bò mộng đang vật nhau, một người điệu bộ như sĩ quan huấn luyện đứng bên cạnh chỉ dẫn, những người khác đều ngồi rải rác dưới gốc cây. Tây Mễ ngồi một mình dựa lưng vào một gốc cây râm mát, đây cũng là vị trí tốt nhất để xem trận đấu. Tới đây đã một thời gian , Tây Mễ cũng dần dần làm quen với tổ chức của Merkin. Tổ chức này rất kỳ quái, thành viên đại đa số đều do Merkin thuê từ các công ty cung cấp người làm nổi tiếng quốc tế, thậm chí còn có cả người được Merkin sử dụng quan hệ mua từ trong các nhà lao tử tù của một số nước nữa, kẻ nào kẻ nấy đều là hạng hung tàn giết người không chớp mắt. Merkin tụ tập bọn chúng lại một chỗ, dạy chúng cách giết người hiệu quả nhất, đồng thời cũng dạy cả một số kiến thức liên quan đến sinh tồn nơi hoang dã và các loại cạm bẫy, ngoài chuyện đó ra, chưa bao giờ Merkin tiết lộ sắp tới chúng sẽ đi đâu, làm chuyện gì. Có điều, từ những câu hỏi của Merkin lần trước, Tây Mễ sớm đã đoán được mấy phần rồi.
Tổ chức này có quy tắc đặc thì của riêng nó, chính là kẻ mạnh làm bề trên. Lúc Merkin có mặt, y là người mạnh nhất, không ai dám phản kháng, điều làm Tây Mễ thấy ngạc nhiên nhất chính là, thân phận công khai của Merkin không ngờ lại là cố vấn của bộ đội đặc chủng! Nếu Merkin có chuyện đi khỏi đó, người mạnh nhất trong tổ chức này chính là Tây Mễ và thằng cha bộ dạng như sĩ quan huấn luyện kia. Hắn tên là Thiết Quân, không biết Merkin thuê hay mua từ xó xỉnh nào về, nhìn bề ngoài thì có vẻ giống người Châu Á, cũng biết nói vài câu tiếng Trung không mấy sõi, dáng không cao lắm, chỉ độ mét sáu, có điều ra tay thì rất nhanh. Tây Mễ từng thấy Thiết Quân đánh nhau, nhưng chưa bao giờ đấu với hắn cả, hắn cũng không bao giờ khiêu chiến Tây Mễ, hắn dẫn dắt đám liều mạng Merkin chiêu tập từ khắp mọi nơi về, Tây Mễ dẫn dắt bọn săn trộm Hồ Lang, trong nội bộ tổ chức ngấm ngầm hình thành nên hai nhóm riêng.
Hai người đang đọ sức kia đều cao trên một mét tám, lần lượt là Lôi Ba và Ivan. Lôi Ba là mãnh tướng hàng đầu của Tây MỄ, năm nay bốn mươi tuổi, khỏe như bò mộng, trước khi Tây Mễ tới Khả Khả Tây Lý, hộ Lôi chính là thủ lĩnh của bọn săn trộm kia. Nghe đồn trước đây Lôi Ba là thợ săn, từ nhỏ đã có sức khỏe kinh người, về sau vì tranh chấp có hai nhân dân tệ mà chém một người trong thôn mười mấy nhát dao, làm đối phương chết ngay tại trận, bất đắc dĩ phải bước vào con đường lẩn trốn, cuối cùng thì dừng chân ở Khả Khả Tây Lý. Bản thân Tây Mễ cũng phải thừa nhận, đấu sức thì y không thắng được Lôi Ba, có điều đầu óc họ Lôi này tương đối giản đơn, chuyện gì cũng chỉ thích hùng hục hùng hục, nên Tây Mễ chẳng tốn mấy sức lực đã thu phục được con bò mộng này, từ đó trở đi cái tên “Hồ Lang mới bắt đầu lưu truyền rộng rãi trong đội kiểm lâm Khả Khả Tây Lý.
Ivan là người Nga, nghe nói là tội phạm hiếp dâm, trước sau đã hiếp giết năm phụ nữ, bị xử ngồi ghế điện, không biết Merkin thông qua kênh nào mà lôi được hắn về đây. Gã này còn cao hơn Lôi Ba mấy phân, thân hình cao to chẳng ra tỷ lệ nào cả, những người khác ở sau lưng đều gọi hắn là gấu ngựa Nga. Ivan mặt mày hung dữ, tính tình cũng vừa hung hăng vừa kiêu ngạo, ngày đầu tiên Hồ Lang gia nhập tổ chức, hắn ta đã nghênh ngang đòi vật Tây Mễ xuống, kết quả sau khi bị Lôi Ba dạy cho một bài học nhớ đời, hắn mới trở nên thực thà một chút.
Tây Mễ không hề nghi ngờ gì về thân phận của Ivan, tối qua người đàn bà ấy vào phòng hắn, sáng ngày đâu có lết ra nổi. Có điều y cũng lấy làm ngạc nhiên, cả một đám người thế này, Merkin làm sao đưa chúng qua biên giới Trung Quốc được chứ? Cuối cùng kết luận của y là, đám người này cũng giống bản thân y vậy, đều là nhập cảnh lậu cả.
“Bịch!” Lôi Ba lại một lần nữa vật đổ gã khổng lồ Ivan xuống, Ivan đập tay bành bạch, dường như đang nói không chơi nữa, nhưng Thiết Quân vẫn yêu cầu chúng làm lại lần nữa. Tây Mễ nheo mắt nhìn, nhớ lại những gì mình và Merkin nói mấy ngày trước. Lúc này, bên cạnh có người nói: “Đại ca, nước rửa mặt đã đun rồi.”
Tây Mễ quay đầu lại, người để cặp râu con kiến này tên là Hồ Chí Quân, ở sau lưng bị gọi là Thằng Râu, kẻ này rất tinh minh lão luyện, chuyện giao dịch buôn bán da linh dương của Hồ Lang ngày trước đều do một tay hắn xử lý cả. Tây Mễ nghiêng nghiêng đầu rồi đứng lên, nhận ra Thằng Râu đang cung kính nhìn vào vai trái mình. Y liền kéo vạt áo sơ mi lên che đi ký hiệu từng là tượng trưng của vinh dự đó đi, từ khi Merkin nói cho thủ hạ của y biết hàm nghĩa của ký hiệu, cái đám đó đều tỏ ra rất ngưỡng mộ hình xăm ấy. Tây Mễ thầm thở dài, bản thân y dẫu sao thì cũng là một thành viên của đội Nhện Xanh, không ngờ lại đọa lạc tới mức kết bè kết đảng với đám người thế này mới trớ trêu thay.

Chú thích:
(1)   Assis: tên một khu tự trị ở Brazil
(2)   Một loại trang phục truyền thống của Trung Quốc, cổ dựng, khuy kết, được biến tấu từ trang phục mà người Mãn cưỡng bức người Hán mặc trong giai đoạn đầu của triều Thanh. Tại hội nghị APEC năm 2001, các vị nguyên thủ quốc gia đã mặc loại trang phục này.
(3)   Thành phố tự trị thuộc tỉnh Narino , Colombia .
Người thổi rắn ở Putumayo


Đám Trác Mộc Cường Ba ngồi máy bay tới Quito (1) trước, vì cả bốn người không ai biết tiếng Tây Ban Nha, ở Quito khó khăn lắm mới tìm được một người bản địa vừa biết tiếng Anh lại đồng ý lên đường với bọn họ làm phiên dịch, anh ta lên là Kasal. Kasal mang hai dòng máu Âu-Ấn, dạy tiếng Anh ở một trường trung học, thu nhập không cao lắm nên rất động lòng trước điều kiện mà bọn Trác Mộc Cường Ba đưa ra, còn mấy người Trác Mộc Cường Ba tìm đến Kasal vì ngoài tiếng Tây Ban Nha ra anh ta còn tinh thông năm thứ ngôn ngữ địa phương khác, hơn nữa anh ta còn có kinh nghiệm ba lần làm phiên dịch cho các đoàn thám hiểm ngoại quốc, nhưng phiên dịch cho người Trung Quốc thì đây mới là lần đầu tiên. Vấn đề là trình độ tiếng Anh của Kasal cũng chỉ thuộc loại tầm tầm, thậm chí còn không lưu loát bằng Trương Lập, có lúc muốn dịch ra mà lực bất tòng tâm. Mặt anh ta như quả táo tròn, lúc cười da mặt đỏ hồng lên, trông chẳng giống một trung niên đã bốn mươi sáu tuổi chút nào. Lúc nói chuyện, Kasal cứ thích lắc lư lắc lư cái đầu hình quả trám của mình, miệng rộng mà cằm thì vừa ngắn vừa hẹp, cộng với hai gò má phúng phính, nhìn rất giống một con rối đáng yêu. Đứng cạnh Trác Mộc Cường Ba, trông anh ta lại càng lùn hơn. Nhìn Kasal mặc áo ngắn quần cộc, Trác Mộc Cường Ba không thể không nghĩ đến lão Tiêu bó mình như đòn bánh tét trong đội khảo sát khoa học ở Khả Khả Tây Lý. Vì công tác hải quan và an toàn hàng không của Ecuador nghiêm ngặt đến bất bình thường nên hầu hết thiết bị máy móc của họ đều phải để lại trong nước, đến Quito, họ phải chuẩn bị chọn mua vài thứ dùng cho thuận tay. Trác Mộc Cường Ba lên một danh sách cho Kasal, bảo anh ta dẫn cả bọn đi mua, Kasal vừa nhìn đã ngẩn người kinh ngạc, hóa ra danh sách ấy chi chít chằng chịt những chữ là chữ, liệt kê ra không dưới trăm loại vật dụng khác nhau, phân loại tỉ mỉ đến nỗi khiến người ta phải le lưỡi thán phục.

Kasal dẫn mấy người đi mua một số đồ sinh hoạt thiết yếu, rồi nói, các loại công cụ thì ngược lại đến Putumayo còn dễ mua hơn, chỗ đó là cảng biên giới, hơn nữa lại ở sâu trong rừng, dân địa phương đa phần đều có dụng cụ thiết yếu để đi rừng, chẳng hạn như dao săn, cung nỏ, dây an toàn, xẻng gấp, nếu quen biết, còn có thể kiếm được vũ khí như súng săn hai nòng chẳng hạn.

Từ Quito ngồi xe hơn tám tiếng đồng hồ mới tới được Putumayo, ở đây không có rừng cây rậm rạp như họ tưởng, ngược lại còn thưa thớt hơn những chỗ khác, nhà cửa màu xám, đường sá màu trắng xám, có điều hơi sơ sài, kiến trúc đại khái giống các huyện thành Trung Quốc thời kỳ đầu những năm tám mươi. Nhìn vẻ mặt thất vọng của bọn Trác Mộc Cường Ba, Kasal giải thích: “Thành phố đang phát triển, rừng rậm bị chặt đi nhiều, rồi cho lên xe chở đến một nơi rất xa để gia công xuất khẩu. Trước chỗ này không có đường đâu, hoàn toàn phải dùng thuyền độc mộc tìm đường đi trong rừng, nhưng từ khi bên Putumayo của Colombia phát hiện giếng dầu mỏ lớn, chính phủ cũng triển khai tìm kiếm các nguồn dầu ở vùng lân cận, đường sá theo đó cũng thông luôn, xe cộ tràn về, quan niệm văn hóa và lề lối sinh hoạt của dân địa phương đang biến đổi. Bây giờ chỉ có các thị trấn nhỏ có bến cảng như thế này là phát triển, cách thị trấn chưa đầy mười cây số là có thể trở về thời đại rừng rậm trước đây, nhưng thêm vài chục năm nữa, e là chỗ rừng ấy cũng chẳng còn đâu.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba thở dài gật đầu đồng ý, nói vậy chứ ai chẳng muốn sống tốt hơn, bảo vệ môi trường sinh thái là chuyện của những người đã đủ ăn đủ mặc. Bọn họ dự định nghỉ lại Putumayo một ngày, tìm chỗ trú chân trước, rồi bảo Kasal dẫn đi mua công cụ, nếu chuẩn bị được tất cả trong ngày hôm nay, sáng sớm mai là có thể xuất phát ngay. Họ đã nghiên cứu bản đồ, đều nhất trí rằng đi đường thủy tới Sain Mary là thích hợp nhất, con sông này đi thẳng tới Saint Mary , chỉ có điều dọc đường cần lên bờ dựng lều trại qua đêm mà thôi. Kasal không có ý kiến gì, anh ta nói chỉ làm phiên dịch và giúp họ mua dụng cụ chứ không định theo họ rời Putumayo , từ trước đến giờ anh ta chưa bao giờ làm hướng đạo trong rừng, mà cũng chẳng có ý định làm thử. Nói gì thì anh ta cũng có một công việc đủ rau đủ cháo, không đến nỗi phải đi liều mạng làm gì, còn khi Trác Mộc Cường Ba hỏi anh ta trong rừng nguy hiểm thế nào, Kasal chỉ nói dù gì thì thám hiểm trong dải rừng này cũng là trò đùa với tính mạng, anh ta từng nghe rất nhiều lời đồn thổi nói đã có vô số nhà thám hiểm khởi hành từ Putumayo  đi dọc theo dòng nước vào khu rừng ấy rồi không bao giờ trở ra được nữa.

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba không băn khoăn gì nhiều, chỉ cần kiếm được công cụ thích hợp, bọn họ có lòng tin vượt qua được dải rừng này, từ đầu đã không có kế hoạch dẫn theo hướng đạo rồi, bởi vì nếu có hướng đạo thì chẳng còn thách thức gì nữa cả. Kasal đưa bốn người đến nghỉ tại nhà một người bạn ở Putumayo, một người đàn ông Anh điêng độc thân tên là Huermen, khoảng chừng trên dưới ba mươi tuổi. Cũng không hiểu làm sao mà Kasal quen biết với ai nữa, hai người vừa gặp mặt đã nồng nhiệt ôm chầm lấy nhau, rồi dùng tiếng Quechua (2) nói chuyện. Sau đó anh ta bảo với mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, mỗi người chỉ cần trả ba mươi đô la Mỹ là có được chỗ ngủ một đêm thoải mái như ở nhà rồi. Trác Mộc Cường Ba nhìn là biết, nhất đinh là từ kiểu mua bán của bọn gã, Kasal đã coi mấy người bọn gã là dê béo để làm thịt, mà dê béo thì tất nhiên không nên để sổng sang ruộng nhà kẻ khác được rồi.

Thu xếp xong chỗ ngủ, Trác Mộc Cường Ba lập tức bảo Kasal dẫn cả bọn đi mua các công cụ còn chưa mua được. Kasal liền giới thiệu ngay Huermen, bảo anh ta cũng nói được một ít tiếng Anh. Tuy Trác Mộc Cường Ba biết trình độ tiếng Anh của Huermen chỉ sợ cũng không hơn được Kasal là mấy, nhưng thời gian gấp gáp, vậy là gã với Ba Tang thành một nhóm đi cùng Kasal, Trương Lập và Nhạc Dương theo Huermen chia nhau mua các thứ còn lại, sau khi hẹn rõ thời gian và tuyến đường, liền xuất phát đi mua sắm.

Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba phụ trách tìm mua các trang bị leo núi và đi xuyên rừng, chẳng hạn như dây thừng an toàn, đai an toàn, vòng số tám, dùi đục đá, ba lô, xẻng công binh, dây ni lông, còn bọn Trương Lập, Nhạc Dương thì phụ trách mua vũ khí, đồ dùng nấu ăn dã ngoại, các vật dụng cấp cứu và thuốc. Putumayo không lớn, nhưng bọn Trương Lập muốn mua vũ khí thì phải ra ngoại ô mới có, còn Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang ở trong thành phố. Tuy Ba Tang không nói nhiều, nhưng anh ta có một ưu điểm, đó là không bao giờ gây chuyện, tựa như một con ưng cô độc ở trên cao nhìn tất cả với ánh mắt khinh thường, không thèm bắt chuyện hay có dính líu gì với những người xung quanh cả. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba mua sắm rất thuận lợi, vì chỗ này là điểm dừng chân của nhiều nhà thám hiểm, nên cũng có cả cửa hàng chuyên bán vật dụng đi rừng, hai người nhét các thứ vừa mua được vào ba lô leo núi rồi trở về. Kasal vừa đi vừa giới thiệu các tập tục của người Anh điêng và phong cảnh địa phương, tuy chỉ lắp ba lắp bắp, ngữ pháp cũng sai be sai bét, nhưng cũng đủ để bọn Trác Mộc Cường Ba nghe hiểu được đại khái.

Trên đường, Kasal đề nghị dừng chân nghỉ ngơi tại một quán nước đá, Trác Mộc Cường Ba không muốn chút nào, nhưng hai người phải vác hành lý của cả bốn người, quả thực cũng hơi tốn sức, thời tiết vùng này thật là oi bức. Ở quốc gia xích đạo Ecuador này, quán nước đá ở khắp mọi nơi, rất được giới trẻ ưa thích, trong quán không khí mát mẻ sảng khoái, trốn trong quán nước  đá tránh cái nóng mùa hè đã trở thành mốt thời thượng. Ba người vào quán, Kasal gọi đồ uống lạnh, rồi nói với họ, thời đại biến đổi, giờ thì cả các bộ lạc ở sâu trong rừng cũng có các thức uống nổi tiếng như Coca Cola, Pepsi để uống. Trác Mộc Cường Ba thích cà phê đá pha Pepsi ở đây, còn Ba Tang thì thích loại mocktail phối hợp từ nhiều loại hoa quả như thanh long, cà chua, quả cà vàng, chuối tiêu, uống sảng khoái dễ chịu, qua miệng rồi vẫn để lại vị hương.

Họ nghỉ ngơi một lát, đang chuẩn bị đứng lên thì đột nhiên trong quán vang lên tiếng ầm ĩ, chỉ thấy bảy tám người đàn ông cao lớn đẩy một cô gái người Anh điêng vào. Cô gái mặc áo cổ rộng bằng vải mỏng màu xanh, bên dưới mặc váy xòa, đi dép sandal, thân hình thướt tha yểu điệu, toát lên một vẻ đẹp mang khí chất quý tộc. Cô cao giọng hét lên mấy câu gì đó, có vẻ như cực kỳ bất mãn với mấy người đàn ông, mấy gã cao lớn đó đều ở trần, khắp người vẽ đầy hình vẽ kỳ quái, có làn da màu đồng cổ và tướng mạo kiểu Trung Á như người Ấn Độ. Kasal thì thầm nói: “Là người Anh điêng trong rừng hoặc một bộ tộc nào đó, tốt nhất là đừng có dây vào.” Anh ta mới nói được một nửa, đã trông thấy Trác Mộc Cường Ba bước tới chỗ đó rồi.

Người cao lớn lực lưỡng nhất trong đám Anh điêng đang đứng đối diện với cô gái, cãi lộn chuyện gì đó với cô, vung tay lên định đánh xuống, nhưng tay vừa giơ lên đã bị một gọng kìm giữ chặt lại. Người kia quay đầu lại, liền thấy Trác Mộc Cường Ba đang đeo cái ba lô leo núi to tướng sau lưng, tay phải giữ chặt cổ tay mình. Trác Mộc Cường Ba cũng lấy làm ngạc nhiên, thì ra đám người Anh điêng này còn vẽ cả các hình thù giống như totem gì đó lên mặt nữa. Dưới mắt gã đàn ông cao lớn này có hai hình trăng khuyết màu đỏ, giống như hai cái răng nanh nhe ra nơi khóe miệng vậy, còn giữa trán hắn là hình vẽ tượng trưng của đầu hổ châu Mỹ, trông vằn vằn vện vện quái dị vô cùng. Những người khác cũng quay đầu lại, hình vẽ trên mặt không ai giống ai, e là có phân biệt địa vị cao thấp. Người đàn ông bị Trác Mộc Cường Ba giữ tay kia líu la líu lô mấy tiếng, song Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn chẳng hiểu gì, Kasal vội chạy đến lắp bắp phiên dịch: “Hắn….hắn…hắn, hỏi anh…muốn làm gì thế!”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Bảo với hắn, đàn ông không được bắt nạt phụ nữ!” Kasal lại run rẩy lắp bắp phiên dịch lại.

Người đàn ông kia nhe răng cười, đột nhiên dồn sức vào tay, giật mạnh cổ tay về, vừa vung tay vừa nói gì đó, lần này thì cả Trác Mộc Cường Ba cũng nhận ra là hắn muốn đọ sức với gã. Ba Tang đứng bên cạnh lạnh lùng quan sát, nhìn chòng chọc vào những người Anh điêng còn lại, đề phòng đối phương đột ngột giở trò.

Kasal há miệng ra mấy lần nhưng mãi vẫn không dịch ra nổi, rõ ràng là không biết nên chọn từ ngữ thế nào cho thích hợp, lúc này cô gái người Anh điêng kia chợt lên tiếng: “Cám ơn anh, anh dám đọ sức với anh ấy cơ à?” Không ngờ cô gái này nói được tiếng Anh kiểu Mỹ hết sức nhuần nhuyễn, nhưng trong ngôn từ lại rõ ràng là bênh vực người đàn ông Anh điêng kia hơn.

Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, tỏ vẻ ai sợ ai chứ, đám đàn ông Anh điêng kia đồng thanh phát ra những tiếng kêu kỳ quái, tựa như là đang cười, lại giống như đang gầm ghè gào thét, những khách khác trong quán thấy tình hình không ổn, sớm đã lần lượt bỏ đi. Trác Mộc Cường Ba vốn tưởng phải hỗn chiến một trận, không ngờ người Anh điêng kia lại gạt hết ly cốc trên quầy bar sang một bên, rồi đặt tay lên đó, thì ra là muốn đấu vật tay. Trác Mộc Cường Ba chẳng hề sợ hãi, đi thẳng tới quầy bar, bàn tay hai người nắm chặt lấy nhau. Lúc nãy khi Trác Mộc Cường Ba giữ tay người Anh điêng này lại, đã phán đoán xem thực lực hắn thế nào rồi, ai ngờ vừa vào cuộc gã đã nhận ra sức mạnh của đối phương hơn xa so với tưởng tượng của mình. Vì đánh giá sai lầm, Trác Mộc Cường Ba ban đầu không dùng hết toàn lực nên lập tức rơi vào thế yếu, cánh tay bị đè nghiêng một góc bốn mươi lăm độ, gắng gượng cầm cự một lúc, rồi cuối cùng đành chịu thua. Đám người Anh điêng lại rú lên những tiếng kỳ quái, người đàn ông kia chầm chậm lắc lắc đầu, Trác Mộc Cường Ba chỉ cười khẩy một tiếng, đột nhiên đặt tay trái lên quầy bar, người Anh điêng lại líu la líu lô mồm năm miệng mười thảo luận một lúc. Người đàn ông kia hơi do dự, rồi cũng giơ tay trái ra, lần này Trác Mộc Cường Ba đã chiếm phần thắng tuyệt đối, vì những người luyện tập đặc biệt đối với cả hai tay như gã thực sự rất ít, mặc cho người Anh điêng kia có ra sức thế nào, cánh tay Trác Mộc Cường Ba vẫn cứng như trụ sắt, không hề nhúc nhích du di dù chỉ một phân. Người kia dường như cũng đã hiểu sự thực thì Trác Mộc Cường Ba khỏe hơn nhiều, vừa nãy chẳng qua là ra tay bất ngờ nên mới thắng được gã mà thôi, vậy là hắn liền buông tay chịu thua luôn. Sau đó người Anh điêng chìa tay ra bắt tay Trác Mộc Cường Ba, vỗ vỗ lên ngực mình, rồi lại vỗ vỗ lên vai Trác Mộc Cường Ba, nói líu lô gì đó, Trác Mộc Cường Ba thấy thái độ đối phương trước sau biến chuyển nhanh như vậy thì lấy làm ngạc nhiên. Chỉ nghe cô gái kia nói: “Anh trai tôi bảo, bộ tộc Yucatec chúng tôi kính trọng nhất là những người đàn ông có sức mạnh, anh ấy là dũng sĩ mạnh nhất trong bộ tộc chúng tôi rồi, nhưng không ngờ anh lại còn mạnh hơn nữa, anh ấy rất khâm phục anh.” Kasal nghe mà thở phào một hơi nhẹ nhõm.

“Anh trai cô!” Trác Mộc Cường Ba ngớ người ra, cô gái kia lại nhoẻn miệng cười tươi, nói tiếp: “Ừm, trong gia tộc có vài chuyện, mà chúng tôi thì bất đồng ý kiến. Có điều cũng vẫn phải cảm ơn anh, không có anh giữ anh ấy lại thì chắc chắn là tôi ăn cái tát đó rồi.”

Trác Mộc Cường Ba đến giờ mới biết chỉ là hiểu lầm, gã đưa mắt nhìn Ba Tang, vẻ mặt anh ta như thể muốn nói ai bảo thích lo chuyện của người khác. Cô gái kia lại hỏi: “Anh trai tôi nói, các anh muốn vào rừng thám hiểm hả?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Phải, định là vào rừng du lịch một chuyến”
Cô gái lại nói: “Tại sao không đi Brazil ? Rừng ở đó lớn hơn ở đây nhiều, lại an toàn, có cả hướng dẫn viên chuyên nghiệp nữa, du lịch đã được quy hoạch thành tài nguyên cả rồi.” Thấy Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ khó xử, cô liền mỉm cười nói: “Tôi tiện miệng thì hỏi vậy thôi, anh trai tôi muốn nói với các anh, nếu thám hiểm ở đây, có thể đi về phía Tây, ngược dòng mà tiến, còn đi phía Nam, phía Bắc, phía Đông đều cực kỳ nguy hiểm…” Theo như cô gái tự giới thiệu, cô tên là Babatu, còn anh trai cô gọi là Gấu Mật Nanh Sắc, Trác Mộc Cường Ba hiếm thấy người Anh điêng nào vừa nhiệt tình lại vừa biết tiếng Anh thế này, có Babatu làm phiên dịch, họ lại nói chuyện thêm một lúc nữa. Ba Tang phải lên tiếng nhắc nhở thời gian không còn sớm nữa, Trác Mộc Cường Ba mới tạm biệt mấy người Anh điêng. Babatu cười nói: “Nếu có cơ hội, mời anh đến bộ lạc của chúng tôi.” Nói xong, cô như nghĩ ra chuyện gì đó, hai má đỏ bừng lên.

Bên ngoài quán nước là khu phố xá ồn ào, không biết từ lúc nào đã có một đám đông vây kín xung quanh bãi đất trống bên cạnh, dường như đang xem cái gì đó. Tiếng kèn cao vút vang lên giữa đám người, Ba Tang – trái ngược hẳn với thái độ thờ ơ thường ngày, xăm xăm đi tới chỗ đám đông, Trác Mộc Cường Ba cũng đành phải chen vào theo anh ta. Chỉ thấy giữa đám đông là một người điều khiển rắn, trùm khăn che kín mặt như người Ả rập, không mặc phục sức của người Ả rập, chỉ mặc áo kẻ cộc tay bình thường, trước mặt để một cái giỏ tre, cùng với tiếng kèn cao vút chói tai, một cái đầu rắn từ từ dựng lên, vặn vẹo hình thể làm đủ các động tác khác nhau. Một con khỉ ngồi chồm hổm trên vai người kia, tròn mắt tò mò quan sát đủ hạng người đứng vây quanh.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn con vật, hóa ra là một con rắn san hô đuôi to khoang đỏ cực độc. Tuyến độc của loài rắn này không nhô hẳn ra ngoài, đầu và đuôi đều hình con thoi tù, thoạt nhìn thì có vẻ như không có độc, thực chất thì cực kỳ nguy hiểm, chính là một trong mấy loại rắn độc mà bọn gã phải chú ý trong chuyến đi xuyên rừng này. Cùng tiếng kèn của người điều khiển, con rắn san hô ngẩng đầu vẩy đuôi, lắc lư thân mình, làm ra vẻ sắp tấn công, Trác Mộc Cường Ba không khỏi toát mồ hôi lạnh thay cho quan khách đứng vây xung quanh, loại rắn này lạnh lùng hiếu chiến, cực dễ kích động, tốc độ nhanh như tia chớp, không may bị nó cắn phải, chắc chưa kịp đến bệnh viện thì đã mất mạng trên đường rồi chứ chẳng chơi.

Người thổi rắn kia thổi một lúc, rồi đột nhiên đặt chiến kèn xuống, lấy ra một con chuột bạch béo ục ịch, có vẻ như muốn cho con rắn ăn. Con chuột bạch còn to hơn cả con rắn, nhưng gặp phải thiên địch liền lập tức lộ vẻ kinh hoàng, đuôi nó bị người thổi rắn giữ chặt, bốn chân ôm đầu co quắp lại một chỗ, con rắn san hô đỏ “xì” một tiếng, vụt tới như một tia chớp đỏ ngoạm lên lưng con chuột. Người thổi rắn không cho nó nuốt con chuột luôn, mà bấm vào chỗ bảy tấc (3) trên lưng nó, cẩn thận gỡ con rắn ra, rồi ném con chuột xuống dưới đất, chỉ thấy con chuột giật giật hai cái , chưa đầy năm giây sau đã rũ xuống bất động rồi chết. Mọi người ồ lên kinh ngạc, cảm thấy loại rắn này nguy hiểm dường nào, nhưng người thổi rắn chỉ cười “ha ha”, không ngờ lại đưa tay lại gần con rắn, cả Trác Mộc Cường Ba cũng phải toát mồ hôi lạnh thay cho y, nhưng con rắn kia như có linh tính, không cắn chủ nhân, mà luồn theo ngón tay người thổi rắn trườn lên cánh tay, rồi quấn lên đến tận vai, sau đó hôn lên tấm khăn che mặt của y như hôn người tình. Người xem vẫn còn chưa hết xuýt xoa đã lại được dịp vỗ tay nhiệt liệt. Trác Mộc Cường Ba cũng thầm kinh ngạc, người chơi với rắn thì gã cũng gặp nhiều rồi, nhưng huấn luyện rắn đến trình độ này thì thật chưa thấy bao giờ, người này nhất định là có bí quyết gì đặc biệt lắm nên mới dám chơi trò nguy hiểm thế này.

Lúc Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang ra đến nơi, màn biểu diễn với rắn này đã đi đến hồi kết, mới xem chưa được năm phút, con khỉ trên vai người kia đã nhảy phốc xuống, bắt chước chủ nhân chìa tay ra, con rắn san hô đỏ cũng trườn theo cánh tay y lên mình con khỉ rồi quấn xung quanh cổ nó, ngẩng đầu nghễu nghện trên đỉnh đầu bạn diễn. Con khỉ như đội thêm một cái mũ rắn, thản nhiên bê cái khay đồng dưới đất lên, bắt đầu đi thu tiền của người xem. Mọi người vừa kinh sợ, cho tiền cũng sợ mà không cho tiền cũng sợ. Ánh mắt lạnh lẽo của con rắn san hô làm ai cũng lạnh cả sống lưng, lúc đến chỗ mấy người không muốn móc tiền ra, con rắn lại thò thụt cái lưỡi, phát ra những tiếng “xì xì” uy hiếp, cho tới khi nào họ chịu moi tiền ra mới thôi. Chỉ một loáng, con khỉ đã đi tới trước mặt bọn Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba cho tay vào túi, mắt nhìn con rắn, nhưng vẫn liếc sang người thổi rắn. Đôi mắt y lóe lên một nụ cười thâm hiểm, phảng phất như đã biết Trác Mộc Cường Ba đang nhìn mình, chầm chậm vạch tấm che mặt xuống. Trác Mộc Cường Ba ngay lập tức đờ người ra, đó là mặt người hay sao, chỗ nào cũng đầy những vết rỗ lồi lõm bị đủ thứ sẹo lòi cả thịt che lấp; mí mắt bên dưới xệ hẳn xuống, tròng mắt màu xanh lục trợn tròn lên như muốn rơi ra ngoài, cặp môi đồng màu với các vết sẹo, bị kéo cho méo xệch méo xoạc, không thể khép hẳn lại được, để lộ ra hàm răng cọc cạch như răng cưa. Người thổi rắn nở một nụ cười thâm hiểm đáng sợ, cổ họng rít lên một tiếng như huýt sáo, đúng vào khoảnh khắc Trác Mộc Cường Ba ngẩn ra đó, con rắn đang cuộn tròn trên đỉnh đầu con khỉ đột nhiên bật vù lên, lao thẳng vào cổ họng gã. Trong đám người lập tức vang lên tiếng kêu kinh hãi.

Tưởng chừng như Trác Mộc Cường Ba không thể tránh được, bỗng gã ngửa người ra sau, lợi dụng sức nặng của cái balo leo núi đổ vật người ra đất, Ba Tang đứng bên cạnh gã cũng nhanh nhẹn ra tay bắt gọn con rắn san hô đỏ, rồi lập tức ném về phía người điều khiển rắn. Con khỉ kia ném cái khau đồng đi, nhấp nhô hai ba cái đã nhảy trở lại trên vai chủ nhân, nhe răng với bọn Trác Mộc Cường Ba, phát ra những tiếng khẹc khẹc uy hiếp. Người thổi rắn cười khùng khục phát ra âm thanh quái đản như loài ma quỷ: “Các ngươi không thoát nổi đâu.” Trác Mộc Cương Ba ngớ người ra, Ba Tang đứng bên cạnh nói: “Tiếng Pháp, bảo chúng ta không thoát nổi đâu.”

Trong đám đông lại có thêm mấy tên cao lớn có vẻ như không thân thiện lắm xấn xổ tới, không khí lập tức trở nên căng thẳng, nhiều người thấy tình hình không ổn liền lảng đi ngay để tránh chuyện thị phi. Kasal chưa bao giờ gặp phải chuyện gì như vậy, hoàn toàn sững sờ không biết phải xử lý thế nào.

Trác Mộc Cường Ba quát hỏi: “Kasal, hỏi cho rõ xem, rốt cuộc là chuyện gì vậy? Chúng tôi đâu có đến sinh sự chứ.” Kasal ấp úng mãi, còn chưa mở miệng đã bị người nào đó tát cho một bạt tai ngã lăn quay ra đường, ôm mặt không bò dậy nổi, xem ra không còn chút khả năng thương lượng nào nữa rồi.

Giờ đây Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đã trải qua nhiều lần khảo nghiệm khắc nghiệt, ngoại trừ bộ đội đặc chủng được huấn luyện đặc biệt ra, quân nhân bình thường khó lòng là đối thủ của gã. Trác Mộc Cường Ba phi thân tung ra một cước, đá tên lưu manh gần nhất bồ nhào xuống đất, kế đó xoay ngoắt người lại, gậy sắt của một tên cạnh đó đập thẳng vào balo leo núi của gã như đập phải bị bông, còn Trác Mộc Cường Ba thì đã đấm ra một quyền, đánh bay cả răng cửa tên kia. Ba Tang cũng không phải ngọn đèn cạn dầu, ngày xưa khi còn ở quân đội Nhện Xanh anh ta đã từng được huấn luyện đủ các kỹ thuật cận chiến, gần đây lại trải qua huận luyện đặc biệt nên ra tay càng cay độc hơn gấp bội, hoàn toàn không chút nương tình, tên nào bị anh ta đánh trúng đừng hòng bò dậy được ngay. Người thổi rắn kia lại đeo tấm mạng che mặt lên, tay chống cằm đứng bên cạnh hứng thú quan sát, như thể đang xem thi đấu thể thao, dường như tất cả những chuyện này hoàn toàn không hề liên quan gì đến y vậy. Mỗi khi có màn đấm đá nào đặc sắc, con khỉ kia lại còn vỗ tay cười khèng khẹc, kêu ầm ĩ.

Trác Mộc Cường ba và Ba Tang đánh ngã bảy tám tên lưu manh, phát hiện ra tình hình càng lúc càng tệ, một tên nhân lúc bọn gã không để ý, đã chạy ra xa gọi thêm mười tên cao lớn điệu bộ hung ác, tên nào cũng cầm xích sắt gậy sắt, khí thế hùng hùng hổ hổ lao tới. Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang mỗi người một bên xốc nách Kasal lên, hét lớn: “Chạy thôi!” Trước khi lao đi, Trác Mộc Cường ba còn quay lại nhìn người thổi rắn kia một cái, chỉ thấy y thờ ơ hờ hững, nhưng ánh mắt toát lên một nụ cười thần bí, cơ hồ như muốn nói, xem chúng mày chạy được bao xa.

Đám lưu manh kia thoáng cái đã đuổi kịp, lúc này mấy người Anh điêng trong quán giải khát cũng kéo nhau đi ra thì trông thấy Trác Mộc Cường Ba luôn, vừa chào hỏi xong, đã phát hiện ngay tình hình không ổn, người Anh điêng liền chia nhau giúp bọ Trác Mộc Cường Ba đánh lại lũ lưu manh. Còn Nanh sắc thì để ý thấy con rắn của người thổi rắn kia, liền bước tới, lớn tiếng chất vấn gì đó. Babatu giải thích rằng rắn san hô đỏ là thần vật của bộ tộc bọn họ, người khác tuyệt đối không thể xâm phạm. Đột nhiên Nanh sắc kêu to một tiếng, Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình, đoán chắc là anh ta bị con rắn kia cắn rồi, đám người Anh điêng liền nổi cơn tam bành, nhoáng cái đã hạ gục bọn lưu manh, rồi kéo Nanh sắc về, nhưng dường như họ có một nỗi sợ khó hiểu đồi với người thổi rắn kia, không dám lại gần. Đánh nhau một trận đến trời đất mù mịt, không biết ai rống lên một tiếng, người Anh điêng liền nhấc Nanh sắc lên hùng hục bỏ chạy.

Ba người bọn Trác Mộc Cường Ba cũng chạy theo mấy người Anh điêng một đoạn, trong lúc hỗn loạn không còn thấy đám người kia đuổi theo nữa. Nhưng người Anh điêng không dừng lại, họ vác Nanh sắc chạy theo hướng rời khỏi Putumayo , Babatu thấp thỏm lo lắng nói: “Anh trai tôi bị rồng đỏ cắn rồi, phải trở về chữa trị ngay lập tức, thôi, chúng tôi đi trước đây.”
Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra điều gì đó, liền nói: “Đợi một chút” Gã lấy trong túi ra một tuyp thuốc, đoạn nói: “Đây là thuốc và gel trị rắn cắn, thuốc mỗi lần một viên, gel xoa bên ngoài vết thương, có thể làm chậm lại thời gian nọc rắn phát tác.” Thứ gel này là đồ đặc chế của bộ đội đặc chủng, tuy không có hiệu quả giải độc như huyết thanh, nhưng lại có tác dụng làm chậm thời gian phát tác của tất cả các loại nọc rắn, có thể coi là thuốc giữ mạng đối với người cần cấp cứu. Babatu nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt cảm kích, không nói lời nào đã đi luôn. Kasal đứng đó liền bảo không có chuyện gì đâu, họ sẽ tự có thuốc giải độc thôi.
 Chú thích:
( 1) Thủ đô của Ecudor
( 2) Ngôn ngữ của người Anh điêng ở Nam Mỹ, được sử dụng ở Peru , Ecuador , Bolivia , Chile và Argentina
(3) Chỗ bảy tấc tính từ đầu rắn, là điểm yếu nhất của loài rắn
 
Tiến vào rừng sâu
Ba người, khó khăn lắm mới trở về được chỗ Huermen, mệt rũ. Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang thảo luận một lúc, nhưng vẫn không có đầu mối gì, hai người không sao hiểu nổi, tự dưng vô duyên vô cớ sao lại xung đột với người địa phương được chứ? Không biết có phải đám người ấy nhằm vào những người Anh điêng kia không, nhưng nếu đúng là vậy, tại sao chúng không đuổi theo nữa?
Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang tạm thời gác chuyện vừa xảy ra sang một bên, chia các công cụ vừa mua được thành bốn phần, chưa xong thì đã thấy bọn Trương Lập nhếch nhác trở về. Trương Lập và Nhạc Dương mồ hôi đầm đìa, miệng thở hồng hộc, cả Huermen cũng đẫm mồ hôi, bụi đất trên mặt hòa lẫn cùng mồ hôi chay qua trông nửa trắng nửa đen. Ba người vừa vào nhà, Nhạc Dương đã đóng chặt cửa lại, thở phào một hơi nói: “Hình như không đuổi theo thì phải.”
Trương Lập cởi cái bao to tướng trên lưng ra, chống hai tay xuống đất thở hổn hển, nhất thời không nói được tiếng nào. Trác Mộc Cường Ba vội hỏi: “Bị làm sao vậy?”
Ba người anh một câu, tôi một câu, bô lô ba la nói một hồi, cũng phải tốn khá nhiều công sức mới ghép lại thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nói trắng ra thì họ cũng giống hệt như Trác Mộc Cường Ba, chẳng hiểu đầu đuôi gì đã bị một đám người không biết thân phận tấn công, bao vây, ẩu đả. “Sao lại thế được nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba càng nghĩ càng khó hiểu, liền chất vấn Trương Lập: “Các anh không gây chuyện gì với người ta, làm sao lại bị người ta truy đuổi? Nhất định là lúc mua bán vũ khí có tranh chấp với người ta rồi! Có phải là vậy không hả?”
Trương Lập kêu oan rầm trời, Huermen là tay già đời sành sỏi nên họ mua bán rất thuận lợi. Trên đường về họ mới gặp đám người kia, bọn chúng chẳng chào chẳng hỏi gì đã xông lên đánh luôn, bọn họ suy đoán không biết có phải là đối phương nhìn lầm người hay không. Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Lẽ nào mua vũ khí hơi quá tay nên giữa đường có người chặn cướp?” Nghĩ  đoạn, gã liền nói: “Tạm thời không lo chuyện này nữa, mua được vũ khí gì rồi, mở ra tôi xem xem nào.”
Trương Lập giật ba lô ra, dao bầu, gậy sắt, xích, còn có cả găng tay bọc sắt nữa. Trác Mộc Cường Ba lấy làm kinh ngạc, hỏi: “Đây là cái gì vậy? Chúng ta sắp vào rừng chứ có phải lên phố đánh nhau đâu?”
Trương Lập vội nói: “Nhầm rồi nhầm rồi, đây là chiến lợi phẩm mới thu được.” Thì ra tình hình của anh ta và Nhạc Dương gần như giống hệt với Trác Mộc Cường Ba, trước tiên là năm sáu tên không phân phải trái gì đã hùng hổ lao vào đánh một trận, bị Trương Lập và Nhạc Dương đánh cho ngã nháo nhào, hai người tự nhiên không thể phí sức đánh một trận, vậy là liền tịch thu hết vũ khí của đối phương. Chẳng ngờ đột nhiên lại ào tới thêm hai ba chục tên khác, kết quả là bọn Trương Lập chỉ còn nước bỏ chạy tháo thân mà thôi.
Trương Lập mở một bao khác ra, lần này mới là các thứ họ cần như thuốc cấp cứu, dao đi săn, cung nỏ… tất cả đều đầy đủ, chỉ tiếc là không mua được súng ống gì, chẳng rõ có phải tại Huermen không có cửa hay không nữa. Nhạc Dương cũng mở bao ra, bên trong đầy chặt các thứ công cụ khác nhau. Trác Mộc Cường Ba nói: “Lập tức phân loại để có thể xuất phát bất cứ lúc nào.” Còn chưa xuất phát mà đã bị tấn công không rõ lý do, Trác Mộc Cường Ba thấy rất không ổn, đặc biệt là tên thổi rắn ven đường kia, khiến gã gai lạnh hết cả người, cảm giác đó làm gã hết sức bất an.

Nhạc Dương không hiểu hỏi: “Sao mà gấp vậy? Chẳng lẽ bọn chúng còn đuổi đến tận đây được chắc?”

Ba Tang lạnh lùng kể lại chuyện vừa gặp phải, cuối cùng nói: “Lẽ nào cậu cho rằng đây chỉ là chuyện trùng hợp thông thường? Chắc chắn là hành động có kế hoạch rồi, tuy là còn chưa rõ mục đích, nhưng nếu chúng ta càng phản kháng, chỉ sợ hành động lần này sẽ tiếp diễn ở mức độ cao hơn đó.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu đồng ý, gã cũng nghĩ như vậy. Trương  Lập nói: “Liệu chuyện này có nằm trong nội dung khảo hạch không nhỉ?”
Nhạc Dương lập tức phản đối: “Không thể nào, chúng đều là người ở đây, hơn nữa còn là bọn lưu manh côn đồ bản địa.” Anh ta đưa mắt nhìn Huermen một cái, rồi nói tiếp: “Với cả lúc tấn công, chúng đã dùng hết sức, nói như các anh, thì là muốn dồn chúng ta vào chỗ chết. Khảo hạch đâu cần phải đem tính mạng ra đùa như vậy chứ, chúng làm tôi có cảm giác, giống như là…”

Ba người bọn Trác Mộc Cường Ba cùng dừng việc trên tay lại ngước nhìn Nhạc Dương, chỉ nghe anh ta nói tiếp: “Có kẻ nào đó muốn ngăn không cho chúng ta vào rừng.”

Nghe Nhạc Dương nói xong, những người còn lại đều cho rằng đây là khả năng duy nhất, nhưng là ai mới được chứ? Cả bốn người dường như đều không hề hay biết. Trác Mộc Cường Ba đột nhiên nhớ lại lời cảnh báo của Lữ Cánh Nam , trong lòng máy động: “Lẽ nào là bọn chúng? Nhưng tại sao chúng lại làm vậy nhỉ?”

Huermen từ lúc về vẫn mặt mũi xanh lè, không nói một câu, có vẻ đang suy nghĩ gì đó, mà hình như càng nghĩ càng sợ. Kasal thấy bạn như thế, liền cất tiếng hỏi: “Sao hả? Anh biết đám người ấy à?”

Huermen sợ sệt nói: “Không, chỉ là… chỉ là tôi cảm thấy trong đám người đso có mấy tên, hình như là người của Basaka.”
Kasal phiên dịch lại cho mấy người đang sắp xếp đồ đạc. Nhạc Dương tò mò thắc mắc: “Basaka là ai?”
Huermen đáp: “Là phần tử nổi loạn ở khu vực này, bọn chúng chuyên gây rối phá hoại quấy rối trị an, đối lập với chính phủ. Nghe nói, hắn có liên hệ với vua độc bên Colombia , hình như là chính là lực lượng vũ trang từ Colombia xâm nhập vào hay sao đó. Nhưng mà, bọn chúng sao lại… không thể nào chứ?” Anh ta ngẩng đầu lên, mắt nhìn chòng chọc vào bốn người, hiển nhiên là đang hoài nghi mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba có dây dưa gì với vua độc nào đó.
“Vua độc!” Trương Lập phì cười nói: “Đùa cái trò gì vậy? Chúng tôi lần đầu tiên đến đất nước này, đừng nói là vua độc gì gì đấy, mà cả kiến độc còn chưa thấy con nào nữa, bọn họ…” Mới nói được một nửa, đột nhiên anh ta ngoảnh sang nhìn Trác Mộc Cường Ba, thầm nhủ không biết Cường Ba thiếu gia có qua lại gì với tên vua độc kia hay không.
Trác Mộc Cường Ba vừa chỉnh lại vạt áo vừa nói: “Không thể nào, xưa nay tôi không bao giờ làm chuyện gì phạm pháp, cũng không qua lại với những kẻ phạm pháp bao giờ, phạm vi kinh doanh của tôi cũng chưa vươn được đến châu Mỹ. Được rồi, chia đồ xong chưa hả? Vậy thì mỗi người một bao, tự chuẩn bị ba lô leo núi đi.”
Nhạc Dương vừa sắp xếp ba lô vừa hỏi: “Có cần báo cáo chuyện này về tổng bộ không?”
Cả ba người Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang, Trương Lập cùng lúc trợn mắt lên nhìn anh ta, rồi Trương Lập nói: “Vừa vào rừng chưa đến một ngày đã liên hệ với tổng bộ, vậy có hơi quá…” Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang cũng gật đầu. Ngay từ đầu tổ của họ đã ở thế yếu hơn, lần này vào rừng gặp phải chút chuyện nhỏ xíu cũng đi báo cáo ngay với tổng bộ, dù sao cũng thấy thật chẳng hay ho gì, bọn họ còn chưa hoàn toàn thể hiện thực lực của mình cơ mà.
Nhạc Dương nhún vai nói: “Tôi chỉ thấy sự việc quá bất ngờ, mà lại chẳng có ai theo dõi chúng ta, trong hoàn cảnh hoàn toàn xa lạ, vừa mới đặt chân tới nơi đã bị người ta đuổi chém rồi, thế thì ai mà hiểu nổi chứ?”
Hình như Huermen nghe thấy gì đó, liền ghé mắt nhìn ra ngoài qua khe cửa, sau đó kinh ngạc kêu lên: “Basaka! Đích thân Basaka dẫn người đến rồi! Các anh…” Gương mặt anh ta đầy vẻ kinh hoảng: “Các anh không thể ở đây nữa, đi nhanh lên! Nhảy cửa sổ phía sau mà đi, chần chừ là không kịp nữa đâu!”
“Làm thế sao được?” Trác Mộc Cường Ba lấy làm nghi hoặc, cùng Trương Lập ghé mắt nhìn thử ra ngoài, thấy một người cao lớn hung dữ dẫn theo ba bốn chục tên, tay cầm đủ thứ hung khí sát khí đằng đằng chạy tới, rõ ràng là Trương Lập bị bọn chúng theo dõi tới đây, sau đó thông báo cho đồng bọn đến báo thù. Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập tức khắc xoay người lại, mỗi người xách một cái ba lô to tướng, thúc giục Ba Tang và Nhạc Dương vẫn đang kiểm tra lại đồ đạc: “Không kịp nữa đâu, đi nhanh lên!” Dứt lời liền đẩy nửa, nhảy ra ngoài trước…

Trên dòng sông Putumayo phẳng lặng, một con thuyền gỗ hình thoi nhẹ nhàng lướt trên mặt nước, sông Amazon biến đổi khôn lường, có lúc lòng sông rộng đến mấy trăm mét, sâu mấy chục mét, nhưng cũng có đoạn hẹp lại chỉ còn vài mét chiều ngang, sâu đến bắp vế, ngoài loại thuyền hình thoi cải tiến từ thuyền độc mộc này ra, các loại thuyền khác đều rất khó sử dụng. Trên thuyền bắc ngang ba thanh gỗ như ba chiếc ghế băng chia thuyền thành bốn phần, phía trước có hai phần tử vũ trang, cầm súng cẩn thận quan sát lòng sông và tình hình xung quanh, đằng sau có bốn tay chèo nhịp nhàng gạt nước, giữa thuyền có hai người ngồi. Merkin đang phì phèo điếu thuốc, bên cạnh y là một gương mặt nhăn nheo như trái khổ qua, không phải ai khác – mà chính là Soeres, người thổi rắn ở Putumayo, con khỉ kia mặt một cái áo gi lê, đứng trên vai Soares, nhìn ngó quanh quất.
“Thế nào? Có hài lòng với biểu hiện của chúng không?” Merkin cười cười hỏi.
Soares bất mãn nói: “Không được, hoàn toàn không có tính cảnh giác, đợi đến khi nguy hiểm xảy ra rồi mới có phản ứng, nếu gặp phải những chuyện không thể tránh né, vậy thì chết là cái chắc rồi.” Thấy sắc mặt Merkin có vẻ không được tốt lắm, y lại an ủi mấy câu: “Có điều kỹ thuật chiến đấu thì không tệ, cũng sắp ngang ngửa với mấy thằng do chúng ta huấn luyện rồi đấy.”
Merkin thở dài một tiếng, nói: “Đừng nói chuyện bọn chúng nữa, về cái nơi kia, anh có ý kiến gì không? Nếu đúng là chỗ ấy thì chúng ta chẳng cần đi nữa, đỡ phải lãng phí thời gian.”
“Vậy anh định đi đâu?”
“Đến tháp Chalapi, theo tin mới nhận được, trong khu rừng cách ngọn tháp đó một trăm cây số về phía Nam, khi công ty Solace lắp đặt đường ống dẫn dầu xuyên quốc gia từ Colombia sang Peru đã đào được một tòa miếu thần rất giống với kim tự tháp của người Maya cổ, trước mắt công ty này đã phong tỏa tin tức đối với bên ngoài, cả đội khảo sát khoa học của hai nước cũng chưa biết tin này đâu, tôi định tới đó xem thử coi thế nào.”
Soares cười khì khì nói: “Vậy anh tới đó trước đi, tôi định đi xem chúng vượt rừng như thế nào, tiện thể cũng kiểm tra thực lực của chúng luôn.”
Sắc mặt Merkin sa sầm xuống, rồi lập tức thành khẩn nói: “Làm ơn nương tay một chút, chớ có mà giết chết bọn chúng, mấy tên đó thực sự vô cùng quan trọng đối với tôi đấy.” Động tác của Soares như muốn nói, anh cứ yên tâm, đoạn ra lệnh cho thuyền cập bờ, bóng hình gầy gò biến mất trong rừng sâu như một con trăn mốc lạnh lùng. Merkin không khỏi giật mình, y biết rõ, lúc này mới là lúc Soares đáng sợ nhất, bóng mà trong rừng ấy, giờ đây đã trở lại khu rừng của y.

Bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba đeo trên lưng những cái ba lô to tướng, chạy như bay trên con đường xa lạ, nếu nói bốn người sợ bọn Basaka người đông thế mạnh thì cũng chưa chắc, chỉ là nếu xảy ra xung đột, người bị hại đầu tiên sẽ là chủ nhà cho họ thuê phòng, Huermen, xong chuyện bọn gã có thể bỏ đi là xong, nhưng Huermen thì không thể ở lại Putumayo được nữa; hơn nữa, nếu chuyện này làm lớn ra thì sẽ không còn là vấn đề của một hai người nữa mà còn có ảnh hưởng nhất định tới vấn đề ngoại giao của cả đất nước chứ chẳng chơi.
Ba Tang hỏi: “Bây giờ chúng ta đi đâu?”
Nhạc Dương nói: “Không biết đối phương có bao nhiêu người, cũng chẳng biết xảy ra chuyện gì, thành phố này hình như không hoan nghênh chúng ta thì phải, xem ra chỉ còn cách đi vào rừng trước thôi vậy.”
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Nhưng còn thuyền thì sao?” Theo kế hoạch ban đầu, bọn họ dự định đi theo đường thủy.
Trương Lập tự tin nói: “Chúng tôi đã đặt thuê một con thuyền chỗ gần bờ sông rồi, bây giờ chẳng qua chỉ tới lấy dùng trước mà thôi.”
“Dẫn đường đi.”
Ba mươi phút sau, bốn người đã thấy bến cảng ồn ào huyên náo, con thuyền hình thoi này dài khoảng sáu mét, giữa rộng hai mét, cũng là ba thanh ngang chia thuyền làm bốn, ba lô đều đặt ngay bên cạnh mỗi người đề phòng có xảy ra chuyện gì đột xuất cũng đảm bảo không mất đồ đạc, bốn người cùng nhau chèo thuyền. Quành qua một khúc sông là không còn trông thấy kiến trúc nào của thế giới văn minh nữa, không gian xung quanh trở nên tĩnh lặng hẳn, nước sông chảy róc rách, cơ hồ như thời không đã ngừng dịch chuyển, cho người ta được hưởng thụ sự bình yên tĩnh tại.
Rừng già sâu thăm thẳm, khắp nơi khắp chốn đều là cây lớn cao chọc trời. Vân sam châu Mỹ có thể cao tới trăm mét, đường kính rộng mười mấy mét, phải mười bảy mười tám người đàn ông trưởng thành mới ôm hết một vòng, hơn nữa là trên dưới cùng một cỡ như nhau, xứng danh là người khổng lồ trong rừng. Trong rừng thi thoảng lại vang lên đủ thứ tiếng kêu tiếng hót của lũ chim thú không ai biết tên, nhưng dõi mắt nhìn ra xa, ngoài những vạt rừng dày đặc nối tiếp nhau ra thì chẳng thấy gì khác nữa. Bốn người đi trên sông, hai bên toàn cây lớn, lòng sông hơi hẹp, càng nhìn càng thấy ngút mắt, thi thoảng lại có một vài con vẹt đuôi dài châu Mỹ bay qua đầu, bộ lông vũ rực rỡ lấp lóa dưới ánh mặt trời chói mắt. Cảnh tượng này so với rừng vân sam ở Xishuangbana mà họ từng đi qua thì thật là hai thế giới hoàn toàn khác nhau.
Đằng nào cũng là đi xuôi dòng nước, bốn người đều lười nhác không muốn khua chèo, chỉ thi thoảng mới điều khiển hướng thuyền, sau đó thỏa sức thưởng thức phong cảnh hai bên bờ của đất nước xa lạ. Đến chỗ nước cạn, lòng sông trong thấy cả đáy, lũ cá đủ màu sắc đong đưa bơi lội trên các tảng đá, tuy bọn Trác Mộc Cường Ba đều bị buộc phải nhớ các loại động vật nguy hiểm, cũng từng nghiên cứu qua tư liệu về vùng Nam Mỹ, nhưng gặp phải nhiều loại cá đủ hình sắc như thế cũng không gọi nổi tên chúng ta gì. Nhìn chúng bơi lội tự do tự tại, tâm trạng mấy người cũng theo đó mà chùng xuống, tiết trời như mát mẻ hơn, lòng người thêm tĩnh lặng, chỉ thấy dễ chịu như muốn nhảy xuống nước cùng bơi với cá cho thỏa thích.
Đã có người chèo thuyền, Trương Lập dứt khoát bỏ luôn mái chèo xuống, hai tay kê đầu nằm ngửa ra ngắm nhìn một dải bầu trời phía trên, thỏa mãn nói: “Thế này còn thích hơn đi đảo Hải Nam du lịch nữa, cứ theo tốc độ thế này, chúng ta sẽ đến nơi trước thời hạn ấy chứ.”
Nhạc Dương nhúng tay xuống nước, khỏa dòng chảy máy lạnh: “Xem ra có người vui quá quên cả đường về rồi.”
Trương Lập nói: “Ấy, tôi còn nghe ai đó bảo chỗ này bốn bề đều là hiểm nguy, mỗi bước đều nguy hiểm đến tính mạng cơ mà, xem ra thực tiễn mới chính là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý.”
Ba Tang cầm mái chèo điều khiển thuyền, hừ lạnh một tiếng. Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng ta vừa mới rời khỏi Putumayo chưa được mười cây số, căn bản không thể coi là đã vào rừng, nếu từ đây đã có nguy hiểm thì người ở Putumayo chẳng ngày nào ngủ yên được rồi.”
Nhạc Dương ngẩng đầu lên nhìn sắc trời: “Sắp tối rồi, vấn đề chúng ta cần phải giải quyết là cắm trại ở chỗ nào bây giờ.”
Trương Lập nói: “Hay là tìm chỗ nào gần đây lên bờ luôn được không?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không được, bọn người ở Putumayo không tìm được chúng ta, nói không chừng sẽ đuổi theo nữa, có muốn cắm trại thì cũng phải đi sâu vào trong rừng tìm nơi nào đó tương đối ẩn mật đã.”
Nói đến chuyện bị người đuổi, Nhạc Dương trầm ngâm: “Chuyện này đúng là chẳng có chút đầu mối gì hết, làm sao lại dính dáng với bọn buôn ma túy được nhỉ?”
Ba Tang lạnh lùng lên tiếng: “Vừa mới đầu đã gặp bọn buôn ma túy, vậy mà các anh còn chưa cảnh giác hả? Vẫn còn tâm tình nằm ở đây ngắm cảnh hả, nếu là tôi, lúc này chỉ sợ gió nhẹ thổi qua cũng đã ướt đẫm mồ hôi rồi.”
Trương Lập ngồi thẳng dậy: “Sao lại nói vậy?”
Ba Tang nói: “Vùng này chính là phạm vi thế lực của bọn buôn ma túy, bọn chúng sống luôn trong rừng, thậm chí còn thông thuộc tình hình phân bố sông ngòi và rừng cây ở đây hơn cả quân chính phủ hay đội khảo sát khoa học, nếu không bọn chúng dựa vào cái gì mà buôn lậu, mà vượt biên giới cơ chứ. Có thể nói, đụng phải bọn chúng còn đáng sợ hơn cả gây chuyện với chính quyền đại phương gấp bội đấy.” Đây là những kinh nghiệm của Ba Tang từ hồi còn đi săn trộm.
Trương Lập biến sắc thốt lên: “Anh, không phải anh đang cố ý dọa cho tôi sợ đấy chứ?”
Trác Mộc Cường Ba khẳng định thêm: “Không, Ba Tang nói thật đấy, kể từ bây giờ, mức độ nguy hiểm của chúng ta ít nhất cũng phải tăng lên gấp đôi.”
Nhạc Dương nói: “Vậy thì nguy hiểm quá, nếu đúng là thế, có khi chúng sẽ phái ca nô, trên có bảy tám tên vũ trang súng ống đầy đủ, trang bị thêm hai khẩu súng phóng lựu với một khẩu đại liên nữa, đuổi theo băm chúng ta nát nhừ ra cũng không chừng đâu.”
Trác Mộc Cường Ba cười cười, nói: “Cũng không tệ đến thế đâu…” Tiếng của gã lập tức bị Trương Lập cắt lời, chỉ thấy gương mặt cậu ta đờ ra, hai mắt trợn tròn nhìn chằm chằm ra sau, nói như chém đinh chặt sắt: “Không, đúng là tệ như vậy đấy!”
Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc quay đầu lại, một chiếc ca nô cao tốc đang rẽ sóng điên cuồng đuổi tới, phía sau tóe lên những bọt nước trắng xóa, trên thuyền có thể thấy thấp thoáng mấy tên cầm súng, còn cả cái ống vừa to vừa đen nơi mũi thuyền nữa, bảo đấy là ống thổi lửa bếp lò chắc cũng chẳng ai tin đâu.
“Không phải chứ!” Trác Mộc Cường Ba thốt lên một tiếng, bốn người liền cật lực chèo thật mạnh, nói là đi xuôi dòng nước, cả bốn lại sức khỏe hơn người, nhưng sức người so với máy móc dù sao cũng cách nhau một trời một vực, chỉ loáng một cái chiếc ca nô đã đuổi tới gần rồi.
Cũng may sông Putumayo rẽ nhánh chằng chịt, đường sông phức tạp rắc rối vươn ra mọi hướng, cả nhóm đã tận dụng hết ưu thế đặc biệt của thuyền nhỏ, rẽ vào các nhánh sông hẹp, sau đó lại xông ra từ một hướng khác để tránh truy kích, chỉ có điều vòng qua vòng lại như vậy, rồi đến lúc chính bản thân bọn Trác Mộc Cường Ba cũng không biết mình vòng vèo đi đâu rồi nữa. Chẳng những thế, giữa các nhánh sông chỉ cách nhau chưa đầy mấy mét, tuy nói là rừng cây có thể ngăn một phần đạn, nhưng muốn thoát khỏi tầm nhìn đối phương để bỏ thuyền chạy lên bờ thì chắc chắn không được. Cuối cùng họ vòng ra theo một nhánh sông nhỏ khác, bỗng nhận ra đối phương cũng đã vòng ra ngoài, chèo thêm mấy trăm mét nữa về phía trước, không ngờ lại chẳng thấy chỗ nào rẽ nhánh nữa, vậy là chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ mà đua tốc độ với ca nô cao tốc, hậu quả thế nào chắc không cần nghĩ cũng đoán ra được. Chỉ trong chốc lát ca nô đã sắp đuổi tới nơi. Trương Lập không ngừng cằn nhằn oán trách: “Cái gì mà trên dòng sông này chỉ thích hợp sử dụng loại thuyền này chứ, tôi đúng là ngu mà, không ngờ lại mắc bẫy của thằng cha bán thuyền ấy! Biết vậy đã mua cái ca nô, để bây giờ ít ra cũng không chậm hơn người ta, đâu đến nỗi này!”
Trên ca nô không phải quốc kỳ Columbia, cũng không phải của Ecuador, quân phục của đám phần tử vũ trang này trông khá là kỳ quái, nhưng vũ khí trên tay chúng thì tuyệt đối không thể xem thường được, đám người đó lại gần, cầm loa khuếch âm quát lên, tuy cả bọn Trác Mộc Cường Ba không hiểu gì, nhưng cũng đoán được là chắc không ngoài những câu kiểu như “Dừng lại, cho thuyền lên bờ, bằng không sẽ giết ngay tại chỗ”.
Nhạc Dương ngồi phía trước vừa cật lực chèo, vừa lẩm bẩm nói: “Đây là… đây là quân du kích Colombia ! Trời ơi là trời, rốt cuộc là chuyện quái gì vậy?”
Trương Lập cười khổ nói: “Xem ra nơi này không hề hoan nghênh chúng ta, đúng là tệ thật, vừa ra quân đã bất lợi rồi.”
            Ba Tang lạnh lùng lên tiếng: “Quân du kích không giống như quân đội chính phủ, để chúng bắt thì hi vọng sống coi như bằng không đấy.”
Nhạc Dương gật đầu đồng ý, nói gì thì nói trước khi lên đường bọn họ cũng đều nghiên cứu qua tình hình nơi đây rồi.
Đám người phía sau càng lúc càng lại gần, thấy người trên thuyền phía trước không phản ứng gì, liền quét một loạt đạn, vài trụ nước tóe lên ngay bên cạnh con thuyền nhỏ, cả bọn Trác Mộc Cường Ba đều biết, đây chỉ là đối phương uy hiếp mà thôi, nếu còn không dừng thuyền cập bờ, đạn sẽ không bắn xuống nước nữa. Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn ba người còn lại, rồi ra lệnh: “Đầu hàng đi, chúng ta cập bờ.”
Không nghi ngờ gì nữa, ngay vũ khí lạnh cũng vẫn còn trong ba lô, bốn người không có chút chuẩn bị nào, căn bản không thể làm gì để đối kháng lại đám người kia, bây giờ mà còn không đầu hàng, e là sẽ bị đạn bắn cho thủng lỗ chỗ như tổ ong mất.
Lúc này, Ba Tang lại tỏ ra cực kỳ bình tĩnh, anh ta mặt không đổi sắc nói: “Đừng dừng lại, cứ chèo tiếp, chỉ cần kiên trì thêm hai phút nữa, nói không chừng lại có cơ hội cũng nên.” Dòng sông phía trước đột nhiên ngoặt sáng phải, họ có thể thành công hay không là phải dựa vào lần ngoặc gấp này đây.
Trương Lập nghi hoặc nói: “Có thật không đấy, tôi còn chưa lấy vợ chưa có cả bạn gái đâu đấy, anh chắc được bao nhiêu phần hả?” Nói thì nói vậy, nhưng mái chèo trong tay cậu ta vẫn lên xuống như bay, không dừng lại dù chỉ một phút một giây.
Nhạc Dương cũng nói: “Tôi hình như cũng chưa phát hiện ra cách gì có thể thoát được bọn chúng hay sao ấy?”
Lúc này, Trác Mộc Cường Ba cũng chú ý tới, lập tức dồn sức vào tay: “Giờ cứ cật lực mà chèo cho tôi, nhưng cứ chuẩn bị để dừng bất cứ lúc nào, tôi hét một tiếng, mọi người phải nhất tề chèo theo hướng ngược lại luôn đấy.”
Trương Lập thấy ca nô phía sau có ánh lửa nhoáng lên, vội hụp đầu tránh đạn, thấp giọng nói: “Chuyện gì thế? Các anh phát hiện ra cái gì vậy? Đừng có đem mạng ra đùa đấy nhé!”
Tốc độ dòng chảy nhanh lên rõ rệt, bốn người chèo thuyền đều cảm nhận được một cách rõ ràng, không ngờ lại còn bắt đầu kéo dãn khoảng cách với ca nô đang đuổi theo sau, còn đám người kia cũng bắt đầu nổ súng không do dự. Ca nô bỗng nhiên tăng tốc, giờ chỉ còn cách thuyền của bọn Trác Mộc Cường Ba chưa đầy mười mét, thậm chí đã nhìn rõ được cả cầu vai trên quân phục bọn chúng nữa. Đạn bay tung tóe, con thuyền bị bắn trúng nhiều chỗ, cũng có viên đạn sượt qua da thịt, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy cánh tay mình nhói lên một cái, biết là mình đã bị thương, chứ cũng không biết những người khác thế nào.
Vừa qua chỗ ngoặc, Trương Lập đang cúi đầu thấp hết cỡ, đột nhiên thốt lên: “Chuyện gì vậy? Tiếng gì thế?” Một âm thanh kỳ quái bắt đầu lớn dần lớn dần, ban đầu chỉ như giọt nước rơi tí tách, chỉ trong mấy giây ngắn ngủi đã thành như ngàn vạn con ngựa đang chạy rầm rập.
Trên mặt Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang cùng lúc nở một nụ cười, chỉ nghe Trác Mộc Cường Ba nói: “Dừng!” Bốn người cùng lúc cật lực chèo theo hướng ngược lại, kế đó, Trương Lập và Nhạc Dương cảm nhận được hết sức rõ ràng, con thuyền của họ đang lơ lửng giữa không trung.

Đêm đầu tiên
Tình huống tự nhiên rơi xuống ấy làm bọn Trác Mộc Cường Ba đều thót cả tim, tiếp đó là nước xung quanh bắn lên tung tóe, lúc này Trương Lập đã nhận ra – thác nước. Con thuyền gỗ nhỏ và người trên thuyền, cùng cheo chéo lao cắm xuống, còn chiếc ca nô đang theo sát phía sau bọn họ thì không được may mắn như vậy, lúc còn đang lơ lửng trên không Trương Lập trông thấy, chiếc ca nô gào thét ầm ĩ; ngay sau đó, bên tai cậu ta chợt vang lên tiếng “ục ục ục” của bong bóng nước vỡ tan, thân thể như bị thứ gì đó giữ chặt, chìm xuống nước được một hai mét, rồi lại bị kéo trồi lên bề mặt.
Trác Mộc Cường Ba nhô đầu lên, nhổ ra một ngụm nước to, hất mạnh đầu làm nước bắn tung tóe, theo sau là Ba Tang, Nhạc Dương, Trương Lập đề lần lượt chui lên khỏi mặt nước, chiếc thuyền gỗ của họ bị mắc kẹt ở tầng thác này, đang xoay tròn.
Thác nước này gần giống như ruộng bậc thang, tổng cộng có năm tầng, mỗi tầng cao chừng ba bốn chục mét, thác rộng khoảng bốn mét rưỡi, nước cũng phải sâu tới bốn năm mét. Vì tới cuối cùng mọi người đều ra sức chèo theo hướng ngược lại nên thuyền nhỏ gần như là dính vào dòng thác trôi xuống tầng đầu tiên, còn đà lao vùn vụt của chiếc ca nô kia khiến nó lao thẳng qua năm tầng thác, một đầu húc vào gốc cây to ven sông vỡ tan tành, tiếng nổ có lẽ là vang lên đúng vào khoảnh khắc bọn Trác Mộc Cường Ba rơi xuống nước, lúc này chỉ còn trông thấy những mảnh vụn còn lại trong đống lửa phừng phừng mà thôi.
Số quân du kích nhảy được khỏi ca nô sống sót rất ít, chỉ có ba người ở tầng thác thứ ba, ngã bò lăn bò toài, còn chưa rõ phương hướng thế nào đã bị bọn Trác Mộc Cường Ba tước vũ khí. Hai bên bất đồng ngôn ngữ, đâm ra cực kỳ tốn công sức giải thích qua lại mà vẫn chẳng thông, cuối cùng Trác Mộc Cường Ba đành thả cả ba tù binh cho họ tự trở về. Đám tù binh lấy làm sợ hãi, thì ra là quân du kích ở đây có thói quen cố ý thả tù binh đi, sau đó nổ súng sau lưng họ, đám người này cũng thường xuyên lấy đó làm chuyện mua vui, lần này được thả, tự nhiên trong lòng cũng nghĩ đến chuyện này, đi hai bước lại ngoảnh đầu lại nhìn, cho tới khi đặt chân vào chỗ rừng cây có thể che thân tránh đạn mới đột nhiên tăng tốc chạy thục mạng.
Ba Tang giơ khẩu M16 vừa tước được lên chau mày nói: “Làm vậy không hay chút nào, bọn chúng trở về sẽ lan truyền tin tức này đi, chúng ta rồi sẽ trở thành đối tượng bọn chúng bất chấp tất cả để truy sát mất.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi biết chứ, nhưng còn làm gì được nữa đây? Giết họ chắc? Tôi không làm được. Giờ chỉ biết đi một bước tính một bước thôi vậy.”
Trương Lập lóp ngóp dưới nước trồi lên, hớn ha hớn hở nói: “Thu hoạch không tệ! Thu hoạch không tệ!” Anh ta và Nhạc Dương tìm thấy thêm hai thi thể nữa ở tầng thác thứ tư, thu được cả vũ khí đạn dược đeo ở hông, như vậy tính ra họ đã có một khẩu AK47, một khẩu M16 và một khẩu Steyr, hai khẩu M4, bốn khẩu súng lục tự động B76, duy mỗi súng lục chỉ thu được sáu băng đạn, còn đâu các loại súng khác đều có trên sáu mươi viên đạn, nghiễm nhiên cả bọn trở thành một tiểu đội quân đặc chủng.
Nhạc Dương nhô đầu khỏi mặt nước, miệng ngậm một con dao bọ cạp hiệu Elk của Mỹ, trèo lên bờ, hóa ra cũng mò được thêm không ít đạn dược, anh chàng thở ra nhè nhẹ nói: “Đây không phải chuyện tốt đâu, phù… mang, mang nhiều vũ khí như vậy, gặp phải quân chính phủ, họ sẽ coi chúng ta là bọn buôn ma túy hoặc lực lượng du kích vũ trang, gặp quân du kích và bọn buôn ma túy sẽ coi bọn ta thành quân chính phủ, thế là thành một mớ hầm bà lằng nháo nhào cả lên. Vừa mới xuất phát mà trước sau đã gặp cả bọn buôn lậu lẫn quân du kích, cả hai thế lực nguy hiểm nhất rừng rậm vùng Ecuador-Colombia này, sao mà đen đủi thế không biết nữa!”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tạm thời chúng ta sẽ đi trong rừng của Ecuador đã, du kích Colombia sẽ không dám mạo hiểm qua biên giới đâu, cùng lắm chúng chỉ phái đi những nhóm vũ trang nhỏ đuối tới thôi, như vậy cũng không phải vấn đề lớn lắm, rừng ở đây cũng quá đỗi rậm rạp, chắc gì chúng đã tìm được bọn ta.”
Trương Lập giờ mới nghĩ đến hậu quả nghiêm trọng của sự việc này đã vượt xa những gì họ tính toán cho chuyến đi này, anh ta đưa mắt quan sát tình hình xung quanh rồi nói: “Nhưng mà vừa rồi luồn lách qua lại trên sông, giờ chúng ta cũng đâu biết mình đang ở Colombia hay Ecuador đâu?”
Ba Tang giơ la bàn trên đồng hồ lên xem, đoạn nói: “ Chúng ta cần đi về phía Đông Nam, chỉ là giờ không đủ thời gian để nghiên cứu bản đồ, tôi sợ chúng sẽ sử dụng chó săn để theo dấu lùng bắt, vậy nên trước tiên cần phải ngồi thuyền đi thêm vài cây số nữa, ở đây sông ngòi chằng chịt, chúng không thể tìm kiếm được dọc theo hai bên bờ sông được, vậy ít nhất chúng ta cũng tránh được bọn chó săn theo dấu. Nào, lấy thuyền xuống đã, tôi kiểm tra rồi, tuy bị đạn bắn thủng nhiều chỗ, nhưng không ảnh hưởng gì đến tải trọng của thuyền cả.”
Một chân đặt lên thuyền, Trương Lập nói: “Kiểu gì thì kiểu, có vũ khí dù sao cũng tốt hơn không, ít nhất gặp quân vũ trang cũng có thể chống cự, không giống như lúc nãy, bị đuổi cho như gì ấy.” Anh ta giơ khẩu M4 đang cầm lên ngắm nghía, rồi nói tiếp: “Mấy thứ vũ khí này được bảo dưỡng tốt ra phết, đợi lát nữa khô nước đi là dùng được rồi. Nhắc đến mới nhớ, anh Ba Tang, làm sao anh biết ở đây có cái thác nước vậy?”
Ba Tang đưa mắt nhìn Trác Mốc Cường Ba, Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại nhìn thác nước nói: “Có thể phát hiện dựa vào các vật trôi trên dòng nước, tốc độ trôi của chúng tăng lên rõ rệt, vậy thì khẳng định là mức chênh lệch của dòng nước phía trước tăng lên đáng kể. Lúc này thì nhìn rừng cây cũng nhận ra được, rừng cây phía trước rõ ràng là thưa thớt hơn nhiều, thế nghĩa là rất có khả năng phía trước có thác dựng đứng; nhưng chúng ta lại không nghe thấy tiếng nước chảy ầm ầm, vì vậy tôi phán đoán là thác nước này không cao lắm, chúng ta chỉ cần dùng sức chèo theo hướng ngược lại, thuyền nhỏ này sẽ bám được vào dòng thác mà trượt xuống dưới. Còn ca nô phía sau có động cơ đẩy, dù chúng nhìn thấy thác nước thì cũng không kịp chuyển hướng. Lúc ấy tôi chỉ nghĩ, một khi xuống nước, chúng ta sẽ có cách thay đổi tình thế thôi, chứ đâu ngờ thác nước này lại như thế.. Có điều Ba Tang à, sao anh lại phát hiện ra thác nước sớm như thế? Lúc anh nhắc nhở chúng ta tốc độ dòng chảy đã thay đổi bao nhiều đâu chứ?”
Ba Tang đáp: “Bụi nước, dòng thác làm tóe lên bụi nước, khiến bầu trời phía trên nó thay đổi mày sắc, không khó phát hiện lắm. Vả lại, lòng sông hẹp như vậy bọn chúng căn bản không thể chuyển hướng, nhất định là sẽ xông lên phía trước chúng ta thôi.”
Con thuyền lại tiếp tục trôi xuống hạ lưu, bốn người ngồi trên thuyền tự kiểm tra qua loa tình trạng thương tích của mình, đa phần đều chỉ bị đạn sượt qua, người duy nhất trúng đạn là Nhạc Dương, có điều anh ta cũng may mắn, viên đạn bắn trúng vào con dao đeo ở hông, Nhạc Dương lấy con dao hiệu Elk của Mỹ nhặt được lúc nãy thay cho con dao săn chất lượng kém bị đạn bắn cho biến cả hình dạng kia.
Một giờ đồng hồ tiếp theo cả bọn chẳng ai còn tâm trạng ngắm phong cảnh trên đường nữa, cứ cật lực chèo xuôi dòng nước, đi thêm chừng mười cây số nữa, rồi tìm lấy một vùng nước nông, xuống thuyền lên bờ. Bốn người kéo thuyền lên bờ, ngụy trang rồi đánh dấu cẩn thận, xóa sạch dấu chân, phun vào không khí một loại chất khí làm rối loạn khứu giác chó săn, xong hết tất cả mọi việc, cả bọn mới kéo lê thân thể đã mệt mỏi rã rời, vác trên lưng những chiếc ba lô to tướng, đi sâu vào trong rừng.
Nhạc Dương nhìn sắc trời, thấy trăng đã treo lơ lửng phía xa xa, nhưng nền trời vẫn như ban ngày, hoàn toàn không có vẻ gì là muốn màn đêm buông xuống cả, liền tự tin nói: “Cho dù chúng đã nhận được tin tức, thì chắc cũng không đuổi theo luôn lúc này được đâu.”
“Ừm.” Trác Mộc Cường Ba tán đồng. Bốn người đều biết, tuy trời tối rất muộn, nhưng chỉ cần sập tối một cái, những người có kinh nghiệm đi rừng sẽ không lựa chọn lúc ấy để đi sâu vào khu rừng không người lai vãng, vì có rất nhiều động vật ăn đêm đã chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi săn, bọn chúng sẽ mang đến cho những kẻ không mời kia hậu quả cực kỳ nguy hiểm.
Thực vật trong rừng nhiệt đới cực kỳ phức tạp, tuy đã điều tra rất kỹ càng, nhưng đứng giữa khu rừng chiếm tới bảy mươi phần trăm các loài thực vậy trên thế giới, bốn người vẫn không thể gọi tên hầu hết các loại thực vật được. Những thân cây thẳng đứng đẹp thanh thoát, những thân cây khổng lồ tán to như cái ô, cành lá đan xen, khiến sắc trời vốn mới gần hoàng hôn cơ hồ như đã vào buổi tối chạng vạng. thi thoảng trong những bụi cây rậm rạp lại vang lên một hai tiếng kêu của loài động vật không biết tên, có tiếng văng vẳng kéo dài, có loài cao the thé, lại có tiếng trầm đục khàn khàn, các loại âm thanh hòa thành một, không hỗn tạp cũng không rối loạn, mà là lúc trầm lúc bổng, hết đợt này tới đợt khác, tựa như một bản giao hưởng của thiên nhiên. Nhưng trong phạm vi khoảng hai mươi bước xung quanh bốn người thì lại cực ít nghe thấy tiếng động vật, họa hoằn mới nghe gió thổi cỏ lay, một bóng đen chạy vụt qua một cái, chẳng qua chỉ là các loài động vật nhỏ chạy biến về hang. Các sinh vật của rừng già đều ẩn nấp trong bóng tối, cảnh giác quan sát những người khách thần bí lần đầu tiên đặt chân đến chốn này.
Bốn người đi theo đội hình hình vuông, Trác Mộc Cường Ba đi phía trước, Trương Lập, Nhạc Dương phụ trách hai cánh, Ba Tang đoạn hậu, làm như vậy chủ yếu là để đối phó với những tình huống khẩn cấp như dã thú lớn tấn công hay bất ngờ gặp phải đột kích.
Sáng sớm hôm nay họ tới Quito , sau đó lại ngồi xe tám tiếng đồng hồ tới Putumayo, rồi ngay lập tức đi mua một lượng lớn đồ đạc, kế đó là đụng độ với bọn buôn ma túy và quân du kích Colombia , đến cả cơ hội dừng lại lấy hơi cũng chẳng có. Dù bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba ai nấy đều cương nghị rắn rỏi như đúc từ sắt thép, lúc này phải vác trên lưng ba lô nặng đến ba bốn chục cân, cũng thấy nặng đến thở chẳng ra hơi. Trương Lập nghiến răng nói: “Dừng lại được chưa vậy? Rốt cuộc còn phải đi bao xa nữa? Hình như lúc chia đồ không được chuẩn lắm thì phải, tôi thấy ba lô của tôi nặng hơn của các anh hay sao ấy nhỉ?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không phải bị ngấm nước đấy chứ?” Ba lô leo núi của bốn người đều là loại hai lớp phéc mơ tuya, lại làm bằng chất liệu chống nước, nhưng vừa rồi rơi xuống thác nước rất lớn, ba lô bị ngấm nước cũng không phải chuyện lạ.
Nhạc Dương lắc đầu: “Chưa được, chỗ này vẫn còn gần chúng ta lên bờ quá, nấu cơm sẽ bị phát hiện ngay.” Đốt lửa nơi hoang dã, gần như không thể không có khói, mà luồng khói bốc thẳng lên trời đương nhiên là mục tiêu lộ liễu nhất, vì vậy cả bọn cần phải chọn nơi nào thật sâu trong rừng, để tán lá làm nhạt bớt khói bếp, kẻ thù ở đằng xa khó phát hiện. Hơn nữa, nơi cắm trại cũng phải chọn rất kỹ lưỡng, trong rừng mưa nhiệt đới này, những loài sinh vật có độc không biết tên đã tới bảy tám chục rồi, lại còn cả vô số động vật ăn thịt hung dữ nữa, chỉ cần hơi bất cẩn một chút, là sẽ nguy hiểm đến tính mạng ngay.
Đi sâu vào rừng, sắc trời tối hẳn, Nhạc Dương đưa mắt ngắm tình thế xung quanh, Trương Lập thì đi đo khoảng cách giữa các gốc cây to, Nhạc Dương hỏi: “Cắm trại ở đây được không nhỉ?”
Trương Lập ném bịch cái ba lô đã như gánh nặng ngàn cân trên lưng xuống, thở phào một hơi nói: “Không sai, chính là chỗ này rồi.” Bốn bề dày đặc những cây cao mấy chục mét, dưới gốc lại có bụi cây thấp, đa phần đều là loài thực vật có gai, xen lẫn vài thứ cỏ hoang vô danh, cao chưa đầy gang tay. Trong hoàn cảnh thế này, động vật ăn thịt cỡ lớn không thể nào xông qua được bụi cây, mà bọn động vật bò trườn như rắn hay trăn cũng không có chỗ nào ẩn mình, ít nhất thì nguy hiểm do động vật trong rừng gây ra cũng được giảm xuống mức thấp nhất.
Quần áo mặc trên người đã khô từ nãy, vũ khí và các thứ trong ba lô giờ chỉ cần hong qua một chút là được, là có thể sử dụng bình thường. Đặt ba lô xuống, bốn người như lũ trẻ đi du xuân, quên cả mối nguy bị truy đuổi, bắt đầu phát tiết nốt chút sức lực còn sót lại, Trương Lập và Nhạc Dương cầm dao pha đi phạt cây bụi, tạo thành một không gian vừa đủ hoạt động, đồng thời dùng bùn đất và cành cây đắp bếp lửa; còn Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang cũng chẳng nhàn rỗi, hai người đuổi bắt trong rừng một lúc, mang về một con chồn túi, vì không dám mạo hiểm dùng súng, nên họ đã dùng phi đao giải quyết nó. Lửa nhen lên, cành cây cháy kêu “lách tách lách tách”, tuy không đủ gia vị, nhưng mùi thịt nướng cháy cũng đủ khiến người ta chảy nước miếng. Mặc dù trong ba lô có đủ loại thực phẩm ăn liền, thực phẩm đóng hộp hiện đại, còn có cả thành phẩm dinh dưỡng, nhưng theo kinh nghiệm trước nay, khi vẫn còn kiếm được đồ ăn nơi hoang dã thì tốt nhất nên cố gắng giữ lại những thực phẩm kia để đề phòng khi cần kíp.
Nước lấy dưới sông lên trải qua ba công đoạn lắng, lọc, đun sôi, rồi vùi một nửa xuống bùn cho nguội hẳn, uống vào miệng mang theo cả mùi đất thoang thoảng, ngọt thấu tim gan. Trương Lập nằm dưới đất một lúc, tu hết nửa bình nước rồi bật người dậy nói: “Có thể cắm trại được chưa nhỉ?” Bốn người lại kẻ đứng người ngồi bắt đầu động chân động tay vào việc.
Trương Lập lấy đồ nghề trong ba lô ra, chọn một cây to, đường kính khoảng trên dưới một mét, thân cây lên cách mặt đất mười lăm mười sáu mét mới bắt đầu rẽ nhánh, anh ta lấy dây thừng quấn quanh thân cây một vòng, rồi quàng vào sau lưng, hai tay kéo hai đầu dây, hai chân dùng sức đạp mạnh, mượn lực kéo của dây thừng để dứng vững trên thân cây, sau đó hai tay giật lên trên một cái, sợi thừng liền nhích lên trên một chút, rung một cái, nhích một bước, chẳng mấy chốc Trương Lập đã trèo lên lên được chỗ cách mặt đất chừng mười mét, chọn vị trí xong, anh ta lấy đinh tán đóng vào thân cây, hết đường ren, mũi nhọn của đinh tán bắt đầu xòe ra, cố định thật chắc vào thân cây, kế đó anh ta lại ghép một ống hợp kim thép vào đầu kia của đinh tán, cứ thế nối từng đoạn từng đoạn một như nối ăng ten vậy. Ba người còn lại cũng chia nhau làm y như vậy ở ba thân cây khác. Bốn ống thép gặp nhau ở khoảng không giữa bốn thân cây, tạo thành một hình chữ thập, sau đó lại có bốn ống thép khác quây bốn thân cây lại thành một hình vuông, Trương Lập tiếp tục trèo lên tới chỗ chạc ba rồi vòng dây trượt xuống, lấy ống chèn nối các ống thép lại với nhau, vậy là đã hoàn thành được một cái nền kiên cố treo lưng chừng.
Nhạc Dương và Ba Tang chia nhau lấy dây mây dưới đất và trên các cây khác vắt lên khung thép, sau đó dùng luôn cành cây nhỏ vừa chặt chèn vào các khe hở, phun keo để cố định chắc chắn, Trương Lập đứng giữa nền dợm dợm nhảy vài cái, không thấy có cành cây và bụi đất rơi xuống, gật đầu tỏ ý được rồi. Bốn người bắt đầu dựng trại bên trên cái nền này, xong xuôi mọi chuyện, một căn lều cây ngụy trang rộng khoảng mười mét vuông đã hiện ra.
Đối với người bình thường thì đây là một chuyện cực kỳ khó khăn, nhưng với bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba, dựng một căn lều giữa không trung như vậy và dựng trại dưới mặt đất bằng phẳng chẳng có khác biệt gì cả, chỉ cần mười phút là đã xong toàn bộ. Nếu cần thiết, thậm chí họ còn có thể dựng lều ở độ cao ba bốn chục mét, thậm chí nổi lửa nấu cơm trên đó cũng được.
Nhạc Dương phụ trách việc dọn dẹp, anh ta phải xử lý dấu vết của ngọn lửa trên mặt đất, sau đó phun lên bốn thân cây chỗ trên dưới lều trại hai mét một loại chất hóa học không màu để phòng ngừa côn trùng hoặc động vật có thể leo trèo gây hại đến lều trại của họ. Nhiệm vụ hoàn thành, anh ta tung mình nhảy xuống lều, bên cạnh lều trại còn để một đài quan sát rộng khoảng nửa mét vuông sát gốc cây.
Lều bạt được phun màu rằn ri, bên trên lại phủ một số vật ngụy trang, nhìn trông có vẻ cũng an toàn lắm rồi, nhưng Ba Tang vẫn kiên trì đòi để lại một người gác ở đài quan sát, anh ta chủ động nhận gác phiên đầu tiên, cầm khẩu Steyr ra ngoài canh gác. Trong lều, ba người còn lại bật đèn lên, bắt đầu nghiên cứu bản đồ, vì bản đồ địa chất không được hoàn thiện tường tận lắm, nên họ còn phải kết hợp với ảnh chụp vệ tinh để xác định vị trí hiện tại của mình. Sau khi đối chiếu nhiều tấm bản đồ, mấy người đưa ra phán đoán sơ bộ là mình đang ở trong lãnh thổ Ecuador , đồng thời xác định được phương hướng để ngày hôm sau tiếp tục lên đường.
Bôn ba vất vả cả ngày trời, đáng lẽ phải vùi đầu lăn ra ngủ, nhưng ba người mệt mỏi rã rời mà vẫn không sao ngủ được. Trước đây họ cũng từng không ít lần vượt núi băng rừng, nhưng bị truy sát thế này thì đây mới là lần đầu. Trong nhóm ngoài Ba Tang ra, đối với ba người còn lại, đây tuyệt đối là những trải nghiệm hoàn toàn mới, kể cả Trác Mộc Cường Ba, tinh thần cả ba đều trong trạng thái hưng phấn pha lẫn chút kinh hoảng. Đây cũng là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba cảm thấy bọn họ còn kém xa so với yêu cầu trong bất cứ tình huống nào cũng bình tĩnh không hoảng loạn, nói ngủ là ngủ ngay lập tức của Lữ Cánh Nam, song nghĩ lại thì những chuyện này cũng không phải là thứ các nội dung huấn luyện thường ngày có thể huấn luyện ra được.
Ba người lại bắt đầu thảo luận những chuyện xảy ra trong ngày, trong đó từ ngữ xuất hiện nhiều nhất vẫn là bốn chữ “không thể hiểu nối”. Không thể hiểu nổi tại sao người thổi rắn thần bí kia lại đột nhiên tấn công, không thể hiểu nổi tại sao đột nhiên bị bọn buôn ma túy trong thành phố đuổi bắt, rồi vẫn là không hiểu nổi tại sao ở trong rừng cũng bị quân du kích đuổi. Bây giờ đã có mấy mạng người trong đội du kích tính nợ lên đầu họ rồi, gặp phải lũ hung ác có thù tất báo, mà lại bám nhẵng như đĩa này, bọn Trác Mộc Cường Ba đúng là đen đến hết cỡ.
“Không thể hiểu nổi,” Trác Mộc Cường Ba nói, “thực ra từ khi tên kia xuất hiện ở trại huấn luyện tôi đã thấy không thể tin nổi rồi. Thử nghĩ xem, bọn chúng ở Khả Khả Tây Lý, chúng ta ở Tây Tạng, cả hai đều là khu không người diện tích trên mười ngàn cây số vuông, vậy mà hắn cũng tìm được tôi, nếu dùng hai chữ “trùng hợp” để hình dung, không khỏi có phần hơi quá đáng phải không?”
Trương Lập nói : “Phải đấy, tôi cũng cảm thấy chuyện này rắc rối quá.”
Nhạc Dương đã nghe Trác Mộc Cường Ba thuật lại chuyện ở Khả Khả Tây Lý từ trước, lúc này lại hỏi thêm vài câu nữa, rồi phân tích: “Tôi nghĩ, chỉ có một cách giải thích là trả lời được câu hỏi này thôi.”
Hê, giải thích thế nào?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.
Nhạc Dương nói: “Bọn người truy đuổi các anh, chẳng phải cũng ở Khả Khả Tây Lý đấy hay sao?”
Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm: “Ừm, cậu nói tới…”
Nhạc Dương nói: “Có thể là chúng đến Khả Khả Tây Lý tìm bọn săn trộm Hồ Lang để hợp tác, bọn săn trộm chẳng qua cũng chỉ vì lợi lộc, đứng trước lợi ích lớn hơn, tất nhiên là chúng sẽ suy nghĩ. Bọn người kia từ đầu vẫn theo dõi quan sát chúng ta, như vậy thì tên săn trộm kia có thể phát hiện ra căn cứ địa của chúng ta cũng chẳng có gì là lạ nữa. Có lẽ là hắn không nhịn được muốn đơn độc kiếm Cường Ba thiếu gia báo thù nên mới để lộ thân phận. Chỉ có cách này mới giải thích tại sao hắn tìm được trại huấn luyện của chúng ta, tại sao lại biết tên Cường Ba thiếu gia, còn chuyện tại sao hắn trở nên mạnh như thế…chắc không phải là cũng được huấn luyện giống chúng ta đấy chứ?”
Trương Lập gật đầu: “Ừm, chuyện này cũng có khả năng lắm.”
Nhạc Dương lại nói tiếp: “Hơn nữa, nếu tên săn trộm kia không phải là tình cờ ghé qua, mà là cố ý đến thăm dò, nói không chừng, chuyện chúng ta vừa đến châu Mỹ đã bị quân du kích tấn công, cũng liên quan tới bọn chúng cũng nên.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Thế nhưng, nếu giả thiết của cậu là hợp lý, thì bọn chúng để quân du kích cản trở chuyến đi châu Mỹ của chúng ta được lợi gì chứ?”
Trương Lập lên tiếng: “Liệu có phải là muốn mượn tay quân du kích để loại trừ những kẻ cạnh tranh tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu như chúng ta hay không?”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Chắc là không đâu, dựa vào hành vi trước đó của chúng, khả năng chúng muốn lôi kéo chúng ta hơn nhiều, bằng không chúng đã giải quyết chúng ta từ lúc ở Khả Khả Tây Lý rồi, hà tất phải tốn công bố trí cho quân du kích ra tay làm gì.”

Nhạc Dương nói: “Tình hình trong chớp mắt đã biến đổi khác trước cả vạn lần, không thể loại trừ khả năng Trương Lập vừa nói được. Lúc trước ở Khả Khả Tây Lý là Cường Ba thiếu gia đơn độc hành động, khả năng chúng muốn lôi kéo thiếu gia lớn hơn một chút. Còn bây giờ chúng ta đã là nhóm đặc biệt của nhà nước thành lập, muốn lôi kéo cũng không thể lôi kéo nữa rồi. Hơn nữa chúng ta không biết chúng đã tìm hiểu được gì từ người điên bị bắt cóc kia, giờ thì khả năng muốn loại trừ chúng ta lại lớn hơn một chút đấy. Còn nữa, đầu mối trong tay chúng chỉ sợ không phải chỉ có một người điên kia thôi đâu , chúng ta chẳng biết gì về chúng, không biết chúng đã đi tìm Bạc Ba La thần miếu được bao lâu, cũng căn bản không biết trong tay chúng có bao nhiêu đầu mối rồi nữa. Nhưng tôi thì tin chắc, tổ chức không thể nào không điều tra một nhân vật quan trọng như thế, có thể là ngay từ lúc đội chúng ta được thành lập, tổ chức đã điều tra đám người mà các anh đụng độ phải kia rồi ấy chứ.”
Trương Lập nói: “Nhưng lúc huấn luyện, chúng ta có nghe thấy chút phong thanh gì đâu?”
Nhạc Dương cười hì hì nói: “Có thể tổ chức cho rằng còn chưa tới thời điểm thích hợp để công bố. Tóm lại, tổ chức có suy nghĩ của họ, còn nguyên nhân tại sao thì chúng ta không hiểu nổi đâu. Còn nữa, Trương Lập, anh có cảm thấy lần này giáo quan có gì đấy khác với những lần trước không?”
Trương Lập nói: “Khác thế nào hả?”
Nhạc Dương đáp: “Không nói được, những suy đoán này vốn không nên lấy làm suy luận mà nói ra, nhưng đích thực là rất khả nghi. Tôi nhớ hồi trước khi giáo quan huấn luyện chúng ta ở đội trinh sát, đấy mới là quyền uy tuyệt đối chứ, nói một không bao giờ nói hai, nói là làm, làm là ra hiệu quả. Nhưng trong đợt huấn luyện đặc biệt này, tôi cứ thấy giáo quan không thoải mái lắm thì ph ải, hình như có lúc cô ấy huấn luyện mà không theo ý chí của mình ấy. Anh cũng thấy rồi đấy, giáo sư Phương Tân đề nghị nhân tính hóa quản lý, vậy mà cô ấy cũng đồng ý, cảm giác câu thúc này cứ như thể trong đội ngũ của chúng ta, còn một người khác, mà đó mới chính là người thức sự ra hiệu lệnh ấy.”
Trương Lập nói: “Ý anh muốn nói, vị tổng chỉ huy đích thực từ đầu đến giờ vẫn chưa xuất hiện đã dùng một thân phận khác để nhập vào trong đội ngũ của chúng ta rồi?” Nói xong, liền nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt đầy nghi hoặc.
Nhạc Dương nói: “Đây chỉ là giả thiết của tôi thôi, đừng có mà lấy ra suy nọ luận kia đấy. Có điều nói đi cũng phải nói lại, không phải… là anh đấy chứ?”
Trước ánh mắt chăm chú của Nhạc Dương, Trương Lập ưỡn ngực, sửa vạt áo ngồi thẳng lên nói: “Khụ hụ…, ừm, không ngờ, không ngờ lại bị cậu nhìn ra…” Lời còn chưa kịp chấm dứt, Nhạc Dương đã bồi thêm một câu: “Có điều nhìn anh không giống lắm, có thể loại trừ khả năng này.”  Trương Lập liền như con chọi bại trận, lập tức rũ xuống.
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên nói: “Còn một điểm nữa rất khả nghi. Khi tuyên bố lần khảo hạch giữa kỳ này với chúng ta, Lữ Cánh Nam đã nói, nếu không may bị tên săn trộm kia nghe được tin tức chúng ta tới châu Mỹ, nói không chừng trên đường chúng ta sẽ gặp phải trở lực rất lớn, hơn nữa, còn phải đi trước chúng một bước nữa.”
Trương Lập nói: “A, tôi nhớ ra rồi. Tôi còn nói, lẽ nào bọn chúng muốn lấy chúng ta ra luyện tập…mẹ của tôi ơi, không phải là tôi đã nói đúng rồi đấy chứ?”
Nhạc Dương nói: “Ừm, câu này đích thực rất đáng nghi, lúc ấy tôi cũng nghi ngờ rồi, chỉ là sau đó phải thu thập dữ liệu, nên tạm thời gác nó sang một bên rồi quên béng đi mất. Giờ nghĩ lại, lúc đó chắc là giáo quan đã vô ý, à không, có thể là cố ý ngầm ám thị cho chúng ta điều gì đó. CÔ ấy không nói hết, cũng không nói rõ, điều này mặc khác cũng phản ánh rằng người quyết sách kia, đang ở trong đội ngũ của chúng ta.”
Trương Lập nói: “Người đó là ai nhỉ? Lẽ nào là chú Mao Lạp?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Điều này không quan trọng, vấn đề mấu chốt là câu nói của cô ta, rốt cuộc ám chỉ điều gì vậy? Nhạc Dương, cậu phân tích thử xem nào.”
Nhạc Dương nói: “Đôi câu ba lời, chỉ dựa vào câu đầu tiên thì khó mà suy đoán ra được điều gì, nhiều lắm thì cũng chỉ là ám thị mức độ nguy hiểm của hành động lần này là cực kỳ cao, đến giờ câu nói này cũng đã được kiểm nghiệm rồi. Mấu chốt nằm ở câu thứ hai, cần phải đi trước chúng một bước? Cần phải, là để nhấn mạnh, đi trước, cúng là nhấn mạnh, bọn chúng, bọn chúng là ai? Nếu ghép với suy đoán trước đó của tôi, bọn chúng có lẽ chính là đám người đã truy kích anh và Cường Ba thiếu gia ở Khả Khả Tây Lý và hợp tác với tập đoàn săn trộm Hồ Lang, chúng ta có thể giả thiết đám người này là đối thủ số một đi. Giáo quan liên tiếp sử dụng hai từ ngữ nhấn mạnh để nói về bọn người này, chứng tỏ cô ấy rất trọng thị đối thủ số một này của chúng ta, bọn chúng, e là còn đáng sợ hơn cả những gì chúng ta tưởng tượng nữa. Nếu nói những gì chúng ta gặp phải hôm nay đều là thủ đoạn mà đối thủ kia sử dụng, vậy thì bọn chúng chẳng những có thể kiếm được vũ khí trong lãnh thổ Trung Quốc đại lục, mà còn điều động được cả quân du kích và bọn buôn ma túy tận Colombia xa xôi, thật là đáng sợ quá. Còn nữa, phải đi trước chúng một bước, câu này thì thật rõ là kỳ quái. Nội dung khảo hạch của chúng ta chỉ có băng qua rừng già, mà đối thủ thì chẳng có lý do gì vào rừng xem ai chay nhanh hơn với chúng ta cả. Tổng kết lại, dựa vào câu nói của giáo quan chỉ có thể đưa ra mấy kết luận sau đây: Thứ nhất, đối thủ số một của chúng ta rất có thể đã hợp tác với bọn săn trộm Hồ Lang ở Khả Khả Tây Lý, hoặc là đã thu phục chúng; thứ hai, đối thủ của chúng ta tương đối đáng sợ, phạm vi thế lực và quyền lực chúng nắm trong tay hiện đã vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta rồi; thứ ba, giáo quan có chuyện đang giấu giếm chúng ta, lần này tới châu Mỹ, e rằng không đơn giản chỉ là băng rừng thôi đâu.”
Trác Mộc Cường Ba thầm kinh hãi thở dài, chỉ dựa vào một câu nói mà suy luận được tường tận đến thế, lại còn nói chỉ có mấy kết luận thôi, Nhạc Dương quả thực khiêm tốn quá đáng rồi, hơn thế, cả ba kết luận này, điều nào cũng hết sức hợp lý nữa. Lữ Cánh Nam có trong tay bao nhiêu tư liệu liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, vậy mà không hề nói cho bọn gã biết, đây không phải có chuyện giấu giếm thì là gì?
Trương Lập lại nói: “Kết luận thứ nhất và thứ hai của cậu còn nghe được, nhưng cái thứ ba thì … hừm, chúng ta tới châu Mỹ chỉ có nhiệm vụ băng rừng trong mười ngày thôi mà, chứ còn có gì nữa đâu?”
Nhạc Dương nói: “Điểm này thì tôi không rõ, xem ra có vẻ nhóm chúng ta không nhận được mệnh lệnh gì khác, nhưng còn nhóm giáo sư Phương Tân thì sao? Bọn họ xuất phát sớm hơn chúng ta, ai biết được họ có nhiệm vụ gì mới hay không chứ? Còn đầu mối này à, chỉ còn cách từ từu phát hiện trong lúc băng rừng thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tổ kia do giáo sư Phương Tân dẫn đầu, lý đâu lại giao nhiệm vụ đặc biệt cho họ mà không giao cho chúng ta?”
Trương Lập cũng lanh chanh nói thêm: “Vả lại có thể có nhiệm vụ đặc biệt gì nữa chứ? Chẳng qua chỉ là một bài thi có tính chất tổng hợp thôi mà, chứ việc của chúng ta là tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, nói thế nào thì cũng không thể bảo băng qua rừng già ở châu Mỹ liên quan tới tìm Bạc Ba La thần miếu phải không?”
Nhạc Dương liếc Trương Lập với ánh mắt kỳ quái, nhướng mày lên nói: “Cũng có khả năng lắm à nha.”
“Có cái đầu cậu ấy.” Trương Lập kêu lên, “Ở đây là châu Mỹ, Bạc Ba La thần miếu ở tận Tây Tạng, cách mười vạn tám ngàn dặm, ở giữa còn cả một Thái Bình Dương. Xem ra cậu chẳng những biết suy luận, mà trí tưởng tượng cũng phong phú lắm.”
Nhạc Dương chẳng tỏ thái độ gì, chỉ nói: “Đây chính là mấu chốt của vấn đề. Chúng ta huấn luyện lâu như thế, vậy mà những chuyện liên quan tới Bạc Ba La thần miếu tổ chức lại chẳng nói cho chúng ta biết được mấy. Như Cường Ba thiếu gia đã nói, khi nào đạt tới yêu cầu huấn luyện, họ mới cho chúng ta tiếp xúc với những chuyện liên quan tới thần miếu. Nói thực lòng, hồi trước tôi làm lính trinh sát cũng chưa bao giờ bị huấn luyện nghiêm khắc thế này. Bảo là không coi trọng chúng ta, thế sao huấn luyện nghiêm khắc thế; còn bảo họ coi trọng chúng ta, thì sao lại chẳng cho chúng ta biết gì về các tư liệu liên quan tới đích đến cuối cùng như thế.”
Nhạc Dương ngưng một chút rồi tiếp tục: “Nói đến Bạc Ba La thần miếu, Cường Ba thiếu gia, theo như tôi quan sát được, mỗi ngày anh đều bỏ ra một hai tiếng đồng hồ cùng giáo sư Phương Tân nghiên cứu nơi này. Có thể nói cho chúng tôi biết, rốt cuộc tòa thần miếu này là cái gì không? Tôi cũng muốn tìm hiểu xem đầu đuôi lai lịch của nó là thế nào nữa.”
Trác Mộc Cường Ba suy nghĩ một lúc, rồi đáp: “Nói đến cái Bạc Ba La thần miếu này, sợ là nói cả đêm cũng không hết được. Ngủ đi đã, sau này có thời gian tôi sẽ kể cho cậu.”

Cùng lúc đó, Gonzales liên lạc với Merkin, báo cho hắn biết quân du kích đã tổn thất nặng nề, tình hình lúc này không còn nằm trong khả năng kiểm soát của y nữa rồi, quân du kích đã nắm được các tư liệu liên quan đến bọn Trác Mộc Cường Ba, đồng thời ra lệnh truy sát, tát cả những chuyện này, Gonzales đều lực bất tòng tâm, chỉ còn biết xin lỗi mà thôi.
Sắc trời còn đen kịt, người trong lều đã ngủ hết, Ba Tang ở bên ngoài cũng ôm khẩu Steyr gật gà gật gù, bốn bề tĩnh lặng đến độ chỉ còn nghe tiếng côn trùng rỉ rả. Ở phía bên kia cánh rừng, chỉ cách lều của họ chưa đầy hai trăm mét, mặt trăng rải xuống một quầng sáng bàng bạc, dịu dàng phủ lên một gốc cây khổng lồ. Trên thân cây dựng đứng ấy, một cảnh tượng khiến người ta phải rởn tóc gáy đang diễn ra. Nhện, đủ các loại nhện, con lớn to bằng bàn tay, con nhỏ chỉ như đầu hạt lúa mì; màu sắc cũng rực rỡ đủ kiều, đen thì đen nhánh lên như than đá, đỏ thì đỏ tựa máu gà muốn nhểu ra từng giọt, xanh lấp lánh u ám mà diêm dúa. Dường như chúng nhận được lời hiệu triệu chung nào đó mà kết đàn kết hội tới tham gia yến tiệc đêm nay, chi cha chi chit, chen chen chúc chúc, vây kín cả thân cây khổng lồ. Cây này cao tới hơn hai chục mét, đường kính hơn hai mét, lúc này như khoác lên một tấm áo lông xù xì những nhện là nhện. Trên chạc ba, một bóng xám đang đứng sừng sững, không ngờ lại chính là Soares. Y lặng lẽ đứng đó, nhìn chằm chằm vào căn lều tối om phía trước, trong tay cầm một thiết bị nhỏ như cuốn sách, mỉm cười nói: “Ừm, ngụy trang cũng tốt lắm, dùng mắt thường thật không dễ phát hiện được chúng mày ở đâu.” Con rắn tấn công Trác Mộc Cường Ba ở chợ chỉ để che mắt, điều y thực sự muốn là, cái đinh mũ bằng nhựa dẻo trong tay con Pucci, lúc Trác Mộc Cường Ba né đòn tấn công của con rắn, cái đinh mũ có thể chỉ đường kia đã gắn chặt dưới gót giày gã rồi.
Hoàn toàn không hề sợ hãi trước những sinh vật khủng khiếp xung quanh, Soares lẩm bẩm nói: “Bọn chúng hình như đã rất mệt mỏi rồi thì phải, Pucci, ra tay lúc này, sợ rằng chúng khó mà sống nổi nhỉ? Chắc là chẳng tên nào sống sót đâu nhỉ?”
Con khỉ mặc áo ghi lê trên vai y đung đưa cành cây trên đầu, nhe răng kêu “khẹc khẹc” hai tiếng, mấy con nhện đứng không vững, bị lắc rơi bộp xuống đất. Soares hồi tưởng lại, không ngờ có thể khiến người như kẻ đó tỏ ra thành khẩn như vậy, không biết đám người này nắm được đầu mối gì mà làm kẻ ấy hứng thú đến thế. Soares không khỏi nhớ lại cuộc điện thoại bất ngờ của Merkin mấy tháng trước…
“Alo, Kahn à, khỏe không?”
“Chẳng thế nào cả.”
“Tôi là Cáo Lửa.”
“Tôi biết, có gì thì nói đi.”
“Ừm, đừng có tỏ thái độ cự tuyệt người ta từ xa ngoài ngàn dặm như thế chứ, lần này tôi kiếm anh là có chuyện tốt đấy nhé. Tôi đang chuẩn bị lên kế hoạch cho một hành động cực lớn, có thể còn kích thích hiểm nguy hơn lần bảy năm trước không chừng…”
“Xin lỗi, tôi không hứng thú…”
“Ô, đợi đã… Cả nghiên cứu của mình anh cũng không hứng thú à?”
“Anh muốn nói gì?”
“Chất độc, cái này anh hứng thú không?”
“Ở đâu?”
“…Nơi khởi nguồn của những kẻ luyện thú các anh, nói gì thì nói, trở về xem thử một chút cũng không quá đáng lắm phải không… Người đó đã nói thế nào ấy nhỉ? Mấy ngàn năm nay đều sống cuộc đời ẩn dật cách tuyệt với thế giới, từng là nơi khởi nguồn của mọi bệnh tật và ôn dịch trên thế gian này, tập trung kỹ thuật bốn ngàn năm của nội tạng học phương Đông, có những cuộc chiến của các giáo phaiar thần bí nhất, còn cả…”
“Kế hoạch gì? Muốn tìm cái gì?”
“Tôi đã nói mà, tôi muốn tìm một ngôi thần miếu thất lạc, Bạc Ba La thần miếu trong truyền thuyết!”
Suy đi tính lại, cuối cùng Soares đóng sập nắp cái hộp như cái lò hun trong tay phải lại. Mất đi mùi hương lạ, lũ nhện như sực tỉnh khỏi cơn mộng du, cả bọn kinh ngạc nhận ra, tại sao mình lại ở trên cái cây này nhỉ? Lại còn, lại còn ở trên cùng một cái cây với thiên địch nữa chứ! Lũ nhện lập tức như giống bầy kiến vỡ tổ, nhanh chóng chạy tứ tán, còn có cả lũ nhện chuyên ăn nhện, chẳng hề khách khí xơi luôn những con nhện khác. Soares hình như chợt nhớ ra chuyện gì hứng thú lắm, nở ra một nụ cười khinh mạng: “Nhưng cũng không thể cho chúng thoải mái như vậy được. Pucci, đi thôi.”
Con khỉ mặc áo gi lê nhảy lên trước, tóm lấy một cành cây rồi thuần thục đu sang một cành khác, Soares lấy ra một cây roi dài, vung tay vù một cái, quấn chuẩn xác vào một cành cây khác, nhẹ nhàng đu người đi, bóng xám dưới ánh trăng tựa như một con dơi khổng lồ, trong cái thân thể gầy guộc kia, không ngờ lại ẩn chứa sức mạnh khó có thể tưởng tượng của loài mà quỷ.

Nhưng Soares không biết một điều, ở trong lều trại, Trác Mộc Cường Ba vẫn mở trân trân hai mắt, chẳng có vẻ gì là đang ngủ, gã cảm giác nguy hiểm, mối nguy hiểm xưa nay chưa từng có! Cảm giác bất an rõ rệt cùng với sự căng thẳng thần kinh này, gã thật không biết phải hình dung thế nào, thậm chí cả tiếng côn trùng rỉ rả xung quanh cũng trở nên đáng sợ. Gã không phải là người dễ căng thẳng, nhưng cảm giác nguy hiểm lúc này so với lúc gặp lũ chuột ở Khả Khả Tây Lý còn mãnh liệt hơn rất nhiều. Có thể làm gã có cảm giác đó, chỉ có một lần đó, lần gã nhìn thấy đôi mắt như mắt rắn độc ấy.

Cho tới khi Soares rời đi, cơ thịt dường như đang căng lên của Trác Mộc Cường Ba mới chùng dãn, tuy không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng gã thấy dường như tảng đá đè nặng trên tim mình vừa rơi xuống, nhưng quần áo thì đã ướt đẫm mồ hôi.
CHƯƠNG 9
NGUY HIỂM TRONG RỪNG
Dọc đường toàn những bụi gai, hoặc những thân cây khổng lồ đổ ngang xuống chặn đường, trên những chỗ cành cây rẽ nhánh, trong từng bụi cỏ, phía sau những gốc cây, nơi nơi đều là những ánh mắt không thân thiện, các động vật đang ẩn nấp, nhìn bọn họ với ánh mắt kinh hoảng, hoài nghi, tham lam dò xét. Bốn người lữ hành xa lạ buộc phải tập trung một trăm hai mươi phần trăm tinh thần, chú ý ứng phó với đủ thứ sự việc bất ngờ.


Trốn chạy trong rừng sâu

Đêm đầu tiên trôi qua bình yên và tĩnh lặng, không biết có phải vì mệt quá độ hay không, mà cả bọn đều ngủ rất sâu.
Sáng sớm ngày hôm sau, Trác Mộc Cường Ba bị tiếng hót lanh lảnh của một con chim không biết tên đánh thức, khi gã thò đầu ra khỏi lều, Ba Tang đã không còn ở trên đài quan sát nữa. Trác Mộc Cường Ba giật thót mình, bởi để đề phòng lúc gác đêm ngủ gật rơi xuống dưới, Ba Tang đã buộc dây an toàn rồi, giờ cả dây an toàn cũng chẳng thấy đâu nếu không phải Ba Tang tự động trèo xuống đi đâu đấy thì thật khó mà tưởng tượng nổi anh ta đã gặp phải chuyện gì nguy hiểm. Trác Mộc Cường Ba đá đá vào Trương Lập và Nhạc Dương vẫn còn chưa tỉnh ngủ, gọi: “Dậy nhanh lên, không thấy Ba Tang đâu nữa rồi!”

Trương Lập xoa xoa đầu vai bị đá phải, bộ mặt như muốn nói, người ta đang ngủ ngon thì phá đám, nghiêng người sang một bên, có vẻ như không muốn dậy, còn Nhạc Dương thì nhập nhèm mở mắt, kế đó giật nẩy người lên như bị rắn độc cắn phải, trợn mắt lên hô vang: “Gì hả! Không thấy Ba Tang đâu hả! Anh ta bị con gì ăn mất rồi?” Trương Lập cũng hốt hoảng sực tỉnh.

Ba người thả dây xuống mặt đất với tốc độ nhanh nhất có thể, nhưng ngay sau đó phát hiện ra Ba Tang đứng ngay bên dưới căn lều cây, trên người không một vết xước, hai tay đang bưng một nồi nước, xem ra đã chuẩn bị đun nước nấu cơm rồi. Trương Lập ngáp một cái rõ to, nói: “Ôi chà, Cường Ba thiếu gia anh cũng thật là, sáng sớm đã làm ầm ĩ lên rồi. Cả cái cậu Nhạc Dương này nữa, vừa nghe bảo người ta không thấy đâu nữa đã nghĩ đến bị con gì ăn mất rồi, khu rừng này mà đáng sợ thế thì các bộ tộc sống trong đây đã chết toi hết từ đời nào rồi còn gì!”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Sao anh lại tự ý xuống một mình như thế?”
Ba Tang đáp: “Tôi thấy các cậu ngủ say quá nên cũng chẳng gọi.” Trác Mộc Cường Ba nhìn nồi nước trong tay Ba Tang, rồi không nói thêm gì nữa.
Để tranh thủ lên đường trước khi bị kẻ địch phát hiện, ăn sáng xong, bốn người liền mau chóng thu dọn hành trang, chở lại chỗ giấy thuyền. Thế nhưng lúc bỏ các vật ngụy trang đi, cả bốn đều ngẩn người ra!

Ký hiệu đúng là ở đây, ngụy trang cũng do chính tay họ làm, không hề có dấu vết nào chứng tỏ đã bị dịch chuyển, thế nhưng … thế nhưng, không thấy thuyền đâu nữa! Chu yện hoang đường thế này còn tác động đến họ mạnh hơn cả trực tiếp gặp phải kẻ thù nữa. Chu yện này thật kỳ dị quá sức, kỳ dị đến độ khiến người ta hoàn toàn  không thể lý giải nối. Nếu nói đã bị kẻ thù phát hiện và mang thuyền đi nơi khác, vậy thì những dấu hiệu đặc thù kia khẳng định đã bị chúng phá hoại, chẳng hạn như nhưng sợi dây trong suốt nhỏ như sợi tóc buộc trên các cành là ngụy trang, hoặc hình dạng những chiếc lá đã bị phun keo dính thể rắn trên mặt đất, những thứ này một khi đã bị phá hỏng, kẻ địch sẽ không thể nào khôi phục lại được. Nhưng sự thực lại chứng minh, mọi dấu vết ngụy trang đều hoàn hảo không chút tổn thất, nhưng thuyền thì đã không cánh mà bay, cơ hồ như chưa từng bao giờ có một chiếc thuyền ở đó vậy. Cả bọn còn đang mắt to mắt nhỏ nhìn nhau, vẫn là Nhạc Dương tâm tư cẩn mật có phát hiện trước. Ở vị trí vốn là của chiếc thuyền kia vẫn còn vương vãi lại một ít mạt gỗ nhỏ mịn như cát. Nhạc Dương nhúm một nhúm mạt gỗ lên, lấy đầu ngón tay quệt quệt, cảm giác thử xem mạt gỗ to nhỏ thế nào, rồi lẩm bẩm nói: “ Còn … còn nhỏ hơn hạt cát nữa, nếu tôi đoán không sai, thuyền của chúng ta đã bị thứ gì đó coi là món điểm tâm mà xơi hết cả rồi. Nhưng làm gì có chuyện đó được cớ chứ!”

Nghe Nhạc Dương nói vậy, những người còn lại mới sực tỉnh, Trương Lập nói: “Mối?” Bốn người đều biết, loài mối là cao thủ chuyên ăn gỗ. Tuy các động vật gặm nhấm như chuột đất cũng có thói quen gặm gỗ, nhưng mạt gỗ chúng để lại tuyệt đối không thể nhỏ mịn như thấy này được.

Nhạc Dương nói: “Nhưng thông thường thì thuyền nào chẳng được ngâm qua hoá chất ngừa mối mọt đục rỗng, hơn nữa cả một cái thuyền to như thế, chỉ một hai tổ mối thì căn bản không thể ăn sạch sẽ thế này được. Nếu đúng là lũ mối đã ăn sạch cái thuyền này trong một đêm, vậy thì đêm qua ở đây ít nhất phải tập trung tất cả mối ở mấy cây số vuông quanh đây lại. Trong rừng này gỗ mục nhiều vô kể, cái thuyền của chúng ta lại chẳng có gì đặc biệt hết làm sao xảy ra chuyện như thế này được chứ?” Nghĩ đến cảnh cả con thuyền đều là lũ mối nhung nhúc, Nhạc Dương không khỏi rởn hết cả tóc gáy.

Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm một thoáng rồi nói: “Hoặc là còn sinh vật nào đấy mà chúng ta chưa biết tới. Thôi bỏ đi, dù thế nào thì thuyền cũng không còn nữa rồi, chúng ta đành nghĩ cách khác vậy, cố gắng tăng tốc tiến lên, tuyệt đối không để bị quân du kích đuổi kịp.”

Không còn thuyền, bốn người chỉ biết nhìn dòng sông mà thở dài. Trương Lập nói: “Làm bè gỗ được không?”.
Nhạc Dương lắc đầu: “Điều kiện không cho phép, thứ nhất, phải chặt cây, như vậy sẽ bị kẻ địch đuổi phía sau phát hiện ra dấu vết. Thứ hai, bọn chúng đi xuôi dòng nước, thời gian không đợi người, chỉ sợ chúng ta chưa làm xong bè thì đã bị chúng đuổi kịp mất rồi.”
Mất đi chiếc thuyền, tốc độ của họ rõ ràng giảm đi rất nhiều. Trước tiên, cái ba lô leo núi nặng ba mươi cân trên lưng là khảo nghiệm lớn nhất, huống hồ, để tránh bị quân du kích phát hiện, họ không thể không rời xa bờ sông, đi trong rừng sâu một bước cũng khó nhấc nhân.
Sâu trong rừng và ven bờ sông là hai thế giới hoàn toàn khác nhau, âm u, ẩm thấp, nóng bức, bốn bề mù mịt hơi nước và bầu không khí khiến người ta thấy bất an. Dọc đường toàn những bụi gai, hoặc những thân cây khổng lồ đổ ngang xuống chặn đường, trên những chỗ cành cây rẽ nhánh, trong từng bụi cỏ, phía sau những gốc cây, nơi nơi đều là những ánh mắt không thân thiện, các loài động vật đang ẩn nấp, nhìn bọn họ với ánh mắt kinh hoảng, hoài nghi, tham lam dò xét. Bốn người lữ hành xa lạ buộc phải tập trung một trăm hai mươi phần trăm tinh thần, chú ý ứng phó với đủ thứ sự việc bất ngờ.
Chưa đi được một tiếng đồng hồ đã có người chịu không nổi. Nhạc Dương trẹo chân, đổ nghiêng người sang bên trái, Trương Lập đi sau đưa tay ra đỡ, kết quả là cả hai người cùng ngã nhào xuống. Nếu chỉ phải vác trên lưng vật nặng ba mươi cân đi đường, đối với họ vốn chẳng phải chuyện khó khăn gì, thế nhưng, dưới chân họ không phải là đường. Bùn đất bên dưới nhão nhoét, những loài cỏ hoang không biết tên kia đều ướt đẫm sương, vừa ướt vừa trơn, các lùm cây xung quanh đầy gai độc, chỉ hơi bất cẩn một chút là bị thương ngay, cảm giác đó, giống như đã mang trên lưng vật nặng ba mươi cân, lại còn phải khống chế thăng bằng trên mặt bằng cao thấp nhấp nhô, rồi phải tránh các loại chướng ngại vật nữa vậy.
Trác Mộc Cường Ba thở hắt ra một hơi, không thể không nói: “Nghỉ ngơi một lát đã.” Phía trước vừa hay có một cây to nằm ngang, bốn người dựa lưng vào gốc cây đó mà nghỉ. Ba Tang tính sơ qua chặng đường họ vừa đi được, kết quả thật khiến người ta hết sức chán nản, trong một tiếng đồng hồ, tổng cộng họ tiến lên được chưa đầy hai cây số, trong đó hầu hết thời gian là để phạt các bụi cây để mở đường và xua đuổi các loài động vật còn chưa lộ diện nhưng đã làm họ cảm thấy bị uy hiếp. Ba Tang gượng gạo vuốt vuốt bộ râu quai nón, nói: “Dựa theo tốc độ này, muốn đi hai mươi cây số một ngày là bất khả.” Buổi đêm thì không thể lên đường, với tốc độ hai cây số một giờ, thì cần phải có cơ sở là không cần ăn uống không cần nghỉ ngơi, thể lực vĩnh viễn không tiêu hao, như vậy thì mới đi được hai mươi cây số trong mười tiếng đồng hồ.
Nhạc Dương lấy bản đồ thực địa chụp bằng vệ tinh ra nói: “Nếu bản đồ của chúng ta chính xác, vậy thì khu rừng này dài ba mươi bảy cây số, rộng mười chín cây số. Vì chúng ta đi song song với bờ sông, nên là phải đi đoạn đường dài nhất, sau đó sẽ phải vượt qua một con sông rộng chừng mười mét, tiếp đó là một khu rừng khác.” Khu vực này có nhiều sông ngòi chia rừng thành từng khoản như thửa ruộng, còn các con sông thì như những con đường đất nhỏ trên bờ ruộng, trải đi bốn phương tám hướng, giao nhau chằng chịt. Tiến về phía trước trong khu vực như vậy, đồng thời còn phải tránh né quân du kích đang lùng sục dọc theo các bờ sông, đâu phải chuyện dễ.
Trương Lập mở la bàn bên trong đồng hồ ra: “Chỉ cần phương hướng không sai là đi ra được thôi, Mấu chốt là lúc vượt sông phải thăm dò cho rõ ràng trước đã, đừng để đang vượt sông thì gặp phải quân du kích, lúc ấy thì tệ lắm đấy.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không cần lo lắng quá thế, xem quang cảnh trên đường chúng ta vừa đi qua, ở đây là khu vực không người, vậy có thể khẳng định là quân du kích không thông thuộc môi trường ở đây lắm, muốn tìm được chúng ta cũng không dễ thế đâu.” Trương Lập gượng nói: “Hy vọng là thế. Ừm, mùi gì thế? Hình như là ở phía kia bay lại …”
Không nghi ngờ gì nữa, bọn Trác Mộc Cường Ba đã đánh giá thấp mức độ thông thuộc rừng già của quân du kích địa phương và những nguy hiểm tiềm tàng. Lúc này, trên dòng sông ven rừng, một chiếc thuyền máy chở người phần tử vũ trang đang chầm chậm xuôi dòng, không có tiếng nổ của động cơ, tốc độ của con thuyền cũng không nhanh lắm. Tên mập Gonzales đã cởi bỏ những ngọc ngà châu báu đeo khắp người, quấn xunh quanh mình một băng đạn, một khẩu Minimi (1) được hắn dùng làm gậy chống xuống sàn thuyền. Vì áp lực từ nhiều phía, Gonzales không thể không đích thân dẫn anh em hỗ trợ quân du kích triển khai một cuộc truy bắt toàn diện. Mặt trời rực rỡ vừa lên cao, chiếu vào gương mặt tên mập, mồ hôi nhanh chóng chảy dài trên má hắn. Ngoài thuyền của hắn ra, còn khoảng mười mấy chiếc khác như vậy nữa, bọn chúng bắt đầu từ chỗ ca nô du kích bị huỷ, chia thành nhiều đướng tìm kiếm dọc theo bờ sông. Gonzales biết rất rõ, quân du kích trước giờ chưa khi nào bị người ta khiêu khích đến thế, lần này thực sự là đã bị chọc giận rồi.
“Dừng lại!” Gonzales vung tay lên, thuyền máy liền áp sát bờ theo hướng ngón tay hắn chỉ. Địa điểm giấu thuyền vốn được bọn Trác Mộc Cường Ba ngụy trang rất cẩn thận, lúc này đã biến thành tạm bợ nháo nhào. Dấu vết rõ rành rành như vậy, Gonzales nhận ra được từ ở đằng xa. Thân thể béo ịch của hắn không đợi thuyền dừng hẳn lại, đã nhảy luôn xuống, nhanh nhẹn dịch chuyển, lắc la lắc lư như con vịt chạy đến chỗ ngụy trang. Gonzales lấy súng khều khều đám cành cây, phát hiện ra những mạt gỗ nhỏ li ti khi, khẽ miết nhẹ một cái, con cáo già của rừng rậm này lập tức nói: “Báo cho các đội khác, có khả năng là thuyền của chúng bị hủy rồi, bốn kẻ này rất có thể sẽ chọn đi bộ băng rừng. Phong tỏa đường thủy khu vực này lại, chúng ta vào rừng lùng bắt bọn chúng.”
Lần theo mùi hương lạ, Trương Lập vòng qua thân cây to, chẳng mấy chốc đã thấy ngay một đóa hoa rực rỡ. Cánh hoa như tuyết mùa xuân, bọc quanh nhụy hoa màu vàng lúa, trông giống như một chén trà, những chiếc lá mảnh dài như cỏ tranh xòe ra hình mặt trời, thoạt nhìn cứ như một nàng công chứa yêu kiều giấu gương mặt trắng như tuyết của mình trong cổ áo lông thú dày sụ. Đặc biệt là mùi hương, trong mát mà thấm đượm, tương tự như mùi hoa lan, khiến người ta đắm chìm trong say mê trong hương thơm tự nhiên ấy.
“Thơm quá.” Nhạc Dương không nén được buột miệng khen.
Ba Tang bỗng nhiên cảnh giác. Dõi mắt nhìn khắp bốn phía, xung quanh những cây to che khuất cả mặt trời, dây leo quấn chằng quấn chịt như lưới nhện, bùn đất dưới chân nhão nhoẹt ẩm ướt, ánh mặt trời chỉ có thể chiếu xuyên qua những kẽ lá, rải xuống vài chấm vàng lốm đốm. Cảm giác đó là thế nào vậy? Tiếng thở nặng nề vang lên bên tai, Ba Tang quay ngoắt đầu lại, nhưng chẳng phát hiện gì cả. Không, không đúng, âm thanh đó trực tiếp vang lên ngay bên tai anh ta, phải có đến mười mấy người, bọn họ là ai? Trong rừng vang lên tiếng bước chân lạo xạo, bọn họ đang chạy rất nhanh, thế nhưng, trước mắt làm gì có ai, lẽ nào là ảo giác?
“Thơm quá, hoa gì vậy nhỉ?” Ai đang nói? Khi ngôn ngữ của  nước N một lần nữa bị đánh thức trong sâu thẳm tâm linh, Ba Tang kinh hoàng mở to hai mắt, đó là âm thanh vang lên trong tâm trí anh ta, những âm thanh sao mà quen thuộc.
“Không muốn sống nữa hả, mau tranh ra! Là loài hoa ăn thịt người đấy!” Lại là ai đang hét lên nữa? Ba Tang phảng phất như trông thấy một bóng người mờ nhạt đang vươn tay về phía đóa hoa đó, đột nhiên những chiếc là dài cả mét xung quanh đóa hoa bất ngờ khép lại, kẹp chặt ba người đứng gần nhất, vô số nhện đen bò ra … những người kia dường như trúng phải thuật định thân, không sao cử động nổi, phải cứu lấy họ! Ba Tang bỗng nhiên sự tỉnh, là những chuyện xảy ra trong ký ức và chuyện đang xảy ra lúc này trùng lặp, anh ta nhanh chân xông lên trước.
Trương Lập dấn thêm một bước nữa lại gần bông hoa đáng yêu kia, chợt bị Ba Tang kéo giật ra, lạnh lùng nói: “Không muốn sống nữa hả! Hoa ăn thịt người đấy.”
Trương Lập như bị giội một gáo nước lạnh, toán hết cả mồ hôi, nhìn lại, quả nhiên không sai, đóa hoa yêu kiều xinh xắn kia và mùi hương mê đắm người ta ấy, chẳng phải chính là thủ đoạn mê hoặc những người vô tri của hoa ăn thịt người đấy sao? Còn những chiếc là dài cả mét nhe những móng vuốt kia và lũ nhện ăn thịt người đang ẩn nấp sau tán là chính là hung thủ giết người. Anh ta nhất thời sơ ý, suýt chút nữa là bị một trong những thứ quyến rũ chết người nhất Nam Mỹ che tai bịt mắt, cũng may Ba Tang đã kịp nhắc nhở. Có điều mọi người đều chưa nhìn thấy thực vật bao giờ, lúc lên mạng tìm kiếm lại không thấy tấm ảnh chụp nào, không ngờ Ba Tang vừa nhìn đã nhận ra ngay được.
Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương đều quay sang nhìn Ba Tang với ánh mắt kinh ngạc, Trương Lập vỗ vỗ ngực nói: “Nguy hiểm quá, nguy hiểm quá. Đại ca Ba Tang, cũng may là anh nhắc nhở tôi, làm sao vừa nhìn mà anh đã nhận ra luôn được thế?”
Trước ánh mắt dò hỏi của Trương Lập, Ba Tang vẫn lạnh lùng giải thích: “Tôi gặp rồi, ở nơi đó, tôi có hai đồng đội bị thứ ngày hại chết.” Mọi người vừa hiểu ra, thì một tia nghi hoặc thoáng hiện lên trog đầu Trác Mộc Cường Ba. Nơi mà Ba Tang nói đến mọi người đều biết cả, nhưng chỗ ấy cực cao, đúng ra phải là trời băng đất tuyêt mịt mùng mới đúng, tại sao loại thực vật ăn thịt người của rừng nhiệt đới lại xuất hiện ở giữa cao nguyên được?
Trác Mộc Cường Ba không kịp nghĩ thêm, chỉ nói nhanh: “Xem ra nghỉ ngơi vậy cũng tạm đủ rồi, tiếp tục lên đường thôi.” Trong lòng gã bất giác có chút bất an: “Kỳ quái thật, tại sao lại có cảm giác như bị ai nhìn trộm vậy nhỉ?” Gã dõi mắt nhìn ra xa, ngoại trừ rừng cây che kín ánh mặt trời ra thì chẳng có gì khác nữa.
Sau khi bọn Trác Mộc Cường Ba rời đi không lâu, một bóng xám dung dung bước tới trước bông hoa ăn thịt người kia, vươn tay không chút do dự hái đóa hoa nhỏ đang tỏa mùi hương đặc dị ấy xuống. Bị chạm phải, hoa mặt trời lập tức phát động phản công, những chiếc lá tỏa ra như tia nắng của nó bỗng nhiên khép lại, tựa như một cái bẫy chuột kẹp lấy kẻ hái hoa, đang tiếc là cánh tay đã đã rụt ra ngay lúc hoa mặt trời khép cánh lại. Kế đó, vô số nhện đen ẩn nấu dưới tán lá hoa mặt trời ùa ra với tốc độ kinh khủng, dấu hiện đặc biệt trên lưng lũ nhện đen làm người ta thoạt nhìn đã nhận ra được ngay - nhện “quả phụ đen” nổi tiếng thế giới. Bóng xám kia chẳng hề sợ hãi, hai tay như làm trò ảo thuật, chiếc túi chất dẻo to tướng loáng cái đã trùm cả đóa hoa lẫn vô số nhện đen vào trong, rồi chỉ nghe y nói như đang dạy dỗ đứa trẻ không chịu nghe lời; “Đêm qua tao mở tiệc, sao chúng mày không đến tham gia hả? Đừng có mà giảo biện, tao điểm danh đàng hoàng, rõ là không thấy chúng mày mà.”
Mười phút sau, lại có thêm một nhóm người nữa đến nơi này. Khi thấy đóa hoa mặt trời kép lại, Gonzales cười gằn nói: “Hừ, hình như chúng đã đụng phải thứ không nên đụng vào rồi. Khẳng định là có tên trúng độc, đuổi hết tốc lực cho tao.” Kẻ truy bắt phát hiện được dâu vết kẻ thù, và người đi trước lủi thủi mớ đường, tốc độ đôi bên cánh nhanh quả thật quá xa.
Ba Tang phạt đi một bụi cây bên cạnh, chau mày nói: “Có gì đó không ổn lắm thì phải.”
Cảm giác của Ba Tang không sai, từ khi vào rừng, khoảng cách tầm hai mươi bước xung quanh họ đều có một tiếng chim tiếng thú, nhưng ngoài hai mươi bước lại là cả một vùng hoa thơm ngào ngạt chim hót líu lo. Giờ đây phía sau họ im lặng như tờ, yên tĩnh đến nỗi làm người ta phải giật mình, rõ rang là có thứ gì đó khác buộc chúng phải câm lặng đang đuổi tới.
Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm: “Có người đuổi tới rồi, nhưng không phải là cảm giác khi nãy, lẽ nào, còn có người nào khác ở phía sau chúng ta nữa à? Liệu là ai được nhỉ?”
Hiệu quả của đợt huấn luyện đặc biệt lập tức thể hiện, vừa phát hiện ra tình hình không ổn, bốn người lập tức quay đầu đi ngược lại, bước đi nhịp nhàng đến kinh người.
Nhạc Dương nói: “ Bây giờ làm sao đây? Chúng ta có khai chiến với chúng không?” Trương Lâp giơ khẩu súng tromg tay lên: “Đương nhiên, chúng ta cũng là bị ép phải tự vệ mà thôi, lẽ nào lại đứng yên đây chờ chúng đến bắn chết. Không ngờ được huấn luyện đánh với quân địch giả tưởng mãi, lần đầu tiên dùng trong thực tế lại gặp ngay quân du kích Colombia .”
Nhạc Dương lo lắng nói: “Vậy không ổn lắm đâu, lần trước đã chết mấy người rồi, nếu tiếp tục thế này nữa, thù hận sợ sẽ càng lúc càng sâu, liệu có thành vấn đề quốc tế không nhỉ?”
“Ngu xuẩn!” Ba Tang xốc cổ áo Nhạc Dương lên, gằn giọng nói: “Bây giờ không phải lúc cho cậu từ bi đâu. Là người ta muốn lấy mạng chúng ta đấy, lẽ nào chúng còn chịu nghe cậu giải thích nữa chắc! Mà cậu cũng có phải không biết đám du kích này là thế nào đâu, nói hay ho thì gọi là quân du kích, thực tế chẳng qua là băng đảng xã hội đên được quản lý theo lối quân sự, buôn lậu, ma túy, đối kháng với chính phủ, có cái gì mà chúng không dám làm đâu! Còn chuyện chết người, mỗi ngày trong khu rừng này có ít người chết chắc, thế mà có ai hỏi tới đâu, cậu lo làm quái gì!”
Ba Tang buông tay, kéo xoẹt chốt súng cho đạn lên nòng, lại nói tiếp: “Nếu cậu còn giữ thái độ này đi đương đầu với bọn liều mạng kia, thì không chỉ một mình cậu chết thôi đâu, mà còn hại chết cả mọi người nữa!” Dứt lời, anh trừng mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, tỏ vẻ rất bất mãn với hành vi thả hổ về rừng của gã hôm trước.
Nhạc Dương thoáng đỏ mặt vì thẹn, Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Ba Tang nói không sai, đối với những kẻ như vậy không thể mềm lòng được. Chúng ta có thể không tàn sát bọn chúng, nhưng cũng không thể giảng đạo lý với chúng, đám người ấy chỉ tin vào thực lực, muốn chúng dừng truy đuổi chúng ta, trừ phi là làm chúng nhận thức được rằng chúng không đủ thực lực làm việc đó. Đi thôi, chuẩn bị phục kích!”
Lúc này, họ đã cách chỗ cây bụi bị phạt chừng trăm bước chân, bốn người chia nhau tản ra nấp vào chỗ kín đáo, Trương Lập và Ba Tang lần lượt trèo lên hai cây to hai bên, Nhạc Dương nấp trong bụi rậm, còn Trác Mộc Cường Ba thì ẩn mình phía sau một gốc cây lớn.
Một lát sau, tiếng bước chân của năm sáu người vang tới, không nghe thấy tiếng chó sủa, bốn người thấy yên tâm hơn rất nhiều. Năm tên cầm súng đã tiến vào phạm vi tấn công.
Năm tên kia đi thêm một đoạn nữa, bỗng phát hiện ra phía trước không còn đường đi nữa, một tên cất tiếng hỏi: “Phía trước hết đường rồi, thế còn bọn chúng đâu?” Tiếng súng lập tức vang lên.
Khẩu Steyr của Ba Tang vừa nổ đã có tên ngã xuống, viên đạn bắn vỡ xương sọ kẻ xấu số, nào tương lẫn máu bắn tung tóe, khóe miệng Ba Tang nở ra một nụ cười hiếm thấy, phảng phất như lại trở về với những ngày tháng đẫm máu thuở xưa. Bốn tên còn lại tuy có kinh hoảng, nhưng bọn buôn ma túy đã hoạt động nhiều năm trong rừng sâu này cũng không phải đèn cạn dầu, hai tên lập tức lăn xuống đất, nhào vào bụi rậm, hai tên khác giơ sung lên khạc lửa về  phí chạc ba nơi Ba Tang ẩn nấp, đoạn cũng tách ra.
Nơi Ba Tang ẩn nấp cực kỳ có lợi với người phục kích, chỉ hơi chuyển mình một chit là đã né được luồng đạn, kế đó anh ta lại giơ sung, ngắm qua, kết thúc thêm một tên địch khác đang nấp trong bụi cây. Một tên nấp vào gốc sau gốc cây cảnh giác quan sát phía trước, nhưng lại không chú ý đến Trác Mộc Cường Ba đã ở sau lưng mình từ bao giờ, Trác Mộc Cường Ba hơi do dự, không dùng đao hay sung, chỉ chặt tay xuống. Tên kia chẳng kịp hự lên tiếng nào đã ngã gục xuống, tước vũ khí trong tay đối phương, Trác Mộc Cường Ba nhìn lại bàn tay mình, không biết nên cảm thấy mừng vui hay lo lắng trước hiệu quả của đợt tập huấn này nữa.

(1) Viết tắt của Mini Mitraileuse (tiếng Pháp): súng máy hạng nhẹ 5,56 mm, do hãng FN của Bỉ sản xuất, dài xấp xỉ một mét, hiện nay được sử dụng rất rộng rãi trong quân đội nhiều nước trên thế giới.

Đột phá vòng vây
Trương Lập đã ngắm chuẩn một tên địch, nhưng trước khi ra tay, anh bỗng cảm thấy lạnh hết cả gáy. Trương Lập liếc mắt quét qua, chỉ thấy cành cây to bằng bắp tay trẻ con kia đang chầm chậm chuyển động, lớp vỏ cây lồi lõm gồ ghề hóa ra cũng chia thành những mảng hình củ ấu rõ rệt, đặc biệt là những vòng hoa văn một xám sậm, một xám nhạt kia cũng cuàng lúc càng thêm rõ rệt. Trương Lập cuối cũng kìm nén được nỗi kinh hoàng, quay phắt đầu lại, cái đầu rắn hình tam giác đó thập thò đầu lưỡi, đôi mắt mở trừng trừng nhìn anh không chút thiện cảm. Khi nhận ra đây chính là rắn hổ mang đầu nhọn, một trong mười loại thú độc nhất Nam Mỹ, Trương Lập căng thẳng đến suýt chút nữa thì rơi cả súng. Một người một rắn cứ gầm ghè nhìn nhau, dường như cả hai đều lấy làm bất an trước sự xuất hiện bất ngờ của đối phương. Cuối cùng mãi về sau mới lấy lại được bình tĩnh, Trương Lập lẩy cò súng, chẳng ngờ khẩu M4 tính năng ưu việt đến thế lại cĩng có lúc kẹt đạn. Ngón tay anh vừa nhích động, con rắn hổ mang kia cũng không chút khách khí ngoác cái miệng ra, hai chiếc nanh độc nhọn hoắt hăm he bổ tới bàn tay Trương Lập. Khoảnh khắc sinh tử ấy, Trương Lập chẳng suy tính gì nhiều nữa, liền đâm cả khẩu M4 đang cầm vào đầu rắn, cả súng lẫn rắn cùng rơi xuống đất.
Nhạc Dương bóp chặt khẩu súng đang cầm trên tay, tên địch phía trước cứ ló ra ló vào, vẫn luôn nằm trong phạm vi hỏa lực của anh ta, nhưng Nhạc Dương không sao ra tay được. Từ trước tới nay, Nhạc Dương luôn được khen ngợi là lính trinh sát ưu tú bởi tài năng lần theo dấu vết thiên bẩm, nhưng đối với cuộc chiến chẳng đầu chẳng đuôi này anh không sao thấy thoải mái được. Không khát máu như Ba Tang, rốt cuộc anh làm vậy là để giữ mình, để tiêu diệt tội phạm, hay là để trừ bạo an dân? Anh cần phải tìm cho mình một số lý do hợp lý để nổ súng. Đúng lúc ấy, một vật bỗng rơi từ trên cao xuống, theo đó là tiếng kêu của Trương Lập: “Tránh ra, rắn độc!” Không chút do dự, Nhạc Dương lập tức lẩy cò, cho tới khi con vật đang vặn vẹo trước mặt nát nhừ ra, không động đậy gì nữa mới thôi.
Như vậy, Trương Lập và Nhạc Dương cũng lúc bị lộ mình, đạn của quân địch tức khắc bắn tới không chút thương xót, Trương Lập lách người ra sau tán cây, nhưng chỗ chạc ba nhỏ xíu chẳng chắc chắn gì lắm ấy bị quét cho một loạt đạn đã gãy lìa, Trương Lập nhảy vội nhảy vàng từ chỗ cao năm sáu mét xuống, tư thế vô cùng khó coi. Nhạc Dương thì lăn tròn dưới đất, luống cuống tránh đạn. Ba Tang tức giận ngoác miệng ra mắng: “Hai người các cậu! Làm cái trò gì vậy!” Khẩu St eyr trong tay anh ta đang bắn từng viên một chuyển thành bắn cả tràng dài, một loạt đạn quét qua trúng phải quả lựu đạn giắt ngang hông một tên địch, tiếng nổ ầm ầm vang lên, mảnh đạn suýt chút  nữa thì văng cả vào chính Ba Tang luôn.
Kẻ địch dường như cũng đã ý thức được, Ba Tang mới là chủ lực của đám người này, anh ta vừa ló đầu ra, đã bị mấy loạt đạn ép rụt trở vào, kế đóa là một quả lựu đạn Mỹ rơi chuẩn xác vào đúng chạc cây anh ta đang nấp.
Tiếng súng quen thuộc, tiếng lựu đạn nổ cũng quen thuộc, tầm mắt Ba Tang bỗng nhiên trở nên mơ hồ, khi anh ta đang cố sức nhìn rõ tình hình xung quanh, thì lại chỉ thấy những gương mặt hết sức thân thuộc, Bandaba, Ghidaba, Mada … phải rồi, mọi người tay cầm súng, vừa rút lui vừa nổ súng phản kích, rốt cuộc là cái gì? Rốt cuộc là đang ở đâu? Thứ gì đang đuổi theo họ? Anh ta nhìn thấy những đồng đội quen thuộc, họ cũng đang ở trong rừng sâu, gương mặt mỗi người đều tóat lên vẻ kinh hoảng, Cây ở đó cao hơn, to hơn, dày đặc hơn, thực vật toàn là những loại họ chưa bao giờ trông thấy, chúng còn đáng sợ hơn, hình dáng quái dị, phảng phất như đang cử động, dường như họ lạc vào khu rừng toàn cây ăn thịt người vậy.
Khoảnh khắc trước khi quả lựu đạn phát nổ, Ba Tang lại lần nữa chìm đắm vào ảo giác, trước mắt anh ta, tất cả đều quá quen thuộc, tất cả những chuyện xảy ra hôm nay đều là lặp lại của quá khứ. Khi Ba Tang lắc mạnh đầu tỉnh táo trở lại, quả lựu đạn đã ở gần trong gang tấc.
Nói là Ba Tang nhảy xuống nhưng xem ra anh ta bị nổ văng xuống thì đúng không, chỉ thấy Ba Tang lăn vào trong bụi cây, loáng cái đã biến mất.
Tên địch còn lại dựa lưng vào thân cây, hướng về phía lùm cỏ, họng súng đã ngắm chuẩn vào Ba Tang từ trên cao nhảy xuống. Trác Mộc Cường Ba ở trên trái hắn, rút sao săn ra, “vù” con dao bắn vút đi, tên kia trung dao vào cổ tay, cả loạt đạt đều sượt qua bên người Ba Tang. Ba Tang đã lấy lại được bình tĩnh, họng súng liền xả ra lưỡi lửa phẫn nộ bắn cho tên kia nở hoa khắp người, cho tới khi băng đạn hết nhẵn, Ba Tang mới dừng lại. Ba Tang lúc này quần áo bị cào rách bươm, máu lẫn mồ hôi chảy ròng ròng, gương mặt trông như hung thần ác sát. Trác Mộc Cường Ba thấy anh ta say máu như vậy cũng không khỏi ghê người, vội vàng nói: “Được rồi, giờ kẻ địch ở đây đã bị tiêu diệt hết, trước khi những tên còn lại kịp bao vây, chúng ta mau rút thôi.”
Nhìn Trương Lập và Nhạc Dương mặt mũi lem luốc lồm cồm đứng lên khỏi bụi rậm, Ba Tang lấy làm tức giận, bực tức quát: “ Tay chân luống cuống, chẳng ra bộ đội đặc chủng cái giống gì cả!” Từ lúc nổ súng đến khi trận chiến kết thúc, cả quá trình diễn ra trong chưa đầy năm phút đồng hồ, ngoại trừ Trác Mộc Cường Ba khắc chế được một tên địch, Trương Lập, Nhạc Dương đều tỏ ra thất thố, so với biểu hiện lúc huấn luyện thì còn kém rất xa.
Trác Mộc Cường Ba đi tới trước mặt Ba Tang nói: “Tuy đều trải qua huấn luyện đặc biệt, nhưng họ cũng như tôi, trước nay chưa từng nổ súng giết người bao giờ, chuyện này cũng không trách họ được.” Ba Tang giận dữ trừng mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, còn định nói gì đó, bỗng nhiên đẩy mạnh gã sang một bên. Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, sau đó nghe thấy tiếng súng, chỉ thấy đầu vai Ba Tang tóe máu, rồi anh ta ngã ngửa ra, con dao săn theo đó lao vút khỏi tay: “Hự” một tiếng, kẻ vừa nổ súng trúng dao ngay cổ họng, máu bắn vọt như suối phát ra tiếng “òng ọc”, chỉ thấy máu vẫn nổi bong bong khí, nhưng nạn nhân thì đã không thể thở nữa, chẳng mấy chốc co rúm người lại ngã xuống chết nốt. Thì ra là tên bị Trác Mộc Cường Ba đánh cho ngất xỉu lúc nãy, Trác Mộc Cường Ba dùng sức chưa đủ, hồi sau hắn tỉnh lại, mà gã thì sơ ý quên mất không lấy hết vũ khí trên người hắn.
“Bị thương nặng không?” Trác Mộc Cường Ba định đỡ Ba Tang dậy thì bị anh ta thô lỗ đẩy ra xa, rồi quát gắt lên: “Mẹ nó, giết người lại không giết chết! Anh làm đội trưởng cái mẹ gì thế!” Trác Mộc Cường Ba sầm mặt xuống, không nói gì nữa.
Ba Tang ngồi dưới đất, thở hổn hển vì những ảo giác vừa trông thấy. Trương Lập tưởng anh ta bị thương nặng, liền đưa băng gạc cho, nhưng lại bị Ba Tang cự tuyệt. Ba Tang để tâm trí bình tĩnh lại, rồi tự xé cái áo đã rách bươm ra rịt vào cầm máu, nhìn con rắn hổ mang bị Nhạc Dương bắn cho đứt thành ba khúc, anh ta cười khẩy châm biếm “Bắn chuẩn lắm.” Thực ra là muốn bóng bẩy bảo Nhạc Dương: Cậu chẳng bắn trúng tên địch nào hết.
Nhạc Dương lật một cái xác lên, thấy trên người chết không có quân hàm gì, y phục cũng không giống quân trang của đội quân chỉnh tề, liền nghi hoặc hỏi: “Không phải quân du kích à?” Ba Tang nghe tiếng, liền chụp lấy một thi thể bên cạnh, giật vạt áo hắn lên, sắc mặt lập tức đanh lại: “Là bọn buôn ma túy!” Theo những tư liệu họ tra cứu được, hình xăm rắn hai đầu này được thành viên của một tổ chức con nằm trong tổ chức của ba tên trùm ma túy hàng đấu sử dụng. Trong rừng rậm, quân du kích Col ombia đương nhiên là thế lực lớn nhất, nhưng phạm vi hoạt động chủ yếu của chúng chỉ giới hạn trong lãnh thổ Col ombia , tuy nói là cũng tham gia trồng cấy, gia công vận chuyển ma túy, nhưng đối lập với chính phủ mới là mục đích của chúng; còn bọn buôn lậu này thì hoàn toàn khác, chúng dựa vào ma túy để sống, rừng sâu biên giới xưa nay đều là con đường thích hợp nhất để chúng vận chuyển ma túy, bọn chúng ở trong nhưng khu vực được gọi là không người này thật chẳng khác nào như về nhà mình, lại còn có buôn bán qua lai với các bộ tộc người Anh điêng nữa. Nếu nói quân du kích là hổ là sói trong rừng nhiệt đới, thì bọn buôn ma túy lần mò khắp chốn, thế lực phức tạp đa đoan vươn dài đi khắp các quốc gia Châu Mỹ chính là cáo, là rắn của rừng già. Trong rừng nhiệt đới này, dây dưa với chúng, so với đụng độ quân du kích còn khó chịu hơn nhiều.
Quân du kích truy sát bọn Trác Mộc Cường Ba là vì bọn gã liên quan đến cái chết của các thành viên của chúng, còn bọn buôn ma túy này sao cũng gia nhập hàng ngũ những kẻ truy kích? Nhất thời cả bọn còn chưa kịp nghĩ xem là duyên cớ gì, tiếng súng đã lại vang lên.
“A” một tiếng, lần này người trúng đạn là Nhạc Dương. Vài viên đạn bắn xuyên qua ba lô leo núi, trúng ngay mông anh chàng, cũng may là cái ba lô đã giảm bớt lực đạn nên mới không bị thương nặng. Đồng thời cả bốn người cùng hiểu ra, kẻ địch không chỉ có năm người, mà là chia thành hai nhóm, năm tên đi trước chẳng qua chỉ là bia đỡ đạn để dụ cho bọn họ để lộ hình tích. Không biết kẻ địch số người trang bị thế nào, bốn người vừa ngoác miệng ra chửi, vừa tản ra chạy trối chết. Trước khi đi, Trương Lập nấp sau gốc cây, rút một sợi chỉ ở chỗ rách trên áo ra buộc chốt an toàn quả lựu đạn trên tay một tử thi quàng vào một bụi cây buộc phải đi qua, tổng cộng mấy bảy giây đã làm xong một cái bẫy mìn đơn giản, hy vọng có thể cản bước kẻ địch lại thêm một lúc.


Gonzales quả không hổ là con cáo già của rừng nhiệt đới, dựa vào tư liệu Merkin cung cấp và tin tức ở Putumayo đưa về, hắn biết bốn người ngày chắc chắn có khả năng chiến đấu nhất định. Vừa tiến vào rừng, hắn lập tức dựa vào mật độ cây cối để phán đoán mục tiêu, phạm vi nhìn thấy được trong rừng vào khoảng trên dưới hai trăm mét, nên hắn chia thủ hạ thành hai nhóm, đi cách nhau năm trăm mét, phát hiện kẻ địch một cái là hô ứng được với nhau luôn. Phía trước vừa vang lên tiếng súng, nhóm của hắn liền chầm chậm lặng lẽ áp sát, kẻ địch ẩn nấp rất tốt, nhất thời không thể nắm bắt được toàn bộ động hướng của đối phương, nên bọn hắn chỉ im lặmg quan sát. Nhưng chính hắn cũng không thể ngờ kẻ địch lại phản ứng thần tốc đến thế, vừa đụng độ đã giải quyết xong năm tên rồi, xem ra bốn người này không phải là hạng tầm thường.
Hướng về phía bọn Trác Mộc Cường Ba bỏ chạy, Gonzales một tay cầm súng, một tay nâng băng đạn, thân hình mập lùn của hắn trong ánh lửa trở nên dũng mãnh mà hung ác. Gần trăm viên đạn đã sạch trơn, cũng không biết rốt cuộc bắn trúng được mấy người, Gonzales bắn đã đời xong mới ra lệnh cho bọn thủ hạ bên cạnh: “Đuổi tiếp!”
Hai tên thủ hạ bên cạnh vừa chạy được vài bước, Gonzales chợt nghe một tiếng “cách” như có thứ gì vừa tuột ra, hắn phản ứng cực nhanh, thân thể mập mạp lắn sang một bên như trái bong, kế đó chỉ nghe “ầm” một tiếng. Lúc Gonzales đứng dậy, đã có thêm hai tên hạ thủ nữa ngã xuống, một tên đứng gần đó vẫn chưa hết hoàn hồn, nói: “Đại ca … còn đuổi nữa không?”
Sắc mặt Gonzales dần chuyển sang màu xanh, đám thủ hạ cảm giác được một luồng khí lạnh lẽo đến độ áp chế người khác đang tỏa ra trên người đại ca của chúng, cuối cùng, Gonzales lạnh lùng nói: “Phong tỏa đường sông, gọi trực thăng đi!” Nói đoạn, liền dẫn lũ tàn binh rút lui.

Bụi gai chằng chịt, cây lớn cản đường, mãnh thú ẩn mình, những thứ này đều không thể cản bước những kẻ đang chạy trốn, không thể nghĩ ngợi quá nhiều nữa, nếu muốn sống sót trong cánh rừng nhiệt đới này, vậy thì phải tranh đoạt thời gian với bọn người đang truy đuổi phía sau kia. Tiếng súng đầu tiên vang lên, hẳn là đã thu hút các nhóm vũ trang ở khu vực quanh đây lại, nếu muốn thoát khỏi cánh rừng này, thì buộ phải thoát trước khi kẻ địch phong tỏa đường sông, hình thành vòng vây khép kín. Quần áo bị móc rách, chân tay bị chà đến sưng rộp lên, ba lô sau lưng nặng như núi đa, những thứ này đem so với sinh mệnh cao quý thì có đáng là gì đâu chứ. Bốn người dường như đã chọn phải con đường cỏ cao, cây rừng lại dày đặc, xem ra là khó đi nhất, nhưng đây mới chính là kết quả của một sự lựa chọn kỹ càng, mặc dù đi theo hướng Đông là sẽ tới được đích đến, nhưng đó lại là con đường dài nhất, thì buộc phải đi theo hướng vắt ngang mà thôi. Bọn truy đuổi phía sau không biết còn có bao nhiêu người, nhưng chỉ nghe tiếng súng sau lưng vang lên liên miên không dứt là biết hỏa lực của kẻ địch cực mạnh rồi. Bốn kẻ đào tẩu đáng thương, thê thảm nhất là đến giờ cũng không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, dường như từ lúc bước chân vào khu rừng này, họ đã bị sắp đặt sẵn cho số mệnh bị truy đuổi rồi vậy. Tuy trong lòng đều lấy làm bực tức bất bình, miệng thì không ngừng nguyền rủa mắng chửi, có người còn khập khà khập khiễng, nhưng tất cả đều chạy nhanh như bay. Dần dần phía sau không còn nghe động tĩnh gì nữa, tiếng súng dường như cũng dừng lại, nhưng bốn người đều không có ý định dừng chân, cả bọn đều hiểu rõ, vùng này là thiên hạ của kẻ địch, xung quanh còng không biết còn có bao nhiêu tên khác nữa. Kẻ địch không có động tĩnh, không có nghĩa là bọn chúng đã ngừng truy bắt, nhất định có hành động gì đó quy mô còn lớn hơn đang đợi chờ bốn người họ phía trước.
Cây rừng phía trước mỗi lúc một thưa thớt, bờ sông đã ở ngay trước mắt, tiếng nước róc rách như vẫy gọi họ tới con đướng sáng, trong lòng bốn người khấp khởi một tia hy vọng. Thế nhưng, đúng lúc họ dừng lại, ép mình sau gốc cây quan sát tình hình, bỗng nhiên thấy hai chiếc ca nô “phạch phạch” đi ngược chiều nhau trên mặt sông phía trước, còn một dải ven rừng hình như cũng có vô số bóng người đang di động, dường như còn có cả … tiếng chó sủa.
Rõ ràng họ đã chậm mật một bước, kẻ địch đã hoàn thành được vòng vây, chẳng những phong tỏa đường sông, mà còn phái người bắt đầu lục soát trong rừng, Ba Tang ngửa mặt nhìn lên trên, rồi lại bắt đầu chửi bới. Nhạc Dương lật đi lật lại xem mấy tấm bản đồ vệ tinh, hy vọng tìm ra cách đột phá vòng vây, Trương Lập thì cứ mó máy khẩu M4, đếm xem còn bao nhiêu băng đạn, còn bao nhiêu viên đạn.
Nhạc Dương quan sát xung quanh rồi phân tích sơ bộ. Nhóm ở khoảng rừng bên trái không dưới năm mươi tên, bên phải cũng khoảng ba bốn mươi tên, dựa vào cách ăn mặc của chúng thì ít nhất cũng có một phần là quân du kích, mấy người quân ta không thể cùng lúc chống chọi lại nhiều kẻ địch như thế được; hơn nữa bọn chúng còn có cho săn, chẳng mấy chốc là dựa được vào mùi hơi để tìm thấy bọn này; còn trên sông thì đã bố trí ca nô tuần tra, gần như cứ năm phút lại có một ca nô chạy qua, với tầm nhìn trên sông, bất kể là họ lao ra vào lúc nào cũng đều bị kẻ địch phát hiện ngay lập tức. Từ trên cao quăng dây nhảy qua; bơi qua; cho nổ thuyền làm kẻ địch chú ý, thừa cơ tẩu thoát … từng ý nghĩ hình thành trong đầu Nhạc Dương, rồi lần lượt bị phủ quyết. Anh chàng thở dài nói: “Vừa có quân du kích, vừa có bọn buôn ma túy, đánh chẳng được mà chạy cũng không xong, giờ xem ra chỉ còn cách ngoan ngoãn chờ chết thôi.”
Trương Lập nói: “Thật đúng là đen đủi, cả tại sao mình chết mà cũng không biết nữa, thiên lý ở đâu chứ!”
Ba Tang khan giọng quát: “Câm miệng! Một chút khó khăn nhỏ xíu đâu đáng để thở vắn than dài như thế.”
“Một chút khó khăn hả!” Trương Lập đớ người, “Đại ca Ba Tang của tôi ơi, chẳng lẽ anh không nghĩ rằng chúng ta đã cùng đường mạt lộ rồi hay sao?” Ba Tang chỉ cười khẩy thay lời đáp.
“ Chư a chắc đâu.” Cuối cùng Trác Mộc Cường Ba cũng lên tiếng, gã bảo bốn người tụm lại, thấp giọng nói: “Như vầy ... như vầy …”
Đội tầm nã đã nhận được mệnh lệnh, tìm kiếm gắt gao ở khu ven sông, nhưng không được vào sâu trong rừng. Nhóm dẫn chó lùng sục bên cánh trái đang cẩn thận tra xét những nơi có thể ẩn náu, đột nhiên con chó săn bỗng dựng đứng lên, kéo căng dây xích chạy về phía Đông. Tên dắt chó phát hiện có chuyện, lập tức gọi đồng bọn chạy theo. Đi theo chó săn, chúng tìm thấy một vật trông giống cái bình bọc trong đống vải, đang tỏa ra một mùi hương kỳ quái, chính thứ mùi này đã kéo chó săn tới đây. Tên dắt chó liền cầm món đồ bọc vải ấy lên, “tạch” một tiếng, sợi dây phía dưới bọc vải đứt làm đôi, tên dắt chó thoáng ngẩn người. Ánh lửa lóe lên, bùn đất bắn tung tóe hất tung cả người lẫn chó lên cao. Những tên còn lại thấy bóng người thấp thoáng, rõ ràng đã lẩn vào trong rừng, cả bọn vội vàng chạy theo.
Đám người bên phải nghe thấy tiếng nổ, cũng chạy tới, rõ ràng nghe thấy người phe mình phía trước đang hỏi: “Người đâu?” Bọn chúng vừa định trả lời, đã bị một con dao săn ở đâu bay tới đâm chết một người, kế đó là tiếng súng, hỏa lực của đối phương hình như là khá mãnh liệt. Đám người bên phải nổi điên lên, không hề khách khí nổ súng đáp trả.
Khi hai bên bắn nhau túi bụi, bốn kẻ gây chiến đã len lén lùi ra xa hơn trăm mét, vòng qua hai phe đang giao chiến, đến chỗ ngã tư sông. Vốn là ca nô tuần tra phong tỏa đường sông hô ứng từ xa, tuyệt đối không có một kẽ hở nào, nhưng khi chúng nhận ra hai bên đang giao chiến rõ ràng đều là người mình, tự nhiên là phải gào thét cản lại. Trong lúc sự chú ý của người trên thuyền tập trung cả lên bờ, không ai phát hiện ra, bốn trái bóng khổng lồ màu xanh lục lăn xuống sông, kế tiếp đó, bốn cây cọc gỗ không có gì nổi bật chìm vào mặt nước, chớp mắt đã biến đi trong tầm mắt.
Cuộc đấu súng kéo dài mười phút mới lắng xuống, sau khi phát hiện là người phe mình, cả hai bên đều chỉ trích đối phương khai hỏa trước, nhưng cuối cùng cũng không làm cho rõ được tại sao cả bọn lại lao vào bắn nhau túi bụi như thế. Bọn chúng làm sao biết được, nếu nói về chiến tranh du kích trong rừng, Trung Quốc mới chính là cái nôi phát triển của chiến thuật du kích hiện đại.
Bên kia sông, một kẻ đang náu mình trong rừng sâu buông chiếc ống nhòm điện tử xuống, gương mặt gầy đét hiện lên nét cười khinh khỉnh: “Vậy mà cũng thoát đi được, xem ra vẫn còn may lắm.”
“Hê! Mày là ai! Đứng yên đó! Giơ tay lên!” Soares giơ cao cả hai tay theo yêu cầu của đối phương, đồng thời dùng tiếng địa phương nói: “Đừng nổ súng! Ta là bạn của Gonzales!” Y chầm chậm quay người lại. Một nhóm du kích chừng mười tên đang đứng trước mặt, tên dẫn đầu nói:
“Hắn bảo cái gì? Tao có nghe lầm không hả?”
“Hắn bảo hắn là bạn của thằng mập! Ha ha!”
“Hây, đừng cử động, đừng đung đưa mà lại!” Một tên du kích giơ súng lên ngắm vào Soares, bảo y đứng yên chẳng qua là để ngắm chuẩn hơn một chút.
Tiếng súng nổ vang, chỉ thấy bóng xám phía trước lóa lên, không ngờ lại không bắn trúng. Soares đã bổ nhào vào rừng câu trước khi viên đạn bắn tới một giây, sau lưng súng nổ liên hồi. Mặc dù Soares tránh được hết cả loạt đạn, nhưng cuộc đụng độ bất ngờ này cũng làm y lăn lộn khốn đốn một phen. Mặt mũi dính bê bết bùn đất.
Soares bừng bừng tức giận: “Lũ chuột vô tri, không ngờ lại dám nổ súng vào ông chúng mày đâu, để ông cho chúng mày nếm thử Luyện Tâm đạn cỡ nhỏ. Soares Kahn tao xin thề, nhất định phải khiến chúng mày chết khổ chết sở!”
Không biết thứ gì trong bụi cây ném ra, mấy tên du kích tưởng là lựu đạn, liền thụp người xuống sát mặt đất. Vật kia nổ giữa không trung, nhưng không có mảnh đan bắn tung tóe, mà là vô số dịch thể dinh dính màu xanh rải xuống như người ta tưới hoa, một thứu mùi kỳ dị lan tỏa khắp trong không khí. Đám du kích lần  lượt đứng lên, chạy được tới chỗ Soares nấp thì đã không thấy người đâu. Lúc này, chúng mới chú ý đến thứ dịch thể kia, nhìn những mảng xanh lốm đốm trên người đồng đội, cả bọn nhốn nháo hỏi nhau: “Cái thứ gì đây?” “Mùi gì thế nhỉ?” “Phì phì, cái thứ này đắng quá, hê, lại còn hơi ngòn ngọt nữa, là cái quái gì nhỉ?” “A, mắt tao, thứ đó rơi vào mắt tao rồi, không thấy gì nữa. Có phải có độc không? Mau giúp tao rửa sạch nó đi!”
Quân du kích quanh năm sống trong rừng hiểu rõ thế nào là độc hơn người bình thường rất nhiều, bọn chúng kinh hồn hoảng vía, vội vàng chạy đi kiếm huyết thanh. Soares đứng nghiêng người dựa vào gốc cây vẫn chưa hết cơn giận, lẩm bẩm thầm nhủ: “Đây vốn không phải thứ dành cho chúng mày, tự chúng mày chuốc vào đấy nhé. Hừ, chạy hả? Chỉ cần chúng mày còn ở Châu Mỹ, thì đừng hòng thoát chết.” Soares lại lấy ra một cái lọ thủy tinh, lầm bầm như niệm chúng: “Hoàng hậu của ta, đi triệu tập thủ hạ của mày đi, mang bọn người vô tri ngu xuẩn kia xuống địa ngục cho chúng biết thế nào gọi là Luyện Tâm.” Nắp bình mở ra, một con ong vàng to tướng dài phải đến năm centimet cựa quậy chen ra khỏi miệng bình nhỏ hẹp, phảng phất như bị thứ gì đó kích động, nó hưng phấn đảo lên không trung mấy vòng, rồi đập cánh bay vút đi. Nếu đám du kích kia mà biết sắp tới sẽ xảy ra chuyện gì, e là sẽ sợ đến hồn vía lên mây mất, con ong vàng ấy có một cái tên mà người ta chỉ cần nghe thôi đã thấy táng đởm kinh hồn rồi – ong sát nhân châu Mỹ.
Tiếng “phạch phạch phạch” từ xa vang lại, nhưng không phải con ong vàng kia bay đi rồi trở lại, mà là một thứ to hơn ong vàng mấy lần đang từ phía Tây bay tới phía Đông. Soares nhìn ba chiếc trực thăng phía xa, chau mày nói: “Đến nhanh quá, xem ra cứ nên rời khỏi mảnh đất thị phi này trước thì hơn.”
 
Ký ức tái hiện
“Ục ục ục …” Lặn dưới nước một đoạn, bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba tìm một nơi tương đối ẩn mặt để lên bờ, thoát khỏi vòng vây, đi vào một cánh rừng khác. Tuy có hơi lệch so với tuyến đường trong kế hoạch ban đầu, nhưng tạm thời có thể nói là an toàn. Còn chưa đứng vững chắc, đã nghe tiếng cánh quạt phành phạch trên cao, ba chiếc trực thăng chao lượn như ba con chuồn chuồn đen kịt, hai bên nách không ngừng rải một thứ bột trắng xuống khu rừng. Dù không biết là gì, nhưng có thể khẳng định tuyệt đối không phải thứ tử tế, chỉ thấy vô số chim chóc láo nháo bay lên chạy trốn, nhưng vừa chạm phải màn sương bột ấy, liền bị chết cóng trong khoảnh khắc, thân thể cứng đờ rơi bịch xuống dưới. Trương Lập vẫn chưa hết sợ nói: “ Nguy hiểm quá, suýt chút nữa là không ra khỏi cánh rừng đó được rồi”
Nhạc Dương thắc mắc: “Chẳng qua là đối phó bốn người chúng ta thôi, dùng đến cả trực thăng như vậy chẳng phải là lấy đại pháo bắn muỗi sao? Hơn nữa, rải thuốc sát trùng như vậy, lá cây trong rừng rậm sẽ che chắn hết, đâu có để rơi đến chỗ chúng ta được?” Lời còn chưa dứt, Trương Lập đã đờ người ra huých tay anh chàng: “Cậu … cậu xem kìa, lá … lá cây rụng hết cả rồi!”
Rừng cây vốn đang xanh um tùm tươi tốt, cánh lá vừa chạm phải bụi phấn kia liền chuyển sang màu vàng, khô héo rụng rời. Nhạc Dương kinh hãi thốt lên: “Bọn chúng, bọn chúng dám dùng cả vũ khí sinh hóa cơ à, đáng sợ quá!”
Ba Tang lạnh lùng nói: “Có thời gian ở đây sợ sệt, chỉ bằng chạy nhanh hơn một chút đi!”
Trác Mộc Cường Ba không dừng bước chân, nói: “Đúng vậy, chỉ cần chúng không phát hiện ra xác chúng ta trong cánh rừng đó, tất sẽ biết chúng ta đã chạy thoát. Điều chúng ra cần nhất bây giờ là một tuyến đường chính xác, nhanh chóng thoát khỏi sự truy đuổi của kẻ địch. Những ké này thật đáng sợ quá, cứ như chúng ta bị cuốn vào một cuộc chiến vậy.”
Trương Lập và Nhạc Dương đưa mắt nhìn nhau, dường như không muốn nhắc đến chuyện gì đó, nhưng Nhạc Dương cứ gật đầu gật đầu cổ vũ Trương Lập. Cuối cùng, Trương Lập đành rảo nhanh bước chân, đuổi kịp Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang: “Chúng ta không làm chuyện gì quá đáng, không thể nào cùng lúc đắc tội với cả quân du kich lẫn bọn buôn ma tuy được. Tôi vẫn kiên trì ý kiến cho rằng, đây là do cấp trên cố ý sắp xếp để nâng cao năng lực thực chiến của chúng ta. Cường Ba thiếu gia, trước khi xuất phát không phải anh vẫn luôn cảm thấy chúng ta đã đủ năng lực đi tìm Bạc Ba La thần miếu rồi hay sao? Tôi nghĩ, chính vì nguyên nhân này, chúng ta mới bị khảo nghiệm như vậy đấy.”
Trác Mộc Cường Ba cúi xuống ngẫm nghĩ, rồi lắc đầu nói: “Thế này … chắc không đâu, giáo quan mà làm như vậy, thì không khỏi có hơi quá đáng rồi. Bất kể thế nào, nếu thoát hiểm được, nhất định tôi sẽ liên lạc với bà chằn ấy, nhất định phải hỏi cho rõ ngọn ngành xem rốt cuộc là cô ta giở trò gì.”
Bốn người lúc nãy, người nào cũng đầy mình thương tích, vừa nãy chạy hết tốc lực trong rừng, có nhiều chỗ bị cào, bị móc rách da rách thịt, có loài cây còn chứa cả độc tố nhẹ, vết thương bắt đầu sưng vù đỏ tấy lên, lúc nãy vì giữ mạng nên cả bọn đều quên cả nỗi đau thân thể, còn bây giờ đã chạy khỏi vòng vây, cơn đau như thiêu đốt bắt đầu trở nên rõ rệt. Trong bốn người có hai người bị trúng đạn, nhưng thậm chí họ còn chẳng có thời gian dừng lại băng bó vết thương nữa. Nhìn tình cảnh trước mắt, điều làm Trạc Mộc Cường Ba lo lắng hơn cả không phải nhóm người của mình, “Nhóm của Mẫn Mẫn bây giờ ra sao rồi nhỉ? Bọn họ có đụng độ với quân du kích không? Không chắc là không có chuyện gì đâu.”
Trương Lập quay đầu nhìn cánh rừng họ vừa bị bao vây, người đi trong ấy thì chậm, nhưng máy bay trực thăng thì chỉ mật hai ba mươi phút là dợt hết một vòng. Anh quay sang hỏi Nhạc Dương: “Cậu có ý kiến gì hay không?”
Nhạc Dương nói: “Rải thuốc độc như bọn chúng thế này, sợ nhiều lắm chỉ cần một tiếng đồng hồ là xong hết, tới lúc đó không phát hiện ra hi thể chúng ta, chắc chắn chúng sẽ tăng hết tốc lực đuổi theo. Dù nói là chúng ta tiến về phía Bắc, có lẽ hơi nằm ngoài dự đoán của chúng, song thế nào thì cũng vẫn là đang tiến sâu vào hang ổ của quân du kích, bọn chúng người đông thế mạnh khó đảm bảo chúng ta không bị phát hiện được. Vì vậy, tôi thấy, cần nhất là phải chọn một con đường tẩu thoát thật nhanh, rời khỏi phạm vi thế lực của chúng. Từ đây cắt ngang cánh rừng nay, thẳng tiến về phía trước, rồi vượt qua hai hoặc ba cánh rừng nữa, sao đó chuyển hướg đi về phía Đông, làm một cái bè gỗ đơn giản, đi xuôi dòng nước, đây là cách đào tẩu nhanh nhất trong những cách tôi nghĩ ra rồi đấy. Mọi người thấy sao?”
Bốn người vừa rảo bước tiến nhanh vừa đưa mắt trao đổi, biểu thị đồng ý. Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng với tốc độ của chúng ta hiện nay, sợ rằng chưa đi được xa như thế đã bị chúng đuổi kịp mất rồi.” Nhạc Dương lại nói: “Đúng vậy, trong khu rừng đầy bụi gai này nếu chỉ dựa vào sức người mà muốn đi nhanh thì không thể được, vì vậy, tôi nghĩ rằng chúng ta không nên đi kiểu thế này nữa.”
Thấy mọi người đều tròn mắt lên nhìn mình, ánh mắt anh sáng lóe lên: “Có thấy vượn người ở Thái Sơn bao giờ chưa?” Nói đoạn, anh ta ngẩng đầu nhìn lên, vừa hay có một bầy khỉ đuôi sóc dừng lại trên ngọn cây, dường như cũng biết mấy người bên dưới không thể làm hại gì mình, bọn chúng vẫn vô tư hỉ hả vui đùa. Chúng nhảy từ chỗ chạc ba này sang chỗ chạc ba khác, những lúc khoảng cách quá lớn, những con nhỏ hơn không thể nhảy qua được, một con khỉ to sẽ móc tay móc chân vào một cành cây, đuôi quấn vào một cành khác, thân mình làm cầu, bọn khỉ con liền đi qua một cách dễ dàng.
Ba người còn lại cũng hiểu ra, lập tức ngẩng đầu lên nhìn những thân cây khổng lồ nằm san sát, cành cây nối nhau to ngang người ôm, có cây còn mọc rễ nơi chạc ba buông xuống sát mặt đất, nhiều cây khác thì bị các loại dây mây dây leo quấn tròn xung quanh. Trương Lập nhìn cánh tay băng bó của Ba Tang, lẩm bẩm nói: “Như vậy được không? Nhưng mà cũng nên thử một phen coi sao.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không vấn đề gì đâu, đến lúc xem thành quả huấn luyện của chúng ta thế nào rồi.”
Muốn lên cây, trước tiên phải bỏ lại một phần trang bị, nếu không, đừng nói là vượn người Thái Sơn, mà cả Tarzan cũng chẳng thể đeo ba bốn mươi cân trên lưng mà nhảy nhót như bay trong rừng được. Nói làm là làm luôn, bốn người ném hết các đồ bằng sắt, từ xẻng sắt, nồi sắt, bình nước sắt, đinh tán dùng leo núi, vòng số tám, đinh chốt, tời kéo, vì họ cảm thấy trong rừng già này dường như không có đất dùng tới những thứ này; sau đó cả lều bạt cỡ lớn cũng không cần nữa, thứ ngày tốt thì có tốt thật, nhưng chiếm quá nhiều trọng lượng, có rất nhiều thứ bốn người chuẩn bị vì coi chuyến đi này chỉ như một cuộc du lịch dã ngoại, bây giờ ai nấy đều mệt nhoài lo giữ mạng, những thứ đó không còn ý nghĩa gì nhiều nữa. Ngoài đồ hộp, bốn người chỉ giữ lại một phần thức ăn dinh dưỡng dạng nén, cho tới khi mỗi ba lô chỉ còn khoảng mười cân, cả bọn mới trèo lên cây.
Hồi trước khi băng qua rừng rậm nguyên sinh họ cũng từng làm chuyện tương tự như vậy rồi, thế nên tiến lên theo cách của loài khỉ thế này cũng không phải chuyện gì khó khăn, chỉ thấy bóng bốn người trồi lên thụp xuống, hoàn toàn không kém cạnh gì lũ khỉ vượn kia. Chỗ nào nhiều dây leo thì họ trực tiếp đu qua luôn, nhìn chuẩn phương hướng, rồi bám từ sợi này đu qua sợi khác, tốc độ di chuyển so với viẹc len lỏi tránh các bụi gai trên mặt đất nhanh hơn rất nhiều. Tới chỗ nào ít dây leo hoặc không thể cầm nắm, bọn Trác Mộc Cường Ba liền trực tiếp đi đường trên không, từ chạc ba cây này nhảy sang chạc ba cây khác, tuy là hệ số nguy hiểm cao hơn một chút, nhưng đem so với súng đạn của quân du kích và bọn buôn ma túy thì chẳng đáng là gì cả. Vả lại, trên vai mối người đều đeo một cuộn dây thừng cứu sinh một đầu buộc vào vật nặng, nếu có gì sơ sẩy thì vẫn còng có thể ném dây ra cứu mạng. Sử dụng phương pháp này, bốn người càng lúc càng rời xa vòng vây liên hợp của quân du kích và bọn buôn ma túy.
Thế nhưng, trong rừng còn một bóng xám khác, hoàn toàn không bị ảnh hưởng của việc bốn người tăng tốc. Y cầm roi dài trong tay, nhẹ vung một cái đã quấn vào cành cây cách đó hơn mười mét, phiêu hốt lăng người đi, lăng tới điểm cao nhất, đúng vào khoảnh khắc thân thể hơi sững lại đó, y rung tay một cái, rồi lại vung ra, đầu roi quấn vào một chạc cây khác. Tốc độ như thế, bọn Trác Mộc Cường Ba vẫn còn kém rất xa. Đu người đi được một đoạn, y dừng lại giây lát trên chạc cây, lấy thiết bị kia ra, nhìn điểm di động trên đó, cười gằn nói: “Tốc độ tăng lên rõ rệt rồi đấy. Ừm, dùng cách giống của tao hả, mấy thằng oắt này trở nên thông minh rồi đấy. Ở trong rừng rậm, đáng lẽ phải tiến lên như vậy mới đúng.”

Bốn người tăng tốc tiến lên, bơi qua ba con sông, vượt qua ba cánh rừng, đến bên một dòng sông tương đối lớn, nước chảy khá xiết, chặt cây làm bè, dùng một cái cây non to bằng một cánh tay người làm sào chống, bắt đầu xuôi dòng.
Trên bãi sông, một hàng cây cao khoảng hai ba mét, lá cây to bản hình oval, nhìn hơi giống là trà. Ba Tang chẳng buồn nghĩ ngợi gì đã hái lấy một nắm to mang theo lên bè.
Nhờ vào nghị lực ngoan cường cùng thân thể rèn luyện trong đợt huấn luyện địa ngục, bốn người coi như đã cầm cự được đến giờ phút ngay, cho tới khi nằm trên bè gỗ, cả bọn mới bắt đầu thấy xương cốt rã rời, nằm xuống rồi là không muốn ngồi lên nữa. Lúc này có hai người vẫn còn đang cử động: Trác Mộc Cường Ba, thân thể vạm vỡ ấy vẫn vươn thẳng lên - cần phải có một người điều khiển hướng trôi của bè gỗ, kịp thời chống sào giữ cho bè không bị mặc cạn; Ba Tang cũng không dừng lại, vết thương bị đạn xuyên từ vai trước qua vai sau, cũng may là viên đạn xuyên qua khoảng giữa xương quai xanh và xương bả vai, không thương tổn đến gân cốt. Có điều họ chạy một mạch từ đó tới giờ, không có cơ hội băng bó vết thương cho cẩn thận và xử lý kịp thời, bây giờ vết thương đã bắt đầu đỏ tấy và sưng lên, xung quanh chỗ sưng đỏ là một vòng màu xanh nhạt, một thứ dịch thể màu vàng nhạt rỉ ra nơi hai đầu vết thương. Nhìn vào vết thương ghê rợn ấy, Trương Lập không dám tưởng tượng làm sao Ba Tang cầm cự nổi trong suốt quãng đường nhảy nhót đu dây trong rừng ấy.
Lúc này, Ba Tang đang ngồi giữa bè gỗ, vừa máy móc dùng dao săn cạy vỏ đồng của viên đạn, đổ thuốc súng bên trong ra, đồng thời lấy thứ lá hái được ven sông, cho từng cái từng cái vào miệng ra sức nhai nát. Trương Lập rất muốn hỏi Ba Tang đang làm gì, nhưng vừa nhìn thấy gương mặt lạnh lùng và đôi mắt dữ tợn kia, lại thôi không dám lên tiếng nữa.
Một lúc sau, thuốc súng đã đủ dùng, Ba Tang bạnh vết thương ra, đổ thuốc súng vào đó, hai hàm răng cắn chặt vào cán con dao săn, nỗi đau bị di vật kích thích thần kinh, khiến trán anh ta túa ra từng giọt mồ hôi. Trương Lập giờ mới hoảng hồn, vội vàng hỏi: “Ba … Ba Tang, anh làm gì vậy?”
“Làm cái gì?” Ba Tang ngẩng đầu lên, lấy con dao săn ra, miệng không ngừng nhai lá cây, sắc mặt trắng đền rợn cả người, tiếng nói nghe như âm thanh phát ra từ máy “Chúng ta không có thuốc kháng viên, không có thuốc giảm đau, đành phải tự nghĩ cách thôi.”
Khi hoa lửa lóe lên, khói mù bốc lên từ hai đầu vết thương, Ba Tang vẫn run lên bần bật, kế đó, anh ta đầm đìa mô hôi ngẩng đầu lên. Nhạc Dương và Trương Lập đều tròn mắt lên nhìn con người thép trước mặt đầy kính phục, cái trò chỉ có Stallone trong phim mới chơi, không ngờ nay đã thực sự diễn ra trước mắt họ. Lúc Trương Lập lấy bông băng băng bó cho Ba Tang, anh ta lấy ra một ống tiêm cơ ngực chuyên dùng khi dã ngoại hiệu TAT tự tiêm cho mình, tuy hấp thụ chậm hơn một chút, nhưng so với tiêm vào bắp tay thì hiệu quả không khác gì cả.
“Phì” Trương Lập không cẩn thận lại chạm phải vết thương của Ba Tang, anh ta nhổ mạnh đống lá đã nhai nát trong miệng xuống sông. Nhìn đống lá cây còn lại trước mặt Ba Tang, Trương Lập hỏi: “Đây là cái gì thế?”
Ba Tang buột miệng đáp: “Coca, lá coca, dùng gây tê. Giờ đỡ nhiều rồi, hết đau rồi.”
Nhạc Dương nói: “Anh Ba Tang giỏi thật, mặc dù đã tra cứu dữ liệu, nhưng tôi không thể nhìn một cái là nhận ngay đó là lá coca được, tôi còn tưởng là lá trà nữa chứ.”
“Phải đấy, làm sao tôi vừa nhìn đã nhận ra ngay là lá coca nhỉ?” Lúc này Ba Tang mới trầm ngâm suy nghĩ. Lúc nhìn thấy cây coca anh ta chẳng nghĩ ngợi gì đã hái một nắm lớn, rồi khi
Trương Lập hỏi, anh ta cũng buột miệng trả lời luôn, giờ vết thương đã được băng bó, anh ta mới thấy khó hiểu, “Sao tôi lại biết đây là lá coca nhỉ?”
Cùng lúc Ba Tang chất vấn bản thân, nước sông, cây cối, âm thanh của cây rừng, những hình ảnh đồng loạt xoay chuyển như chong chóng trong đầu anh ta. Ba Tang nắm chặt mớ tóc đầu đinh một phân của mình, không muốn để những hình ảnh mơ hồ đó chảy ra khỏi ký ức, cuối cùng, chúng cũng từ từ dừng lại, dung hợp thành một bức tranh hoàn chỉnh.
Mấy chiếc bè gỗ đó, cũng đang trôi trên một dòng sông thế này, trên mỗi bè gỗ có bốn năm người, người nào người nấy đều run rẩy sợ hãi nhìn trừng trừng vào rừng cây hai bên bờ, thần hồn nát thần tính. Lalachi nằm giữa bè, toàn thân máu tuôn như suối, đầu vai bị thứ gì đó xuyên qua, một người thân hình cao lớn đang nhét lá coca vào miệng anh ta. Người đó là ai? Bóng hình sao lại quen vậy, sao anh ta không quay đầu lại?
Người kia đang nói với Lalachi: “Nhanh lên, nhai đi, đây là lá coca, nhai đi rồi thì sẽ hết đau.”
Cặp môi không còn chút máu của Lalachi khẽ mấp máy, gượng cười: “Đùa … đùa cái gì đấy? Ở đây, sao lại có lá coca được?”
Người kia gắt lên ra lệnh: “ Nhai nát đi! Nhanh lên!”
Lalachi đành làm theo lời người đó
“A …” Tiếng thét như đứt ruột xé gan của Lalachi phảng phất như ở ngay bên trên. Ba Tang bất giác ngửa đầu về phía sau. Thứ đó đã rút ra rồi, là cái gì vậy? Hình như là một thứ vũ khí? Không, là vũ khĩ chế từ xương động vật? Hay là răng nanh của động vật? Làm sao có thể được, răng nanh dài đến tận ba mươi centimet, động vật gì vậy? Có thứ động vât nào như vậy sao? Ba Tang đang chuẩn bị nhìn cho kỹ hơn, vết thương lại đau nhói lên dữ dội kéo anh ta từ hồi ức trở về hiện thực.
“Xin lỗi, lại chạm phải vết thương rồi, đại ca Ba Tang, anh không sao chứ?” Trương Lập thấp tha thấp thỏm hỏi.
Ba Tang nói: “Không có gì. Ở nơi đó, chúng tôi cũng dùng thứ lá này chữa thương.”
“Hả” Trác Mộc Cường Ba nghiêng tay, suýt chút nữa là chống cho cả bè gỗ bật lên khỏi mặt nước. Nhạc Dương cũng bật ngồi dậy, trợn mắt trừng trừng lên nhìn Ba Tang như không dám tin vào tai mình. Nhạc Dương nhanh nhảu hỏi Trương Lập trước: “Trung Quốc có cây coca không?”
Trương Lập lắc đầu quầy quậy, nói: “Không biết. Có điều, chắc Tây Tạng không có cái thứ này phải không? Đây là thực vật nhiệt đới cơ mà.”
Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Anh còn nhớ gì nữa không? Ba Tang?”
Ba Tang lẩm bẩm nói: “Tôi nhìn thấy một số hình ảnh mơ hồ, có rất nhiều người, chúng tôi trôi theo dòng sông, giống hệt như lúc nãy …” Anh ta tả qua lại hình ảnh vừa nhìn thấy, làm mấy người trên bè vừa kinh hãi lại vừa mừng rỡ.
Trác Mộc Cường Ba hỏi tiếp: “Ba Tang, anh nghĩ kỹ lại xem, anh đã thấy những gì, các anh bị thứ gì truy đuổi vậy, có nhớ ra được không?”
Ba Tang cố thử đi vào thế giới hồi ức đó một lần nữa, chỉ để rồi nhận ra, cố gắng thế nào cũng không nhớ được gì. Những hình ảnh vừa thoáng hiện lên trong óc cũng trở nên mờ mịt. Anh lắc đầu đáp: “Lá coca bắt đầu có tác dụng rồi, giờ tôi không nhớ ra được gì nữa.”
Trác Mộc Cường Ba thầm thở dài một tiếng, tiếp tục chống sào tiến về phía trước, trong lòng gã cũng như bọn Nhạc Dương, Trương Lập, đều vẫn còn một dấu hỏi lớn.
Bốn người đều đã thoa thuốc lên các vết thương nhỏ khắp người, viên đạn bắn trúng mông Nhạc Dương chỉ xuyên một nửa vào thịt, lúc chạy trốn rơi mất tiêu, vết thương cũng khô thành sẹo rồi, giờ lại xử lý theo đúng quy chuẩn, không còn gì đáng lo nữa. bọn họ đều biết, lúc này mình đang ở trên hệ thống sông Putumayo cả, sông ngòi chằng chịt tỏa đi khắp hướng, nhưng nếu cứ một mực xuôi dòng, thì chắc chắn sẽ đụng phải lực lượng du kích trên tuyến sông chính. Vì vậy, họ luôn dùng la bàn cẩn thận tránh để tình huống này xảy ra, giữ cho thuyền đi về phía Tây. Nếu dòng sông chảy về phía Tây Nam hoặc hướng Nam , họ thà bỏ bè vào rừng, vòng qua một cánh rằng, sang phía bên kia khu rừng làm lại một cái bè mới, chọn lại một con sông nhỏ song song chảy về phía Tây để tiếp tục xuôi dòng. Đằng nào thì trong rừng cái gì cũng thiếu, chỉ mỗi gõ là đặc biệt nhiều, bọn Trác Mộc Cường Ba lại có công cụ sắc bén, làm bè gỗ còn dễ hơn là căng lều bạt nữa.
Cứ vậy chạy trốn cả một ngày, cuối cùng cũng không gặp phải cục diện khốn đốn bị vây giết như ban sáng nữa. Buổi trưa họ táp vào bờ sông bắt được mấy con cá kim cương


([1]), tối  đến thì bắt mấy con khỉ nhện, tuy là có hơi tàn nhẫn thật, nhưng bốn người đều đã đói sôi cả bụng, ăn hùng hục như sói như hùm. Mặc dù dọc đường mấy lần có trực thăng bay qua trên đầu, có điều họ ẩn thân trong rừng cây dày đặc như thế, có thể đảm bảo là không bị phát hiện, trừ phi trên trực thăng của kẻ địch có lắp máy chụp ảnh thân nhiệt hồng ngoại tuyến, nhưng mà khả năng thứ ấy xuất hiện ở một nơi thế này dường như là không nhiều lắm.
Cả ngày hôm đó có thể nói là cực kỳ tệ hại. Dùng lời của Nhạc Dương để tổng kết thì là bốn người bọn họ đã đến một nơi quái dị, gặp phải một đám kẻ thù quái dị, đánh một trận quái dị. Cuối cùng bị kẻ địch đuổi cho chạy bạc cả mặt, cả bốn người hàu như phải vứt hết khôi giáp để giữ được mấy cái mạng nhỏ của mình.
Đến đêm khuya, võng đã mắc xong, nhưng Nhạc Dương lại tỏ ra khác người, chọn lấy túi ngủ, treo lên cây ngủ trong tư thế đứng. Trác Mộc Cường Ba không ngủ được, lộn người xuống đất, dằn vặt một lúc rồi treo lên một cây tom trên chạc cây sớm đã có một người đang nằm nghiêng, là Ba Tang. Ba Tang vẫn nhìn lên bầu trời đầy sao, thấy có người lên cây cũng không ngoảnh lại nhìn, chỉ nói: “Mười giờ đến nơi rồi, anh còn không đi ngủ à?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Anh cũng đã ngủ đâu. Tôi … tôi muốn xin lỗi anh chuyện sáng nay.”
Ba Tang hờ hững nói: “Chuyện như thế cần gì phải xin lỗi. Tôi rất hiểu hoàn cảnh của anh lúc đó, bất cứ kẻ nào chơi đùa với tính mạng đều phải trải qua bước này, lần đầu tiên giết người, đó là một hố sâu rất khó vượt qua. Sau này giết người nhiều rồi sẽ quen thôi.”
Nói dứt lời, anh ta lại nhìn đăm đăm lên vũ trụ bao la.
Trác Mộc Cường Ba cảm thấy rất khó chấp nhận cách nói của Ba Tang, nhưng dường như gã cũng không tìm được lời nào để phản bác. Ở nơi hoang dã, đặc biệt là khi gặp phải kẻ thù, quyền lựa chọn của con người cũng trở nên giống hệt như động vật vây, kẻ mạnh thì sống! Những lúc săn bắn động vật làm thức ăn, có lẽ rất ít người thấy áy náy, song khi thứ động vật đó biến thành đồng loại có hình dáng giống mình, hơn nữa việc giết họ cũng không phải để sinh tồn, liệu có mấy người có thể rat ay mà hoàn toàn chẳng hề do dự? Hoặc có lẽ đúng như Ba Tang đã nói, mục đích của hai việc đó đều như nhau cả, ăn uống là để sinh tồn, tới khi cần thiết, giết chết kẻ khác, cũng là để sinh tồn. Carl Rogers (2)  đã phân tích quan điểm này một cách  rất lý tính trong học thuyến “bản ngã trung tâm” của ông, sau khi con người sinh ra và có nhân cách tự ngã, tâm lý lấy bản ngã làm trung tâm cũng đã được hình thành, những chuyện nghĩ tới đầu tiên thường là có lợi cho bản thân, sau đó mới tới người thân, bạn bè bên cạnh, vòng ngoài nữa là họ hàng, đồng hương; xa hơn nữa có thể là người cùng chủng tộc, cùng tổ quốc, sau đó là toàn thể loài người, cuối cùng mới là mọi sự vật của giới tự nhiên tách rời khỏi quần thể người. Những đường vòng tròn đồng tâm lấy lợi ích cá nhân làm tâm điểm, đã biểu đạt một cách hết sức hình tượng sức nặng của lợi ích cộng đồng trong lòng mỗi cá nhân. Néu như bản thân và người khác xảy ra xung đột, vậy thì điều nghĩ đến trước tiên chính là phải bảo vệ lợi ích của mình; nếu người thân bên cạnh mình và người lạ có tranh chấp, tất cả sẽ đứng về phía người thân; nếu đồng hương và người nơi khác nảy sinh mẫu thuẫn, ai chẳng bênh vực đồng hương một chút; khi con người và động vật trực tiếp đối đầu, thì gần như đều giúp con người cả. Nhưng làm như có vậy, có thật đúng hay không? Hay là, con người vẫn giữ tính xấu thâm căn cố đế của động vật, hoặc giả nói theo một góc độ khác là, con người vĩnh viễn cũng chỉ là động vật, chứ không phải thứ gì khác”
Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm suy nghĩ, hồi lâu cũng không nói gì. Trong bóng tối, Ba Tang lại buột miệng nói một câu vu vơ: “Hai ngày nay đều nhìn thấy sao trời, ừm, tình hình xem ra chẳng tốt lành gì rồi.”

Dọc đường toàn những bụi gai, hoặc những thân cây khổng lồ đổ ngang xuống chặn đường, trên những chỗ cành cây rẽ nhánh, trong từng bụi cỏ, phía sau những gốc cây, nơi nơi đều là những ánh mắt không thân thiện, các động vật đang ẩn nấp, nhìn bọn họ với ánh mắt kinh hoảng, hoài nghi, tham lam dò xét. Bốn người lữ hành xa lạ buộc phải tập trung một trăm hai mươi phần trăm tinh thần, chú ý ứng phó với đủ thứ sự việc bất ngờ.

Trốn chạy trong rừng sâu

Đêm đầu tiên trôi qua bình yên và tĩnh lặng, không biết có phải vì mệt quá độ hay không, mà cả bọn đều ngủ rất sâu.
Sáng sớm ngày hôm sau, Trác Mộc Cường Ba bị tiếng hót lanh lảnh của một con chim không biết tên đánh thức, khi gã thò đầu ra khỏi lều, Ba Tang đã không còn ở trên đài quan sát nữa. Trác Mộc Cường Ba giật thót mình, bởi để đề phòng lúc gác đêm ngủ gật rơi xuống dưới, Ba Tang đã buộc dây an toàn rồi, giờ cả dây an toàn cũng chẳng thấy đâu nếu không phải Ba Tang tự động trèo xuống đi đâu đấy thì thật khó mà tưởng tượng nổi anh ta đã gặp phải chuyện gì nguy hiểm. Trác Mộc Cường Ba đá đá vào Trương Lập và Nhạc Dương vẫn còn chưa tỉnh ngủ, gọi: “Dậy nhanh lên, không thấy Ba Tang đâu nữa rồi!”
Trương Lập xoa xoa đầu vai bị đá phải, bộ mặt như muốn nói, người ta đang ngủ ngon thì phá đám, nghiêng người sang một bên, có vẻ như không muốn dậy, còn Nhạc Dương thì nhập nhèm mở mắt, kế đó giật nẩy người lên như bị rắn độc cắn phải, trợn mắt lên hô vang: “Gì hả! Không thấy Ba Tang đâu hả! Anh ta bị con gì ăn mất rồi?” Trương Lập cũng hốt hoảng sực tỉnh.
Ba người thả dây xuống mặt đất với tốc độ nhanh nhất có thể, nhưng ngay sau đó phát hiện ra Ba Tang đứng ngay bên dưới căn lều cây, trên người không một vết xước, hai tay đang bưng một nồi nước, xem ra đã chuẩn bị đun nước nấu cơm rồi. Trương Lập ngáp một cái rõ to, nói: “Ôi chà, Cường Ba thiếu gia anh cũng thật là, sáng sớm đã làm ầm ĩ lên rồi. Cả cái cậu Nhạc Dương này nữa, vừa nghe bảo người ta không thấy đâu nữa đã nghĩ đến bị con gì ăn mất rồi, khu rừng này mà đáng sợ thế thì các bộ tộc sống trong đây đã chết toi hết từ đời nào rồi còn gì!”
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Sao anh lại tự ý xuống một mình như thế?”
Ba Tang đáp: “Tôi thấy các cậu ngủ say quá nên cũng chẳng gọi.” Trác Mộc Cường Ba nhìn nồi nước trong tay Ba Tang, rồi không nói thêm gì nữa.
Để tranh thủ lên đường trước khi bị kẻ địch phát hiện, ăn sáng xong, bốn người liền mau chóng thu dọn hành trang, chở lại chỗ giấy thuyền. Thế nhưng lúc bỏ các vật ngụy trang đi, cả bốn đều ngẩn người ra!
Ký hiệu đúng là ở đây, ngụy trang cũng do chính tay họ làm, không hề có dấu vết nào chứng tỏ đã bị dịch chuyển, thế nhưng … thế nhưng, không thấy thuyền đâu nữa! Chu yện hoang đường thế này còn tác động đến họ mạnh hơn cả trực tiếp gặp phải kẻ thù nữa. Chu yện này thật kỳ dị quá sức, kỳ dị đến độ khiến người ta hoàn toàn  không thể lý giải nối. Nếu nói đã bị kẻ thù phát hiện và mang thuyền đi nơi khác, vậy thì những dấu hiệu đặc thù kia khẳng định đã bị chúng phá hoại, chẳng hạn như nhưng sợi dây trong suốt nhỏ như sợi tóc buộc trên các cành là ngụy trang, hoặc hình dạng những chiếc lá đã bị phun keo dính thể rắn trên mặt đất, những thứ này một khi đã bị phá hỏng, kẻ địch sẽ không thể nào khôi phục lại được. Nhưng sự thực lại chứng minh, mọi dấu vết ngụy trang đều hoàn hảo không chút tổn thất, nhưng thuyền thì đã không cánh mà bay, cơ hồ như chưa từng bao giờ có một chiếc thuyền ở đó vậy. Cả bọn còn đang mắt to mắt nhỏ nhìn nhau, vẫn là Nhạc Dương tâm tư cẩn mật có phát hiện trước. Ở vị trí vốn là của chiếc thuyền kia vẫn còn vương vãi lại một ít mạt gỗ nhỏ mịn như cát. Nhạc Dương nhúm một nhúm mạt gỗ lên, lấy đầu ngón tay quệt quệt, cảm giác thử xem mạt gỗ to nhỏ thế nào, rồi lẩm bẩm nói: “ Còn … còn nhỏ hơn hạt cát nữa, nếu tôi đoán không sai, thuyền của chúng ta đã bị thứ gì đó coi là món điểm tâm mà xơi hết cả rồi. Nhưng làm gì có chuyện đó được cớ chứ!”
Nghe Nhạc Dương nói vậy, những người còn lại mới sực tỉnh, Trương Lập nói: “Mối?” Bốn người đều biết, loài mối là cao thủ chuyên ăn gỗ. Tuy các động vật gặm nhấm như chuột đất cũng có thói quen gặm gỗ, nhưng mạt gỗ chúng để lại tuyệt đối không thể nhỏ mịn như thấy này được.
Nhạc Dương nói: “Nhưng thông thường thì thuyền nào chẳng được ngâm qua hoá chất ngừa mối mọt đục rỗng, hơn nữa cả một cái thuyền to như thế, chỉ một hai tổ mối thì căn bản không thể ăn sạch sẽ thế này được. Nếu đúng là lũ mối đã ăn sạch cái thuyền này trong một đêm, vậy thì đêm qua ở đây ít nhất phải tập trung tất cả mối ở mấy cây số vuông quanh đây lại. Trong rừng này gỗ mục nhiều vô kể, cái thuyền của chúng ta lại chẳng có gì đặc biệt hết làm sao xảy ra chuyện như thế này được chứ?” Nghĩ đến cảnh cả con thuyền đều là lũ mối nhung nhúc, Nhạc Dương không khỏi rởn hết cả tóc gáy.
Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm một thoáng rồi nói: “Hoặc là còn sinh vật nào đấy mà chúng ta chưa biết tới. Thôi bỏ đi, dù thế nào thì thuyền cũng không còn nữa rồi, chúng ta đành nghĩ cách khác vậy, cố gắng tăng tốc tiến lên, tuyệt đối không để bị quân du kích đuổi kịp.”
Không còn thuyền, bốn người chỉ biết nhìn dòng sông mà thở dài. Trương Lập nói: “Làm bè gỗ được không?”.
Nhạc Dương lắc đầu: “Điều kiện không cho phép, thứ nhất, phải chặt cây, như vậy sẽ bị kẻ địch đuổi phía sau phát hiện ra dấu vết. Thứ hai, bọn chúng đi xuôi dòng nước, thời gian không đợi người, chỉ sợ chúng ta chưa làm xong bè thì đã bị chúng đuổi kịp mất rồi.”
Mất đi chiếc thuyền, tốc độ của họ rõ ràng giảm đi rất nhiều. Trước tiên, cái ba lô leo núi nặng ba mươi cân trên lưng là khảo nghiệm lớn nhất, huống hồ, để tránh bị quân du kích phát hiện, họ không thể không rời xa bờ sông, đi trong rừng sâu một bước cũng khó nhấc nhân.
Sâu trong rừng và ven bờ sông là hai thế giới hoàn toàn khác nhau, âm u, ẩm thấp, nóng bức, bốn bề mù mịt hơi nước và bầu không khí khiến người ta thấy bất an. Dọc đường toàn những bụi gai, hoặc những thân cây khổng lồ đổ ngang xuống chặn đường, trên những chỗ cành cây rẽ nhánh, trong từng bụi cỏ, phía sau những gốc cây, nơi nơi đều là những ánh mắt không thân thiện, các loài động vật đang ẩn nấp, nhìn bọn họ với ánh mắt kinh hoảng, hoài nghi, tham lam dò xét. Bốn người lữ hành xa lạ buộc phải tập trung một trăm hai mươi phần trăm tinh thần, chú ý ứng phó với đủ thứ sự việc bất ngờ.
Chưa đi được một tiếng đồng hồ đã có người chịu không nổi. Nhạc Dương trẹo chân, đổ nghiêng người sang bên trái, Trương Lập đi sau đưa tay ra đỡ, kết quả là cả hai người cùng ngã nhào xuống. Nếu chỉ phải vác trên lưng vật nặng ba mươi cân đi đường, đối với họ vốn chẳng phải chuyện khó khăn gì, thế nhưng, dưới chân họ không phải là đường. Bùn đất bên dưới nhão nhoét, những loài cỏ hoang không biết tên kia đều ướt đẫm sương, vừa ướt vừa trơn, các lùm cây xung quanh đầy gai độc, chỉ hơi bất cẩn một chút là bị thương ngay, cảm giác đó, giống như đã mang trên lưng vật nặng ba mươi cân, lại còn phải khống chế thăng bằng trên mặt bằng cao thấp nhấp nhô, rồi phải tránh các loại chướng ngại vật nữa vậy.
Trác Mộc Cường Ba thở hắt ra một hơi, không thể không nói: “Nghỉ ngơi một lát đã.” Phía trước vừa hay có một cây to nằm ngang, bốn người dựa lưng vào gốc cây đó mà nghỉ. Ba Tang tính sơ qua chặng đường họ vừa đi được, kết quả thật khiến người ta hết sức chán nản, trong một tiếng đồng hồ, tổng cộng họ tiến lên được chưa đầy hai cây số, trong đó hầu hết thời gian là để phạt các bụi cây để mở đường và xua đuổi các loài động vật còn chưa lộ diện nhưng đã làm họ cảm thấy bị uy hiếp. Ba Tang gượng gạo vuốt vuốt bộ râu quai nón, nói: “Dựa theo tốc độ này, muốn đi hai mươi cây số một ngày là bất khả.” Buổi đêm thì không thể lên đường, với tốc độ hai cây số một giờ, thì cần phải có cơ sở là không cần ăn uống không cần nghỉ ngơi, thể lực vĩnh viễn không tiêu hao, như vậy thì mới đi được hai mươi cây số trong mười tiếng đồng hồ.
Nhạc Dương lấy bản đồ thực địa chụp bằng vệ tinh ra nói: “Nếu bản đồ của chúng ta chính xác, vậy thì khu rừng này dài ba mươi bảy cây số, rộng mười chín cây số. Vì chúng ta đi song song với bờ sông, nên là phải đi đoạn đường dài nhất, sau đó sẽ phải vượt qua một con sông rộng chừng mười mét, tiếp đó là một khu rừng khác.” Khu vực này có nhiều sông ngòi chia rừng thành từng khoản như thửa ruộng, còn các con sông thì như những con đường đất nhỏ trên bờ ruộng, trải đi bốn phương tám hướng, giao nhau chằng chịt. Tiến về phía trước trong khu vực như vậy, đồng thời còn phải tránh né quân du kích đang lùng sục dọc theo các bờ sông, đâu phải chuyện dễ.
Trương Lập mở la bàn bên trong đồng hồ ra: “Chỉ cần phương hướng không sai là đi ra được thôi, Mấu chốt là lúc vượt sông phải thăm dò cho rõ ràng trước đã, đừng để đang vượt sông thì gặp phải quân du kích, lúc ấy thì tệ lắm đấy.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không cần lo lắng quá thế, xem quang cảnh trên đường chúng ta vừa đi qua, ở đây là khu vực không người, vậy có thể khẳng định là quân du kích không thông thuộc môi trường ở đây lắm, muốn tìm được chúng ta cũng không dễ thế đâu.” Trương Lập gượng nói: “Hy vọng là thế. Ừm, mùi gì thế? Hình như là ở phía kia bay lại …”
Không nghi ngờ gì nữa, bọn Trác Mộc Cường Ba đã đánh giá thấp mức độ thông thuộc rừng già của quân du kích địa phương và những nguy hiểm tiềm tàng. Lúc này, trên dòng sông ven rừng, một chiếc thuyền máy chở người phần tử vũ trang đang chầm chậm xuôi dòng, không có tiếng nổ của động cơ, tốc độ của con thuyền cũng không nhanh lắm. Tên mập Gonzales đã cởi bỏ những ngọc ngà châu báu đeo khắp người, quấn xunh quanh mình một băng đạn, một khẩu Minimi (1) được hắn dùng làm gậy chống xuống sàn thuyền. Vì áp lực từ nhiều phía, Gonzales không thể không đích thân dẫn anh em hỗ trợ quân du kích triển khai một cuộc truy bắt toàn diện. Mặt trời rực rỡ vừa lên cao, chiếu vào gương mặt tên mập, mồ hôi nhanh chóng chảy dài trên má hắn. Ngoài thuyền của hắn ra, còn khoảng mười mấy chiếc khác như vậy nữa, bọn chúng bắt đầu từ chỗ ca nô du kích bị huỷ, chia thành nhiều đướng tìm kiếm dọc theo bờ sông. Gonzales biết rất rõ, quân du kích trước giờ chưa khi nào bị người ta khiêu khích đến thế, lần này thực sự là đã bị chọc giận rồi.
“Dừng lại!” Gonzales vung tay lên, thuyền máy liền áp sát bờ theo hướng ngón tay hắn chỉ. Địa điểm giấu thuyền vốn được bọn Trác Mộc Cường Ba ngụy trang rất cẩn thận, lúc này đã biến thành tạm bợ nháo nhào. Dấu vết rõ rành rành như vậy, Gonzales nhận ra được từ ở đằng xa. Thân thể béo ịch của hắn không đợi thuyền dừng hẳn lại, đã nhảy luôn xuống, nhanh nhẹn dịch chuyển, lắc la lắc lư như con vịt chạy đến chỗ ngụy trang. Gonzales lấy súng khều khều đám cành cây, phát hiện ra những mạt gỗ nhỏ li ti khi, khẽ miết nhẹ một cái, con cáo già của rừng rậm này lập tức nói: “Báo cho các đội khác, có khả năng là thuyền của chúng bị hủy rồi, bốn kẻ này rất có thể sẽ chọn đi bộ băng rừng. Phong tỏa đường thủy khu vực này lại, chúng ta vào rừng lùng bắt bọn chúng.”
Lần theo mùi hương lạ, Trương Lập vòng qua thân cây to, chẳng mấy chốc đã thấy ngay một đóa hoa rực rỡ. Cánh hoa như tuyết mùa xuân, bọc quanh nhụy hoa màu vàng lúa, trông giống như một chén trà, những chiếc lá mảnh dài như cỏ tranh xòe ra hình mặt trời, thoạt nhìn cứ như một nàng công chứa yêu kiều giấu gương mặt trắng như tuyết của mình trong cổ áo lông thú dày sụ. Đặc biệt là mùi hương, trong mát mà thấm đượm, tương tự như mùi hoa lan, khiến người ta đắm chìm trong say mê trong hương thơm tự nhiên ấy.
“Thơm quá.” Nhạc Dương không nén được buột miệng khen.
Ba Tang bỗng nhiên cảnh giác. Dõi mắt nhìn khắp bốn phía, xung quanh những cây to che khuất cả mặt trời, dây leo quấn chằng quấn chịt như lưới nhện, bùn đất dưới chân nhão nhoẹt ẩm ướt, ánh mặt trời chỉ có thể chiếu xuyên qua những kẽ lá, rải xuống vài chấm vàng lốm đốm. Cảm giác đó là thế nào vậy? Tiếng thở nặng nề vang lên bên tai, Ba Tang quay ngoắt đầu lại, nhưng chẳng phát hiện gì cả. Không, không đúng, âm thanh đó trực tiếp vang lên ngay bên tai anh ta, phải có đến mười mấy người, bọn họ là ai? Trong rừng vang lên tiếng bước chân lạo xạo, bọn họ đang chạy rất nhanh, thế nhưng, trước mắt làm gì có ai, lẽ nào là ảo giác?
“Thơm quá, hoa gì vậy nhỉ?” Ai đang nói? Khi ngôn ngữ của  nước N một lần nữa bị đánh thức trong sâu thẳm tâm linh, Ba Tang kinh hoàng mở to hai mắt, đó là âm thanh vang lên trong tâm trí anh ta, những âm thanh sao mà quen thuộc.
“Không muốn sống nữa hả, mau tranh ra! Là loài hoa ăn thịt người đấy!” Lại là ai đang hét lên nữa? Ba Tang phảng phất như trông thấy một bóng người mờ nhạt đang vươn tay về phía đóa hoa đó, đột nhiên những chiếc là dài cả mét xung quanh đóa hoa bất ngờ khép lại, kẹp chặt ba người đứng gần nhất, vô số nhện đen bò ra … những người kia dường như trúng phải thuật định thân, không sao cử động nổi, phải cứu lấy họ! Ba Tang bỗng nhiên sự tỉnh, là những chuyện xảy ra trong ký ức và chuyện đang xảy ra lúc này trùng lặp, anh ta nhanh chân xông lên trước.
Trương Lập dấn thêm một bước nữa lại gần bông hoa đáng yêu kia, chợt bị Ba Tang kéo giật ra, lạnh lùng nói: “Không muốn sống nữa hả! Hoa ăn thịt người đấy.”
Trương Lập như bị giội một gáo nước lạnh, toán hết cả mồ hôi, nhìn lại, quả nhiên không sai, đóa hoa yêu kiều xinh xắn kia và mùi hương mê đắm người ta ấy, chẳng phải chính là thủ đoạn mê hoặc những người vô tri của hoa ăn thịt người đấy sao? Còn những chiếc là dài cả mét nhe những móng vuốt kia và lũ nhện ăn thịt người đang ẩn nấp sau tán là chính là hung thủ giết người. Anh ta nhất thời sơ ý, suýt chút nữa là bị một trong những thứ quyến rũ chết người nhất Nam Mỹ che tai bịt mắt, cũng may Ba Tang đã kịp nhắc nhở. Có điều mọi người đều chưa nhìn thấy thực vật bao giờ, lúc lên mạng tìm kiếm lại không thấy tấm ảnh chụp nào, không ngờ Ba Tang vừa nhìn đã nhận ra ngay được.
Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương đều quay sang nhìn Ba Tang với ánh mắt kinh ngạc, Trương Lập vỗ vỗ ngực nói: “Nguy hiểm quá, nguy hiểm quá. Đại ca Ba Tang, cũng may là anh nhắc nhở tôi, làm sao vừa nhìn mà anh đã nhận ra luôn được thế?”
Trước ánh mắt dò hỏi của Trương Lập, Ba Tang vẫn lạnh lùng giải thích: “Tôi gặp rồi, ở nơi đó, tôi có hai đồng đội bị thứ ngày hại chết.” Mọi người vừa hiểu ra, thì một tia nghi hoặc thoáng hiện lên trog đầu Trác Mộc Cường Ba. Nơi mà Ba Tang nói đến mọi người đều biết cả, nhưng chỗ ấy cực cao, đúng ra phải là trời băng đất tuyêt mịt mùng mới đúng, tại sao loại thực vật ăn thịt người của rừng nhiệt đới lại xuất hiện ở giữa cao nguyên được?
Trác Mộc Cường Ba không kịp nghĩ thêm, chỉ nói nhanh: “Xem ra nghỉ ngơi vậy cũng tạm đủ rồi, tiếp tục lên đường thôi.” Trong lòng gã bất giác có chút bất an: “Kỳ quái thật, tại sao lại có cảm giác như bị ai nhìn trộm vậy nhỉ?” Gã dõi mắt nhìn ra xa, ngoại trừ rừng cây che kín ánh mặt trời ra thì chẳng có gì khác nữa.
Sau khi bọn Trác Mộc Cường Ba rời đi không lâu, một bóng xám dung dung bước tới trước bông hoa ăn thịt người kia, vươn tay không chút do dự hái đóa hoa nhỏ đang tỏa mùi hương đặc dị ấy xuống. Bị chạm phải, hoa mặt trời lập tức phát động phản công, những chiếc lá tỏa ra như tia nắng của nó bỗng nhiên khép lại, tựa như một cái bẫy chuột kẹp lấy kẻ hái hoa, đang tiếc là cánh tay đã đã rụt ra ngay lúc hoa mặt trời khép cánh lại. Kế đó, vô số nhện đen ẩn nấu dưới tán lá hoa mặt trời ùa ra với tốc độ kinh khủng, dấu hiện đặc biệt trên lưng lũ nhện đen làm người ta thoạt nhìn đã nhận ra được ngay - nhện “quả phụ đen” nổi tiếng thế giới. Bóng xám kia chẳng hề sợ hãi, hai tay như làm trò ảo thuật, chiếc túi chất dẻo to tướng loáng cái đã trùm cả đóa hoa lẫn vô số nhện đen vào trong, rồi chỉ nghe y nói như đang dạy dỗ đứa trẻ không chịu nghe lời; “Đêm qua tao mở tiệc, sao chúng mày không đến tham gia hả? Đừng có mà giảo biện, tao điểm danh đàng hoàng, rõ là không thấy chúng mày mà.”
Mười phút sau, lại có thêm một nhóm người nữa đến nơi này. Khi thấy đóa hoa mặt trời kép lại, Gonzales cười gằn nói: “Hừ, hình như chúng đã đụng phải thứ không nên đụng vào rồi. Khẳng định là có tên trúng độc, đuổi hết tốc lực cho tao.” Kẻ truy bắt phát hiện được dâu vết kẻ thù, và người đi trước lủi thủi mớ đường, tốc độ đôi bên cánh nhanh quả thật quá xa.
Ba Tang phạt đi một bụi cây bên cạnh, chau mày nói: “Có gì đó không ổn lắm thì phải.”
Cảm giác của Ba Tang không sai, từ khi vào rừng, khoảng cách tầm hai mươi bước xung quanh họ đều có một tiếng chim tiếng thú, nhưng ngoài hai mươi bước lại là cả một vùng hoa thơm ngào ngạt chim hót líu lo. Giờ đây phía sau họ im lặng như tờ, yên tĩnh đến nỗi làm người ta phải giật mình, rõ rang là có thứ gì đó khác buộc chúng phải câm lặng đang đuổi tới.
Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm: “Có người đuổi tới rồi, nhưng không phải là cảm giác khi nãy, lẽ nào, còn có người nào khác ở phía sau chúng ta nữa à? Liệu là ai được nhỉ?”
Hiệu quả của đợt huấn luyện đặc biệt lập tức thể hiện, vừa phát hiện ra tình hình không ổn, bốn người lập tức quay đầu đi ngược lại, bước đi nhịp nhàng đến kinh người.
Nhạc Dương nói: “ Bây giờ làm sao đây? Chúng ta có khai chiến với chúng không?” Trương Lâp giơ khẩu súng tromg tay lên: “Đương nhiên, chúng ta cũng là bị ép phải tự vệ mà thôi, lẽ nào lại đứng yên đây chờ chúng đến bắn chết. Không ngờ được huấn luyện đánh với quân địch giả tưởng mãi, lần đầu tiên dùng trong thực tế lại gặp ngay quân du kích Colombia .”
Nhạc Dương lo lắng nói: “Vậy không ổn lắm đâu, lần trước đã chết mấy người rồi, nếu tiếp tục thế này nữa, thù hận sợ sẽ càng lúc càng sâu, liệu có thành vấn đề quốc tế không nhỉ?”
“Ngu xuẩn!” Ba Tang xốc cổ áo Nhạc Dương lên, gằn giọng nói: “Bây giờ không phải lúc cho cậu từ bi đâu. Là người ta muốn lấy mạng chúng ta đấy, lẽ nào chúng còn chịu nghe cậu giải thích nữa chắc! Mà cậu cũng có phải không biết đám du kích này là thế nào đâu, nói hay ho thì gọi là quân du kích, thực tế chẳng qua là băng đảng xã hội đên được quản lý theo lối quân sự, buôn lậu, ma túy, đối kháng với chính phủ, có cái gì mà chúng không dám làm đâu! Còn chuyện chết người, mỗi ngày trong khu rừng này có ít người chết chắc, thế mà có ai hỏi tới đâu, cậu lo làm quái gì!”
Ba Tang buông tay, kéo xoẹt chốt súng cho đạn lên nòng, lại nói tiếp: “Nếu cậu còn giữ thái độ này đi đương đầu với bọn liều mạng kia, thì không chỉ một mình cậu chết thôi đâu, mà còn hại chết cả mọi người nữa!” Dứt lời, anh trừng mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, tỏ vẻ rất bất mãn với hành vi thả hổ về rừng của gã hôm trước.
Nhạc Dương thoáng đỏ mặt vì thẹn, Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Ba Tang nói không sai, đối với những kẻ như vậy không thể mềm lòng được. Chúng ta có thể không tàn sát bọn chúng, nhưng cũng không thể giảng đạo lý với chúng, đám người ấy chỉ tin vào thực lực, muốn chúng dừng truy đuổi chúng ta, trừ phi là làm chúng nhận thức được rằng chúng không đủ thực lực làm việc đó. Đi thôi, chuẩn bị phục kích!”
Lúc này, họ đã cách chỗ cây bụi bị phạt chừng trăm bước chân, bốn người chia nhau tản ra nấp vào chỗ kín đáo, Trương Lập và Ba Tang lần lượt trèo lên hai cây to hai bên, Nhạc Dương nấp trong bụi rậm, còn Trác Mộc Cường Ba thì ẩn mình phía sau một gốc cây lớn.
Một lát sau, tiếng bước chân của năm sáu người vang tới, không nghe thấy tiếng chó sủa, bốn người thấy yên tâm hơn rất nhiều. Năm tên cầm súng đã tiến vào phạm vi tấn công.
Năm tên kia đi thêm một đoạn nữa, bỗng phát hiện ra phía trước không còn đường đi nữa, một tên cất tiếng hỏi: “Phía trước hết đường rồi, thế còn bọn chúng đâu?” Tiếng súng lập tức vang lên.
Khẩu Steyr của Ba Tang vừa nổ đã có tên ngã xuống, viên đạn bắn vỡ xương sọ kẻ xấu số, nào tương lẫn máu bắn tung tóe, khóe miệng Ba Tang nở ra một nụ cười hiếm thấy, phảng phất như lại trở về với những ngày tháng đẫm máu thuở xưa. Bốn tên còn lại tuy có kinh hoảng, nhưng bọn buôn ma túy đã hoạt động nhiều năm trong rừng sâu này cũng không phải đèn cạn dầu, hai tên lập tức lăn xuống đất, nhào vào bụi rậm, hai tên khác giơ sung lên khạc lửa về  phí chạc ba nơi Ba Tang ẩn nấp, đoạn cũng tách ra.
Nơi Ba Tang ẩn nấp cực kỳ có lợi với người phục kích, chỉ hơi chuyển mình một chit là đã né được luồng đạn, kế đó anh ta lại giơ sung, ngắm qua, kết thúc thêm một tên địch khác đang nấp trong bụi cây. Một tên nấp vào gốc sau gốc cây cảnh giác quan sát phía trước, nhưng lại không chú ý đến Trác Mộc Cường Ba đã ở sau lưng mình từ bao giờ, Trác Mộc Cường Ba hơi do dự, không dùng đao hay sung, chỉ chặt tay xuống. Tên kia chẳng kịp hự lên tiếng nào đã ngã gục xuống, tước vũ khí trong tay đối phương, Trác Mộc Cường Ba nhìn lại bàn tay mình, không biết nên cảm thấy mừng vui hay lo lắng trước hiệu quả của đợt tập huấn này nữa.

(1) Viết tắt của Mini Mitraileuse (tiếng Pháp): súng máy hạng nhẹ 5,56 mm, do hãng FN của Bỉ sản xuất, dài xấp xỉ một mét, hiện nay được sử dụng rất rộng rãi trong quân đội nhiều nước trên thế giới.

Đột phá vòng vây
Trương Lập đã ngắm chuẩn một tên địch, nhưng trước khi ra tay, anh bỗng cảm thấy lạnh hết cả gáy. Trương Lập liếc mắt quét qua, chỉ thấy cành cây to bằng bắp tay trẻ con kia đang chầm chậm chuyển động, lớp vỏ cây lồi lõm gồ ghề hóa ra cũng chia thành những mảng hình củ ấu rõ rệt, đặc biệt là những vòng hoa văn một xám sậm, một xám nhạt kia cũng cuàng lúc càng thêm rõ rệt. Trương Lập cuối cũng kìm nén được nỗi kinh hoàng, quay phắt đầu lại, cái đầu rắn hình tam giác đó thập thò đầu lưỡi, đôi mắt mở trừng trừng nhìn anh không chút thiện cảm. Khi nhận ra đây chính là rắn hổ mang đầu nhọn, một trong mười loại thú độc nhất Nam Mỹ, Trương Lập căng thẳng đến suýt chút nữa thì rơi cả súng. Một người một rắn cứ gầm ghè nhìn nhau, dường như cả hai đều lấy làm bất an trước sự xuất hiện bất ngờ của đối phương. Cuối cùng mãi về sau mới lấy lại được bình tĩnh, Trương Lập lẩy cò súng, chẳng ngờ khẩu M4 tính năng ưu việt đến thế lại cĩng có lúc kẹt đạn. Ngón tay anh vừa nhích động, con rắn hổ mang kia cũng không chút khách khí ngoác cái miệng ra, hai chiếc nanh độc nhọn hoắt hăm he bổ tới bàn tay Trương Lập. Khoảnh khắc sinh tử ấy, Trương Lập chẳng suy tính gì nhiều nữa, liền đâm cả khẩu M4 đang cầm vào đầu rắn, cả súng lẫn rắn cùng rơi xuống đất.
Nhạc Dương bóp chặt khẩu súng đang cầm trên tay, tên địch phía trước cứ ló ra ló vào, vẫn luôn nằm trong phạm vi hỏa lực của anh ta, nhưng Nhạc Dương không sao ra tay được. Từ trước tới nay, Nhạc Dương luôn được khen ngợi là lính trinh sát ưu tú bởi tài năng lần theo dấu vết thiên bẩm, nhưng đối với cuộc chiến chẳng đầu chẳng đuôi này anh không sao thấy thoải mái được. Không khát máu như Ba Tang, rốt cuộc anh làm vậy là để giữ mình, để tiêu diệt tội phạm, hay là để trừ bạo an dân? Anh cần phải tìm cho mình một số lý do hợp lý để nổ súng. Đúng lúc ấy, một vật bỗng rơi từ trên cao xuống, theo đó là tiếng kêu của Trương Lập: “Tránh ra, rắn độc!” Không chút do dự, Nhạc Dương lập tức lẩy cò, cho tới khi con vật đang vặn vẹo trước mặt nát nhừ ra, không động đậy gì nữa mới thôi.
Như vậy, Trương Lập và Nhạc Dương cũng lúc bị lộ mình, đạn của quân địch tức khắc bắn tới không chút thương xót, Trương Lập lách người ra sau tán cây, nhưng chỗ chạc ba nhỏ xíu chẳng chắc chắn gì lắm ấy bị quét cho một loạt đạn đã gãy lìa, Trương Lập nhảy vội nhảy vàng từ chỗ cao năm sáu mét xuống, tư thế vô cùng khó coi. Nhạc Dương thì lăn tròn dưới đất, luống cuống tránh đạn. Ba Tang tức giận ngoác miệng ra mắng: “Hai người các cậu! Làm cái trò gì vậy!” Khẩu St eyr trong tay anh ta đang bắn từng viên một chuyển thành bắn cả tràng dài, một loạt đạn quét qua trúng phải quả lựu đạn giắt ngang hông một tên địch, tiếng nổ ầm ầm vang lên, mảnh đạn suýt chút  nữa thì văng cả vào chính Ba Tang luôn.
Kẻ địch dường như cũng đã ý thức được, Ba Tang mới là chủ lực của đám người này, anh ta vừa ló đầu ra, đã bị mấy loạt đạn ép rụt trở vào, kế đóa là một quả lựu đạn Mỹ rơi chuẩn xác vào đúng chạc cây anh ta đang nấp.
Tiếng súng quen thuộc, tiếng lựu đạn nổ cũng quen thuộc, tầm mắt Ba Tang bỗng nhiên trở nên mơ hồ, khi anh ta đang cố sức nhìn rõ tình hình xung quanh, thì lại chỉ thấy những gương mặt hết sức thân thuộc, Bandaba, Ghidaba, Mada … phải rồi, mọi người tay cầm súng, vừa rút lui vừa nổ súng phản kích, rốt cuộc là cái gì? Rốt cuộc là đang ở đâu? Thứ gì đang đuổi theo họ? Anh ta nhìn thấy những đồng đội quen thuộc, họ cũng đang ở trong rừng sâu, gương mặt mỗi người đều tóat lên vẻ kinh hoảng, Cây ở đó cao hơn, to hơn, dày đặc hơn, thực vật toàn là những loại họ chưa bao giờ trông thấy, chúng còn đáng sợ hơn, hình dáng quái dị, phảng phất như đang cử động, dường như họ lạc vào khu rừng toàn cây ăn thịt người vậy.
Khoảnh khắc trước khi quả lựu đạn phát nổ, Ba Tang lại lần nữa chìm đắm vào ảo giác, trước mắt anh ta, tất cả đều quá quen thuộc, tất cả những chuyện xảy ra hôm nay đều là lặp lại của quá khứ. Khi Ba Tang lắc mạnh đầu tỉnh táo trở lại, quả lựu đạn đã ở gần trong gang tấc.
Nói là Ba Tang nhảy xuống nhưng xem ra anh ta bị nổ văng xuống thì đúng không, chỉ thấy Ba Tang lăn vào trong bụi cây, loáng cái đã biến mất.
Tên địch còn lại dựa lưng vào thân cây, hướng về phía lùm cỏ, họng súng đã ngắm chuẩn vào Ba Tang từ trên cao nhảy xuống. Trác Mộc Cường Ba ở trên trái hắn, rút sao săn ra, “vù” con dao bắn vút đi, tên kia trung dao vào cổ tay, cả loạt đạt đều sượt qua bên người Ba Tang. Ba Tang đã lấy lại được bình tĩnh, họng súng liền xả ra lưỡi lửa phẫn nộ bắn cho tên kia nở hoa khắp người, cho tới khi băng đạn hết nhẵn, Ba Tang mới dừng lại. Ba Tang lúc này quần áo bị cào rách bươm, máu lẫn mồ hôi chảy ròng ròng, gương mặt trông như hung thần ác sát. Trác Mộc Cường Ba thấy anh ta say máu như vậy cũng không khỏi ghê người, vội vàng nói: “Được rồi, giờ kẻ địch ở đây đã bị tiêu diệt hết, trước khi những tên còn lại kịp bao vây, chúng ta mau rút thôi.”
Nhìn Trương Lập và Nhạc Dương mặt mũi lem luốc lồm cồm đứng lên khỏi bụi rậm, Ba Tang lấy làm tức giận, bực tức quát: “ Tay chân luống cuống, chẳng ra bộ đội đặc chủng cái giống gì cả!” Từ lúc nổ súng đến khi trận chiến kết thúc, cả quá trình diễn ra trong chưa đầy năm phút đồng hồ, ngoại trừ Trác Mộc Cường Ba khắc chế được một tên địch, Trương Lập, Nhạc Dương đều tỏ ra thất thố, so với biểu hiện lúc huấn luyện thì còn kém rất xa.
Trác Mộc Cường Ba đi tới trước mặt Ba Tang nói: “Tuy đều trải qua huấn luyện đặc biệt, nhưng họ cũng như tôi, trước nay chưa từng nổ súng giết người bao giờ, chuyện này cũng không trách họ được.” Ba Tang giận dữ trừng mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, còn định nói gì đó, bỗng nhiên đẩy mạnh gã sang một bên. Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, sau đó nghe thấy tiếng súng, chỉ thấy đầu vai Ba Tang tóe máu, rồi anh ta ngã ngửa ra, con dao săn theo đó lao vút khỏi tay: “Hự” một tiếng, kẻ vừa nổ súng trúng dao ngay cổ họng, máu bắn vọt như suối phát ra tiếng “òng ọc”, chỉ thấy máu vẫn nổi bong bong khí, nhưng nạn nhân thì đã không thể thở nữa, chẳng mấy chốc co rúm người lại ngã xuống chết nốt. Thì ra là tên bị Trác Mộc Cường Ba đánh cho ngất xỉu lúc nãy, Trác Mộc Cường Ba dùng sức chưa đủ, hồi sau hắn tỉnh lại, mà gã thì sơ ý quên mất không lấy hết vũ khí trên người hắn.
“Bị thương nặng không?” Trác Mộc Cường Ba định đỡ Ba Tang dậy thì bị anh ta thô lỗ đẩy ra xa, rồi quát gắt lên: “Mẹ nó, giết người lại không giết chết! Anh làm đội trưởng cái mẹ gì thế!” Trác Mộc Cường Ba sầm mặt xuống, không nói gì nữa.
Ba Tang ngồi dưới đất, thở hổn hển vì những ảo giác vừa trông thấy. Trương Lập tưởng anh ta bị thương nặng, liền đưa băng gạc cho, nhưng lại bị Ba Tang cự tuyệt. Ba Tang để tâm trí bình tĩnh lại, rồi tự xé cái áo đã rách bươm ra rịt vào cầm máu, nhìn con rắn hổ mang bị Nhạc Dương bắn cho đứt thành ba khúc, anh ta cười khẩy châm biếm “Bắn chuẩn lắm.” Thực ra là muốn bóng bẩy bảo Nhạc Dương: Cậu chẳng bắn trúng tên địch nào hết.
Nhạc Dương lật một cái xác lên, thấy trên người chết không có quân hàm gì, y phục cũng không giống quân trang của đội quân chỉnh tề, liền nghi hoặc hỏi: “Không phải quân du kích à?” Ba Tang nghe tiếng, liền chụp lấy một thi thể bên cạnh, giật vạt áo hắn lên, sắc mặt lập tức đanh lại: “Là bọn buôn ma túy!” Theo những tư liệu họ tra cứu được, hình xăm rắn hai đầu này được thành viên của một tổ chức con nằm trong tổ chức của ba tên trùm ma túy hàng đấu sử dụng. Trong rừng rậm, quân du kích Col ombia đương nhiên là thế lực lớn nhất, nhưng phạm vi hoạt động chủ yếu của chúng chỉ giới hạn trong lãnh thổ Col ombia , tuy nói là cũng tham gia trồng cấy, gia công vận chuyển ma túy, nhưng đối lập với chính phủ mới là mục đích của chúng; còn bọn buôn lậu này thì hoàn toàn khác, chúng dựa vào ma túy để sống, rừng sâu biên giới xưa nay đều là con đường thích hợp nhất để chúng vận chuyển ma túy, bọn chúng ở trong nhưng khu vực được gọi là không người này thật chẳng khác nào như về nhà mình, lại còn có buôn bán qua lai với các bộ tộc người Anh điêng nữa. Nếu nói quân du kích là hổ là sói trong rừng nhiệt đới, thì bọn buôn ma túy lần mò khắp chốn, thế lực phức tạp đa đoan vươn dài đi khắp các quốc gia Châu Mỹ chính là cáo, là rắn của rừng già. Trong rừng nhiệt đới này, dây dưa với chúng, so với đụng độ quân du kích còn khó chịu hơn nhiều.
Quân du kích truy sát bọn Trác Mộc Cường Ba là vì bọn gã liên quan đến cái chết của các thành viên của chúng, còn bọn buôn ma túy này sao cũng gia nhập hàng ngũ những kẻ truy kích? Nhất thời cả bọn còn chưa kịp nghĩ xem là duyên cớ gì, tiếng súng đã lại vang lên.
“A” một tiếng, lần này người trúng đạn là Nhạc Dương. Vài viên đạn bắn xuyên qua ba lô leo núi, trúng ngay mông anh chàng, cũng may là cái ba lô đã giảm bớt lực đạn nên mới không bị thương nặng. Đồng thời cả bốn người cùng hiểu ra, kẻ địch không chỉ có năm người, mà là chia thành hai nhóm, năm tên đi trước chẳng qua chỉ là bia đỡ đạn để dụ cho bọn họ để lộ hình tích. Không biết kẻ địch số người trang bị thế nào, bốn người vừa ngoác miệng ra chửi, vừa tản ra chạy trối chết. Trước khi đi, Trương Lập nấp sau gốc cây, rút một sợi chỉ ở chỗ rách trên áo ra buộc chốt an toàn quả lựu đạn trên tay một tử thi quàng vào một bụi cây buộc phải đi qua, tổng cộng mấy bảy giây đã làm xong một cái bẫy mìn đơn giản, hy vọng có thể cản bước kẻ địch lại thêm một lúc.


Gonzales quả không hổ là con cáo già của rừng nhiệt đới, dựa vào tư liệu Merkin cung cấp và tin tức ở Putumayo đưa về, hắn biết bốn người ngày chắc chắn có khả năng chiến đấu nhất định. Vừa tiến vào rừng, hắn lập tức dựa vào mật độ cây cối để phán đoán mục tiêu, phạm vi nhìn thấy được trong rừng vào khoảng trên dưới hai trăm mét, nên hắn chia thủ hạ thành hai nhóm, đi cách nhau năm trăm mét, phát hiện kẻ địch một cái là hô ứng được với nhau luôn. Phía trước vừa vang lên tiếng súng, nhóm của hắn liền chầm chậm lặng lẽ áp sát, kẻ địch ẩn nấp rất tốt, nhất thời không thể nắm bắt được toàn bộ động hướng của đối phương, nên bọn hắn chỉ im lặmg quan sát. Nhưng chính hắn cũng không thể ngờ kẻ địch lại phản ứng thần tốc đến thế, vừa đụng độ đã giải quyết xong năm tên rồi, xem ra bốn người này không phải là hạng tầm thường.
Hướng về phía bọn Trác Mộc Cường Ba bỏ chạy, Gonzales một tay cầm súng, một tay nâng băng đạn, thân hình mập lùn của hắn trong ánh lửa trở nên dũng mãnh mà hung ác. Gần trăm viên đạn đã sạch trơn, cũng không biết rốt cuộc bắn trúng được mấy người, Gonzales bắn đã đời xong mới ra lệnh cho bọn thủ hạ bên cạnh: “Đuổi tiếp!”
Hai tên thủ hạ bên cạnh vừa chạy được vài bước, Gonzales chợt nghe một tiếng “cách” như có thứ gì vừa tuột ra, hắn phản ứng cực nhanh, thân thể mập mạp lắn sang một bên như trái bong, kế đó chỉ nghe “ầm” một tiếng. Lúc Gonzales đứng dậy, đã có thêm hai tên hạ thủ nữa ngã xuống, một tên đứng gần đó vẫn chưa hết hoàn hồn, nói: “Đại ca … còn đuổi nữa không?”
Sắc mặt Gonzales dần chuyển sang màu xanh, đám thủ hạ cảm giác được một luồng khí lạnh lẽo đến độ áp chế người khác đang tỏa ra trên người đại ca của chúng, cuối cùng, Gonzales lạnh lùng nói: “Phong tỏa đường sông, gọi trực thăng đi!” Nói đoạn, liền dẫn lũ tàn binh rút lui.

Bụi gai chằng chịt, cây lớn cản đường, mãnh thú ẩn mình, những thứ này đều không thể cản bước những kẻ đang chạy trốn, không thể nghĩ ngợi quá nhiều nữa, nếu muốn sống sót trong cánh rừng nhiệt đới này, vậy thì phải tranh đoạt thời gian với bọn người đang truy đuổi phía sau kia. Tiếng súng đầu tiên vang lên, hẳn là đã thu hút các nhóm vũ trang ở khu vực quanh đây lại, nếu muốn thoát khỏi cánh rừng này, thì buộ phải thoát trước khi kẻ địch phong tỏa đường sông, hình thành vòng vây khép kín. Quần áo bị móc rách, chân tay bị chà đến sưng rộp lên, ba lô sau lưng nặng như núi đa, những thứ này đem so với sinh mệnh cao quý thì có đáng là gì đâu chứ. Bốn người dường như đã chọn phải con đường cỏ cao, cây rừng lại dày đặc, xem ra là khó đi nhất, nhưng đây mới chính là kết quả của một sự lựa chọn kỹ càng, mặc dù đi theo hướng Đông là sẽ tới được đích đến, nhưng đó lại là con đường dài nhất, thì buộc phải đi theo hướng vắt ngang mà thôi. Bọn truy đuổi phía sau không biết còn có bao nhiêu người, nhưng chỉ nghe tiếng súng sau lưng vang lên liên miên không dứt là biết hỏa lực của kẻ địch cực mạnh rồi. Bốn kẻ đào tẩu đáng thương, thê thảm nhất là đến giờ cũng không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, dường như từ lúc bước chân vào khu rừng này, họ đã bị sắp đặt sẵn cho số mệnh bị truy đuổi rồi vậy. Tuy trong lòng đều lấy làm bực tức bất bình, miệng thì không ngừng nguyền rủa mắng chửi, có người còn khập khà khập khiễng, nhưng tất cả đều chạy nhanh như bay. Dần dần phía sau không còn nghe động tĩnh gì nữa, tiếng súng dường như cũng dừng lại, nhưng bốn người đều không có ý định dừng chân, cả bọn đều hiểu rõ, vùng này là thiên hạ của kẻ địch, xung quanh còng không biết còn có bao nhiêu tên khác nữa. Kẻ địch không có động tĩnh, không có nghĩa là bọn chúng đã ngừng truy bắt, nhất định có hành động gì đó quy mô còn lớn hơn đang đợi chờ bốn người họ phía trước.
Cây rừng phía trước mỗi lúc một thưa thớt, bờ sông đã ở ngay trước mắt, tiếng nước róc rách như vẫy gọi họ tới con đướng sáng, trong lòng bốn người khấp khởi một tia hy vọng. Thế nhưng, đúng lúc họ dừng lại, ép mình sau gốc cây quan sát tình hình, bỗng nhiên thấy hai chiếc ca nô “phạch phạch” đi ngược chiều nhau trên mặt sông phía trước, còn một dải ven rừng hình như cũng có vô số bóng người đang di động, dường như còn có cả … tiếng chó sủa.
Rõ ràng họ đã chậm mật một bước, kẻ địch đã hoàn thành được vòng vây, chẳng những phong tỏa đường sông, mà còn phái người bắt đầu lục soát trong rừng, Ba Tang ngửa mặt nhìn lên trên, rồi lại bắt đầu chửi bới. Nhạc Dương lật đi lật lại xem mấy tấm bản đồ vệ tinh, hy vọng tìm ra cách đột phá vòng vây, Trương Lập thì cứ mó máy khẩu M4, đếm xem còn bao nhiêu băng đạn, còn bao nhiêu viên đạn.
Nhạc Dương quan sát xung quanh rồi phân tích sơ bộ. Nhóm ở khoảng rừng bên trái không dưới năm mươi tên, bên phải cũng khoảng ba bốn mươi tên, dựa vào cách ăn mặc của chúng thì ít nhất cũng có một phần là quân du kích, mấy người quân ta không thể cùng lúc chống chọi lại nhiều kẻ địch như thế được; hơn nữa bọn chúng còn có cho săn, chẳng mấy chốc là dựa được vào mùi hơi để tìm thấy bọn này; còn trên sông thì đã bố trí ca nô tuần tra, gần như cứ năm phút lại có một ca nô chạy qua, với tầm nhìn trên sông, bất kể là họ lao ra vào lúc nào cũng đều bị kẻ địch phát hiện ngay lập tức. Từ trên cao quăng dây nhảy qua; bơi qua; cho nổ thuyền làm kẻ địch chú ý, thừa cơ tẩu thoát … từng ý nghĩ hình thành trong đầu Nhạc Dương, rồi lần lượt bị phủ quyết. Anh chàng thở dài nói: “Vừa có quân du kích, vừa có bọn buôn ma túy, đánh chẳng được mà chạy cũng không xong, giờ xem ra chỉ còn cách ngoan ngoãn chờ chết thôi.”
Trương Lập nói: “Thật đúng là đen đủi, cả tại sao mình chết mà cũng không biết nữa, thiên lý ở đâu chứ!”
Ba Tang khan giọng quát: “Câm miệng! Một chút khó khăn nhỏ xíu đâu đáng để thở vắn than dài như thế.”
“Một chút khó khăn hả!” Trương Lập đớ người, “Đại ca Ba Tang của tôi ơi, chẳng lẽ anh không nghĩ rằng chúng ta đã cùng đường mạt lộ rồi hay sao?” Ba Tang chỉ cười khẩy thay lời đáp.
“ Chư a chắc đâu.” Cuối cùng Trác Mộc Cường Ba cũng lên tiếng, gã bảo bốn người tụm lại, thấp giọng nói: “Như vầy ... như vầy …”
Đội tầm nã đã nhận được mệnh lệnh, tìm kiếm gắt gao ở khu ven sông, nhưng không được vào sâu trong rừng. Nhóm dẫn chó lùng sục bên cánh trái đang cẩn thận tra xét những nơi có thể ẩn náu, đột nhiên con chó săn bỗng dựng đứng lên, kéo căng dây xích chạy về phía Đông. Tên dắt chó phát hiện có chuyện, lập tức gọi đồng bọn chạy theo. Đi theo chó săn, chúng tìm thấy một vật trông giống cái bình bọc trong đống vải, đang tỏa ra một mùi hương kỳ quái, chính thứ mùi này đã kéo chó săn tới đây. Tên dắt chó liền cầm món đồ bọc vải ấy lên, “tạch” một tiếng, sợi dây phía dưới bọc vải đứt làm đôi, tên dắt chó thoáng ngẩn người. Ánh lửa lóe lên, bùn đất bắn tung tóe hất tung cả người lẫn chó lên cao. Những tên còn lại thấy bóng người thấp thoáng, rõ ràng đã lẩn vào trong rừng, cả bọn vội vàng chạy theo.

Đám người bên phải nghe thấy tiếng nổ, cũng chạy tới, rõ ràng nghe thấy người phe mình phía trước đang hỏi: “Người đâu?” Bọn chúng vừa định trả lời, đã bị một con dao săn ở đâu bay tới đâm chết một người, kế đó là tiếng súng, hỏa lực của đối phương hình như là khá mãnh liệt. Đám người bên phải nổi điên lên, không hề khách khí nổ súng đáp trả.

Khi hai bên bắn nhau túi bụi, bốn kẻ gây chiến đã len lén lùi ra xa hơn trăm mét, vòng qua hai phe đang giao chiến, đến chỗ ngã tư sông. Vốn là ca nô tuần tra phong tỏa đường sông hô ứng từ xa, tuyệt đối không có một kẽ hở nào, nhưng khi chúng nhận ra hai bên đang giao chiến rõ ràng đều là người mình, tự nhiên là phải gào thét cản lại. Trong lúc sự chú ý của người trên thuyền tập trung cả lên bờ, không ai phát hiện ra, bốn trái bóng khổng lồ màu xanh lục lăn xuống sông, kế tiếp đó, bốn cây cọc gỗ không có gì nổi bật chìm vào mặt nước, chớp mắt đã biến đi trong tầm mắt.

Cuộc đấu súng kéo dài mười phút mới lắng xuống, sau khi phát hiện là người phe mình, cả hai bên đều chỉ trích đối phương khai hỏa trước, nhưng cuối cùng cũng không làm cho rõ được tại sao cả bọn lại lao vào bắn nhau túi bụi như thế. Bọn chúng làm sao biết được, nếu nói về chiến tranh du kích trong rừng, Trung Quốc mới chính là cái nôi phát triển của chiến thuật du kích hiện đại.

Bên kia sông, một kẻ đang náu mình trong rừng sâu buông chiếc ống nhòm điện tử xuống, gương mặt gầy đét hiện lên nét cười khinh khỉnh: “Vậy mà cũng thoát đi được, xem ra vẫn còn may lắm.”

“Hê! Mày là ai! Đứng yên đó! Giơ tay lên!” Soares giơ cao cả hai tay theo yêu cầu của đối phương, đồng thời dùng tiếng địa phương nói: “Đừng nổ súng! Ta là bạn của Gonzales!” Y chầm chậm quay người lại. Một nhóm du kích chừng mười tên đang đứng trước mặt, tên dẫn đầu nói:
“Hắn bảo cái gì? Tao có nghe lầm không hả?”
“Hắn bảo hắn là bạn của thằng mập! Ha ha!”
“Hây, đừng cử động, đừng đung đưa mà lại!” Một tên du kích giơ súng lên ngắm vào Soares, bảo y đứng yên chẳng qua là để ngắm chuẩn hơn một chút.

Tiếng súng nổ vang, chỉ thấy bóng xám phía trước lóa lên, không ngờ lại không bắn trúng. Soares đã bổ nhào vào rừng câu trước khi viên đạn bắn tới một giây, sau lưng súng nổ liên hồi. Mặc dù Soares tránh được hết cả loạt đạn, nhưng cuộc đụng độ bất ngờ này cũng làm y lăn lộn khốn đốn một phen. Mặt mũi dính bê bết bùn đất.
Soares bừng bừng tức giận: “Lũ chuột vô tri, không ngờ lại dám nổ súng vào ông chúng mày đâu, để ông cho chúng mày nếm thử Luyện Tâm đạn cỡ nhỏ. Soares Kahn tao xin thề, nhất định phải khiến chúng mày chết khổ chết sở!”

Không biết thứ gì trong bụi cây ném ra, mấy tên du kích tưởng là lựu đạn, liền thụp người xuống sát mặt đất. Vật kia nổ giữa không trung, nhưng không có mảnh đan bắn tung tóe, mà là vô số dịch thể dinh dính màu xanh rải xuống như người ta tưới hoa, một thứu mùi kỳ dị lan tỏa khắp trong không khí. Đám du kích lần  lượt đứng lên, chạy được tới chỗ Soares nấp thì đã không thấy người đâu. Lúc này, chúng mới chú ý đến thứ dịch thể kia, nhìn những mảng xanh lốm đốm trên người đồng đội, cả bọn nhốn nháo hỏi nhau: “Cái thứ gì đây?” “Mùi gì thế nhỉ?” “Phì phì, cái thứ này đắng quá, hê, lại còn hơi ngòn ngọt nữa, là cái quái gì nhỉ?” “A, mắt tao, thứ đó rơi vào mắt tao rồi, không thấy gì nữa. Có phải có độc không? Mau giúp tao rửa sạch nó đi!”

Quân du kích quanh năm sống trong rừng hiểu rõ thế nào là độc hơn người bình thường rất nhiều, bọn chúng kinh hồn hoảng vía, vội vàng chạy đi kiếm huyết thanh. Soares đứng nghiêng người dựa vào gốc cây vẫn chưa hết cơn giận, lẩm bẩm thầm nhủ: “Đây vốn không phải thứ dành cho chúng mày, tự chúng mày chuốc vào đấy nhé. Hừ, chạy hả? Chỉ cần chúng mày còn ở Châu Mỹ, thì đừng hòng thoát chết.” Soares lại lấy ra một cái lọ thủy tinh, lầm bầm như niệm chúng: “Hoàng hậu của ta, đi triệu tập thủ hạ của mày đi, mang bọn người vô tri ngu xuẩn kia xuống địa ngục cho chúng biết thế nào gọi là Luyện Tâm.” Nắp bình mở ra, một con ong vàng to tướng dài phải đến năm centimet cựa quậy chen ra khỏi miệng bình nhỏ hẹp, phảng phất như bị thứ gì đó kích động, nó hưng phấn đảo lên không trung mấy vòng, rồi đập cánh bay vút đi. Nếu đám du kích kia mà biết sắp tới sẽ xảy ra chuyện gì, e là sẽ sợ đến hồn vía lên mây mất, con ong vàng ấy có một cái tên mà người ta chỉ cần nghe thôi đã thấy táng đởm kinh hồn rồi – ong sát nhân châu Mỹ.
Tiếng “phạch phạch phạch” từ xa vang lại, nhưng không phải con ong vàng kia bay đi rồi trở lại, mà là một thứ to hơn ong vàng mấy lần đang từ phía Tây bay tới phía Đông. Soares nhìn ba chiếc trực thăng phía xa, chau mày nói: “Đến nhanh quá, xem ra cứ nên rời khỏi mảnh đất thị phi này trước thì hơn.”
 
Ký ức tái hiện
“Ục ục ục …” Lặn dưới nước một đoạn, bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba tìm một nơi tương đối ẩn mặt để lên bờ, thoát khỏi vòng vây, đi vào một cánh rừng khác. Tuy có hơi lệch so với tuyến đường trong kế hoạch ban đầu, nhưng tạm thời có thể nói là an toàn. Còn chưa đứng vững chắc, đã nghe tiếng cánh quạt phành phạch trên cao, ba chiếc trực thăng chao lượn như ba con chuồn chuồn đen kịt, hai bên nách không ngừng rải một thứ bột trắng xuống khu rừng. Dù không biết là gì, nhưng có thể khẳng định tuyệt đối không phải thứ tử tế, chỉ thấy vô số chim chóc láo nháo bay lên chạy trốn, nhưng vừa chạm phải màn sương bột ấy, liền bị chết cóng trong khoảnh khắc, thân thể cứng đờ rơi bịch xuống dưới. Trương Lập vẫn chưa hết sợ nói: “ Nguy hiểm quá, suýt chút nữa là không ra khỏi cánh rừng đó được rồi”
Nhạc Dương thắc mắc: “Chẳng qua là đối phó bốn người chúng ta thôi, dùng đến cả trực thăng như vậy chẳng phải là lấy đại pháo bắn muỗi sao? Hơn nữa, rải thuốc sát trùng như vậy, lá cây trong rừng rậm sẽ che chắn hết, đâu có để rơi đến chỗ chúng ta được?” Lời còn chưa dứt, Trương Lập đã đờ người ra huých tay anh chàng: “Cậu … cậu xem kìa, lá … lá cây rụng hết cả rồi!”
Rừng cây vốn đang xanh um tùm tươi tốt, cánh lá vừa chạm phải bụi phấn kia liền chuyển sang màu vàng, khô héo rụng rời. Nhạc Dương kinh hãi thốt lên: “Bọn chúng, bọn chúng dám dùng cả vũ khí sinh hóa cơ à, đáng sợ quá!”
Ba Tang lạnh lùng nói: “Có thời gian ở đây sợ sệt, chỉ bằng chạy nhanh hơn một chút đi!”
Trác Mộc Cường Ba không dừng bước chân, nói: “Đúng vậy, chỉ cần chúng không phát hiện ra xác chúng ta trong cánh rừng đó, tất sẽ biết chúng ta đã chạy thoát. Điều chúng ra cần nhất bây giờ là một tuyến đường chính xác, nhanh chóng thoát khỏi sự truy đuổi của kẻ địch. Những ké này thật đáng sợ quá, cứ như chúng ta bị cuốn vào một cuộc chiến vậy.”
Trương Lập và Nhạc Dương đưa mắt nhìn nhau, dường như không muốn nhắc đến chuyện gì đó, nhưng Nhạc Dương cứ gật đầu gật đầu cổ vũ Trương Lập. Cuối cùng, Trương Lập đành rảo nhanh bước chân, đuổi kịp Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang: “Chúng ta không làm chuyện gì quá đáng, không thể nào cùng lúc đắc tội với cả quân du kich lẫn bọn buôn ma tuy được. Tôi vẫn kiên trì ý kiến cho rằng, đây là do cấp trên cố ý sắp xếp để nâng cao năng lực thực chiến của chúng ta. Cường Ba thiếu gia, trước khi xuất phát không phải anh vẫn luôn cảm thấy chúng ta đã đủ năng lực đi tìm Bạc Ba La thần miếu rồi hay sao? Tôi nghĩ, chính vì nguyên nhân này, chúng ta mới bị khảo nghiệm như vậy đấy.”
Trác Mộc Cường Ba cúi xuống ngẫm nghĩ, rồi lắc đầu nói: “Thế này … chắc không đâu, giáo quan mà làm như vậy, thì không khỏi có hơi quá đáng rồi. Bất kể thế nào, nếu thoát hiểm được, nhất định tôi sẽ liên lạc với bà chằn ấy, nhất định phải hỏi cho rõ ngọn ngành xem rốt cuộc là cô ta giở trò gì.”
Bốn người lúc nãy, người nào cũng đầy mình thương tích, vừa nãy chạy hết tốc lực trong rừng, có nhiều chỗ bị cào, bị móc rách da rách thịt, có loài cây còn chứa cả độc tố nhẹ, vết thương bắt đầu sưng vù đỏ tấy lên, lúc nãy vì giữ mạng nên cả bọn đều quên cả nỗi đau thân thể, còn bây giờ đã chạy khỏi vòng vây, cơn đau như thiêu đốt bắt đầu trở nên rõ rệt. Trong bốn người có hai người bị trúng đạn, nhưng thậm chí họ còn chẳng có thời gian dừng lại băng bó vết thương nữa. Nhìn tình cảnh trước mắt, điều làm Trạc Mộc Cường Ba lo lắng hơn cả không phải nhóm người của mình, “Nhóm của Mẫn Mẫn bây giờ ra sao rồi nhỉ? Bọn họ có đụng độ với quân du kích không? Không chắc là không có chuyện gì đâu.”
Trương Lập quay đầu nhìn cánh rừng họ vừa bị bao vây, người đi trong ấy thì chậm, nhưng máy bay trực thăng thì chỉ mật hai ba mươi phút là dợt hết một vòng. Anh quay sang hỏi Nhạc Dương: “Cậu có ý kiến gì hay không?”
Nhạc Dương nói: “Rải thuốc độc như bọn chúng thế này, sợ nhiều lắm chỉ cần một tiếng đồng hồ là xong hết, tới lúc đó không phát hiện ra hi thể chúng ta, chắc chắn chúng sẽ tăng hết tốc lực đuổi theo. Dù nói là chúng ta tiến về phía Bắc, có lẽ hơi nằm ngoài dự đoán của chúng, song thế nào thì cũng vẫn là đang tiến sâu vào hang ổ của quân du kích, bọn chúng người đông thế mạnh khó đảm bảo chúng ta không bị phát hiện được. Vì vậy, tôi thấy, cần nhất là phải chọn một con đường tẩu thoát thật nhanh, rời khỏi phạm vi thế lực của chúng. Từ đây cắt ngang cánh rừng nay, thẳng tiến về phía trước, rồi vượt qua hai hoặc ba cánh rừng nữa, sao đó chuyển hướg đi về phía Đông, làm một cái bè gỗ đơn giản, đi xuôi dòng nước, đây là cách đào tẩu nhanh nhất trong những cách tôi nghĩ ra rồi đấy. Mọi người thấy sao?”
Bốn người vừa rảo bước tiến nhanh vừa đưa mắt trao đổi, biểu thị đồng ý. Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng với tốc độ của chúng ta hiện nay, sợ rằng chưa đi được xa như thế đã bị chúng đuổi kịp mất rồi.” Nhạc Dương lại nói: “Đúng vậy, trong khu rừng đầy bụi gai này nếu chỉ dựa vào sức người mà muốn đi nhanh thì không thể được, vì vậy, tôi nghĩ rằng chúng ta không nên đi kiểu thế này nữa.”
Thấy mọi người đều tròn mắt lên nhìn mình, ánh mắt anh sáng lóe lên: “Có thấy vượn người ở Thái Sơn bao giờ chưa?” Nói đoạn, anh ta ngẩng đầu nhìn lên, vừa hay có một bầy khỉ đuôi sóc dừng lại trên ngọn cây, dường như cũng biết mấy người bên dưới không thể làm hại gì mình, bọn chúng vẫn vô tư hỉ hả vui đùa. Chúng nhảy từ chỗ chạc ba này sang chỗ chạc ba khác, những lúc khoảng cách quá lớn, những con nhỏ hơn không thể nhảy qua được, một con khỉ to sẽ móc tay móc chân vào một cành cây, đuôi quấn vào một cành khác, thân mình làm cầu, bọn khỉ con liền đi qua một cách dễ dàng.
Ba người còn lại cũng hiểu ra, lập tức ngẩng đầu lên nhìn những thân cây khổng lồ nằm san sát, cành cây nối nhau to ngang người ôm, có cây còn mọc rễ nơi chạc ba buông xuống sát mặt đất, nhiều cây khác thì bị các loại dây mây dây leo quấn tròn xung quanh. Trương Lập nhìn cánh tay băng bó của Ba Tang, lẩm bẩm nói: “Như vậy được không? Nhưng mà cũng nên thử một phen coi sao.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không vấn đề gì đâu, đến lúc xem thành quả huấn luyện của chúng ta thế nào rồi.”
Muốn lên cây, trước tiên phải bỏ lại một phần trang bị, nếu không, đừng nói là vượn người Thái Sơn, mà cả Tarzan cũng chẳng thể đeo ba bốn mươi cân trên lưng mà nhảy nhót như bay trong rừng được. Nói làm là làm luôn, bốn người ném hết các đồ bằng sắt, từ xẻng sắt, nồi sắt, bình nước sắt, đinh tán dùng leo núi, vòng số tám, đinh chốt, tời kéo, vì họ cảm thấy trong rừng già này dường như không có đất dùng tới những thứ này; sau đó cả lều bạt cỡ lớn cũng không cần nữa, thứ ngày tốt thì có tốt thật, nhưng chiếm quá nhiều trọng lượng, có rất nhiều thứ bốn người chuẩn bị vì coi chuyến đi này chỉ như một cuộc du lịch dã ngoại, bây giờ ai nấy đều mệt nhoài lo giữ mạng, những thứ đó không còn ý nghĩa gì nhiều nữa. Ngoài đồ hộp, bốn người chỉ giữ lại một phần thức ăn dinh dưỡng dạng nén, cho tới khi mỗi ba lô chỉ còn khoảng mười cân, cả bọn mới trèo lên cây.
Hồi trước khi băng qua rừng rậm nguyên sinh họ cũng từng làm chuyện tương tự như vậy rồi, thế nên tiến lên theo cách của loài khỉ thế này cũng không phải chuyện gì khó khăn, chỉ thấy bóng bốn người trồi lên thụp xuống, hoàn toàn không kém cạnh gì lũ khỉ vượn kia. Chỗ nào nhiều dây leo thì họ trực tiếp đu qua luôn, nhìn chuẩn phương hướng, rồi bám từ sợi này đu qua sợi khác, tốc độ di chuyển so với viẹc len lỏi tránh các bụi gai trên mặt đất nhanh hơn rất nhiều. Tới chỗ nào ít dây leo hoặc không thể cầm nắm, bọn Trác Mộc Cường Ba liền trực tiếp đi đường trên không, từ chạc ba cây này nhảy sang chạc ba cây khác, tuy là hệ số nguy hiểm cao hơn một chút, nhưng đem so với súng đạn của quân du kích và bọn buôn ma túy thì chẳng đáng là gì cả. Vả lại, trên vai mối người đều đeo một cuộn dây thừng cứu sinh một đầu buộc vào vật nặng, nếu có gì sơ sẩy thì vẫn còng có thể ném dây ra cứu mạng. Sử dụng phương pháp này, bốn người càng lúc càng rời xa vòng vây liên hợp của quân du kích và bọn buôn ma túy.
Thế nhưng, trong rừng còn một bóng xám khác, hoàn toàn không bị ảnh hưởng của việc bốn người tăng tốc. Y cầm roi dài trong tay, nhẹ vung một cái đã quấn vào cành cây cách đó hơn mười mét, phiêu hốt lăng người đi, lăng tới điểm cao nhất, đúng vào khoảnh khắc thân thể hơi sững lại đó, y rung tay một cái, rồi lại vung ra, đầu roi quấn vào một chạc cây khác. Tốc độ như thế, bọn Trác Mộc Cường Ba vẫn còn kém rất xa. Đu người đi được một đoạn, y dừng lại giây lát trên chạc cây, lấy thiết bị kia ra, nhìn điểm di động trên đó, cười gằn nói: “Tốc độ tăng lên rõ rệt rồi đấy. Ừm, dùng cách giống của tao hả, mấy thằng oắt này trở nên thông minh rồi đấy. Ở trong rừng rậm, đáng lẽ phải tiến lên như vậy mới đúng.”

Bốn người tăng tốc tiến lên, bơi qua ba con sông, vượt qua ba cánh rừng, đến bên một dòng sông tương đối lớn, nước chảy khá xiết, chặt cây làm bè, dùng một cái cây non to bằng một cánh tay người làm sào chống, bắt đầu xuôi dòng.
Trên bãi sông, một hàng cây cao khoảng hai ba mét, lá cây to bản hình oval, nhìn hơi giống là trà. Ba Tang chẳng buồn nghĩ ngợi gì đã hái lấy một nắm to mang theo lên bè.
Nhờ vào nghị lực ngoan cường cùng thân thể rèn luyện trong đợt huấn luyện địa ngục, bốn người coi như đã cầm cự được đến giờ phút ngay, cho tới khi nằm trên bè gỗ, cả bọn mới bắt đầu thấy xương cốt rã rời, nằm xuống rồi là không muốn ngồi lên nữa. Lúc này có hai người vẫn còn đang cử động: Trác Mộc Cường Ba, thân thể vạm vỡ ấy vẫn vươn thẳng lên - cần phải có một người điều khiển hướng trôi của bè gỗ, kịp thời chống sào giữ cho bè không bị mặc cạn; Ba Tang cũng không dừng lại, vết thương bị đạn xuyên từ vai trước qua vai sau, cũng may là viên đạn xuyên qua khoảng giữa xương quai xanh và xương bả vai, không thương tổn đến gân cốt. Có điều họ chạy một mạch từ đó tới giờ, không có cơ hội băng bó vết thương cho cẩn thận và xử lý kịp thời, bây giờ vết thương đã bắt đầu đỏ tấy và sưng lên, xung quanh chỗ sưng đỏ là một vòng màu xanh nhạt, một thứ dịch thể màu vàng nhạt rỉ ra nơi hai đầu vết thương. Nhìn vào vết thương ghê rợn ấy, Trương Lập không dám tưởng tượng làm sao Ba Tang cầm cự nổi trong suốt quãng đường nhảy nhót đu dây trong rừng ấy.
Lúc này, Ba Tang đang ngồi giữa bè gỗ, vừa máy móc dùng dao săn cạy vỏ đồng của viên đạn, đổ thuốc súng bên trong ra, đồng thời lấy thứ lá hái được ven sông, cho từng cái từng cái vào miệng ra sức nhai nát. Trương Lập rất muốn hỏi Ba Tang đang làm gì, nhưng vừa nhìn thấy gương mặt lạnh lùng và đôi mắt dữ tợn kia, lại thôi không dám lên tiếng nữa.
Một lúc sau, thuốc súng đã đủ dùng, Ba Tang bạnh vết thương ra, đổ thuốc súng vào đó, hai hàm răng cắn chặt vào cán con dao săn, nỗi đau bị di vật kích thích thần kinh, khiến trán anh ta túa ra từng giọt mồ hôi. Trương Lập giờ mới hoảng hồn, vội vàng hỏi: “Ba … Ba Tang, anh làm gì vậy?”
“Làm cái gì?” Ba Tang ngẩng đầu lên, lấy con dao săn ra, miệng không ngừng nhai lá cây, sắc mặt trắng đền rợn cả người, tiếng nói nghe như âm thanh phát ra từ máy “Chúng ta không có thuốc kháng viên, không có thuốc giảm đau, đành phải tự nghĩ cách thôi.”
Khi hoa lửa lóe lên, khói mù bốc lên từ hai đầu vết thương, Ba Tang vẫn run lên bần bật, kế đó, anh ta đầm đìa mô hôi ngẩng đầu lên. Nhạc Dương và Trương Lập đều tròn mắt lên nhìn con người thép trước mặt đầy kính phục, cái trò chỉ có Stallone trong phim mới chơi, không ngờ nay đã thực sự diễn ra trước mắt họ. Lúc Trương Lập lấy bông băng băng bó cho Ba Tang, anh ta lấy ra một ống tiêm cơ ngực chuyên dùng khi dã ngoại hiệu TAT tự tiêm cho mình, tuy hấp thụ chậm hơn một chút, nhưng so với tiêm vào bắp tay thì hiệu quả không khác gì cả.
“Phì” Trương Lập không cẩn thận lại chạm phải vết thương của Ba Tang, anh ta nhổ mạnh đống lá đã nhai nát trong miệng xuống sông. Nhìn đống lá cây còn lại trước mặt Ba Tang, Trương Lập hỏi: “Đây là cái gì thế?”
Ba Tang buột miệng đáp: “Coca, lá coca, dùng gây tê. Giờ đỡ nhiều rồi, hết đau rồi.”
Nhạc Dương nói: “Anh Ba Tang giỏi thật, mặc dù đã tra cứu dữ liệu, nhưng tôi không thể nhìn một cái là nhận ngay đó là lá coca được, tôi còn tưởng là lá trà nữa chứ.”
“Phải đấy, làm sao tôi vừa nhìn đã nhận ra ngay là lá coca nhỉ?” Lúc này Ba Tang mới trầm ngâm suy nghĩ. Lúc nhìn thấy cây coca anh ta chẳng nghĩ ngợi gì đã hái một nắm lớn, rồi khi
Trương Lập hỏi, anh ta cũng buột miệng trả lời luôn, giờ vết thương đã được băng bó, anh ta mới thấy khó hiểu, “Sao tôi lại biết đây là lá coca nhỉ?”
Cùng lúc Ba Tang chất vấn bản thân, nước sông, cây cối, âm thanh của cây rừng, những hình ảnh đồng loạt xoay chuyển như chong chóng trong đầu anh ta. Ba Tang nắm chặt mớ tóc đầu đinh một phân của mình, không muốn để những hình ảnh mơ hồ đó chảy ra khỏi ký ức, cuối cùng, chúng cũng từ từ dừng lại, dung hợp thành một bức tranh hoàn chỉnh.
Mấy chiếc bè gỗ đó, cũng đang trôi trên một dòng sông thế này, trên mỗi bè gỗ có bốn năm người, người nào người nấy đều run rẩy sợ hãi nhìn trừng trừng vào rừng cây hai bên bờ, thần hồn nát thần tính. Lalachi nằm giữa bè, toàn thân máu tuôn như suối, đầu vai bị thứ gì đó xuyên qua, một người thân hình cao lớn đang nhét lá coca vào miệng anh ta. Người đó là ai? Bóng hình sao lại quen vậy, sao anh ta không quay đầu lại?
Người kia đang nói với Lalachi: “Nhanh lên, nhai đi, đây là lá coca, nhai đi rồi thì sẽ hết đau.”
Cặp môi không còn chút máu của Lalachi khẽ mấp máy, gượng cười: “Đùa … đùa cái gì đấy? Ở đây, sao lại có lá coca được?”
Người kia gắt lên ra lệnh: “ Nhai nát đi! Nhanh lên!”
Lalachi đành làm theo lời người đó
“A …” Tiếng thét như đứt ruột xé gan của Lalachi phảng phất như ở ngay bên trên. Ba Tang bất giác ngửa đầu về phía sau. Thứ đó đã rút ra rồi, là cái gì vậy? Hình như là một thứ vũ khí? Không, là vũ khĩ chế từ xương động vật? Hay là răng nanh của động vật? Làm sao có thể được, răng nanh dài đến tận ba mươi centimet, động vật gì vậy? Có thứ động vât nào như vậy sao? Ba Tang đang chuẩn bị nhìn cho kỹ hơn, vết thương lại đau nhói lên dữ dội kéo anh ta từ hồi ức trở về hiện thực.
“Xin lỗi, lại chạm phải vết thương rồi, đại ca Ba Tang, anh không sao chứ?” Trương Lập thấp tha thấp thỏm hỏi.
Ba Tang nói: “Không có gì. Ở nơi đó, chúng tôi cũng dùng thứ lá này chữa thương.”
“Hả” Trác Mộc Cường Ba nghiêng tay, suýt chút nữa là chống cho cả bè gỗ bật lên khỏi mặt nước. Nhạc Dương cũng bật ngồi dậy, trợn mắt trừng trừng lên nhìn Ba Tang như không dám tin vào tai mình. Nhạc Dương nhanh nhảu hỏi Trương Lập trước: “Trung Quốc có cây coca không?”
Trương Lập lắc đầu quầy quậy, nói: “Không biết. Có điều, chắc Tây Tạng không có cái thứ này phải không? Đây là thực vật nhiệt đới cơ mà.”
Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Anh còn nhớ gì nữa không? Ba Tang?”
Ba Tang lẩm bẩm nói: “Tôi nhìn thấy một số hình ảnh mơ hồ, có rất nhiều người, chúng tôi trôi theo dòng sông, giống hệt như lúc nãy …” Anh ta tả qua lại hình ảnh vừa nhìn thấy, làm mấy người trên bè vừa kinh hãi lại vừa mừng rỡ.
Trác Mộc Cường Ba hỏi tiếp: “Ba Tang, anh nghĩ kỹ lại xem, anh đã thấy những gì, các anh bị thứ gì truy đuổi vậy, có nhớ ra được không?”
Ba Tang cố thử đi vào thế giới hồi ức đó một lần nữa, chỉ để rồi nhận ra, cố gắng thế nào cũng không nhớ được gì. Những hình ảnh vừa thoáng hiện lên trong óc cũng trở nên mờ mịt. Anh lắc đầu đáp: “Lá coca bắt đầu có tác dụng rồi, giờ tôi không nhớ ra được gì nữa.”
Trác Mộc Cường Ba thầm thở dài một tiếng, tiếp tục chống sào tiến về phía trước, trong lòng gã cũng như bọn Nhạc Dương, Trương Lập, đều vẫn còn một dấu hỏi lớn.
Bốn người đều đã thoa thuốc lên các vết thương nhỏ khắp người, viên đạn bắn trúng mông Nhạc Dương chỉ xuyên một nửa vào thịt, lúc chạy trốn rơi mất tiêu, vết thương cũng khô thành sẹo rồi, giờ lại xử lý theo đúng quy chuẩn, không còn gì đáng lo nữa. bọn họ đều biết, lúc này mình đang ở trên hệ thống sông Putumayo cả, sông ngòi chằng chịt tỏa đi khắp hướng, nhưng nếu cứ một mực xuôi dòng, thì chắc chắn sẽ đụng phải lực lượng du kích trên tuyến sông chính. Vì vậy, họ luôn dùng la bàn cẩn thận tránh để tình huống này xảy ra, giữ cho thuyền đi về phía Tây. Nếu dòng sông chảy về phía Tây Nam hoặc hướng Nam , họ thà bỏ bè vào rừng, vòng qua một cánh rằng, sang phía bên kia khu rừng làm lại một cái bè mới, chọn lại một con sông nhỏ song song chảy về phía Tây để tiếp tục xuôi dòng. Đằng nào thì trong rừng cái gì cũng thiếu, chỉ mỗi gõ là đặc biệt nhiều, bọn Trác Mộc Cường Ba lại có công cụ sắc bén, làm bè gỗ còn dễ hơn là căng lều bạt nữa.
Cứ vậy chạy trốn cả một ngày, cuối cùng cũng không gặp phải cục diện khốn đốn bị vây giết như ban sáng nữa. Buổi trưa họ táp vào bờ sông bắt được mấy con cá kim cương


([1]), tối  đến thì bắt mấy con khỉ nhện, tuy là có hơi tàn nhẫn thật, nhưng bốn người đều đã đói sôi cả bụng, ăn hùng hục như sói như hùm. Mặc dù dọc đường mấy lần có trực thăng bay qua trên đầu, có điều họ ẩn thân trong rừng cây dày đặc như thế, có thể đảm bảo là không bị phát hiện, trừ phi trên trực thăng của kẻ địch có lắp máy chụp ảnh thân nhiệt hồng ngoại tuyến, nhưng mà khả năng thứ ấy xuất hiện ở một nơi thế này dường như là không nhiều lắm.
Cả ngày hôm đó có thể nói là cực kỳ tệ hại. Dùng lời của Nhạc Dương để tổng kết thì là bốn người bọn họ đã đến một nơi quái dị, gặp phải một đám kẻ thù quái dị, đánh một trận quái dị. Cuối cùng bị kẻ địch đuổi cho chạy bạc cả mặt, cả bốn người hàu như phải vứt hết khôi giáp để giữ được mấy cái mạng nhỏ của mình.
Đến đêm khuya, võng đã mắc xong, nhưng Nhạc Dương lại tỏ ra khác người, chọn lấy túi ngủ, treo lên cây ngủ trong tư thế đứng. Trác Mộc Cường Ba không ngủ được, lộn người xuống đất, dằn vặt một lúc rồi treo lên một cây tom trên chạc cây sớm đã có một người đang nằm nghiêng, là Ba Tang. Ba Tang vẫn nhìn lên bầu trời đầy sao, thấy có người lên cây cũng không ngoảnh lại nhìn, chỉ nói: “Mười giờ đến nơi rồi, anh còn không đi ngủ à?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Anh cũng đã ngủ đâu. Tôi … tôi muốn xin lỗi anh chuyện sáng nay.”

Ba Tang hờ hững nói: “Chuyện như thế cần gì phải xin lỗi. Tôi rất hiểu hoàn cảnh của anh lúc đó, bất cứ kẻ nào chơi đùa với tính mạng đều phải trải qua bước này, lần đầu tiên giết người, đó là một hố sâu rất khó vượt qua. Sau này giết người nhiều rồi sẽ quen thôi.”

Nói dứt lời, anh ta lại nhìn đăm đăm lên vũ trụ bao la.

Trác Mộc Cường Ba cảm thấy rất khó chấp nhận cách nói của Ba Tang, nhưng dường như gã cũng không tìm được lời nào để phản bác. Ở nơi hoang dã, đặc biệt là khi gặp phải kẻ thù, quyền lựa chọn của con người cũng trở nên giống hệt như động vật vây, kẻ mạnh thì sống! Những lúc săn bắn động vật làm thức ăn, có lẽ rất ít người thấy áy náy, song khi thứ động vật đó biến thành đồng loại có hình dáng giống mình, hơn nữa việc giết họ cũng không phải để sinh tồn, liệu có mấy người có thể rat ay mà hoàn toàn chẳng hề do dự? Hoặc có lẽ đúng như Ba Tang đã nói, mục đích của hai việc đó đều như nhau cả, ăn uống là để sinh tồn, tới khi cần thiết, giết chết kẻ khác, cũng là để sinh tồn. Carl Rogers (2)  đã phân tích quan điểm này một cách  rất lý tính trong học thuyến “bản ngã trung tâm” của ông, sau khi con người sinh ra và có nhân cách tự ngã, tâm lý lấy bản ngã làm trung tâm cũng đã được hình thành, những chuyện nghĩ tới đầu tiên thường là có lợi cho bản thân, sau đó mới tới người thân, bạn bè bên cạnh, vòng ngoài nữa là họ hàng, đồng hương; xa hơn nữa có thể là người cùng chủng tộc, cùng tổ quốc, sau đó là toàn thể loài người, cuối cùng mới là mọi sự vật của giới tự nhiên tách rời khỏi quần thể người. Những đường vòng tròn đồng tâm lấy lợi ích cá nhân làm tâm điểm, đã biểu đạt một cách hết sức hình tượng sức nặng của lợi ích cộng đồng trong lòng mỗi cá nhân. Néu như bản thân và người khác xảy ra xung đột, vậy thì điều nghĩ đến trước tiên chính là phải bảo vệ lợi ích của mình; nếu người thân bên cạnh mình và người lạ có tranh chấp, tất cả sẽ đứng về phía người thân; nếu đồng hương và người nơi khác nảy sinh mẫu thuẫn, ai chẳng bênh vực đồng hương một chút; khi con người và động vật trực tiếp đối đầu, thì gần như đều giúp con người cả. Nhưng làm như có vậy, có thật đúng hay không? Hay là, con người vẫn giữ tính xấu thâm căn cố đế của động vật, hoặc giả nói theo một góc độ khác là, con người vĩnh viễn cũng chỉ là động vật, chứ không phải thứ gì khác”

Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm suy nghĩ, hồi lâu cũng không nói gì. Trong bóng tối, Ba Tang lại buột miệng nói một câu vu vơ: “Hai ngày nay đều nhìn thấy sao trời, ừm, tình hình xem ra chẳng tốt lành gì rồi.”

Chú thích:

(1)     Nguyên tiếng Anh là “green terror” (nỗi sợ màu xanh), tên khoa học Aequidens rivulatus: loại cá nước ngọt có màu sắc sặc sỡ sống ở Nam Mỹ, cá kim cương trưởng hành có thể đạt độ dài khoảng 25 centimet.
(2)     Carl Roger: nhà tâm lý học người Mỹ, thuyết “bản ngã trung tâm luận” ( Person-centered theory) của ông được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực như tâm lý liệu pháp (liệu pháp lấy người bệnh làm trung tâm), giáo dục (phương pháp dạy lấy người học làm trung tâm), tổ chức…Ông được nhận giải thưởng của Hiệp hội các Nhà Tâm lý Hoa Kỳ năm 1972, và được đề cử giải Nobel Hòa Bình.
 

(1)     Nguyên tiếng Anh là “green terror” (nỗi sợ màu xanh), tên khoa học Aequidens rivulatus: loại cá nước ngọt có màu sắc sặc sỡ sống ở Nam Mỹ, cá kim cương trưởng hành có thể đạt độ dài khoảng 25 centimet.
(2)     Carl Roger: nhà tâm lý học người Mỹ, thuyết “bản ngã trung tâm luận” ( Person-centered theory) của ông được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực như tâm lý liệu pháp (liệu pháp lấy người bệnh làm trung tâm), giáo dục (phương pháp dạy lấy người học làm trung tâm), tổ chức…Ông được nhận giải thưởng của Hiệp hội các Nhà Tâm lý Hoa Kỳ năm 1972, và được đề cử giải Nobel Hòa Bình.Bằng chứng lịch sử

 
“Gì hả?” Trác Mộc Cường Ba sực tỉnh. Gã đột nhiên nhớ ra, vừa rồi lúc mình trèo lên cây, Ba Tang không hề xem đồng hồ, nhưng lại nói được thời gian, Trác Mộc Cường Ba đưa tay lên xem thử, mười giờ đúng.

Ba Tang lại nói: “Độ ẩm không khí vẫn đang tăng lên, khí áp thấp dường như đã bị khối khí xích đạo ảnh hưởng, mầy ngày nay oi bức nặng nề mà không phát tiết đi đâu được, năng lượng vẫn đang hông ngừng tích tụ. Nhìn xem, mặt trăng có lông mao kìa, tôi thật chẳng muốn gặp phải thứ thời tiết tồi tệ này chút nào.”

“Thời tiết tồi tệ? Anh muốn nói gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba không hiểu lắm.

Ba Tang bình tĩnh buông một tiếng: “Bão.” Nhìn nét mặt Ba Tang dường như không giống đang nói đùa lắm, mà bản thân anh ta cũng là người xưa nay chẳng bao giờ nói đùa cả. Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ra phần nào. Gã biết từ trước, mặc dù đều được huấn luyện đặc biệt như nhau, nhưng Lữ Cánh Nam là một giáo quan nghiêm khắc hết sức chú trọng phương pháp và hiệu quả thực tế, đối với mỗi học viên, bao giờ cô cũng dựa theo tư chất từng người để đặt ra những kế hoạch huấn luyện khác nhau, đồng thời chỉ dẫn học viên đi theo hướng mạnh nhất của họ. Như bản thân gã chẳng hạn, kỹ năng chiến đấu và kiến thức tôn giáo được đặc biệt quan tâm, những thành tựu gã có được ở hai phương diện này, những người khác không thể sánh được; còn Nhạc Dương, dường như cũng đã tiến thêm một bậc trong chuyên môn trinh sát lần theo dấu vết của mình; Trương Lập thì chỉ cần giao tiếp thường ngày thôi cũng biết, anh chàng này được sắp xếp tận trung vào việc sử dụng và chế tạo các thiết bị thực dụng, với trình độ hiện nay, ngoài tốc độ tháo lắp súng cực nhanh ra, làm vài cái bẫy bắt thỏ cũng không phải vấn đề gì khó khăn cả. Chỉ có Ba Tang, gã vẫn chưa cảm nhận được anh ta xuất chúng ở mặt nào, ban đầu cứ ngỡ rằng với tính cách lạnh lùng tàn khốc của anh ta, e là sẽ rất hứng thú với các kỹ năng giết người, nhưng giờ xem ra Lữ Cánh Nam đã bảo Ba Tang có khả năng quan sát thời tiết. Mặc dù người Trung Quốc cổ đại đã biết chòm sao Bắc Đẩu có sự sắp xếp khác nhau trong những khoảng thời gian khác nhau, đồng thồ dùng thành ngữ “đẩu chuyển tinh di” để miêu tả thời gian, nhưng vừa thoạt nhìn đã có thể đổi từ thời gian tinh theo chòm sao Bắc Đẩu thành thời gian tính theo giờ hiện đại bây giờ, xem ra Ba Tang cũng không tầm thường chút nào!

Vốn tưởng rằng Ba Tang sẽ lấy làm bực bội trước chuyện xảy ra hôm nay, nhưng giờ xem ra lo lắng như vậy là hơi thừa thãi. Trác Mộc Cường Ba muốn hỏi xem có phải Ba Tang lại nhớ ra chuyện gì trong quá khứ không, nhưng vừa thấy ánh mắt băng lạnh của anh ta, trong lòng cũng thấy lạnh buốt, gã vỗ vỗ lên vai Ba Tang bảy tỏ thiện chí, rồi leo xuống đi nghỉ. Vừa mới xuống đất, đã nghe

Nhạc Dương đang treo mình lơ lửng trên cây thì thầm hỏi: “Cường Ba thiếu gia, Ba Tang nói gì thế?”
Trương Lập cũng hỏi: “Anh ấy có nhớ được gì không?” Trác Mộc Cường Ba đáp: “Sao? Các cậu vẫn chưa ngủ à?” Nhạc Dương nói: “Không phải hôm nay lúc trên bè Ba Tang đã nhớ lại một số chuyện anh ấy từng trải qua trong quá khứ sao? Bây giờ có nhớ được thêm gì nữa không vậy?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không biết, tôi không hỏi. Nhưng tôi cảm nhận được, thực ra Ba Tang rất không muốn nhớ lại quãng thời gian đó, dù có nhớ ra được chuyện gì, cũng chưa chắc đã chịu nói với chúng ta đâu. Cậu là thích hỏi han nhất sau này nếu Ba Tang không muốn nói, tốt nhất cũng đừng hỏi gặng quá làm gì.”
Nhạc Dương lè lè lưỡi nói: “Tôi sao dám hỏi chứ. Có điều, những gì anh ấy nhớ lại ngày hôm nay thật rõ là kỳ quái đấy.”
Trương Lập nói: “Lúc anh Ba Tang nhớ lại, nét mặt rất đau khổ, giống hệt như lần đầu tiên chúng tôi đến gặp anh ấy vậy.”
Trác Mộc Cường Ba dựa người vào thân cây gã treo võng, khoanh tay trước ngực, chăm chú nhìn xuống mặt đất nói: “Phải rồi, họ từng đến nơi đó, chắc là trên núi tuyết Tây Tạng, sao lại xuất hiện thực vật châu Mỹ được chứ nhỉ? Tôi cũng nghĩ mãi mà không hiểu vấn đề này, Nhạc Dương, cách nhìn của cậu như thế nào?”

Nhạc Dương nói: “Chúng ta tạm thời không để ý xem nước ta rốt cuộc có loài thực vật này hay không, điểm quan trọng là, đây là rừng rậm nhiệt đới, chúng ta đang ở rất gần xích đạo, còn Tây Tạng rõ rà là cao nguyên tuyết phủ, thực vật nhiệt đới sinh trưởng ở nơi khí hậu lạnh lẽo, khoảng cách … lớn quá. Cường Ba thiếu gia anh nói xem, liệu có phải anh Ba Tang lầm lẫn không nhỉ, nếu đó không phải trải nghiệm của họ ở nơi thần bí kia, mà là ở một nơi nào đó khác thì sao?”

Trác Mộc Cường Ba khẳng định chắc chắn: “Không phải đâu. Mặc dù tôi nói chuyện với Ba Tang rất ít, nhưng có một điểm rất rõ rà: ngoại trừ lạc vào nơi thần bí đó trong lúc đi săn trộm, anh ta chưa bao giờ đến rừng rậm nhiệt đới cả; trước khi làm thợ săn trộm, anh ta chưa bao giờ rời khỏi nước N cả.”
Một ý nghĩ đột nhiên lóe lên trong đầu Trương Lập: “Liệu có phải là địa nhiệt không nhỉ? Tôi nhớ ở Tây Tạng hình như có rất nhiều địa nhiệt thì phải, chẳng phải là có cái gì … cái gì mà Dương Bát Cảnh (1) hay sao?”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Không đâu. Đúng vậy, địa nhiệt ở Tây Tạng có thể nói là phong phú nhất toàn quốc, nhưng chỉ dựa vào địa nhiệt mà thay đổi cả một môi trường địa lý ở một khu vực thì không thể nào. Có điều, về khả năng thích ứng của thực vật đối với môi trường, chúng ta không có kiến thức chuyên môn, biết đâu khả năng thích ứng của nhừng loài thực vật này rất mạnh cũng nên.”
Nhạc Dương nói: “Cứ đoán thế ngày cũng chẳng tác dụng gì. Có điều, dựa trên quan điểm tâm lý học của đám trinh sát chúng tôi, tình cảnh của mấy người bọn anhBa Tang và tình cảnh của chúng ta mấy hôm nay trong rừng, chắc là có chỗ tương tự nhau, chính những trải nghiệm tương đồng đó đã kích thích ký ức của anh ấy trùng điệp lên hiện thực. Trong hồi ức của anh ấy, sợ rằng không đơn giản chỉ là một hai thứ thực vật đó đâu, tiềm thức của anh Ba Tang rõ rang là đang lẩn tránh đoạn hồi ức đó, nhất định là anh ấy sợ phải nhớ lại những chuyện còn đáng sợ hơn gấp bội. E rằng hoàn cảnh của bọn họ lúc đó và chúng ta hôm nay rất giống nhau đấy.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, điểm này rất có khả năng. Ba Tang từng nói, nơi họ đến đó, có cây cao chọc trời, cỏ xanh biêng biếc, rừng sâu ngút tầm mắt, nhưng anh ta không hề nói rừng ở đó như thế nào cả.”
Nhạc Dương ngẩng đầu lên nhìn, trong bóng tối, cây rừng cao lớn giống như những con quái thú thần bí đang nhe nanh múa vuốt, lẩm bẩm: “Ở đây lại có thêm một vấn đề nữa, theo như giáo quan nói, những gì anh Ba Tang trải qua, có thể là từ độ cao bảy ngàn mét trên mực nước biển hạ thấp xuống năm ngàn mét trên mực nước biển, phải biết là, năm ngàn mét trên mực nước biển gần như là phạm vi phủ tuyết rồi. Theo lẽ thường, càng cao hơn so với mặt biển, không khí càng loãng, nhiệt độ càng thấp, khí lưu càng hỗn loạn, cộng thêm khí hậu khô hanh, kết quả của những nhân tố tự nhiên này chính là thực vật vùng cao đa phần đều thấp, chắc khỏe; hơn nữa, dòng chảy chắc phải thuộc đoạn đầu nguồn, tóm lại là, ở độ cao năm nghìn mét trên mực nước biển, muốn xuất hiện môi trường giống như rừng mưa nhiệt đới, điều này gần như là không thể. Tình huống như lúc nãy, có lẽ chỉ có hai khả năng thôi, thứ nhất, trí nhớ của anh Ba Tang đã hỗn loạn, xuất hiện những ký ức nhầm lẫn; thứ hai, chúng ta đã lý giải sai, hình ảnh trong lý ức của anh ấy không going như những gì chúng ta vừa tưởng tượng ra”
Trương Lập nói: “Ừm, không hiểu được, không hiểu được.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng ta phải từ từ, biết đâu sau này Ba Tang còn nhớ thêm được nhiều hơn nữa, rồi thế nào cũng sẽ rõ thôi. Được rồi, đi ngủ đi.”
Trong bóng tối, yên lặng được một lúc, Nhạc Dương lại thì thầm gọi: “ Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia? Anh ngủ chưa?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “ Chư a, sao cậu còn chưa ngủ đi?”
Nhạc Dương nhăn nhó: “Đau mông quá, không ngủ được. Phải rồi, chẳng phải anh đi xin lỗi Ba Tang về chuyện sáng nay hay sao? Anh ấy nói gì thế?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Anh ta bảo biết là chúng ta mới lần đầu giết người, sau này giết nhiều rồi thì sẽ quen thôi.”
Nhạc Dương nói: “Tôi không thích tính cách này của anh Ba Tang chút nào, cứ như thể chúng ta người nào cũng là ác quỷ giết người không gớm tay vậy. Nhưng mà, ôi… xem ra chúng ta đúng là bị cuốn vào chiến tranh thật rồi, muốn giữ mạng sống, không giết người cũng không xong”
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hỏi: “Quái thật, sao cậu biết tôi đi xin lỗi Ba Tang?”
Nhạc Dương cười cười, nói: “Cái này thì có gì mà quái đâu.” Lúc này hình như anh chàng đang muốn nhúc nhích người, cái túi ngủ treo lơ lửng trên cây như cái kén đung đưa, có vẻ như chạm phải chỗ đau của Nhạc Dương, anh ta khẽ “oái” một tiếng, rồi nói tiếp: “Muộn như vậy rồi mà không đi ngủ, còn trẻo cây tìm anh Ba Tang, quá nửa là vì chuyện ban sáng rồi. Chuyện sáng nay, có thể nói là chúng ta đều được anh ấy cứu cả, hơn nữa anh Ba Tang còn vì Cường Ba thiếu gia anh mà trúng một viên đạn, dọc đường tôi đã để ý thấy anh lúc nào cũng lo lắng nhìn anh ấy với ánh mắt áy náy, tôi nghĩ, nếu không phải xin lỗi, thì cũng không đến nỗi lên trách mắng anh ấy phải không?”
Trác Mộc Cường Ba hiểu ra, nói: “Tôi bảo này Nhạc Dương, có phải cậu lúc nào cũng duy trì thiên bẩm quan sát của lính trinh sát hay không vậy? Ở lâu với cậu, chẳng phải là chúng tôi hết cả bí mật hay sao?”
Nhạc Dương nói: “Làm gì có chứ, điều gì không nên hỏi xưa nay tôi không bao giờ hỏi cả. Thực ra tôi cũng muốn đi xin lỗi anh Ba Tang một tiếng, chỉ có điều, anh ấy quả thực là quá lạnh lùng, mỗi lần lại gần, tôi đều thấy lạnh hết cả người.”
Trương Lập tiếp lời: “Phải đấy, anh Ba Tang lại không thích nói chuyện, quen ở một mình, nói được với anh ấy mười câu đã là khó lắm rồi.”
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cậu cũng chưa ngủ à?”
Trương Lập cười khổ nói: “Cường Ba thiếu gia, mặc dù tôi xuất thân là đặc cảnh, nhưng tố chất tâm lý cũng không được tốt lắm đâu. Lần đầu tiên tham gia vào một cuộc chiến, bây giờ tôi vẫn còn đang hưng phấn đây này, làm sao mà ngủ được chứ, ai biết được đến đêm quân du kích với bọn buôn ma túy có đột nhiên xuất hiện hay không?”
Nhạc Dương lẩm bẩm nói: “Quân du kích … buôn ma túy … Cường Ba thiếu gia, anh có thể miêu tả một chút về người các anh đã đụng độ ở Tây Tạng không? Đặc trưng tướng mạo của cái người đã đuổi giết anh ở Khả Khả Tây Lý ấy. Nếu hắn ta có thể cùng lúc điều động cả hai thế lực lớn là quân du kích và bọn buôn ma túy, vậy thì không khỏi hơi quá đáng sợ rồi đấy.”
Trương Lập tức khắc thêm mắm dặm muối tả lại tướng mạo hình dáng của Merkin.
Nhạc Dương gật gù nói: “Từ những gì Trương Lập miêu tả, người này tuyệt đối không phải là hạng tầm thường, có thể lái xe của đại sứ quán, chắc vỏ bọc bên ngoài của hắn cũng phải là nhân vật có chút máu mặt chi đây, chắc là tra cứu tư liệu cũng không khó lắm. Ừm, trở về phải kiểm tra lại mới được, chúng ta không thể xem thường kẻ địch này đâu.”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Thực ra thì bọn tôi và hắn cũng chưa tiếp xúc ở cự ly gần bao giờ cả, chỉ liếc qua một cái từ đằng xa thôi. Song, chỉ cần dựa vào những gì chúng ta đã biết được về hắn, thì hẵn đã là một kẻ rất đáng sợ rồi. Huống hồ, nếu Bạc Ba La thần miếu tượng trưng cho nơi tích lũy tất cả của cải vùng Tây Tạng vào thời kỳ phồn thịnh nhất, vậy thì, trên đường tìm kiếm nó có gặp phải những thế lực đáng sợ hơn nữa cũng không có gì là lạ cả.”
Nhạc Dương lại nói: “Nhắc đến Bạc Ba La thần miếu, Cường Ba thiếu gia, hôm nay chắc anh cũng nên nói cho chúng tôi biết Bạc Ba La thần miếu là cái gì rồi chứ?”
Trác Mộc Cường Ba thở dài: “Được rồi, có điều các cậu phải kiên nhẫn mới được. Thực ra hiện nay những tư liệu mà tôi có về Bạc Ba La thần miếu, có thể một phần lớn những gì tôi nói đây không có liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, cần phải cho các cậu hiểu qua về một đoạn lịch sử Tây Tạng trước đã, hoặc có thể nói, đó là một đoạn lịch sử huy hoàng nhất của Tây Tạng.”
Nhạc Dương và Trương Lập đều tỏ ra mình rất nhẫn nại, sau đó nằng nặc thúc giục Trác Mộc Cường Ba kể nhanh lên.
Trác Mộc Cường Ba sắp xếp lại toàn bộ những tư liệu gã đã nắm được cho đến giờ, sau đó bắt đầu dùng ngữ điệu thấp trầm của mình chầm chậm nói: “Trong sách Ngũ bộ di giáocó viết, năm 629 sau Công Nguyên, Tùng Tán Can Bố kế vị Tán thổ, đã dời đo về Luo Suo, tức là Lhasa ngày nay, rồi bình định nổi loạn, chinh phục các bộ Tô Tỳ, Dương Đồng, thống nhất cao nguyên Thanh Tạng, dưới sự trợ giúp của đại thần Lộc Đồng Tán chính thức lập nên vương quốc Thổ Phồn dựa trên chế độ chủ nô. Ông cho phát triển nghề chăn nuôi, mở rộng hệ thống tưới tiêu, ra lệnh cho quần thần chế định văn tự, ban hành ‘Đại pháp lệnh’ khắp Thổ Lỗ Phồn để xử lý mối quan hệ giữa vương tộc Tán phổ và quý tộc thế gia, các nước lân bang và các giai tầng trong xã hội, thiết lập chế độ hành chính và chế độ quân sự, xây dựng phẩm cấp cho quan chức, ban bố luật lệ, thống nhất đơn vị đo lường và chế độ thuế má, du nhập văn hóa, kỹ thuật từ Trung Nguyên, Nê Bà La (tức là Nepal ngày nay), Thiên Trúc, làm xã hội Thổ Phồn càng lúc càng phát triển. Tùng Tán Can Bố trước sau đã cưới hai vị công chú Xích Tôn , Văn Thành về làm vợ, khi tới đất Tạng, hai vị công chúa này đã mang theo không biết bao nhiêu là đồ đạc quý giá.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn Nhạc Dương đang hết sức tập trung lắng nghe, gãi đầu nói tiếp: “Thế này nhé, chỉ nói riêng của hồi môn của Văn Thành công chúa thôi, theo như Thổ Phồn vương triều thế tập minh giám ghi chép, khi Văn Thành công chúa vào đất Tạng, đi theo có ngàn cỗ xe, ngoài tượng vàng Thích Ca to bằng người thật ra, còn chở đầy châu báu, tủ vàng sách ngọc và các loại trang sức vàng ngọc khác.  Lại còn có nhiều loại đồ ăn thức uống, các loại chăn nệm gấm vóc có hoa văn trang trí, kinh điển bói toán có hơn ba trăm loại, sách dạy phân biệt thiện ác, xây dựng và thủ công cũng tới sáu mươi loại, một trăm phương thuốc chữa bệnh, bốn tác phẩm nghiên cứu y học, năm sách dạy chẩn đoán, sáu loại dụng cụ trị bệnh, và cả hạt giống ngũ cốc, củ cải nữa. Những người đi theo ngoài thị nữ, quan viên ra, còn có hơn ba nghìn thợ thủ công, văn sĩ, nhạc sư, nông dân … Còn theo trong các sách cổ như Tùng Tán Can Bố di huấnMã Ni bảo huấnHiền giả hỉ yến … ghi lại, thì còn nhiều hơn nữa. Trong Cựu Đường thư có chép, số quần áo trang sức quý giá của Văn Thành công chúa lên tới hai vạn thứ, quy mô lớn thế nào, chắc các cậu có thể hình dung được. Ngoài ra, của hồi môn của Xích Tôn công chúa cũng phải ngang mức ấy, nhiều như sao trên trời, nhiều như cỏ xanh trên thảo nguyên …”
Nhạc Dương và Trương Lập trợn tròn mắt lên, như thể đây mới là chuyện không thể tin nổi nhất trong những chuyện họ nghe thấy ngày hôm nay vây. Nhạc Dương lắp bắp: “Cũng hơi khoa trương quá phải không, vậy mà là công chúa lấy chồng à, gần như là phái cả đoàn giao lưu văn hóa mậu dịch vào Tây Tạng còn gì.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Lịch sử có bao nhiêu phần chân thực, chúng ta không thể biết được, cũng không tiện phỏng đoán bừa bãi. Có học giả đã chỉ ra rằng, lúc đó nhà Đường vừa dẹp yên Tứ Di, thiên hạ cũng mới an định, lòng người chỉ nghĩ đến chuyện yên ồn, bao hư phế còn chờ trùng hưng, lấy đâu của cải nhiều như thế làm của hồi môn chứ, nhưng sau khi kiểm chứng theo nhiều hướng, cá nhân tôi cho rằng, điểm này không phải là không có khả năng. Bởi vì lần kết giao hòa hiếu này có liên quan rất chặt chẽ với chiến tranh. Từ năm 638, Tùng Tán Can Bố đã phái sứ giả Lộc Đông Tán đến cầu thân với nhà Đường, nhưng bị Đường Thái Tông Lý Thế Dân từ chối, Tùng Tán Can Bố nổi giận, liền dẫn hai mươi vạn binh, trước là đánh bại Thổ Dục Hồn nằm giữa Tây Tạng và nhà Đường, đuổi người Thổ Dục Hồn tới vùng duyên hải, kế đó đánh một mạch tới Tùng Châu, uy hiếp triều đình nhà Đường, nếu không gả công chúa cho thì sẽ đánh thẳng tới Trường An. Đường Thái Tông cũng khởi binh phản kích, theo như các sách Tân cự Đường thưSách phủ nguyên quy ghi chép, lúc đó quân Đường đại triển thần uy, Tùng Tán Can Bố bị khuất phục, phải cầu hòa, sau đó lại cầu thân lần nữa; nhưng trong các thư tịch như Hiền giả hỉ yếnTây Tạng Vương thống kýLạp Đạt Khắc Vương thống ký, thì lại là song phương giằng co mất hơn một năm, nhà Đường không thể không lấy hôn nhân hòa hiếu để thỏa hiệp. Công chúa Văn Thành  đi lấy chồng theo chính sách hòa hiếu với các quốc gia lân bang, mà Thổ Phồn lại là thế lực lớn nhất mặt phía Tây nhà Đường, vì vậy của cải và thư tịch công chúa mang theo khẳng định là không chỉ nhiều như bình thường được. Sau này Tùng Tán Can Bố đã xây dựng Đại Chiêu tự và Tiểu Chiêu tự cho hai vị công chúa, rồi lại xây cả Bố Đạt La cung. Phải rồi, hai cậu đi Bố Đạt La cung bao giờ chưa?”
Nhạc Dương lắc đầu, Trương Lập gật gật đầu. Trác Mộc Cường Ba lại hỏi Trương Lập: “Cảm giác thế nào?”
Trương Lập nói: “Ờ, ờ, rực rõ huy hoàng, khí thế hào hùng … ừm, nên hình dung thế nào nhỉ? Cũng có thể coi là một tiêu chí thiêng liêng của Tây Tạng đi, khiến người ta thấy tịnh tâm, bình lặng. Tóm lại là những thứ bên trong đó có thể làm một người tính tình nóng nảy trở nên thành kính, phảng phất như trong cõi u minh xa xăm đúng là có thần linh đang chăm chú nhìn ta, bảo ban ta hãy phản tỉnh lại những chuyện mình làm trong đới là đúng hay sai vậy…”
Trác Mộc Cường Ba thấy Trương Lập cảm  khái vô vàn, mà lại không thể nói ra, liền ra hiệu bảo đủ rồi, sau đó nói: “Vậy thì, các cậu có biết Bố Đạt La cung trong lịch sử như thế nào hay không?”
Trương Lập ngẫm nghĩ một lúc, rồi ngần ngừ: “Bố Đạt La cung trong lịch sử?”
Nhạc Dương đã hơi nôn nóng, vội hỏi: “Chuyện này thì liên quan gì với chúng ta chứ …”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi đã bảo rồi, đừng nôn nóng mà lại, nghe tôi nói hết thì hai cậu sẽ hiểu thôi. Trong sử sách ghi chép, Bố Đạt La cung là nơi ở của Tùng Tán Can Bố và Văn Thành công chúa sau khi thành hôn, có một ngàn gian điện, ngói bằng lưu ly, tường bằng ngọc, cung điện cao chín tầng, xây dọc triền núi, tựa hồ như bước lên thiên cung. Sách Ngũ bộ di giáo có ghi, Bố Đạt La cung xây dựa vào núi, lầu gác trùng điệp, cung điện nguy nga, hùng vĩ, cao vút tận trời, khí thế ngút mây xanh; Tây Tạng Vương thống ký viết, Văn Thành công chúa đã triệu tập rất nhiều thợ xây và thợ thủ công làm tượng Phật, tầng dưới dựa theo bố cục trước điện sau đường, xung quanh Phật điện, mái cong vểnh lên, chỗ rẽ thiết kế theo kiểu đấu củng (2), phía trên có các vật may mắn như pháp luân, hươu nằm …, cùng với hành lang điêu khắc hoa sen, chim bay … điẻm xuyết các cột đã khắc hình Phật, bảo bình (3) , ma hạt ngư (4), kim xí điểu (5) … Trong Tây Tạng Vương thần ký chép, Hồng cung mới xây, cao chín tầng, trong ngoài có ba lớp thành, điện ngàn gian, tường dày năm thước, bên trông đổ bạc lỏng vào, tường bên trong dát vàng, khảm đủ các loại châu báu ngọc ngà, hai cung điện của Tán phổ và Giáp sa (6) nối liền với nhau bằng một cây cầu bằng bạc.”
Trương Lập chau mày: “Không để ý lắm, hình như là có thì phải.”
Trác Mộc Cường Ba tiếp tục nói: “Vậy bên trong còn có gì nữa? Mặt tường bên dưới mái hiên được trang trí bằng đồng mạ vàng, hình tượng đều là bát bảo pháp khí của Phật giáo. Thân cột và đòn dông đầy những hình vẽ màu sắc rực rỡ và hoa văn chạm trổ. Bên trong hành lang đan chéo, cung điện nhiều không kể xiết, không gian quanh co rối rắm, người bước vào đó kể nhe đi vào một thế giới thần bí vậy. Trong Hiền giả hỉ yến có ghi, trong cung có rất nhiều châu báu văn vật quý giá, gần vạn tấm thanka các loại, các tượng Phật bằng vàng, bằng bạc, bằng ngọc thạch, bằng gỗ, bằng đất phải lên đến số vạn. Trong đó, sàn nhà bằng vàng, tường bằng ngọc, hoàng kim châu báu khảm khắp nơi, phối hợp với bích họa đủ màu rực rỡ huy hoàng, điện phụ ở hai bên đại điện thờ phụng tượng đứng bằng vàng ròng của Tùng Tán Can Bố và Văn Thành công chúa, cao tới ba trượng, nặng chín vạn chín ngàn cân, ngoài ra còn có tượng Phật, tượng Tùng Tán Can Bố, tượng Văn Thành công chua và tượng Xích Tôn công chúa phải vài ngàn bức lại còn không ít những vật cực kỳ quý giá, chẳng hạn như man trát (7) kết bằng mười vạn hạt ngọc trai, một ngàn quyển kinh Phật trên giấy lam do đích thân Văn Thành công chúa dịch, đồ sứ tinh xảo nhiều vô số …”
Nhạc Dương hai mắt sáng rực lên, còn Trương Lập nhìn không kìm chế được, buột miệng phản bác : “Anh đùa, … đùa cái trò gì vậy! Bích họa với thanka các thứ rất nhiều, nhưng mà làm gì khoa trương như anh nói chứ, cái gì mà tượng vàng ròng cao ba trượng, mười vạn hạt ngọc trai, sàn nhà cũng có phải bằng vàng đâu chứ.”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Không phải tôi nói, mà là sử sách nói. Tôi biết nghe thế có vẻ rất khó tin, nhưng các cậu cứ nhẫn nại nghe tôi nói hết đã, sắp vào tới chủ để chính rồi. Đầu tiên, Bố Đạt La cung mà chúng ta thấy ngày hôm nay, hoàn toàn không phải tòa Bố Đạt La cung của một ngàn năm trước, nó đã từng hai lần bị hủy diệt bởi ngọn lửa chiến tranh, đây là lần trùng tu thứ ba rồi, tuy rằng quy mô tổng thể có lớn hơn trước đây, nhưng lỳ trân dị phẩm bên trong thì còn xa mới bì kịp Bố Đạt La cung của một ngàn năm về trước. Mà Bố Đạt La cung và hai ngôi chùa Đại Chiêu, Tiểu Chiêu được xây dựng chủ yếu là để cung phụng tượng Phật và của hồi môn của hai vị công chúa mang theo. Khi ấy ba cung điện lớn cũng không sao chứa hết được những trân phẩm hiếm thấy đó, đặc biệt là vật phẩm công chúa Văn Thành mang theo quá nhiều, vậy là đành phải xây thêm bốn ngôi chùa miếu khác để cung phụng những trân phẩm này, nghĩ lại thì chắc đó chính là khởi nguồn của Tứ Phương miếu rồi. Có điều, chúng ta chỉ tìm được một ít tư liệu về bốn ngôi miếu này trong cổ kinh Ninh Mã ở nhà tôi, còn trong chính sử thì tuyệt nhiên không tìm thấy gì. Duy cái gọi là chính sử Tây Tạng mà chúng ta có thể tìm đọc tra cứu, toàn bộ đều được biên soạn sau thời diệt Phật, cách thời điểm Văn Thành công chúa vào đất Tạng mấy trăm năm, Tạng sử chính thống trước khi diệt Phật thì đã hoàn toàn không thể tra cứu được nữa rồi. Còn như chúng tôi kiểm chứng trong dã sử, thì phát hiện ra công chúa Văn Thành sau khi đến Tây Tạng đã dùng công nghệ đo vẽ tiên tiến thời đó vẽ ra bản đồ toàn bộ miền Tây Tạng, chỉ ra địa hình đất Tạng như một con ma nữ, muốn Thổ Phồn được bình yên, quanh năm sung túc, thì phải xây chùa ở tim gan ma nữ, xây chùa ở tay chân ma nữ, xây chùa ở các khớp xương nối tay chân và cơ thể ma nữ, xây chùa ở các khớp giữa cánh tay cẳng chân ma nữa, tổng cộng mười hai ngôi, thêm vào các chùa miếu do Xích Tôn công chúa và các phi tần khác của Tùng Tán Can Bố xây dựng, tổng cộng có một trăm linh tám ngôi. Nếu theo như cổ kinh Ninh Mã, bốn ngôi miếu ở chỗ chuyển ngoặt trong hình chữ vạn, gọi là Tứ Phương miếu, các cậu hãy thử tìm thử Tây Tạng nữ ma đồ (8) mà tra lại, rồi sẽ phát hiện, ma nữ đó một tay giơ lên một tay hạ xuống, quỳ hai chân thành tư thế bắn tên, không nghiêng không lệch, vừa hay thành một chữ “vạn” của nhà Phật. Vậy thì Tứ Phương miếu, chắc là bốn ngôi miếu xây ở các khớp giữa tay chân của ma nữ. Thực ra, mười hai ngôi miếu đó sớm đã biến mất trong lịch sử rồi, cho dù hiện nay có còn tồn tại những chùa miếu cùng tên thì cũng đều là do người đời sau trùng tu lại mà thôi. Theo cha tôi suy đoán, và những gì ghi chép trong cổ kinh Ninh Mã, bốn ngôi miếu ở bốn phương lần lượt là Giáng Chân Cách Kiệt tự ở phía Tây Bắc, Cách Tát La Khang tự ở phía Tây Nam, Bố Khúc tự ở phía Đông Bắc, và Sắc Cát Lạp Khang tự ở phía Đông Nam.”
Trương Lập đã nghe Đức Nhân lão gia nhắc tới bốn ngôi miếu này, liền ngấm ngầm gật đầu.
Trác Mộc Cường Ba lại tiếp lời: “Bố Đạt La cung, Đại Chiêu tự, Tiểu Chiêu tự, Tứ Phương miếu, những nơi này kể từ khi xây dựng đã trở thành trung tâm chính trị tôn giáo của cả miền đất Tây Tạng, vừa là hành cung của quyền lực tối cao, đồng thời cũng là thánh địa tôn giáo tối cao của Tây Tạng. Sau đó, cho tới trước năm 841, vương triều Thổ Phồn trải qua thời kỳ phồn thịnh nhất của mình, khắp nơi trên đất Tạng đều xây dựng vô số chùa miếu, kỳ trân dị phẩm cất giấu trong các chùa miếu khắp nơi nhiều không kể xiết, rực rỡ muôn màu, trong đó, Bố Đạt La cung, Đại Chiêu tự, Tiểu Chiêu tự thậm chí còn một độ lo âu vì nhiều của cải quá, các đồ vàng bạc thông thường đành chia về các chùa chiền địa phương, tất nhiên, sử liệu ghi chép đầy đủ nhất chính là các đồ châu báu quý giá của Văn Thành công chúa, Xích Tôn công chúa mang vào Tây Tạng, còn phần cống nạp hàng năm thì chỉ chép rất sơ sài, những chữ nổi lên nhiều nhất chính là  - Nhiều! Tinh xảo! Mỹ lệ! Cho tới năm 841 sau Công nguyên, hai trăm năm sau khi Tùng Tan Can Bố thống nhất Thổ Phồn, quốc lực phát triển chưa từng thấy, của cải nhiều chưa từng thấy, đúng vào lúc này, thì bất ngờ xảy ra sự kiện Tán phổ Lãng Đạt Mã diệt Phật, Lãng Đạt Mã giết hại tăng lực Phật giáo, sau đó Thổ Phồn rơi vào nội loạn, trận nội chiến này kéo dài cả trăm năm có lẻ, lịch sử không còn ai ghi chép nữa, chùa chiền thờ Phật đều bị niêm phong, vô số kinh sách sử tập bị thiêu hủy, cuối cùng cả Bố Đạt La cung cũng không thoát khỏi số phận, bị hủy trong lửa chiến tranh …” Ngữ điệu Trác Mộc Cường Ba trở nên nhanh hơn, “Trong giai đoạn lịch sử không người ghi chép ấy, chẳng ai biết đã xảy ra những sự kiện gì. Khi chiến sự lắng xuống, mọi người xây dựng lại miền đất hoang tàn sau chiến tranh, họ mới kinh ngạc phát hiện ra, trong chiến tranh, dường như đã có những thứ mất đi. Nhưng mất đi thứ gì chứ? Chính là … tất cả của cải cất giấu trong các chùa chiền thời kỳ Thổ Phồn vương triều còn thịnh vượng nhất! Những đồ châu báu ngọc ngà nhỏ còn có thể bị thất lạc bỏ quên, những những thứ lớn, những bảo vật quý giá nhất của nhà Phật thì không thể ai biết đã đi đâu … tượng vàng cao ba trượng của Tùng Tán Can Bố, Văn Thành công chúa, man trát kết từ mười hai vạn hạt ngọc trai, Ngộ Không ngọc bích trong Bố Đạt La cung, tượng vàng Thích Ca Mâu Ni trong Đại Chiêu tự, Tiểu Chiêu tự, ba trăm sáu mươi quyển kinh điển Văn Thành công chúa mang vào Tây Tạng, một nghìn bộ kinh trên giấy lam do đích thân nàng chú dịch … tất cả đều không biết ở đâu. Chúng chỉ xuất hiện trong lịch sử, song không ai biết chúng hạ lạc nơi nào? Đã bị phá hủy? Bị giấu đi? Chu yện này trở thành câu đố lớn nhất trong lịch sử Tây Tạng, tất cả đều biến mất, tất cả những thứ đó đều biến mất.”
Giống hệt như giáo sư Phương Tân lúc đầu tiên nghe được truyền thuyết về Tứ Phương miếu, hai mắt Nhạc Dương đỏ vện lên, phát âm cũng không rõ ràng, cứ lặp đi lặp lại: “Biến…biến mấ? Biến mất rồi…”
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt sang nhìn Nhạc Dương giải thích: “Về chuyện tất cả của cải tích lũy trong thời kỳ cường thịnh nhất trong lịch sử Tây Tạng đột nhiên biến mất này, đã có vô số sử gia tìm cách kiểm chứng, vô số chuyên gia khảo cổ thăm dò tìm kiếm, song đều không phát hiện bất cứ đầu mối nào, những bảo vật quý giá nhất đồng thời cũng mang đậm sắc thái truyền kỳ nhất trong lịch sử Tây Tạng đó giờ không ai biết tìm ở đâu. Chúng từng xuất hiện trong lịch sử, nhưng dường như cũng chỉ xuất hiện trong lịch sử mà thôi, còn trong hiện thực thì cơ hồ đã bốc hơi mất, cùng biến mất với những năm tháng bị chiến tranh xóa nhòa lịch sử kia rồi.”
Nhạc Dương kích động thốt lên: “Vậy thì Bạc Ba La thần miếu, chính là…”

(1)     Khu khai thác địa nhiệt thử nghiệm đầu tiên ở Tây Tạng
(2)     Một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ cột trụ chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.
(3)     Còn gọi là hiền bình, đức bình, như ý bình, cát tường bình, là một loại pháp khí của Phật giáo.
(4)     Loại cá thần trong tín ngưỡng Phật giáo, đầu rồng thân cá, tương tự như thần sông của Trung Quốc.
(5)     Tên đầy đủ là kim xí đại bàng điểu, hay còn gọi là Già Lâu La, một loại chim thần của Phật giáo.
(6)     Tiếng Tạng, ý chỉ Văn Thành công chúa.
(7)     Một loại tế phẩm của Phật giáo, dịch nghĩa  ra tiếng Hán là “đàn tràng”.
(8)     Tấm bản đồ Tây Tạng do Văn Thành công chúa sai người vẽ, hình tượng như một người đàn bà đang quỳ, một tay giơ lên, một tay hạ xuống.
Biên niên ký Bạc Ba La
Trác Mộc Cường Ba xua tay tỏ ý bảo Nhạc Dương đừng nôn nóng, đoạn nói: “Nghe tôi nói hết đã, muốn biết chuyện liên quan tới Bạc Ba La thần miếu, các cậu cần phải biết về giai đoạn chiến tranh đó trước mới được, mà nhắc đến giai đoạn chiến tranh ấy, chỉ sợ một hai ngày cũng không nói hết được mất, lại còn liên đới đến cả cuộc tranh đấu giữa hai thứ tôn giáo nữa, giờ tôi chỉ có thể dùng cách nói đơn giản nhất, thông tục nhất kể sơ qua cho các cậu mà thôi. Nói thế này nhé, từ thời viễn cổ, người Tạng chúng tôi đã định cư ở vùng cao nguyên Tây Tạng này rồi, theo dòng lịch sử đổi dời, họ bắt đầu xuất hiện sự sùng bái nguyên thủy, rồi tiến thêm một bước phát triển thành tôn giáo vương quyền, đó chính là Bản giáo nguyên thủy của Tây Tạng, còn về sau lại chia thành Hắc Bản, Bạch Bản thì ở đây không nói kỹ nữa. Tóm lại là các cậu nhớ cho kỹ, Bản giáo là tôn giáo của Tây Tạng, đồng thời còn luôn chiếm vị trí rất quan trọng trong chính quyền địa phương, cho tới khi Tùng Tán Can Bố cưới hai vị công chúa Văn Thành và Xích Tôn, Phật giáo mới chính thức vào Tây Tạng như một thứ tôn giáo khác ngoài Bản giáo, vì hệ tư tưởng của Phật giáo hệ thống hơn, hợp lý hơn, nên chẳng mấy chốc tôn giáo này đã thay thế vị trí trong nền chính trị Tây Tạng của Bản giáo. Từ khi Tùng Tán Can Bố phế Bản giáo phát triển Phật giáo, cho tới năm 841 Lãng Đạt Mã chấn hưng Bản giáo diệt Phật giáo, giai đoạn lịch sử này được gọi là Tiền hoằng kỳ, Tạng truyền Phật giáo không phân biệt phái hệ, mà chỉ có sự tranh đấu giữa Phật giáo và Bản giáo, hai thế lực tôn giáo này không ngừng đấu đá, hy vọng phe phái của mình sẽ đạt được địa vị cao hơn, cũng như nhiều quyền lợi chính trị hơn. Phật giáo từ khi được du nhập vào Tây Tạng, địa vị không ngừng vững bước nâng cao, luôn chiếm thượng phong so với Bản giáo nguyên thủy, nhưng vì các đời Tán thổ quá đỗi coi trọng Phật giáo, thậm chí còn tới mức người dân không thể chịu đựng nổi, tới đời Tạng vương thứ bốn mươi mốt Xích Tổ Đức Tán Nhiệt Ba Cân, Phật giáo Tây Tạng phát triển mạnh mẽ vô cùng. Tạng Vương Xích Tổ Đức Tán vô cùng cung kính với tăng lữ, cung dưỡng đầy đủ, tóc tết thành sam buộc bên trái bằng vải trắng, bên phải bằng vải đỏ, vải đỏ tượng trưng cho nghênh đón tăng bảo, vải trắng đại biểu cho nghênh đón các yogi. Đồng thời, Tạng vương còn định ra chế độ bảy hộ gia đình phải cung phụng một nhà sư. Nhưng Tán phổ chỉ biết cúng vái sư sãi, mà quên mất thuế khóa nặng nề đang làm nhân dân khốn khó, dẫn đến người dân đều chịu nỗi khổ khốn cùng mà hận lây sang cả Phật pháp, chôn giấu một mối ác duyên cho sự kiện diệt Phật sau này. Tạng vương đời thứ bốn mươi hai Lãng Đạt Mã kế vị, liền ra sức diệt Phật, cấm dịch kinh điển Phật giáo, hủy chùa phá miếu, phá hoại tượng Phật, kinh Phật, sát hại tăng lữ, Phật giáo Tây Tạng bắt đầu chìm vào giai đoạn đen tối. Đây chính là khởi nguồn cho chiến tranh, trong lịch sử Tây Tạng, hành động diệt Phật cấm Phật không chỉ diễn ra có một lần, có điều lần này là nghiêm trọng nhất. Về sau Lãng Đạt Mã bị một nhà sư ám sát, hai người con của ông ta đấu đá tranh giành quyền lực, xuất binh đánh nhau, trong sử sách gọi là Loạn ngũ ước, đồng thời người dân cũng bất mãn với chế độ thống trị, thi nhau nổi dậy tạo phản, cuối cùng dẫn đến hơn một trăm năm loạn lạc của Thổ Phồn, trước sau đã phân tách rồi hình thành mấy chính quyền khác nhau, đồ đạc trong các chùa chiền, chính là bị thất lạc trong thời kỳ này.”
Giọng Trác Mộc Cường Ba hơi cao lên một chút: “Bây giờ, chúng ta nói chuyện Bạc Ba La thần miếu thì dễ lý giải hơn rồi, kể từ khi Lãng Đạt Mã diệt Phật năm 841, thoáng cái đã ngàn năm trôi qua, có rất nhiều điển tịch Phật giáo của người Tạng ghi chép rằng, đột nhiên có một nhà thám hiểm người Anh tới bán đảo Indochina, chính là Trung Quốc theo cách nói của người xưa, sau khi tới Trung Quốc, ông ta không lưu luyến ở các cố đô danh thắng như các nhà thám hiểm khác, mà đi một mạch đến vùng Tây Tạng lạnh giá, tên của ông ta chính là Henry Morton Stanley, sau đó, ông ta bắt đầu thăm dò khắp Tây Tạng, tìm tòi nghiên cứu trong các chùa miếu lớn, theo những gì Stanley nói thì ông ta đang tìm một nơi gọi là Bạc Ba La. Về con người này, trước mắt chúng ta mới chỉ thu thập được rất ít tư liệu, ngoại trừ biết tên và biết ông ta là nhà thám hiểm ra thì chỉ tìm được vài bài báo ở thời kỳ đó trên thư viện Britanica, biết được một chút về những cuộc thám hiểm trên khắp thế giời của ông ta, song hoàn toàn không liên quan gì tới Tây Tạng. Còn chuyện tại sao ông ta biết tới Bạc Ba La thần miếu, cách giải thích được lưu truyền nhiều nhất mà chúng ta biết được hiện nay là, Stanley từng ở vùng tiếp giáp giữa Ấn Độ và Tây Tạng, nghe được các nghệ nhân tộc Tạng, nghe được sử thi A Li vương thần bí, trong sử thi đó có nhắc tới Bạc Ba La, còn về việc ông ta đi Ấn Độ lúc nào, nghe ở ở nơi cụ thể nào, thì chúng ta đều chưa làm rõ được. Tóm lại là, kể từ Stanley trở đi, cụm từ Bạc Ba La thần miếu bắt đầu xuất hiện trong tầm mắt của mọi người, thầy giáo gọi năm mà Stanley tới Đại Tuyết sơn lần cuối cùng, tức là năm 1844, là năm khởi nguồn cho cuộc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu sau này. Mặc dù cả đời Stanley không tìm được Bạc Ba La thần miếu, song ông ta đã hết lượt này đến lượt khác cổ xúy mọi người rằng ở Tây Tạng có một kho báu có thể nói là lớn nhất thế giới, gọi là Bạc Ba La, mới đầu thì không ai tin ông ta cả, nhưng sau này, dường như ông ta đã tìm được một số đầu mối, về điểm này, chúng ta vẫn đang đợi chứng thực lại, có lẽ là kinh sách và một số đồ quý được giấu đi trong thời kỳ diệt Phật, nghe đâu số báu vật này đều đã được lén vận chuyển tới Anh, song không công khai ra bao giờ, cho tới khi Stanley mất tích một thời gian dài, những lời đồn thổn liên quan tới Bạc Ba La thần miếu mới dần dần lan rộng, lần này, thì không ai còn hoài nghi tính xác thực của nó nữa, tại sao không hoài nghi nữa, tôi đoán có lẽ là bởi những thứ Stanley mang về Anh quốc, làm họ tin rằng ở Tây Tạng còn một lượng lớn kỳ trân dị bảo còn chưa được khai quật. Cũng có nghĩa là kể từ đó trở đi, vô số nhà thám hiểm bắt đầu lục tục đổ về Tây Tạng, dấu chân họ đã in dấu khắp các khi không người của Tây Tạng.”
Trác Mộc Cường Ba liếc Trương Lập và Nhạc Dương đang đến thở mạnh cũng không dám, tiếp tục nói: “Quan hệ giữa Bạc Ba La và Tứ Phương miếu, giữa cả Đại Chiêu tự, Tiểu Chiêu tự, Bố Đạt La cung, không thể trực tiếp vẽ một dấu bằng. Song ở nhà tôi có một cuốn sách cổ, nghe đồn cũng là vật lưu truyền từ thời Phật giáo phục hưng (1), hiện nay gọi là cổ kinh Ninh Mã, thực chất là một cuốn sử do tăng lữ Ninh Mã giáo (2) thời cổ ghi chép, về giai đoạn diệt Phật giáo trong lịch sử đó, trong sách có ghi chép như vậy, khi Tán phổ Lãng Đạt Mã hạ lệnh diệt Phật, Đại Chiêu tự và Tiểu Chiêu tự gặp nạn đầu tiên, còn các sư tăng ở Tứ Phương miếu thì đã nhận được tin tức từ trước, vì lúc đó Lãng Đạt Mã chủ trương suy tôn Bản giáo, diệt Phật giáo, họ bèn ngụy trang thành giáo đồ Bản giáo, lần lượt chia đợt chuyển các báu vật trong Tứ Phương miếu đi, còn rốt cuộc là đưa đi đâu, thì không ghi chép chi tiết, trong kinh sách chỉ có một câu, đại ý đó là một nơi không thấy mặt trời dâng lên đằng Đông, cũng không thấy mặt trời lặn xuống đằng Tây, nhưng quanh năm đều tắm trong ánh mặt trời rực rõ, những tín đồ linh hồn mãi mãi trung thành canh gác ở đó. Câu này, chính là đầu mối duy nhất về Tứ Phương miếu mà chúng ta biết được, còn ý nghĩa của Bạc Ba La thần miếu không phải là gì khác, chính là báu vật nhiều như biển lớn, thiêng liêng chí cao vô thượng, cái tên này, tự thân đã là một lời nguyền ma quỷ, khiến những kẻ tâm địa xấu xa quên cả thân phận và sự tôn nghiêm, để lòng tham làm đánh mất cả chính mình.”
Nhạc Dương là người đầu tiên để mất mình, đồng tử anh chàng dãn ra, lấp lánh những tia sáng dị thường, không biết vô tình hay cố ý liếm liếm cặp môi khô khốc, khó khăn nuốt từng ngụm nước bọt, hạ giọng lẩm bẩm như say: “Bạc Ba La, thì ra chính là Bạc Ba La. Bạc Ba La…”
Trương Lập nhìn vẻ mặt Nhạc Dương mà lấy làm lạ, đưa tay vung vẩy trước mặt anh ta xem có còn tri giác không, Nhạc Dương hất tây Trương Lập ra quở trách: “Đừng nhìn tôi kiểu ấy, thế nào thì tôi vẫn tỉnh táo chứ.”
Trác Mộc Cường Ba mặc kệ hai người cãi nhau, tiếp tục nói: “Tại vì thời của Stanley cách chúng ta quá xa, nên rất khó thu thập được tư liệu về ông ta trên Internet, chính thế mà nghiên cứu của chúng ta về con người này không được sâu lắm, chỉ biết ông ta có lẽ là người cận hiện đại đầu tiên đi tìm kiếm Bạc Ba La, cả đời ông ta, từ khi biết đến Bạc Ba La liền gắn kết luôn với Tây Tạng, cuối cùng hình như cũng chết ở Tây Tạng thì phải, nhưng không  hiểu tại sao, tấm bản đồ ông ta phát hiện được ở Tây Tạng bị lưu lạc ra ngoài, nghe đồn là tấm bản đồ số có đánh dấu lối vào Bạc Ba La thần miếu, về sau đã dẫn đến tranh đoạt rất khốc liệt …” Gã kể lại câu chuyện tranh đoạt bản đồ mà giáo sư Phương Tân đã tìm được một lượt, lại làm Nhạc Dương và Trương Lập thêm một phen nín thở, trong lòng xao động.
Trác Mộc Cường Ba lại nói tiếp: “ Chu yện liên quan tới tấm bản đồ này thật giả thế nào còn chưa thể xác định được, nếu có bản đồ mà tìm hơn một trăm năm vẫn chưa thấy thì hình như cũng không ổn cho lắm, nhưng có rất nhiều sự kiện liên quan tới Bạc Ba La đã thực sự xảy ra. Để tôi lấy ví dụ, như là ở nước Nga chẳng hạn. Sau khi Stanley mất tích, có một quãng thời gian rất dài không còn tìm được tư liệu gì liên quan tới Bạc Ba La cả, thầy giáo nói, tạm thời chúng ta gọi giai đoạn này là thời kỳ trầm lắng của Bạc Ba La, sau Đại chiến Thế giời lần thứ nhất, cụm từ thần bí “Bạc Ba La” lại đột nhiên tái xuất hiện, kể từ đây, chúng ta gọi là thời kỳ phục hưng của Bạc Ba La. Trong hai năm, 1927-1928, cũng chính là thời kỳ phục hưng sơ khởi, lúc đó vẫn còn là thời Dân Quốc, Liên Xô đã từng hai lần phái đoàn chuyên gia tới Tây Tạng, họ mang theo thư của Chính phủ Liên Xô gửi chính quyền đương cục Tây Tạng. Sau khi tới đất Tạng, bọn họ lấy danh nghĩa đến chùa chiền bố thí, chụp ảnh quay phim, thu thập tin tức. Rốt cuộc họ đã biết những gì, đang tìm kiếm thứ gì, chúng ta mới chỉ tra được tới đây thì đứt đầu mối. Về sau, Đạt Lai Lạt Ma đời thứ mười ba qua đời, quan hệ giữa Tây Tạng và Liên Xô dường như cũng đã cắt đứt. Đặc biệt là sau khi Đại chiến Thế giới thứ hai nổ ra, trong tầng lớp tăng nhân và quý tộc thượng lưu Tây Tạng bắt đầu dần dần hình thành một thế lực tách ra theo hường thân Anh Mỹ, bọn họ coi Liên Xô xã hội chủ nghĩa như hồng thủy mãnh thú, từ chối không quan hệ với nước này. Mặc dù nhìn bề ngoài thì Liên Xô cũng bị cuốn vào vòng chiến, không còn rảnh tay mà lo đến Tây Tạng, song trên thực tế, họ chưa bao giờ ngừng cuộc tìm kiếm ở vùng đất này. Kỳ thực, trong và sau Thế chiến II, không chỉ Liên Xô, cả Anh, Mỹ, Đức, Nhật Bản cũng có rất nhiều người hoạt động ở Tây Tạng. Nhưng rốt cuộc họ làm gì ở Tây Tạng? Đây cũng là những dự liệu mà hiện nay chúng ta còn chưa điều tra được. Chúng ta chỉ có thể đoán rằng có lẽ hoạt động của họ liên quan đến Bạc Ba La, nhưng lại không tìm được bất cứ đầu mối nào trong các tư liệu công khai cả. Kể từ lúc Stanley tới Tây Tạng tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, tới khi ông ta mất tích, tới khi có vô số đoàn thám hiểm tới Tây Tạng, đều không biết họ đang tìm kiếm cái gì, ở giữa thiếu mất một mắt xích, chính là một mắt xích rất quan trọng trước nay chúng ta vẫn chưa điều tra ra được. Đặc biệt là những người tới tìm Bạc Ba La thần miếu sau Thế chiến I và Thế chiến II, đừng nói là các cậu, mà cả tôi cũng không sao tin nổi. Nếu những chuyện đó là sự thật, vậy thì, thứ mà họ tìm kiếm, chỉ e không chỉ đơn giản là của cải thôi đâu, rốt cuộc Bạc Bac La thần miếu ẩn chứa bí mật gì chứ nhỉ, hà …”
Trác Mộc Cường Ba nói tới đây, đột nhiên sực nhớ ra tập tư liệu dày cộp trong tay Lữ Cánh Nam , liền bảo Trương Lập và Nhạc Dương: “Có lẽ, mắt xích quan trọng này, là một sự kiện nào đó xảy ra sau khi Stanley mất tích ở Tây Tạng và trước khi vô số thế lực tới đây. Nhà nước hẳn là đã biết rồi, nếu chúng ta có thể thuận lợi hoàn thành được lần băng rừng này, biết đâu Lữ Cánh Nam sẽ tiết lộ một chút tư liệu cũng không chừng.”
Trương Lập nói: “Thêm một lần được Cường Ba thiếu gia kể tường tận về Bạc Ba La thần miếu, khiến toàn thân tôi căng tràn sức mạnh, đừng nói là vượt qua rừng rậm Nam Mỹ, mà dù băng qua Nam Cực cũng chẳng vấn đề gì ấy chứ!”
Tim Nhạc Dương vẫn còn đang đập thình thịch, anh chàng liếc mắt sang nhìn Trác Mộc Cường Ba vẫn tỏ ra bình tĩnh dị thường, lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Cường Ba thiếu gia, có một vấn đề tôi vẫn muốn hỏi anh từ lâu rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “ Chu yện gì vậy, cậu nói đi.”
Nhạc Dương hỏi: “Theo lý mà nói, Cường Ba thiếu gia xuất thân trong gia đình Phật giáo, cha anh lại được xưng là đại trí giả, địa vị gần như một nửa Phật sống rồi, như vậy thì, quan hệ giữa Cường Ba thiếu gia và Tạng truyền Phật giáo hẳn phải sâu xa lắm nhỉ!”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Ừm, cũng có thể nói như vậy.”
Nhạc Dương nói: “Bạc Ba La thần miếu đó là của cải quý giá nhất của triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Tây Tạng để lại, vừa rồi tôi nghe anh kể truyền thuyết Bạc Ba La thần miếu, đến giờ vẫn còn kích động đây này. Vậy mà, sao tôi cứ thấy thái độ của anh có vẻ lãnh đạm thì phải, hình như chẳng hề quan tâm đến việc khai quật ngôi miếu đó lên thì phải. Lẽ nào trong lòng Cường Ba thiếu gia anh, ngoài Tạng ngao ra, những thứ khác đều không thể làm anh hứng thú hay sao? Anh là con cháu của Phật giáo thế gia cơ mà?”
Trác Mộc Cường Ba cười cười: “Kha kha, chắc là cậu không biết, mặc dù xuất thân trong Phật giáo thế gia, nhưng bản thân tôi lại không hứng thú lắm với tôn giáo, nói chung là chẳng tin tôn giáo nào cả, tôi chỉ tin vào chính mình. Vận mệnh là do mình nắm giữ, chỉ cần sống tốt đời này kiếp này, hạnh phúc không mong mạng tới kiếp sau, bất hạnh cũng không trách cứ kiếp trước. Tìm được Bạc Ba La thần miếu hay không thì ảnh hưởng gì đến tôi chứ? Cho dù tôi tìm được toàn bộ của cải trong Bạc Ba La thần miếu, cũng đâu thể mang đến sự thay đổi gì cho cuộc đời tôi chứ, tôi chỉ cần tìm thấy cái nơi đó mà thôi, thứ tôi theo đuổi là …”
Trương Lập nói: “Nhưng tục ngữ có câu ‘mưa dầm thấm lâu’, vậy mà Cường Ba thiếu gia anh lại không hứng thú với tôn giáo …”

Gã ngẫm nghĩ giây lát rồi lại nói: “Thế này nhé, Nhạc Dương, tôi hỏi cậu, cậu là người thuộc thế hệ sinh sau năm 80, cậu có thích đi học không?”
“Đi … đi học?” Nhạc Dương lấy làm kỳ quái.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Chẳng hạn như lúc các cậu học trung học ấy, cậu có thích quãng thời gian đó không? Yêu cầu phải ngồi trong lớp học, chỉ có thể nghe thầy cô giảng bài, tay chân phải đặt ngay ngắn, không thể ngọ nguậy bừa bãi…”
Trác Mộc Cường Ba còn chưa nói dứt, Nhạc Dương đã cười ồ lên: “A, cuộc sống như thế ai mà thích được chứ? Tôi mà thích đi học thì đã không làm lính rồi, biết đâu lại còn đang học tiến sĩ ở trường đại học nào cũng nên.”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Vậy là đúng rồi, giáo lý nhà Phật mà trước đây tôi tiếp xúc, cũng giống như các cậu đi học vậy thôi, ngày nào cũng phải ngồi trong Tiểu kinh các, đọc thuộc lòng những đoạn kinh vừa không thể nào hiểu nổi lại vừa trúc trắc khó phát âm. Cho đến bây giờ, tôi vẫn hễ thấy đống kinh sách đó là đau đầu, cái gì mà Phật gia, cái gì mà gác kinh lầu Phật, kinh tháp pháp khí chứ, tôi chẳng hứng thú gì hết. Lần này nếu chẳng phải Tử Kỳ Lân và Bạc Ba La thần miếu có quan hệ lằng nhằng phức tạp, tôi nghĩ chắc mình không thể nào tham gia đội ngũ này đâu.”
Trương Lập và Nhạc Dương mếu máo nhìn nhau, cũng tự nhủ: “Xem ra Đức Nhân lão gia là đại trí giả mà cách giáo dục con cái vẫn có vấn đề.” Rồi lại nghĩ tới Bạc Ba La thần miếu Trác Mộc Cường Ba vừa kể, cả đêm hưng phấn, càng không sao ngủ được.
Ngày hôm sau, chim rừng sâu bọ vẫn rỉ rả, ánh dương rực rỡ, bốn người từ sớm đã chuẩn bị xong xuôi, lại bắt đầu cuộc hành trình chạy trốn trong rừng sâu, giống như câu chuyện về sư tử Phi châu và linh dương vậy, khi mặt trời lên, hai bên đều ra sức luyện tập chạy bộ - vì sự sống. Ai mà biết được ngày hôm nay trong rừng sâu kia có gì đang chờ đón họ?

(1)     Nguyên văn: thời kỳ phục tàng, “phục tàng” chỉ các kinh điển cho cao tăng Mật giáo thời Tiền hoằng kỳ chôn giấu trong thời gian Phật giáo bị cấm, đến thời Hậu kỳ hoằng mới tìm lại để hoằng dương Phật pháp.
(2)     Tức Hồng giáo

Đoàn lữ hành tự túc
Trong khu rừng già rộng lớn này, lúc thời tiết dễ chịu nhất đương nhiên là buổi sáng sớm, cơn gió nhẹ mát thổi bay hơi nóng bức trong rừng nhiệt đới, mang đến mùi hương ngan ngát của bùn đất và những loài thực vật không thể gọi tên, cùng đến với gió, còn có cả tiếng chim ríu rít nữa. Mặc dù bốn người không dám chậm trễ dù chỉ một phút, nhưng cũng vẫn nhắm mắt lại để thả mình giữa tự nhiên, cảm nhận sự khoan khoái. Nhiệm vụ chống sào đã chuyển sang cho Trương Lập, ba người còn lại hoặc nằm hoặc ngồi, ngả ra trên bè gỗ ngắm cảnh, mấy người bọn họ giờ đây như đã ngộ được thế nào gọi là vận mệnh, cái gì đến rồi sẽ đến, muốn tránh cũng không tránh nổi, vũ khí không rời tay, quá lắm thì quyết chiến một trận là cùng.
Bọn lính gác của gia tộc khỉ rú (1) phát ra những tiếng rú cảnh giác, một con nhím xông thẳng ra làm kinh động khiến cả bầy lạc đà không bướu Nam Mỹ (2) chạy tứ tán, lũ chim oanh cũng ngừng kêu, đập cánh phạch phạch bay vút lên cao. Nước sông chỉ sâu ngang hông, dưới ánh mặt trời chói lói, thậm chí còn nhìn rõ được từng hạt cát dưới đáy sông, thi thoảng lại thấy một chùm lan dạ hương trôi theo con nước. Một lớp rong tiềm liên (3) nằm lặng lẽ dưới đáy sông, tựa như mái tóc mềm maij của thiếu nữ mỹ miều, để mặc người mẹ nước nhẹ nhàng chải vuốt. Cá mặt trời và cá thần tiên lúc nào cũng bơi thành từng đám lớn, đung đưa điệu đàng, lũ cá cờ hoa hồng và cá cờ pha lê lại càng không kém cạnh, thi nhau đua màu khoe sắc.
Nhạc Dương nhoài người trên bè gỗ, khuấy nước nhè nhẹ, phảng phất như chạm được vào lũ cá kia vậy, nụ cười rạng rỡ như ánh mặt trời đã trở lại trên gương mặt anh, đối với Nhạc Dương, khoảng khắc bình yên êm ái này chính là một sự hưởng thụ rất lớn. Ba Tang thì ngửa mặt nhìn lên không trung, một đám mây trắng xốp như bông lướt qua bầu trời, anh ta lập tức nhạy bén bắt được dấu hiệu này, trong đầu thầm nhủ: “Tích tụ sức mạnh hả, vẫn tích tụ hả. Khi chúng tụ lại với nhau, uy lực sẽ đáng sợ tới nhường nào!” Còn Trác Mộc Cường Ba lại nắm chặt báng súng, cảnh giác quan sát hoàn cảnh và động hướng xung quanh, trong lòng thật sự không muốn xảy ra chuyện như ngày hôm qua, thật sự là không.
Xuất hành hết sức thuận lợi, thậm chí bốn người còn có cảm giác là hơi quá thuận lợi, so với những chuyện ngày hôm qua, hôm nay như thể đang tham gia đoàn tham quan vậy. Chính vào lúc họ có ý nghĩa này, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên cảnh báo: “Có người!”
Tốc độ bốn người tương đối nhanh, hơn nữa động tác cũng hết sức nhịp nhàng, gần như cùng lúc nhảy xuống nước, bơi tới bờ sông, lại nhanh nhẹn kéo bè gỗ vào rừng, giấu ngay tại chỗ, rồi cầm súng chờ đợi. Để đề phòng kẻ địch phát hiện từ xa, trước đó họ đã dùng dây mây và lá cây ngụy trang lên quần áo, trên mặt cũng bôi vằn vện, lúc này lẩn giữa rừng cây, không thể nói là ẩn nấp không chuyên nghiệp được.
Tiếng động lại gần hơn, ba con thuyền gỗ nhỏ đi ngược dòng lọt vào tầm ngắm của bốn người, giống như con thuyền trước đây của họ, thuyền gỗ hình thoi có mái chèo. Mỗi thuyền có ba tới năm người, người trên thuyền tóc đen có tóc vàng cũng có, hình như là thuộc nhiều chủng tộc khác nhau, nói chuyện cũng bằng mấy thứ ngôn ngữ. Nét mặt đám người này có vẻ rất nghiêm túc, tính cảnh giác cũng rất cao, hình như còn có mấy người chuyên phụ trách giám sát rừng cây hai bên bờ sông thì phải, nhưng hình như lại không có vũ khí.
Nhìn tay của Trác Mộc Cường Ba ra hiệu, mấy người còn lại đều hiểu, người trên thuyền không biết là địch hay bạn, tạm thời không nên làm kinh động, để họ đi qua. Đúng lúc ba con thuyền sắp rời khỏi tầm mắt họ, đột nhiên vang lên một tiếng: “A”, tuy âm thanh không lớn lắm, nhưng trong buổi sáng sớm tĩnh lặng chốn rừng sâu này, ai cũng có thể nhận ra, đây là âm thanh của con người.
Trên thuyền lập tức có phản ứng, có người lớn tiếng nói gì đó, những người còn lại cũng đều hoảng hốt luống cuống nhìn quanh quất, nhưng bọn Trác Mộc Cường Ba không hiểu họ nói gì, hình như là thổ ngữ địa phương. Trác Mộc Cường Ba lừ mắt nhìn kẻ vừa làm lộ tung tích, Trương Lập nhăn mặt tỏ vẻ bất đắc dĩ, chỉ tay vào một con nhện lông cách gò má anh ta chưa đầy năm centimet. Con nhện này rất to, toàn thân lại mọc đầy lông đen tua tủa, cho dù là ai, bất ngờ trông thấy con vật to tướng này cũng ắt phải giật mình đánh thót. Đằng nào cũng đã kinh động tới đám người kia, chỉ còn cách “tiên hạ thủ vi cường”, thấy đối phương không ai mang vũ khí nóng, bốn người liền cầm súng bước ra, chỉ thấy trên thuyền có một người da màu cà phê, điệu bộ có vẻ trung hậu thật thà đang thấp tha thấp thỏm giải thích gì đó.
Vừa trông thấy bốn người cầm súng đi ra, người có vẻ là hướng đạo đó lại càng nói nhanh hơn, vừa nói vừa khoa chân múa tay, còn người trên thuyền dường như cũng rất tự giác, không cần ra lệnh gì đã tự động đặt tay lên đầu. Trác Mộc Cường Ba hất hàm với Trương Lập, nói: “Hỏi thử xem, anh ta đang nói gì?”
Trương Lập lấy làm khó xử nói: “Hỏi thế nào bây giờ?” Nhạc Dương chú ý thấy trong đám người này hình như chủng loại nào cũng có, lẽ nào đúng là gặp phải một đoàn tham quan? Anh bèn hỏi bằng tiếng Anh: “Có ai biết tiếng Anh không?”
Lời vừa ra khỏi miệng, lập tức có người hưởng ứng: “Đừng nổ súng, chúng tôi là đoàn khách du lịch.” “Chúng tôi chỉ qua đường thôi, không biết gì cả đâu.” “Xin đừng nổ súng, chúng tôi sẽ nghe lệnh các anh” “Tôi là Kutu, tôi và sư đoàn trưởng Salison là bạn tốt, các anh thuộc phân đội nào vậy?” …
Cả đám mồm năm miệng mười, đâm ra chẳng nghe rõ được gì, Ba Tang liền gắt lên: “Không được ồn! Phái một người ra đây nói chuyện!”
Phương pháp này rất có tác dụng, mấy người trên thuyền nhanh chóng câm bặt. Trên con thuyền ở giữa có một người lên tiếng: “Sĩ quan, tôi có thể đứng dậy nói được không?”
Trác Mộc Cường Ba thấy người đó hét lên rất vất vả, liền gọi: “Anh kia, qua đây nói chuyên.”
Một người đứng lên, bỗng nhiên có cảm giác như hạc giữa bầy gà vậy, cao khoảng một mét tám nhăm trở lên, người đàn ông da trắng này có mái tóc bạch kim, gương mặt anh tuấn sắc nét, đôi tay to bè trắng trẻo, cặp mắt màu xanh lam sâu thăm thẳm giống như một vị học giả ôn nhu hòa nhã. Khi anh ta đi đến cạnh bọn Trác Mộc Cường Ba, cảm giác đầu tiên của mấy người là: ôn hòa, chắc chắn, đã được giáo dục ở trình độ cao. Mũ phớt trắng, áo sơ mi cộc và quần lửng trắng, giày da màu trắng, tất trắng, quần áo trên người đều chỉnh tề sạch sẽ, cử chỉ điệu bộ lại càng toát lên vẻ nho nhã lễ độ.
Người kia lịch sự chỉnh lại mũ, sau đó nói: “Tôi là Sean, chúng tôi là đoàn khách du lịch tự phát, người trong đoàn mỗi người một nghề, đến từ các quốc gia khác nhau, chúng tôi chỉ định thăm dò tình hình sông ngòi và phân bố động thực vật trong rừng nhiệt đới của tỉnh Putumayo. A, con nhện này thuộc giống Hoa Hồng Đỏ đây, đáng yêu quá, xin lỗi, tôi có thể chụp hình kỷ niệm được không nhỉ?” Giọng Ireland của anh ta nhất định là làm vô khối thiếu nữ say mê rồi.
Người đàn ông khoảng ba mươi tuổi này nói năng lễ độ rành mạch, nhất nhất trình bày rõ ràng và ngắn gọn mục đích, hành trình, số người của toàn đoàn. Bốn người nhẫn nại lắng nghe, không thể nào phủ nhận, giọng nói của người đàn ông tên Sean này có một ma lực khiến người ta dễ chịu thoải mái. Chỉ là khi anh ta nói tới tỉnh Putumayo , Nh ạc Dương suýt chút nữa thì nhảy dựng lên: “Cái gì hả! Tỉnh Putumayo ! Nói vậy là chúng ta vẫn trong lãnh thổ Colombia hả!”
Thì ra, đây là một đoàn du lịch tự phát quen nhau trên mạng rồi tự tổ chức lấy, hoặc cũng có thể nói là một nhóm mạo hiểm tự túc toàn bộ kinh phí, tự xưng là “dân phượt”, nghe nói là do một người đàn ông gốc Á tên là Qite khởi xướng tổ chức, tổng cộng có mười lăm người, bao gồm bốn người Châu Á, bảy người Châu Âu, hai người Mỹ, còn cả hai người tới từ Châu Phi nữa. Bọn họ lên bờ ở bán đảo Nicoya thuộc Trung Mỹ, bắt đầu lần theo dấu vết nền văn minh Maya, đi qua các nước Honduras , Mexico , Guatemala , rồi sau đó tới Colombia, chuẩn bị từ tháp Chalapi đi ngược dòng lên, qua tỉnh Putumayo, thực hiện một cuộc đại mạo hiểm trong rừng nguyên sinh. Người từ đầu vẫn nói huyên thiên kia là hướng dẫn viên họ thuê, tên là Mark, biết nói tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh.
Nhạc Dương hỏi: “Các anh có mười lăm người? Tại sao trên thuyền chỉ có mgười hai người thôi?”
Sean giải thích, ngoài Mark không tính, còn bốn người nữa ngồi trên một con thuyền khác, bao gồm cả người khởi xướng hoạt động lần này, vừa rồi lúc đi ngược dòng, đột nhiên gặp phải phần tử vũ trang tấn công, mọi người bị thất tán, cũng may Mark rất thân quen với quân du kích, nên họ mới giữ được tính mạng, cả đoạn đường từ đó tới đây đều nhờ anh ta mới qua được các chốt gác. Sean còn nói, mức độ nguy hiểm của chuyến du lịch trong rừng rậm này cao hơn rất nhiều so với dự kiến, vì nghe nói rừng rậm nguyên sinh ở đây được bảo tồn hoàn hảo nhất, nên mới lên kế hoạch tới đây khảo sát, thật không ngờ thì ra trạng thái hoàn hảo lại được bảo tồn theo cách này, lần sau tuyệt đối sẽ không phạm phải sai lầm như vậy nữa.
Bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba chụm đầu thương lượng, cảm thấy Sea n nói năng rất thành khẩn, chắc là không có gì dối trá, chi bằng thả họ đi cho rồi; nhưng lại sợ có người cáo giác với kẻ địch, đặc biệt là người tên Mark kia rất khả nghi, lúc nào cũng nhìn họ với anh mặt không thân thiện. Bỗng Sean đột nhiên nói: “A, các anh không phải chính là … chính là bốn người đó đấy chứ!”
Ba Tang ghì chặt người đàn ông cao hơn mình rất nhiều kia, gằn giọng nói: “Bốn người nào? Các người đã biết những gì rồi?”
Sean giơ hai tay lên biểu thị không có ác ý gì, nói: “Đừng, đừng ngại. Chẳng qua là trên đường đi chúng tôi bị xét hỏi, quân du kích đang tìm bốn người Châu Á mang vũ khí, dọc đường đã gặp phải ba lần tra xét như vậy, họ còn lập một trạm kiếm soát ngăn sông nữa. Tôi có thể đảm bảo với các anh, chúng tôi sẽ tuyệt đối không tiết lộ hành tung của các anh.” Đôi mắt xanh lam thành khẩn đó, thực sự khiến người ta không dám nhìn thẳng, Sean dường như đã nhìn thấu được tâm tư bốn người, nói gần như là thề.
“Làm sao bây giờ” Bốn người thì thầm thương lượng. Trác Mộc Cường Ba chỉ tay vào Mark: “Các anh có thể đi, nhưng người kia thì phải ở lại đây”
Sean nhíu mày lại, lúng túng nói: “Nhưng nếu người dẫn đường duy nhất này phải ở lại chỗ các anh, mười mấy người chúng tôi, tất cả đều không thể nói chuyện đựpc với quân du kích trong rừng đâu. Hay là, các anh đi luôn với chúng tôi đi?” Nhìn ánh mắt đó của Sean, bốn người lấy làm khó xử. Nếu đi chung với đám người này, khó mà tránh khỏi liên lụy đến họ, còn nếu dẫn Mark đi, mười mấy người này cũng khó mà rời khỏi được phạm vi thế lực của quân du kích. Mà theo như Sea n giới thiệu, trong nhóm người này, có nhà động vật học, thực vật học, nhà nghiên cứu thủy vản địa lý, toàn là nhân tài trong các lĩnh vực khác nhau, nếu để họ dấn thân vào nguy hiểm với mình, ngoài Ba Tang ra, lương tâm ba người còn lại đều không thể chấp nhận nổi. Cuối cùng, theo kiến nghị của Sean, Mark lấy tín ngưỡng của địa phương mà thề rằng sẽ không tiết lộ tung tích của họ, nhóm du khách được thả đi một cách an toàn, nhưng đối với bọn Trác Mộc Cường Ba mà nói, không nghi ngờ gì nữa, hành động này đã lại chôn xuống một trái bom khác.
Theo đầu mối Sean cung cấp, bọn họ cẩn thận tránh xa con sông có quân du kích tuần tra và thiết lập trạm kiểm soát, đi cắt ngang qua rừng. Lại có tiếng rít ầm ĩ vang lên, bốn người vừa ẩn nấp xong, một chiếc Black Dr agonfly liền bay vù qua đầu, nhưng lần này họ cảm thấy không còn an toàn như những lần trước nữa. Đợi trực thăng bay qua, Ba Tang hằn học nói: “Thực ra hoàn toàn có thể tịch thu hết phương tiện thông tin của họ, rồi trói lại vứt trong rừng, đợi khi người ta phát hiện ra họ thì chúng ta đã tới được nơi đủ an toàn rồi”
Trương Lập không đồng ý, nói: “Nhưng trong khu rừng thế này, chỉ sợ chưa ai phát hiện ra, họ đã chết sạch cả rồi.”
Ba Tang lạnh lùng nói: “Nếu cái tên Mark kia coi lời thề chỉ như cái rắm, hay trong đám đó có bất cứ người nào nói sai một câu thôi, thì có khi chẳng mấy nữa chúng ta sẽ chết sạch cả cũng nên đấy.”
Trác Mộc Cường Ba ngắt lời hai người: “Được rồi, chuyện đã xảy ra rồi thì không cần tranh cãi nữa. Có điều, cái người tên Sean đó, là người Ireland đúng không nhỉ, nghe anh ta nói chuyện, hình như rất có học thì phải.”
Bốn người vẫn dùng cách leo cây đu dây, vừa nhanh nhẹn tiến lên phía trước vừa nói chuyện, mặc dù thời gian gặp gỡ ngắn, song vẻ nho nhã và mái tóc bạch kim của Sean đã để lại ấn tượng rất sâu sắc với họ. Đồng thời, cái bóng xám theo sau bốn người kia, cũng đang ngấm ngầm suy tư: “Tên tóc bạc đó, nhìn sau lưng hình như đã gặp ở đâu rồi thì phải? Kỳ lạ thật, sao lại không nhớ ra nhỉ?”
Chia tay đoàn du lịch tự túc kỳ quái kia khoảng hai tiếng đồng hồ, bốn người đã đi được tầm năm cây số về phía Đông, qua ba con sông nhỏ, vượt hai cánh rừng, khi tiến vào cánh rừng thứ ba, bọn họ bắt đầu cảm thấy không ổn. Cánh rừng này, lớn hơn những cánh rừng trước đó rất nhiều, càng đi vào sâu, lại càng có cảm giác không tìm được điểm tận cùng, thậm chí còn không sao xác định được mình đã tới trung tâm cánh rừng hay chưa nữa. Không khí ẩm ướt oi bức, rừng cây che kín cả mặt trời, giẫm chân lên lớp đất bùn mềm nhũn, ánh sáng xung quanh hiển nhiên không đủ, không có những tia nắng lốm đốm xuyên kẽ lá, bốn người đành phải mượn ánh sáng đèn pin tiến lên. “Cúc cúc cúc … cúc cúc cúc …” những tiếng như loài cú kêu đêm vang lên theo tiết tấu, càng làm tăng thêm vẻ thần bí cho cánh rừng đen tối này.
Nhạc Dương lấy la bàn ra, nghi hoặc nói: “Chắc là chúng ta đi đúng hướng, nhưng tại sao vẫn còn trong lãnh thổ Colombia nhỉ? Thì ra là vẫn còn ở trong địa bàn của họ, chẳng trách lại có nhiều quân du kích truy đuổi chúng ta như thế.”
Trương Lập nói: “Hay là lần đầu tiên bị quân du kích truy đuổi đã vượt qua biên giới rồi?”
Nhạc Dương lắc đầu: “Khả năng này không lớn lắm, những dòng sông khởi nguồn từ dãy Andes này đều chảy từ Tây sang Đông Nam , chúng ta không thể nào chuyển hướng lên phía Bắc được, nếu nói có sai sót ở đâu, thì chỉ có khả năng là lúc đi bộ trong rừng chúng ta đi sai hướng thôi.” Thực ra, khi lần đầu tiên nghe thấy họ vẫn còn trong lãnh thổ Col ombia , cả bốn người đều cảm thấy rất may mắn, vì họ hoàn toàn dựa vào bản đồ sai, vậy mà vẫn băng qua được rừng rậm, chỉ có thể nói là sông ngòi và rừng cây ở đây quá đỗi giống nhau, có bản đồ hay không cũng chẳng khác gì là mấy mà thôi.
Leo trèo đu dây nửa tiếng đồng hồ, thể lực bốn người dù sao cũng có hạn, cả bọn liền xuống một khoảnh đất trống nghỉ ngơi, Nhạc Dương trượt người trên một cây cao khoảng ba mươi mét xuống, nói: “Cánh rừng này hình như là hơi lớn thì phải, tôi vẫn chưa thấy bìa rừng đâu cả.”
Ba Tang trầm giọng nói: “Vậy thì rắc rối rồi!”
Những người còn lại đều hiểu ý anh ta, những cánh rừng trước đó hơi nhỏ, tuy cũng có một số động vật hoang dã, nhưng không thích hợp cho động vật ăn thịt loại lớn sinh tồn, nếu cánh rừng này đủ lớn, lại hiếm khi có người đặt chân tới, thì rất có khả năng gặp phải động vật ăn thị cỡ lớn bất ngờ tấn công, đừng nói là gặp phải bọn như báo châu Mỹ, sư tử châu Mỹ, chỉ cần một đàn lợn rừng, vài con gấu, rắn mối châu Mỹ ẩn trong bóng tối, rắn cạo nong thoắt cái xồ ra, cũng đã đủ cho họ luống cuống tay chân một phen rồi.
Ở bờ sông bên ngoài cánh rừng đó, Soares đứng trên chạc cây cao nhất trong khu rừng quanh đó, phóng mắt nhìn ra, chỉ thấy màu xanh trải ngút tầm mắt, y lắc đầu nói: “Cánh rừng rộng như vậy mà cũng dám cắm đầu đi vào, mấy thằng nhóc này rốt cuộc có kinh nghiệm sinh tồn nơi hoang dã không vậy. Mà hơn nữa, trong đó rõ ràng là đã có bố trí rồi …”

Bốn người ngồi quay lại, bổ sung nước tích lũy thể lực, trên đầu thi thoảng lại thấy cành lá lay động, những bóng đen lướt qua tán cây, cự ly quá xa, động tác lại nhanh nên căn bản không thể nhìn rõ thể hình của chúng, có thể là khỉ lùng mà cũng có khả năng là hắc tinh tinh. Đang phân tích xem con đường nào có thể đào tẩu, bỗng “oạp” một tiếng, một con ếch không biết nhảy ra từ gốc cây nào, rơi đúng vào giữa tấm bản đồ, Nhạc Dương đang định đặt tấm bản đồ xuống để bắt nó thì Trác Mộc Cường Ba đã tung chân đá văng cả bản đồ lẫn ếch đi. Nghe hơi thở nặng nề của gã là biết ngay, có thể Nhạc Dương lại vừa đảo qua đảo lại ranh giới từ vong lần nữa cũng không chừng. Mặc dù trong rừng rậm này bất cứ chỗ nào và bất cứ nơi đâu cũng đều có những động vật có độc không rõ tên xuất hiện, nhưng Nhạc Dương chỉ ngẩn ra trong một thoáng, rồi sắc mặt lập tức tái nhợt đi, loài đó anh cũng biết, một trong mười loại độc nhất châu Mỹ, ếch tên độc (4). Bộ da màu vàng và những vạch đen trên mình chính là sự cảnh cáo đối với những kẻ muốn xâm hại tới nó, thể hình nhìn nhỏ nhắn đáng yêu, hiếm khi dài quá mười centimet, có màu hồng ngọc, lam ngọc, vàng kim … hầu hết đều là những màu rực rỡ bắt mắt, thích sống ở nơi u tối giữa rừng sâu, có thể trèo cây, thổ dân thường dùng độc tố tiết ra trên da chúng chế thành chất dịch, bôi lên đầu mũi tên để đi săn.
Trương Lập nói: “Loại ếch này thường không sống một mình.” Ngước mắt nhìn lên, cây cối xung quanh đều thấp thoáng lấp ló đủ thứ màu sắc rực rỡ mê người, xanh như phỉ thúy, đỏ như máu gà, vàng như vàng ròng, lam như lam ngọc, hình dáng chúng lại càng như dùng ngọc điêu khắc thành, khiến người ta nhìn thấy xong liền trào dâng lên nỗi xung động chỉ muốn nâng niu trên tay mà ve vuốt ngắm nghía. Mỗi tội loài ếch này vô cùng độc, mà độc tố tiết ra trên da loài ếch tên độc ở Colombia này lại càng đáng sợ hơn, chỉ cần ba phần vạn gam là đủ khiến người ta mất mạng rồi.
Trác Mộc Cường Ba cẩn thận tránh chỗ gốc cây có bọn ếch tên độc ra, để những người phía sau giữ vững đội hình, đồng thời nói: “Xem ra chúng ta vào khu vực chúng nghỉ ngơi rồi, nên đổi chỗ khác thì hơn, bằng không, chúng nhiệt tình ôm cho một cái …” Lời còn chưa dứt, “bạch” một thứ rơi trúng vào đầu gã, Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị đưa tay lên hất đi, bỗng nhiên cảm thấy điều gì đó, liền sững lại giữa không trung, đồng thời Trương Lập cũng hét: “Đừng chạm tay vào!” Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại hỏi: “Là nó hả?”
Nhạc Dương nói: “Màu vàng kim, đốm đen, nhìn có vẻ rất đẹp.”
Trương Lập đưa ra chủ ý: “Cúi đầu xuống nhanh lên, nó sẽ tự nhảy đi thôi.”
Ba Tang giơ súng lên: “Đừng cử động, tin tôi đi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Có điên mới tin anh ấy, cúi đầu cho nó tự nhảy đi còn chắc hơn.” Vừa nói gã vừa cúi gục đầu xuống, con ếch độc màu vàng kia ngược lại còn bám chặt vào tóc gã không chịu buông ra, màng chân duỗi ra dính chặt vào da đầu, giữ cho mình không bị rơi xuống. Trác Mộc Cường Ba nói với Trương Lập đi đầu: “Nào, giúp tôi hất nó xuống.”
Trương Lập đang ở phía trước gã, lùi lại một bước: “Cường Ba …thiếu gia, nó, nó, nó trợn mắt lên nhìn tôi kìa, tôi hơi run run, hay là, hay là cứ giữ khoảng cách một chút thì hơn.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Sợ cái gì chứ, nó không bị xâm hại thì không tiết chất độc ra đâu. Nhạc Dương, cậu làm đi.”
Nhạc Dương giơ nòng khẩu M4 ra đẩy đẩy, con ếch độc dường như quyết tâm làm khó mấy người, cứ bám chặt lấy mảnh giang sơn ấy, như thể đầu Trác Mộc Cường Ba là cái ổ của nó vậy. Nhạc Dương đẩy đẩy hai ba cái, con vật cáu tiết lên, phồng mang trợn má ngẩng đầu lên nhìn Nhạc Dương, có vẻ như muốn nhảy lên lắm, Nhạc Dương vội vàng lùi lại hai bước, cười khổ lắc đầu: “Cường Ba thiếu gia …” vừa dứt lời, mấy tiếng “soạt soạt soạt” vang lên, không biết anh ta giẫm phải cái gì, một sợi dây mây quấn vào chân, treo ngược anh chàng lên, thoắt cái đã rời khỏi mặt đất mấy mét …

(1)     Khỉ howler, loài khỉ được coi là loài động vật ồn ào nhất thế giới
(2)     Còn gọi là con alpaca
(3)     Tên khoa học: Cabomba Caroliniana
(4)     Tên tiếng Anh là “poison arrow frog”

Kinh hồn bạt vía ong sát nhân

Chẳng điềm chẳng báo gì, Nhạc Dương đột nhiên bị dây mây quấn chặt, treo ngược lên cao, nhất thời tay chân luống cuống, súng cũng đánh rơi mất. Ba Tang nhanh tay nhanh mắt, rút ngay con dao săn ra, “tạch” một tiếng, con dao đã phi ra chặt đứt dây leo rồi cắm sâu vào thân cây. Nhạc Dương vừa rơi xuống đất, tiếng súng đã vang lên khắp bốn phương tám hướng quanh đó. Trác Mộc Cường Ba hất mạnh đầu một cái, con ếch tên độc buộc phải nhảy đi, bốn người không còn nghĩ chuyện gì khác nữa, đều lăn nhào xuống đất, chia nhau tìm chỗ ẩn nấp.
Mỗi người tìm một cây to nấp ra sau, tiếng súng vẫn không ngừng, trong một thoáng cũng không thể biết được xung quanh có bao nhiêu kẻ địch, đạn bắn làm vỏ cây bay tung tóe, tóe cả vào mặt làm đau rát. May cho Trác Mộc Cường Ba, con ếch độc kia không biết đã nhảy đi tận đâu rồi. So với gã, Trương Lập còn đen đủi hơn một chút, trên cái cây anh chàng đang ẩn nấp, một con ếch độc màu xanh ngọc đang chầm chậm bò lên, cách đầu Trương Lập chỉ chưa đầy mười centimet, hơn nữa còn rất có vẻ như muốn tiến lại chỗ anh ta. Xung quanh đạn bay vèo vèo, khoảng cách giữa con ếch và Trương Lập gần như thế, làm anh chàng vừa không dám nổ súng, lại cũng không dám dùng dao, càng không dám đổi chỗ ẩn nấp, anh chàng chỉ còn cách van vỉ cầu xin: “Đại ca, đừng lại gần như vậy chứ, nể mặt anh em chút được không?” Con ếch độc màu xanh ngọc kia trợn mắt lên nhìn Trương Lập, lại còn chớp chớp, điệu bộ rất mập mờ.
Kẻ địch bắn rất rát, chẳng mấy chốc bốn người đã nghe đoán được một chút manh mối, Nhạc Dương đánh tay ra hiệu nói: “Sáu khẩu súng trường bán tự động, năm khẩu tiểu liên, còn hai khẩu súng máy hạng nhẹ nữa. Ba phía Đông, Tây , Nam đều có điểm hỏa lực” Cũng có nghĩa là, kẻ địch ít nhất cũng phải ba mươi người, hơn nữa còn đã mai phục ở đây từ trước rồi. Mặc dù còn phía Bắc không có người, nhưng rất có khả năng đấy là cạm bẫy chúng cố ý sắp đặt. Trác Mộc Cường Ba nghĩ đến gương mặt vừa giảo hoạt vừa âm hiểm của Mark đầu tiên, cùng ánh mắt chớp chớp lấm lét lúc thề, không khỏi chửi thầm trong bụng.
Một lát sau, kẻ địch đã ngừng tấn công, Ba Tang chuẩn bị phản kích, vừa thò đầu ra khỏi gốc cây, lại bị hai viên đạn bắn sượt qua phải thụt đầu lại. Chỉ nghe trong rừng có người cười ha ha rồi bằng một thứ tiếng Anh chập chọe: “Ha ha ha, khu rừng xung quanh đây đều có mai phục cả, không ngờ chúng tao lại may mắn chặn được bọn mày trước. Hắc hắc, người Trung Quốc, bỏ vũ khí đầu hàng đi, chúng tao không giết bọn mày đâu.”
Thân phận bị bại lộ, đương nhiên cả bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba đều lấy làm kinh ngạc, đặc biệt là Trác Mộc Cường Ba, trong đầu gã nhanh chóng suy tính. Rốt cuộc là sơ hở ở đâu? Chẳng lẽ là Lữ Cánh Nam giở trò? Không thể nào, mấy ngày nay bọn gã bị truy sát tuyệt đối không phải người chết thì ta chết, Lữ Cánh Nam có hơn thế chăng nữa thì cũng không thể làm tới nước này được. Huermen và Kasal bị ép cung khai ra? Cũng không đúng lắm, hai người đó biết rất ít về mấy người bọn gã, hơn nữa, cả lý do truy sát cũng chẳng biết là gì. Lọc những chuyện này ra, thì chỉ còn một lý do mà thôi, chính là đám người thần bí nấp trong bóng tối kia, từ khi ở Khả Khả Tây Lý đã theo dõi gã, dường như muốn lôi kéo gã nhập bọn. Thế nhưng, muốn lôi kéo gã nhập bọn, lần trước y tự hành động còn được, lần này không ngờ lại theo gã đi xa như vậy, lại còn bắt tay với lực lượng vũ trang của quân du kích và bọn buôn lậu ma túy, cần thiết phải hao công tốn sức như vậy sao? Bản thân gã đâu thể cung cấp cho bọn chúng chứ gì có thể giá trị thực tế lắm đâu nhỉ?
Phía ngoài rừng không thấy có phản ứng gì, lại hét lên: “Chỉ cần chúng mày ném vũ khí ra ngoài, tao đảm bảo sẽ không nổ súng, bọn tao là lực lượng quân sự chính quy, nói lời là sẽ giữ lời.”
“Có quỷ mới tin mày.” Bốn người gần như cùng nghĩ trong đâu, thế nhưng hỏa lực của kẻ địch đã khóa chặt nơi ẩn nấp của họ, căn bản không thể chạy thoát hay tránh né được. Trong trường hợp phải đối phó với vòng vây tấn công, lựu đạn khói, lựu đạn mù, hay mấy quả lựu đạn nổ đều có thể mở ra một con đường, song bọn Trác Mộc Cường Ba băng rừng lần này lại không hề nghĩ đến chuyện sẽ xảy ra đụng độ với quy mô lớn như vậy, hơn nữa, dù có nghĩ tới chăng nữa, cũng chẳng kiếm đâu ra được những vũ khí đó. Trên tay họ lúc ngày ngoài súng ra, thì chỉ có dao, thậm chí cả mấy cục đá ném ra được cũng chẳng có nữa, không bột đố gột nên hồ, nhất thời chẳng ai nghĩ ra được cách nào cả. Nhạc Dương trợn mắt lên với Trương Lập, anh chàng chưa kịp phản ứng lại, chỉ thấy Nhạc Dương  lại không ngừng chu miệng lên, Trương Lập tròn mắt nhìn mãi, cuối cùng mới hiểu ra, Nhạc Dương đang rủa đuổi con ếch độc bên cạnh anh ta đi . Trương Lập cũng tròn mắt lên, điệu bộ như hung thần ác sát, ra dấu bảo: “Bảo tôi ném cái của nợ này đi á! Không bao giờ!”
Nhìn kẻ địch bắn loạn xạ, họ đã nắm được vị trí hỏa lực của kẻ địch. Ngay trong bụi rậm phía sau cái cây Trương Lập ẩn nấp, có ba tên địch, hơn nữa phạm vi ấy chắc trăm phần trăm là trong tầm ném của anh ta, chỉ có điều người ném ếch ra có bị trúng độc hay không, cũng khó nói lắm. Đầu Trương Lập lắc như lắc trống bỏi, bị “đại ca” này không đến gần anh ta đã là phúc lắm rồi, bây giờ bảo mình đi đụng đến nó trước, thế có khác nào đem mạng ra đùa đâu chứ, những chuyện thế này, muốn làm thì chỉ có Ba Tang làm được mà thôi. Nhưng ba người còn lại đều quay sang nhìn anh ta cổ vũ, trong ánh mắt ấy, có phần mệnh lệnh, có phần cầu xin, thậm chí Nhạc Dương còn biểu thị, nếu Trương Lập hy sinh, anh chàng sẵn sàng lập bia ghi công cho. Thương thay cho Trương Lập, bị hai thế lực trong ngoài cùng áp bức, bất đắc dĩ phải lấy vạt áo bọc tay lại, dứ về phía con vật màu lam kia. Trương Lập lẩm nhẩm tụng niệm: “Đại ca, giúp thằng em này một chuyện nhỏ được không, nhảy, nhảy đi, nhảy nhẹ một cái là đủ rồi.”
Con ếch độc màu lam kia liếc nhìn một cái, dường như đã nghe được Trương Lập nói, nhảy nhẹ một cái, lại nhảy đúng vào tay Trương Lập. Trương Lập không dám chần chừ chút nào, vừa đón lấy, vội vàng ném vút ra ngoài, nhân lúc đạn của kẻ địch còn chưa bắn tới, lại rụt ngay tay về, hình như nghe thấy có tiếng cành lá đung đưa sột soạt, cũng chẳng biết là đã ném đi tới đâu nữa. Một lát sau, lại nghe có tiếng người làu bàu, kế đó là một tiếng “A!” thê thảm vô cùng xé nát bầu không khí tĩnh lặng của rừng sâu.
Nắm cơ hội vẻn vẹn này, Trương Lập hiện ra sau gốc cây, quét một loạt đạn vào ba tên địch vừa hoảng hồn nhảy khỏi chỗ nấp kia, ba người còn lại cũng phối hợp chặt chẽ, nổ súng áp chế hỏa lực của kẻ địch ở hai hướng khác, bốn người vừa bắn vừa lùi về phía Tây. Kẻ địch đuổi sát không buông, triển khai một cuộc đuổi bắt kịch liệt trong rừng sâu.
Tiếng súng xé nát rừng già yên tĩnh, dày đặc như trân châu rơi xuống khay ngọc, nhất thời chim thú đều chạy tứ tung, cả khu rừng náo động hết cả lên. Bốn người vừa đánh vừa chạy, chưa được ba mét, bụi cây và những cây cổ thụ cao lớn phía trước bỗng nhiên liền thành một dải, chặn mất cả đường, kẻ địch phía sau mỗi lúc một đuổi gần hơn, hỏa lực bắn rát đến nỗi bốn người đều không ngẩng đầu lên được, tệ hơn nữa là, đạn dược càng lúc càng tiêu hao, bọn họ giờ cũng chẳng còn nhiều đạn nữa.
Cảnh ngộ cùng quẫn của đám Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng bị kẻ địch nhận ra, vòng vây lại được tái lập, giọng tiếng Anh bập bẹ kia cất lên: “Bọn người Trung Quốc này, rượu mời không muốn lại thích uống rượu phạt hả, chuẩn bị chết đi!” Mấy tiếng “sì sì” vang lên, một làn khói sắc vàng mù mịt bốc lên trong rừng cây tăm tối.
“Độc, đạn khí độc!” Nhạc Dương kinh hoảng thốt lên, bốn người vội vàng xé áo đi tiểu ra, rồi lấy mảnh vải ướt đó bịt chặt mũi miệng, tuy có bất nhã thật, nhưng đích thực đây là cách giải độc tốt nhất trong lúc không còn cách nào khác. Thế nhưng, như vậy cũng chẳng cầm cự được thêm bao lâu, cả người đang nấp trên cây kia cũng lo lắng thay cho bọn họ, Soares thất vọng thầm nhủ: “Ừm, chẳng giống một đội được huấn luyện đặc biệt để chiến đấu chút nào, xem ra dù ta không ra tay, chúng cũng khó mà ra khỏi khu rừng này được rồi. Ừm, thế thì …”


Soares đứng trên cao, phát hiện đằng xa có một đám mây đen trôi tới, một đám mây kỳ quái bay lượn trên tầng không, lúc thì tản ra như mây khói mù mịt, lúc lại tụ về biến ảo đa đoan. Có khi, đám mây đen ấy giống như một tấm thảm ma thuật, lững lờ trôi đi. Nhìn rõ hướng bay của tấm thảm ấy, Soares dùng ống nhòm quan sát đám du kích vũ trang đang bao vây bọn Trác Mộc Cường Ba bên dưới, cuối cùng, y cũng nhận ra hai tên du kích từng đứng chặn trước mặt mình. Cái miệng như xác sống của y nhe ra cười gằn “khà khà”: “Lần này coi như mạng chúng mày lớn, coi như ông đây giúp chúng mày nhặt một cái mạng về vậy.”
Hướng gió trong rừng sâu không ổn định, quân du kích mai phục xung quanh cũng không dám đến quá gần, mà chỉ nằm rạp trong các bụi cây bên ngoài phạm vi khuếch tán của khói độc. Một tên du kích nấp mé trái nói với gã râu ria bên phải mình: “Chẳng hiểu sao, tao vẫn thấy kẻ kỳ quái hôm qua ném ra có gì đấy kỳ kỳ, giờ vẫn còn ngứa ngứa này.” Tên râu ria kia thô lỗ ngắt lời: “Đừng nhiều lời, cẩn thận bọn chúng đột nhiên xông ra bây giờ.”
Đám người bị Soares dùng Luyện Tâm đạn ném phải ấy, mặc dù sau đó không phát hiện có độc, cũng đã rửa sạch chất dịch dính dính kia đi, những những đốm lớn đốm nhỏ xanh lam trên người thì rửa thế nào cũng không hết được, nhìn cứ như thể toàn thân phát ban. Bị đồng đội trêu trọc, lần này bọn chúng đều hy vọng bắt được bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba, hòng lấy lại chút sĩ diện.
Một tên trông có vẻ như đội trường thấp giọng ra lệnh: “Bọn chúng không cầm cự được bao lâu nữa đâu, một lát nữa cho chúng vài viên đạn trước, nhưng đừng có bắn chết, tướng Kulu đã nói rõ là cần người sống rồi.” Bọn thủ hạ bên cạnh đều gật đầu khen phải, đang chuẩn bị bợ đỡ vài câu, ca ngợi tên tiểu đội trưởng anh minh thần võ, đoán việc như thần, bỗng nhiên chợt nghe thấy một âm thanh không lấy làm dễ chịu lắm.
Âm thanh này hết sức đặc biệt, lại có tiết tấu, từ xa lại gần, lúc được lúc mất, phiêu phiêu hốt hốt, tai mỗi người cứ như thể bị một bầy muỗi bao vây kín, thế nhưng ai nấy đều mở to mắt ra mà chẳng thấy có con muỗi nào. Không chỉ đám du kích, đến cả bọn Trác Mộc Cường Ba cũng nghe thấy âm thanh này, bọn họ đều lấy làm kỳ quái, hai bên giao chiến đều đã bôi khắp người các loại thuốc nước đuổi sâu bọ muỗi mắt, nếu không, chắc đi trong rằng chưa được cây số nào đã bị đốt cho sưng vù hết cả lên rồi. Đáng sợ hơn là những loại muỗi độc kia đều chứa rất nhiều độc tố chí mạng, nếu không kịp thời điều trị sẽ chết người chứ chẳng chơi. Nhưng bị muỗi đuổi đến gần như vậy, thì đây mới là lần đầu tiên kể từ khi đặt chân vào rừng.
Tần số âm thanh vẫn không ngừng tăng lên, càng lúc càng ầm ĩ, cả bọn giờ mới hiểu ra, âm thanh này không phải là muỗi, vậy thì có thể là gì vậy? Khi người đầu tiên có phản ứng, chuẩn bị co giò bỏ chạy thì đã quá muộn mất rồi, đội tiên phong của đàn ong sát nhân đã xuất hiện trong rừng sâu, bao kín đám du kích đang vây công bọn Trác Mộc Cường Ba lại.
Bụng to bằng ngón út, dài năm centimet, ngòi độc dài hơn một centimet, trên mình có vằn vàng đen lẫn lộn, chiến đấu theo đàn, cực kỳ linh hoạt, chẳng mấy chốc, cả khu vực rừng đã bị lũ ong sát nhân đông kìn kịt chiếm cứ. Những nơi mắt người có thể nhìn tới được, tất cả đều có lũ ong sát nhân đảo lượng trên không, dường như bọn chúng nhận được lời hiệu triệu nào đó, mấy chục con ong chúa dẫn theo đội quân của mình, ùn ùn kéo về tề tựu nơi đây.
Sơ sơ không cần tính toán, đàn ong vàng này ít nhất cũng phải trên một triệu con, gặp phải “ tập đoàn không quân” đáng sợ nhất châu Mỹ  này, nếu không kịp thời cứu chữa, có lúc chỉ cần ba tới năm con thôi cũng đủ đốt chết một người rồi. Vậy mà lúc này đây, chưa ai kịp có phản ứng gì, bọn ong vàng đã bổ đầu bổ mặt đám du kích kia mà nhào thẳng tới.
“A …” tiếng thét  này chắc trăm phần trăm là thê thảm hơn kẻ vừa nãy chạm phải ếch độc nhiều, tiếng kêu gần như tuyệt vọng ấy làm Trác Mộc Cường Ba nhớ tới người bị bọn chuột đồng bao vây ở Khả Khả Tây Lý. Còn lần này, căn bản không có không gian nào để ẩn nấp. Một tên du kích bị ong vàng bò lên mặt, hắn gào lên thê thiết, cây súng trong tay như không tự khống chế mà nổ loạn cả lên, những kẻ thù hắn đang phải đối mặt là bầy ong sát nhân, mỗi con đều chẳng khác gì một chiếc trực thăng có thể độc lập hành động, có thể dừng lại trên không, xoay chuyển ba trăm sáu mươi độ, súng đạn căn bản không thể làm chúng tổn thương được, ngược lại còn làm hai tên khác đứng cạnh trúng đạn.
Một tên hai tay ôm mặt chạy ra, nhưng chưa tới mười mét, cả người đã đổ vật xuống như một cây gỗ  mục.
Một tên quân du kích vung áo đuổi bọn ong vàng đi, nhưng sao đuổi hết được nhiều ong như vậy, chẳng mấy chốc đã có con “hôn” lên gáy hắn một nhát, sau đó lại đập cánh bay vút đi. Tên kia đưa tay ấn lên gáy, vẻ đau đớn lập tức hằn rõ lên gương mặt, mảnh áo trong tay không còn vung vẩy được nữa, lập tức liền có một con khác xông tới, đốt vào ngực, kế đó là con thứ ba, con thứ tư, con thứ năm … Thoáng cái hắn đã bị ong vàng bu đầy mặt, ngực và lưng, toàn thân chỉ cồn cử động trong vô thức.
Còn tên du kích khác đang gào thét như xé ruột xé gan, một con ong vàng chẳng hề khách khí chui vào miệng hắn, không biết đốt cho một phát vào đâu, kế đó hắn ta liền khò khè vài tiếng, gầm gừ ầm ĩ, âm thanh trở nên vừa đáng sợ lại vừa khó nghe, hai mắt trợn tròn lồi cả ra, nét mặt ấy, tựa hồ như đã trông thấy địa ngục rồi vậy.
Lại có một tên khác, bị ba con ong vàng đốt cho, nghiến răng nghiến lợi chịu đau, kinh hoảng vạn phần nhìn đồng bọn lăn lộn kêu gào xung quanh mình, sau đó, hắn run rẩy dùng cả hai tay cầm súng lên, xoay ngược họng súng hướng vào đầu mình, mắt nhìn trân trân vào nòng súng đen ngòm ấy, khi một đám ong vàng bay tới, hắn liền rống lên một tiếng, bóp mạnh cò súng!
Đa phần đám du kích còn lại, chỉ cần đốt một hai phát thì cả súng cũng không cẩm nổi nữa, chạy loạn xạ ngầu khắp nơi, to mồm gào thét để phát tiết đi cái đau của cơ thể và nỗi sợ hãi trong lòng.
Nhìn thực lực của hai bên, đây là căn bản không thể tính là một trận chiến, đây là một cuộc chém giết, một cuộc tàn sát thì đúng hơn. Quân du kích hoàn toàn không có khả năng phản kháng, bọn chúng kêu gào, đau đớn lăn lộn, húc mạnh đầu vào gốc cây, bị đạn lạc của đồng bọn bắn trúng, dường như tất cả đều không thể làm chúng tỉnh táo lại chút nào. So với bị đạn bắn phải, nỗi đau đớn do độc tố sinh vật mang lại còn mãnh liệt hơn nhiều, đó là nỗi đau lóc xương lóc thịt khiến người ta phải khắc cốt ghi xương, nỗi đau ấy, người chưa từng trải qua thì không thể nào tưởng tượng nổi. Bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba vẫn còn ở đó, chỉ cần nghe tiếng kẻ địch kêu trời khóc đất gào ầm ĩ thôi cũng đã thấy không sao chịu nổi rổi, nhìn từng tên du kích vốn là kẻ thù của mình đừng bật dậy khỏi chỗ mai phục, kẻ thì chạy loạn xạ, kẻ thì kêu gào ầm ĩ, hoặc vẩy tay như điên loạn, rồi sau đó hết tên này đến tên khác ngã xuống, người co lại thành một đám, run rẩy, co giật. Mười mấy đống không hiểu là xác chết hay người sống bị lũ ong vàng bu kín mặt, trở thành người ong theo đúng nghĩa đen. Còn bọn ong vàng thì vẫn tìm những lỗ có thể chui được trên thân hình đã không còn năng lực cử động kia, cơ hồ như không hút cạn máu huyết của đám người này, chúng không thề quyết không lui vậy.
Bọn Trác Mộc Cường Ba chẳng hề có niềm hân hoan vì được giải cứu, nỗi sợ hãi và kinh hoàng đã chiếm trọn linh hồn cả bốn, bởi vì, khi những kẻ địch chặn phía trước họ đều ngã xuống, thứ mà bọn họ phải đối mặt, chính là tập đoàn sát nhân tưởng chừng như loài ma quỷ này đây.
Miệng Trương Lập lắp bắp run cầm cập, khóe mắt Nhạc Dương giật giật liên hồi, Trác Mộc Cường Ba cũng nhất thời chẳng biết phản ứng thế nào, cả mấy người cứ ngẩn ra đó nhìn sự việc xảy ra, khi nỗi sợ đã bị chi phối thân thể, toàn bộ cơ bắp trên người đều co lại, rúc người cuộn tròn theo bản năng vô thức. Dường như chỉ có một mình Ba Tang là hoàn toàn thờ ơ bình tĩnh, chỉ lạnh lùng quan sát, nét mặt không chút biểu cảm, nhưng trong đầu anh cũng đang bị những hồi ức đau khổ dằn vặt, trái tim anh ta đang co thắt, các đốt ngón tay trắng bệch ra.
Cơn ác mộng bay ra từ sâu thẳm trong hồi ức, bóng đêm chiếm trọn toàn bộ tầm nhìn Ba Tang, trong mắt anh ta giờ đây, những tinh linh chết chóc kia bị phóng to lên cả trăm cả ngàn lần, đùi non Ba Tang đang co giật, khi từng mảnh từng mảnh hồi ức dần hiện lên trong óc, đối với anh ta đều là những kích thích vô cùng đau đớn. Trong trận mưa đạn, một vùng đen tối mù mịt, ma quỷ tràn ra từ những góc u tối, Ba Tang dường như thấy rõ cả từng vết vằn máu đen một, bọn chúng lướt tới như gió, đến không bóng đi  không hình, khắp khu rừng đâu đâu cũng là ác ma đáng sợ đó. Anh ta và đồng đội đều đang gầm thét, bọn họ chỉ cố làm mình thêm can đảm, súng trong tay, lòng thì run rẩy, từng gương mặt ấy, bỗng nhiên trở nên quen thuộc lạ thường, gương mặt vặn vẹo đau khổ ấy, sao mà giống hệt đám quân du kích trước mặt bây giờ, là Kala, anh ta đang khóc … khóc gào cái gì? Đây có phải là đồng đội ở quân đoàn Nhện Xanh không? Lũ ma quỷ màu đen này rốt cuộc là thứ gì? Ba Tang bỗng nhiên nhận ra, mình căn bản không dám hồi tưởng, căn bản không dám nhìn thẳng vào mảng đen ấy.
Ba Tang giật mình sực tỉnh, đây không phải là nơi ấy, những người xung quanh cũng chẳng phải là chiến hữu cũ của anh ta, đây là rừng già, vẫn còn cơ hội tẩu thoát! Anh ta đứng bật dậy, chụp lấy vai Trác Mộc Cường Ba theo bản năng, nghiến răng rít lên: “Chạy, chạy mau!”
Chạy! Chạy! Không biết lấy đâu ra dũng khí, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên bổ tới bụi cây rậm rạp vốn là đường cụt, kệ mặc cho gai góc xé rách da, liều mạng dùng thân thể mở ra một con đường. Mặc dù hầu hết bọn ong sát nhân đều mê mải tấn công mười mấy tên duc kích ngoài kia, nhưng vẫn một phần nhỏ không thể không lại gần được đàm người xấu số kia, liền chuyển hướng quay sang đuổi theo mấy người đang bỏ chạy.
Ba Tang phụ trách đoạn hậu, nhưng rõ ràng anh ta cũng không có cách gì đối phó được với đám “máy bay chiến đấu” vô cùng linh hoạt ấy, phất phất tấm áo vài ba cái, cảm giác trên lưng tê đi, trước tiên hơi ngứa, sau đó “Ôi cha”, rồi “A, con bà nó, A!” Cơn đau trực tiếp kích thích thần kinh lan đi, Nhạc Dương ngoảnh đầu lại thấy Ba Tang mồ hôi đầm đìa, người đàn ông sắt có thể đốt chính cơ thể mình để chơi cho vui này, đạn bắn qua người mà cũng không “ừ hự” lấy một tiếng, lúc này không ngờ lại phải kêu lên đau đớn như thế.
Bốn người đã chui qua được khoảng rừng bị bụi cây che kín, Ba Tang trừng mắt lên quát: “Ngẩn người ra đấy làm gì! Chạy nhanh lên!” Nhạc Dương nhìn gương mặt đã biến dạng vì đau đớn của Ba Tang, nhất thời cũng ngây người ra.
Quần áo rách bươm, máu tươi chảy ròng ròng, Trác Mộc Cường Ba quay ngoắt người lại, tung mạnh tấm áo ra, miệng gầm lên: “Chạy đi!, Chạy …” Một tấm áo phủ lên đầu Nhạc Dương, kế đó cậu ta liền bị một sức mạnh khủng khiếp đẩy ngã xuống đất. Lúc Nhạc Dương bò lên được, chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba đang cởi trần trùng trục đẩy mình đi, một tay nửa kéo nửa đỡ Ba Tang. Trương Lập đã chạy lên trước, còn Ba Tang vẫn không ngừng đuổi lũ ong sát nhân vốn còn lại không nhiều lắm kia đi.
Bọn ong vàng dường như chỉ hứng thú với nơi có đám quân du kích, đuổi được một đoạn liền vòng ngược trở lại, bốn người vẫn còn chưa hết sợ nhưng cũng biết rằng, coi như mình vừa nhặt lại được tính mạng, song còn đám quân du kích đó thì …
Nhạc Dương và Trương Lập đều không hề hấn gì, Ba Tang bị đốt cho một phát, đang nhăn nhó nhịn đau, Trương Lập lấy kem trị rắn ra, dù không biết có hiệu quả gì không, nhưng lúc này cũng chỉ còn cách chữa bừa như vậy mà thôi. Nhạc Dương nhìn Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đang cởi áo cầm trên tay, còn chưa rõ vừa rồi ai đã trùm đầu mình lại, giúp mình thoát khỏi kiếp nạn này, chợt nghe vang lên một tiếng động khác thường, là tiếng người ta nghiến răng “ken két”. Nhạc Dương quay đầu lại, thấy cơ mặt Trác Mộc Cường Ba đang vặn vẹo dữ dội, rõ ràng là sức nhẫn nại đã lên tới đỉnh điểm rồi. Anh ta kinh hoảng thốt lên: “Cường Ba thiếu gia, anh …”
Trác Mộc Cường Ba nghiến răng mỉm cười nói: “Cậu không sao chứ, có bị ong đốt không?” Dứt lời, thân hình như tháp sắt ấy bỗng đổ rầm xuống đất, trên tấm lưng trần của gã ít nhất cũng có sáu nốt đỏ to tướng, còn trông thấy cả ba cái ngòi đốt, cơ hồ vẫn còn đang giật giật.
“Cường Ba thiếu gia!”
Tiếng kêu của Nhạc Dương chẳng những làm kinh động Trương Lập và Ba Tang, còn làm giật mình cả đám người đang trong rừng. Bọn Trác Mộc Cường Ba lại bị bao vây, lần này cũng là một tiểu đội khoảng mười mấy người, hình như là nghe thấy tiếng súng mới từ chỗ khác chạy tới. Thân hình lùn mập vủa Gonzales tỏa ra khí lạnh rợn người, cười gằn nói: “Không ngờ chúng mày thoát được vòng vây của Basinas, xem ra cũng giỏi lắm đấy. Đừng cử động, đừng có cử động đấy nhé, mấy anh bạn.”
Lần này Trương Lập và Nhạc Dương đúng thật là tuyệt vọng. Trác Mộc Cường Ba đã ngã xuống, người giỏi chiến đầu nhất là Ba Tang cũng đang đau đớn đến chết đi sống lại, vũ khí của họ lại chẳng còn đạn, tình hình thế này lại còn bị mười mấy phần tử vũ trang súng đã lên đạn sẵn bao vây, liệu còn hy vọng thoát thân được nữa hay không?”

Soeres từ đầu vẫn ẩn nấp trong tán cây phía xa quan sát tình hình, không nén nổi tiếng thở dài khe khẽ: “Ừm, kém quá, một bầy ong vàng mà không tránh nổi, bọn chúng lấy cái gì mà đi tìm Bạc Ba La thần miếu đây?” Y không khỏi nhớ lúc Merkin giới thiệu Trác Mộc Cường Ba với mình.
“Người này là ai?”
“Hắn tên là Trác Mộc Cường Ba, là một thương nhân người Trung Quốc.”
“Ừm, hắn và Bạc Ba La thần miếu có quan hệ gì chứ?”
“Hà, hắn cũng đang đi tìm Bạc Ba La thần miếu.”
“Hử? Thì ra không chỉ anh mới có đầu mối thôi hả? Nghe giọng anh nói, hình như đã biết hắn lâu rồi thì phải?”
“Đây chính là điều tôi muốn nói với anh. Theo tôi được biết, có rất nhiều tổ chức đang bí mật điều tra về Bạc Ba La thần miếu, nhưng đầu mối quan trọng nhất, chính là cuộn tranh cổ mà tôi mua đấu giá lần trước, chỉ có tôi và đám người ấy biết mà thôi, vì vậy bọn chúng mới là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của chúng ta, mà tin tức này thì ngàn vạn lần không thể nào tiết lộ ra bên ngoài được. Tôi nghĩ, cứ theo bọn chúng, nói không chừng sẽ có thu hoạch bất ngờ cũng nên.”
“Anh còn chưa nói tên Trác Mộc Cường Ba là chuyện thế nào mà?”
“ Chu yện này nói ra thì cũng trùng hợp thật. Anh biết không, hắn là thương nhân buôn chó, kinh doanh Tạng ngao. Thời gian trước, tôi đang muốn đổi mấy con chó, vừa hay lúc ấy hắn rổ chức một cuộc thi chó ngao lớn ở Mỹ, như vậy, chúng tôi coi như cũng biết mặt nhau rồi, có điều cuộc thi rất thất bại, làm tôi phải cụt hứng bỏ về. Về sau cả mua đấu giá cũng thất bại luôn, tôi tức điên lên, liền dùng một trăm triệu đo ấy toàn lực truy tìm xem cuộn tranh kia đang ở đâu, rồi bất chấp mọi giá cũng phải cướp được nó về. Tôi lần theo dấu vết đến tận Tây Tạng, anh đoán xem tôi phát hiện được gì chứ, hóa ra tên bán chó này cũng đang tìm kiếm thần miếu, đúng là, đúng là làm tôi giật mình đánh thót. Hay nói theo kiểu Trung Quốc của bọn chúng, thì đây chính là duyên phận cũng nên.”
“Có chuyện như vậy à? Chẳng lẽ anh chưa từng nghi ngờ gì sao?”
“Tất nhiên có chứ, tôi lập tức điều tra toàn bộ tư liệu về hắn. Sự thực chứng tỏ, hắn đang tìm một con chó, trùng hợp thay lại tìm đúng nơi chúng ta đang tìm. Trước đây hắn chưa từng có bất cứ liên hệ gì với nơi tôi muốn tìm kiếm kia cả, hơn nữa, đến tận lúc tôi đang điều tra về hắn, hắn cũng vẫn chẳng hề biết mình đang tìm nơi nào nữa cơ mà. Những phát triển về sau này thì cả tôi cũng không ngờ tới được, hắn và đám chuyên gia đã mua được cuống tranh cổ kia có liên hệ với nhau, chuyện này, càng nghĩ càng thấy hứng thú. Vậy là tôi lập tức thay đổi suy nghĩ, không gấp gáp đoạt lại cuộn tranh kia nữa, mà theo dõi chúng, tôi muốn thử xem xem, rốt cuộc chúng có thể mang lại cho tôi niềm vui bất ngờ gì không.”
“Cẩn thận đấy. Còn nhớ những gì người đó nói không? Vạn sự vạn vật trên đời này đều có quan hệ với nhau, một lần trùng hợp có thể là trùng hợp, nhưng hai lần trùng hợp trở lên thì có thể là mưu toan từ trước, anh đừng có giẫm vào cạm bẫy người ta xếp sẵn đấy nhé.”
“ Chu yện này thì anh yên tâm, trùng hợp như vậy sợ chỉ là có ông Trời mới sắp xếp được thôi. Nếu ông Trời để mắt tới Merkin này, thần may mắn đang đùa với tôi, đương nhiên là tôi không thoát được, còn không, vẫn còn chưa kẻ nào thay đổi được vận mệnh của tôi đâu!”
“Phải rồi, anh vẫn chưa nói với tôi, tại sao anh nhất định phải tìm được tòa thần miếu này?”
“Xin lỗi, tôi có thể chia sẻ với anh tất cả các đầu mối tôi tìm được, cũng nhất định sẽ thỏa mãn tất cả các điều kiện đã đáp ứng với anh, nhưng chỉ có điểm này, thì  tôi không thể nói với anh được, cũng hy vọng từ sau anh đừng hỏi lại vấn đề này nữa.”
“Hừm, còn tưởng anh đã thay đổi, thì ra tính cách vẫn chẳng thay đổi lúc nào, vẫn đa nghi như thế.”
“Cẩn tắc vô áy náy mà.”

Lũ chim đằng xa kinh hốt bay lên, Soares đột nhiên khịt khịt mũi, cơ hồ như ngửi được gì đó nguy hiểm, y cười nhạt một tiếng: “Thì ra chủ nhân của rừng già đã tới rồi, xem ra tốt nhất ta nên tránh đi xa một chút, bị chúng phát hiện ra thì chẳng phải chuyện không hay chút nào. Đây là rừng sâu chứ không phải Putumayo . Quái thật, tại sao chúng lại xuất hiện ở đây chứ? Tình cờ hay có nguyên nhân gì? Nếu bọn chúng cứu bốn người này đi, vậy chẳng phải đã đến tận bìa rừng Than Thở hay sao, hừ, được lắm.” Dứt lời thân hình liền lắc một cái, đã đi được một quãng xa rồi.
CHƯƠNG 10
LỌT VÀO BỘ LẠC NGUYÊN THỦY NGƯỜI KUKUER
Trận chiến vừa bắt đầu đã lệch hẳn về một phía. Những cư dân của rừng già như cá trong nước, thân hình còn linh hoạt nhanh nhẹn hơn cả loài khỉ vượn, nhảy lên nhảy xuống giữa các tán cây như đi trên đất bằng, hơn nữa người nào cũng là tay cung thần, hễ có mũi tên nào bắn ra, không cần biết từ hướng nào, là ắt có một tên buôn ma túy ngã xuống. Mặc dù vết thương không chí mạng, song chất độc trên đầu mũi tên lại là chí mạng, bọn buôn ma túy ngã xuống thường chỉ kêu lên vài tiếng thảm thiết, rồi lặng lẽ nằm đó luôn.

Bất ngờ thoát nạn
“Hắc hắc hắc,” Gonzales cười gằn lạnh lẽo, “Xem ra lúc chúng mày quần nhau với Basinas bị thương cũng không nhẹ đâu nhỉ, sao hả? Cả đạn cũng hết rồi à? Sao không nổ súng bắn trả đi?” Con cáo già chốn rừng sâu này quả nhiên chỉ nhìn thoáng qua đã hiểu rõ tình thế trước mắt, vừa mở miệng ra đã dùng tiếng Anh nói chuyện với người trong vòng vây. Trương Lập và Nhạc Dương không thể nổ súng phản kích hiểu tượng trưng, trong rừng thấp thoáng bóng người, kẻ địch đã từ bốn phương tám hướng dần vây tới.

Hỏa lực mạnh áp chế, đồng thời đòn tấn công tâm lý của Gonzales cũng không hề dừng lại, hắn tiếp tục nói: “Bọn mày tới đây làm gì, mục đích của chúng mày, bọn tao đều biết rất rõ, muốn cướp đoạt của cải trên đất của người khác, đó là một sự lựa chọn hết sức sai lầm. Chúng mày đầu hàng đi, không những tao bảo đảm được chúng mày sẽ an toàn, hơn nữa… chúng ta còn có thể hợp tác, sau khi xong việc tao sẽ hộ tống bọn mày ra khỏi khu vực rừng nguyên sinh này, đồng thời chia cho một phần lớn… hừm, haha, thế nào hả, có hứng thú không?”

Đây vốn là một điều kiện hết sức hấp dẫn, song bọn Trương Lập nghe vậy lại vô cùng nghi hoặc. “Ý gì đây? Thằng cha này rốt cuộc đang nói cái khỉ gì vậy?” Trương Lập và Nhạc Dương, anh nhìn tôi, tôi nhìn anh, cả Ba Tang đang dựa người vào thân cây cũng không nói gì.

Gonzales thấy người bên trong không phản ứng gì, lại bổ sung thêm: “Đừng giãy giụa vô ích nữa, chỉ dựa vào mấy người chúng mày, cũng chẳng có năng lực mà nuốt trọn món lớn như vậy đâu. Phải biết là, người nào…” Trong rừng chợt có biến cố, một mũi tên lao vút qua khoảng không, đồng thời một tên buôn ma túy phụ trách canh phòng trên cao “hự” lên một tiếng rồi ngã xuống như bao cát.

“Cái quái gì vậy?” Bọn buôn ma túy tức khắc trở nên rối loạn, một tên thuộc hạ báo cáo: “Người Kukuer!” Gonzales kinh hoàng: “Cái gì? Người Kukuer! Chỗ này không phải phạm vi hoạt động của chúng, tại sao chúng lại đến đây chứ?”

Nhất thời, trong rừng, trên tán cây, chỗ đất trũng, đâu đâu cũng thấy bóng lông chim đung đưa lay động. Gonzales không thể tiếp tục cất lời uy hiếp, mà chuyển sang dùng tiếng Quechua nói: “Là ai? Nanh Sắc hay San thế? Chúng tôi là thuộc hạ của ngài Balang, ngài Balang và các người đã ký điều ước không xâm phạm lẫn nhau cơ mà, sao các người lại tấn công chúng tôi?”

Trong rừng vang lên tiếng đáp lại: “Basaka, ở Putumayo , ngươi và người của ngươi làm thủ lĩnh Nanh Sắc của chúng ta bị thương, chúng ta bắt người nợ máu trả máu!”

Gonzales hằn học trợn mắt lên nhìn kẻ tên là Basaka đứng bên cạnh, gã cao to ấy ủ rũ cuối đầu trước ánh mắt sắc như chim ưng của y, yếu ớt giải thích: “Không, không phải bọn tôi làm đâu, là một ông lão thổi rắn thả rắn cắn bị thương hắn ta mà, chúng tôi đâu biết hắn là Nanh Sắc, sớm biết thì đã…”

“Câm miệng!” Gonzales quát thuuộc hạ, sau đó gào lên với người trong rừng: “Hiểu lầm! Đó chỉ là hiểu lầm thôi! Chúng tôi biểu lộ lòng cảm thương sâu sắc và vô cùng xin lỗi thủ lĩnh Nanh Sắc, mong rằng anh ấy đã hồi phục trở lại, thần rừng sẽ bảo vệ anh ấy. Mấy hôm nữa ngài Balang nhất định sẽ đích thân đến tận nơi xin lỗi.”

Trong rừng không có tiếng đáp lại, mà chỉ có tiếng gầm như của loài dã thú, biểu thị quyết tâm báo thù cho thủ lĩnh của bọn họ. Basaka căng thẳng nói: “Xem ra tên của ngài Balang không dọa nổi chúng rồi, có cần nói tên của nhân vật lớn kia ra không?”

“Rắm chó!” Cái tát của Gonzales làm Basaka chảy cả máu miệng, “Bọn dã nhân này mà nổi cơn điên lên thì hiệp ước điều ước gì cũng là rắm chó hết. Bảo các anh em cẩn thận, ở trong rừng bọn này không khác bóng ma là mấy đâu.”

Lại một mũi tên nữa không biết từ đâu bay tới, một tên buôn lậu khác lại ngã xuống. Gonzales bừng bừng nổi giận: “Bắn mạnh vào cho tao, đừng tưởng người của tao chỉ biết ăn chay thôi nhé.”

Trận chiến vừa bắt đầu đã lệch hẳn về một phía. Những cư dân của rừng già như cá trong nước, thân hình còn linh hoạt nhanh nhẹn hơn loài khỉ vượn, nhảy lên nhảy xuống giữa các tán cây như đi trên đất bằng, hơn nữa người nào cũng là tay cung thần, hễ có mũi tên nào bắn ra, không cần biết từ hướng nào, là ắt có một tên buôn ma túy ngã xuống. Mặc dù vết thương không chí mạng, song chất độc trên đầu mũi tên lại là chí mạng, bọn buôn ma túy ngã xuống thường chỉ kêu lên vài tiếng thảm thiết, rồi lặng lẽ nằm đó luôn. Còn hỏa lực của bọn buôn ma túy lại bị các thân cây cao lớn chặn lại, mất hết cả uy phong thuở trước, toàn là bắn bừa bắn bãi làm cành cây lá cây rơi lả tả, nhưng lại chẳng thấy bóng người đâu. Tên không ngừng bay tới, còn cả đá, phi tiêu, boomerang, giáo mác, những vũ khí từ thời viễn cổ này không ngờ lại khiến cả đám người hiện đại trang bị vũ khí tới tận răng  phải ôm đầu chạy trối chết, thảm hại vô cùng. Gonzales thấy tình hình không ổn, đành phải hạ lệnh: “Rút lui, rút lui, tập trung lại, đột phá vòng vây ở phía Nam .”

“Soạt…” một chiếc boomerang bằng xương lướt qua mặt Gonzales, tới nửa chừng không lại quay ngược trở về, rạch một vết máu me đầm đìa trên cái bụng béo của hắn. Gonzales cuống cuồng sợ hãi, vừa chạy như bay vừa hét lớn: “Yểm hộ cho tao, con bà nó, bọn mày chạy đâu hết cả rồi!”
Biến hóa liên tục diễn ra, làm người ta không kịp suy nghĩ. Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang ở trung tâm vòng vây, song không ai có vẻ gì là bị tấn công. Đặc biệt là Trương Lập và Nhạc Dương, bọn họ không biết Trác Mộc Cường Ba và người Kukuer đã quen biết nhau từ trước, có cảm giác cứ như trời giáng thiên binh, kỳ tích xảy ra vậy. Các chiến sĩ thổ dân cũng không truy kích quá xa, đánh lui kẻ địch liền tự động rút lui. Trong rừng lại cất lên một giọng nói dễ nghe, hệt như thần nữ của rừng già đang triệu gọi: “Nhanh lên, theo chúng tôi. Nhân lúc máy bay trực thăng của chúng còn chưa  đến, mau rời khỏi nơi này.” Bốn năm thổ dân mặt vẽ totem vằn vện, đầu đội trang sức lông chim, tay cầm vũ khí nguyên thủy chạy đến trước mặt bốn người.
Trương Lập và Nhạc Dương còn sợ hãi hơn cả lúc nãy, có trời mới biết được đám người này muốn làm gì! Dù giọng nữ kia nghe có vẻ không ác ý gì, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn còn hôn mê nằm dưới đất, Ba Tang thì nghiến răng đau đớn, hai bọn họ không thể tự quyết định được. Cũng may Ba Tang vẫn còn tỉnh táo, anh ta ra lệnh: “Đi theo họ.” Lúc này đã có hai thổ dân lực lưỡng nhấc Trác Mộc Cường Ba, chạy như bay vào sâu trong rừng, lại có thêm hai người nữa đỡ Ba Tang chạy sát theo sau, Trương Lập và Nhạc Dương đành phải co chân đuổi theo.
Gonzales dẫn theo đám thuộc hạ hỗn loạn băng qua khu rừng, cuối cùng cũng coi như thoát khỏi sự truy đuổi của người Kukuer. Bọn chúng tôi đến chỗ người Basinas ngã xuống, nhìn từng cỗ thi thể đã sưng vù lên, hoàn toàn không còn nhận dạng, tên Cú Độc nổi tiếng máu lạnh này cũng không khỏi kinh hồn bạt vía, thở hắt ra một hơi. Mỗi cổ thi thể đều vặn vẹo theo những tư thế kỳ quái khác nhau, cơ thịt co rút cứng đờ, tư thế ấy như muốn bảo với những người khác rằng, bọn chúng bị cái đau cực kỳ khủng khiếp giày vò đến chết. Có thi thể còn tự lột cả da mình ra, chẳng còn đâu mặt mũi, gan ruột nát nhừ lòi cả ra ngoài; có người thì nổ súng tự sát, còn có người nghiến đến vỡ cả răng. Trước đó rốt cuộc là có thứ gì? Cảnh tượng kinh hoàng trước mắt làm cả đám người không làm còn dám tiếp tục chạy về hướng này nữa. Những nốt sưng vù trên thi thể, những tư thế chết kỳ quái này, rốt cuộc là do thứ gì gây nên? Gonzales lấy nòng súng lật một xác chết lên, trong lỗ mũi kẻ ấy liền có một con ong vàng vằn đen bò ra, hắn lập tức hiểu ra: “Ong sát nhân! Bọn chúng sao lại đụng tới ong sát nhân cơ chứ! Đúng là đáng chết. Không biết trong rừng có còn nữa hay không? Nhìn xác của đám người này, số lượng đàn ong sát nhân kia hẳn phải khủng khiếp lắm. Hừ, lại để bốn tên người Trung Quốc đó chạy mất rồi, tao ra đời bao nhiêu năm nay, còn chưa đen đủi như vậy bao giờ! Basaka, mày chết chưa? Chưa chết thì cút ra đây cho tao! Mày là thằng ngu xuẩn, lại đụng cả bọn Kukuer ấy làm gì! Chẳng lẽ mày không biết! Bọn ta muốn băng qua rừng già, không quan hệ tốt với bọn Kukuer là không xong hay sao! Con bà nó, bây giờ bọn chúng lọt vào tay người Kukuer rồi, muốn đưa người đi khó lắm đấy!”
Basaka hoảng hốt nói: “Vâng, vâng, tại tôi nhất thời sơ ý, tôi, tôi biết lỗi rồi.”
Gonzales chửi bới: “Biết lỗi thì được cái cứt gì, mày phải nghĩ cách bắt người về cho tao!”
Basaka gật đầu lia lịa, nhưng trong đầu hắn cũng biết, muốn đoạt người từ tay bộ lạc Kukuer về, vậy chẳng phải là đùa với Tử thần hay sao? Hắn còn chưa ngu tới mức ấy. Basaka nói: “Nhưng tôi chưa hiểu, đội trưởng, vừa rồi rõ ràng là có cơ hội bắn chết mấy tên đó, tại sao…”
Gonzales nói: “Mày thì hiểu cái gì. Tướng Kulu đã chỉ rõ là phải giữ lại mấy tên ngươi Trung Quốc đó.” Hắn đảo mắt nhìn quanh, rồi thấp giọng thì thầm vào tai tên thủ hạ tâm phúc: “Nghe nói, bọn chúng biết lối vào Thành phố Vàng.” “A!” Basaka giật mình kêu lên một tiếng, kích động đến nỗi mồ hôi chảy ròng ròng. Thành phố Vàng! Từ thế kỷ mười sáu, khi thực dân Tây Ban Nha đặt chân lên mảnh đất này, Thành phố Vàng được coi là kho báu vĩ đại nhất của đế quốc Inca cổ đại, mấy trăm năm nay đã có biết bao người vì tìm kiếm bí mật của Thành phố Vàng mà tiến vào rừng già nguyên sinh, người trước ngã xuống, người sau tiến lên, mãi đến giờ vẫn chưa chấm dứt. Gonzales nói: “Nếu không tại sao mấy phân đội chúng ta đều tranh nhau hành động như thế? Hy sinh vài thằng, có đáng để chúng ta huy động nhân lực đến thế không.” Nói đến đây, Gonzales cũng ngẩn người ra: “Thằng cha Merkin bảo chúng ta cầm chân mấy tên đó, lẽ nào hắn đã biết trước, hơn nữa cả hắn cũng biết nơi ấy ở đâu rồi? Hà, nếu vậy thì, chẳng phải là…”
Gonzales lấy lại bình tĩnh trước, hắn vỗ vỗ lên vai tên thuộc hạ đang ngẩn người ra vì hưng phấn, nghĩ ngợi giây lát, rồi đưa ra chủ ý: “Mặc dù lãnh địa người Kukuer cực kỳ nguy hiểm, nhưng bọn chúng cũng không thể ở đó cả đời được, thế nào cũng  phải ra thôi, tới lúc ấy, chúng ta sẽ làm thế này… thế này…”
Gonzales không hề hay biết, cuộc đối thoại của hắn và Basaka, tất cả đều đã bị Soares đang nấp gần đó thu dọn chiến trường nghe hết từng chữ một, khi nghe đến đoạn Thành phố Vàng, tay y khẽ giật mình, suýt chút nữa thì để con ong chúa trong lọ thủy tinh bay đi mất. Y lấy làm khó hiểu, thầm nhủ: “Sao lại thế được, ai chơi trò này nhỉ? Merkin? Không thể nào, trò đùa này không hề có lợi gì cho hắn ta cả. Tin tức của chúng ta có vấn đề gì? Cũng không thể nào, chuyện này không hợp lý chút nào. Nhưng mà, đám quân du kích và bọn buôn ma túy đang bắt tay hành động với quy mô lớn như vậy, giao tình của Merkin và tên béo Gonzales kia tuyệt đối không thể làm tới mức này được, ngoài nguyên nhân kia ra, nhìn như cũng không còn lý do nào khác nữa rồi.” Soares không thể đoán định tính chân thực của đoạn đối thoại này, song y hiểu rõ, đám người Trác Mộc Cường Ba căn bản còn không biết cái gì gọi là  Thành phố Vàng nữa.
“Tối quá, khắp nơi đều là bóng tối mù mịt. Ta đang ở đâu? Địa ngục ư? Nghĩ lại xem nào, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Hình như chúng ta bị tập kích, là cái gì, cái gì đang kêu ong ong kia! Trời ơi! Ong sát nhân, chính là chúng, là bọn chúng! Lại đến nữa rồi!” Trác Mộc Cường Ba mở trừng hai mắt, định nhúc nhích thân thể một chút, chỉ thấy xương cốt toàn thân đau đớn như bị nghiến nát, sau mấy lần đứng dậy thất bại, gã đành bỏ cuộc. Trác Mộc Cường Ba nhìn chăm chăm lên trần nhà, lấy làm kỳ quái trước hoàn cảnh hiện tại của mình, trần nhà lợp bằng lá cọ và cành cây tươi, công nghệ thô sơ, bốn vách tường đều gỗ ván, trên tường treo vài đầu thú và da hươu, không có cửa, chỉ có một tấm rèm cửa hình như kết bằng cỏ tranh. Không khí nóng như thiêu đốt và tiếng chim hót nghe đã quen thuộc kia nhắc nhở gã, lúc này gã vẫn còn trong rừng rậm nhiệt đới. Thế nhưng, đây là nơi nào?
“A, anh tỉnh rồi! Đã ngủ trọn một ngày hai đêm rồi.” Giọng tiếng Anh sao quen thuộc quá vậy, Trác Mộc Cường Ba khó khăn quay đầu lại, ngước nhìn về phía tấm rèm cửa, đồng thời nói: “Baba…” Chữ “tou” còn chưa thốt ra, gã đã trợn mắt há hốc miệng ra.
Babatou lúc này, đã không còn là cô gái ăn mặc theo kiểu văn minh ở Putumayo nữa, mà là một cô thiếu nữ thổ dân Anh điêng chính gốc. Mái tóc xanh thắt thành hai cái đuôi sam thả xuống hai vai, ngoài ra không còn bất cứ trang sức gì nữa, chẳng những thế, mà cả nửa thân trên cũng đều… đều không có bất cứ thứ gì, trên người chỉ có mỗi chiếc váy ngắn. Nước da khỏe mạnh màu vàng cam, toát lên vẻ quyến rũ đầy nữ tính phơi bày trước mắt Trác Mộc Cường Ba theo cách nguyên thủy nhất, dù đã trải qua nhiều thương hải tang điền, Trác Mộc Cường Ba vẫn không khỏi chấn động, nhất thời không nói được tiếng nào nữa.
Babatou tự nhiên cũng nhìn thấy ánh mắt rực lửa trợn trừng trừng lên của Trác Mộc Cường Ba, nét mặt không tránh khỏi thoáng hiện sắc hồng, có điều chỉ thoáng chốc cô đã trấn tĩnh lại, không có vẻ gì là xấu hổ nữa. Trên người Babatou vẽ đủ các loại hình xăm, trên hai cánh tay là một hình tương tự như hình rồng cuộn giản hóa trên lỗ châu mai Vạn Lý Trường Thành, từ eo đến bụng hình như vẽ một cánh cửa bên trong có thần minh, đến cả, đến cả, hai bầu vú cũng vẽ hình giống như nụ hoa vậy. Trác Mộc Cưởng Ba thầm tự mắng: đáng chết, tại sao lại nhìn kỹ thế chứ, hình như đây không phải là vấn đề mày cần quan tâm lúc này. Bình tĩnh, bình tĩnh, bình tĩnh, đây chỉ là phong tục cổ xưa của người dân vùng này thôi, chẳng có gì đáng kể kinh ngạc cả. Chết thật, sao lại đến gần mình thế, tại sao mình vẫn không cử động được?
Thấy Trác Mộc Cường Ba đỏ bừng mặt lên, mồ hôi ướt đẫm cả lưng. Babatou nhoẻn miệng nở một nụ cười tươi, nói: “Không cần kinh ngạc vậy đâu! Tôi vốn là người bộ lạc nguyên thủy mà. Hơn nữa, dù ở các thành phố văn minh, bên Đức bên Pháp, cũng có bãi tắm khỏa thân cơ thể mà, chỉ cần trong lòng ngay thẳng thì chẳng ngại gì đâu. Chẳng lẽ, anh có ý đồ gì không tốt hả?”
Trác Mộc Cường Ba lấy làm lúng túng, đành dứt khoát nhắm luôn mắt lại, tựa hồ như dùng Thiền đạo làm cho lục căn thanh tịnh, chỉ nghe trong phòng vang lên một tràng cười khúc khích như chuông bạc va vào nhau. Một lát sau thì không còn nghe tiếng gì nữa, thấy lỗ mũi ngưa ngứa, hắt xì một cái, Trác Mộc Cường Ba mở to mắt, thấy Babatou  đang ngồi xổm bên giường, nhìn thẳng vào mắt mình, tay cầm một chiếc lông vũ sặc sỡ ve vẩy trên mặt gã. Lần này đã có chuẩn bị tâm lý, nên nói chung cũng đỡ hơn phần nào, ít nhất thì cũng đè nén được niềm thôi thúc nguyên thủy trong cơ thể kia, Trác Mộc Cường Ba từ từ tỉnh táo trở lại, cảm kích nói: “Các bạn đã cứu tôi?”
Babatou dẩu môi lên cười cười: “Người cao lớn khỏe mạnh thế này mà gan nhỏ thế. Phải rồi, anh trai tôi nhờ cao chữa rắn của anh nên mới không sao, cả bộ tộc chúng tôi đều rất cảm ơn anh đấy. Về sau nhìn thấy quân du kích và bốn người da vàng bắn nhau trong rừng, bọn tôi đều rất lo lắng, nhưng cũng không biết có phải là các anh không nữa, lần này chúng tôi vào rừng chỉ là để tìm tên Basaka trả thù thôi, không ngờ lại gặp được các anh thật. Lại càng chẳng thể ngờ các anh đụng với bọn ong sát nhân, đáng lẽ ong sát nhân cũng không ghê gớm như vậy đâu, độc của chúng tùy theo thể chất từng người mà khác nhau, thật không may, anh và cái chú nhìn có vẻ hung hăng kia đều có thể chất quá mẫn cảm, nếu không hai người đã không bị nặng thế này rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Xem ra vận may của chúng tôi cũng không tệ nhỉ, không ngờ các bạn ở trong rừng mà thông tin cũng nhanh nhạy thế, phải rồi, có điện thoại di động không?? Tôi muốn liên lạc với thế giới bên ngoài một chút.”
Babatou bật cười khanh khách: “Anh nghĩ rằng chỗ chúng tôi đây có điện thoại di động chắc? Nếu có cái thứ ấy, làm sao còn gọi là bộ lạc nguyên thủy được nữa chứ. Chúng tôi biết là nhờ mấy du khách gặp nạn nói thôi, họ cũng là người châu Á, nên bị quân du kích nhận lầm.”
Tim Trác Mộc Cường Ba như thắt lại, vội vàng hỏi: “Bọn họ đâu rồi? Bọn người ấy như thế nào? Có ai bị thương không?” Nhóm của giáo sư Phương Tân chẳng phải cũng vừa vặn có bốn người hay sao!
Babatou ngạc nhiên nói: “Anh quen họ hả? Chẳng qua chỉ là một nhóm người du lịch tự phát thôi mà, không ai bị thương cả, chỉ là hơi kinh hoàng chút thôi, chúng tôi đã phái người đưa họ đi rồi. Để nhớ xem nào, có một người Nhật Bản, hai người Trung Quốc này, còn một nữa hình như là người Singapore thì phải…” Kế đó lại tả cho Trác Mộc Cường Ba sơ qua tướng mạo bốn người đó, thì ra là bốn người đàn ông, Trác Mộc Cường Ba giờ mới yên tâm, xem ra chắc là thành viên của tổ chức “phượt” kia, chẳng phải là người Anh tên Sean kia đã nói, bọn họ có bốn người bị lạc mất hay sao. Trong lòng gã thầm cầu khấn, chỉ mong nhóm của giáo sư Phương Tân không xảy ra chuyện gì.
Nghĩ đến nhóm giáo sư Phương Tân, Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: “Phải rồi, mấy người bạn của tôi đâu?”
Babatou thong thả nói: “Không sao đâu, trong lãnh địa của người Kukuer chúng tôi, dù là quân du kích cũng không tùy tiện tiến vào đâu. Nào, nào…”  Vừa nói cô vừa lật tấm chăn giống như dệt bằng vải gai trên người Trác Mộc Cường Ba lên.
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cô, cô làm gì vậy?” Babatou nở một nụ cười bí hiểm: “Chữa cho anh chứ còn làm gì, thời gian này, toàn là tôi chữa bệnh cho anh đấy.”
“Cô là bác sĩ hả?” “Không, dùng phương pháp chữa bệnh đặc biệt của người Kukuer chúng tôi, anh hồi phục nhanh lắm.”
Trác Mộc Cường Ba đầu kêu ong ong, nóng bừng lên, thầm nhủ: “Sao lại cười như thế? Cách chữa bệnh của họ, chắc là… không phải cái cách đó chứ?”
Babatou vỗ một cái lên ngực Trác Mộc Cường Ba, gương mặt xinh đẹp làm bộ giận dữ, nhiếc móc: “Anh nghĩ đi tận đâu vậy? Sao mặt còn đỏ hơn cả mông khỉ đuôi xoắn thế?” Kế đó cô lại ra lệnh: “Xoay người qua, nào, một, hai, ba, anh tự dùng sức đi, một hai ba…”
Trác Mộc Cường Ba vất vả lắm mới lật sấp người xuống được, cũng đỡ phái rơi vào tình huống lúng túng như lúc nãy, gã không nên nổi một tiếng “phù” nhẹ nhõm, chỉ thấy những chỗ bị ong đốt trên lưng như bị kim chích, vừa ngứa vừa tê, còn nhoi nhói đau nữa. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cô sẽ không chọc thủng những nốt bị ong đốt đó đấy chứ?”
Babaotu lắc đầu: “Không đâu, tôi chỉ rạch những chỗ đã kết sẹo, để máu lại chảy ra thôi. Không làm vậy, thần Yize sẽ không chịu chữa bệnh cho anh đâu.”
Phát âm hết sức quái dị, Trác Mộc Cường Ba nói: “Thần Yize? Là, là cái gì thế?” Lúc này gã đã thấy lưng mình càng lúc càng ngứa hơn, lại còn hơi đau đau như bị vô số con kiến cùng cắn xé vậy.
“A, người Kukuer chúng tôi mà bị con gì cắn, hay mắc phải các chứng bệnh thông thường, đều nhờ thần Yize chữa trị cho cả, chúng là bác sĩ tốt nhất của rừng già này đấy. Anh có muốn xem không?”
“Ừm, ít nhất thì tôi cũng phải cảm ơn bác sĩ đã chữa bệnh cho mình chứ”. Trác Mộc Cường Ba vừa dứt lời. Babatou đã đưa một bình gốm tới trước mặt gã.
“Đây, đây chính là thần Yize sao?” Trong bình gốm quả nhiên là đầy kiến nhung nhúc ra vào, những con kiến đen dài chừng một centimet, tốc độ di chuyển nhanh nhẹn vô cùng. Trác Mộc Cường Ba ngẩn ra trong giây lát, rồi hỏi: “Bọn chúng đang làm gì trên lưng tôi vậy?”
Babaotu nở một nụ cười giảo hoạt, nói: “Bọn chúng ấy à, bây giờ chúng đang hút máu của anh. Sau đó, chúng sẽ bài tiết ra một loại kích thích tố, trung hòa độc tố xung quanh vết thương của anh, thứ vật chất ấy, còn thúc đẩy tuần hoàn máu, tẩy rửa các chất thải thừa trong cơ thể anh, đồng thời khôi phục những tế bào bị hủy hoại nữa.”
Trác Mộc Cường Ba hồ nghi hỏi: “Thần kỳ vậy sao?”
Babatou nghiêm nghị gật đầu: “Đương nhiên rồi, người Kukuer chúng tôi mấy ngàn năm nay được thần Yize bảo hộ, mà không gặp phải bệnh dịch nào lớn cả. Được rồi, xem ra cũng gần xong, để tôi bôi thuốc cho anh.”
Trác Mộc Cường Ba thấy sống lưng mát lạnh, cảm giác như thoa kem chống nắng, lại không nhịn được hỏi tiếp: “Giờ lại bôi thuốc gì nữa?”
Babatou nói: “Là thuốc cao đặc chế của người Kukuer chúng tôi, gồm có Turneraceae, cỏ gấu, mây vuốt gấu, lá thược dược và rất nhiều dược thảo khác. Xoa vết thương bị cắn đốt là cực kỳ công hiệu. Xong rồi, anh nghỉ ngơi cho tốt, lát nữa tôi mang cháo ngô với mật ong cho, lâu như vậy không ăn gì, người có khỏe mấy thì cũng không chịu được đâu.”
Babatou vén rèm cửa bước ra, Trương Lập và Nhạc Dương ngồi trên đàn tế bằng gỗ đằng xa buồn chán đến thẫn thờ, thở dài đến tiếng thứ một trăm lẻ bảy: “Ôi, thiên lý ở đâu chứ!” “Ài, đen tối quá!” “Tại sao tôi không được đãi ngộ như thế chứ?” “Sớm biết thế, lúc ấy đã cho bọn ong mật kia đốt mấy phát rồi!”

Người Kukuer 
Lần đầu tiên, hai người đến lãnh địa của người Kukuer, cơ hồ không dám tin vào mắt mình nữa. Khu này là vùng đồi cao hơn rừng cây thông thường một chút, cả khu vực vẫn được cây cối che phủ, nhưng ở chỗ cao nhất là đàn tế thì có thể nhìn thấy toàn bộ mấy cánh rừng nhỏ xung quanh và các dòng sông uốn khúc. Dưới tán lá xanh tốt có hơn trăm căn nhà gỗ lợp lá cọ, có đàn tế, có điện thờ, có nơi sinh hoạt tôn giáo, mái nhà hình bầu dục nhọn, nhìn chữ V, tất cả các kiến trúc cần thiết của một nền văn minh bộ lạc nguyên thủy đều có hết. Điều làm hai người không thể ngờ được, tự nhiên chính là chuyện phụ nữ trong bộ lạc toàn bộ đều để ngực trần, hơn nữa còn hết sức tự nhiên, hoàn toàn không hề có ý che giấu hay xấu hổ thẹn thùng gì cả. Nhạc Dương và Trương Lập vừa thấy mấy thiếu nữ đầu đội bình gốm ra suối lấy nước về, bên này lại có vài người nữa đội quần áo thực phẩm đi ra bờ sông, vừa đi vừa nói nói cười cười, nét mặt động tác hoàn toàn chẳng khác gì các cô gái mặt quần áo đầy đủ ở các thành phố trò chuyện cười đùa với nhau, chỉ khác một điểm duy nhất, bọn họ không ai mặc quần áo! Hai chàng thanh niên máu nóng kiến thức nông cạn, cứ tranh nhau nhìn đến mạch máu căng phồng. Trương Lập còn suýt chút nữa thì chảy máu mũi. Đặc biệt là khi hai anh chàng này trông thấy cô gái xinh đẹp quyến rũ nhất bộ lạc Babatou tự tay chăm sóc Trác Mộc Cường Ba, ngày nào cũng ra ra vào vào căn nhà gỗ nhỏ ấy, lần nào vào cũng mấy tiếng đồng hồ không thấy ra. Hai người lấy làm tức tối, thậm chí còn nổi ý đồ giết quách Trác Mộc Cường Ba đi cho xong nữa.
Chiếu lý mà nói thì Trác Mộc Cường Ba không trẻ như họ, hình như tướng mạo cũng không được tuấn tú bằng, hai người nghĩ mãi mà không thông, cuối cùng đã đưa ra kết luận thế này: “Cường Ba thiếu gia có sức hấp dẫn thần kỳ đối với phái nữ… à không, đối với tất cả các động vật giống cái, phạm vi sát thương từ tám tuổi đến tám mươi tuổi. Chính tại vì ma lực trời sinh đó, mới khiến hai chàng thanh niên lý tưởng có tương lai tươi sáng đồng hành nhiều lần không được các cô gái xinh đẹp bằng tuổi để mắt tới. “Suy luận thế này chắc chắn không sai vào đâu được, ngày hôm ấy chẳng phải con ếch kia cứ bám chặt lên đầu Cường Ba thiếu gia còn gì, bây giờ nghĩ lại, gần như có thể khẳng định trăm phần trăm, đó là một con ếch cái rồi.” Đưa ra được kết luận như vậy, tâm lý hai người nói chung cân bằng lại đôi chút. Bọn họ nào biết rằng, kết luận thoạt nghe có vẻ hoang đường này, về sau lại chính xác như dự đoán tiên tri vậy.
“Anh ấy tỉnh rồi, hai người vào thăm đi.” Babatou mỉm cười, cầm lọ gốm đi qua hai anh chàng đang để hồn vía lơ lửng trên mây.
“Cường Ba thiếu gia, đã mất nửa thời gian rồi, vậy mà, giờ chúng ta còn chưa rõ mình đang ở đâu nữa.”
“Phải đấy, hơn nữa nghe Khỉ Đuôi Xoắn nói, quân du kích đã mai phục sẵn xung quanh lãnh địa của người Kukuer rồi, xem ra chúng ta vừa ra khỏi đây là chúng sẽ lập tức ra tay luôn đó.”
“Ba Tang? Anh Ba Tang đã khỏe rồi, nhưng hình như anh ấy rất hợp chuyện với thầy tế ở đây, từ chiều hôm qua cứ rịt trong đền thờ của họ ấy.”
“Này, Cường Ba thiếu gia, Babatou lúc nào cũng ở bên cạnh anh, hai người…”
“Hai thằng nhóc này… tôi vừa mới tỉnh lại, giờ còn chưa biết mình đang ở đâu nữa, lẽ nào hai người không biết người bệnh cần được nghỉ ngơi hay sao? Yên lặng một chút cho tôi nhờ có được không?”
“Không được.”
“Cường Ba thiếu gia, các cô gái thổ dân ở đây vừa nhiệt tình lại vừa buông thả, anh nhất định phải khống chế được tình cảm của mình, anh phải giữ đạo đức trong tình yêu đấy nhé, chớ có làm chuyện gì để cô Mẫn Mẫn phải đau lòng đấy!”
“Các… các cậu, hai thằng nhóc này… ra ngoài! Đây là mệnh lệnh đấy!”
“Cường Ba thiếu gia, ngàn vạn lần chớ nên nổi nóng, chúng tôi chỉ muốn tốt cho anh thôi mà.”
“Phải đấy phải đấy.”
….
Đêm đến, quả nhiên Babatou đang ở trên đàn tế quan sát bầu trời đầy sao, anh ta nằm nghiêng bên cạnh đài quan sát. Được sự cho phép của đại tế sư, Ba Tang là người ngoài tộc duy nhất được bước lên đàn tế ngắm sao trời. nói là đàn tế, kỳ thực là một gò đất hơi cao hơn một chút so với khu vực xung quanh, người Kukuer đã dùng các thân cây to dựng nên một giàn gỗ hình thang trên gò đất đó, trên đó, có hai giá gỗ như cần trục, ở giữa là một đĩa tròn không tâm, chính giữa đĩa tròn là một khúc gỗ hình như cây thập tự, khúc gỗ và đĩa tròn có thể di chuyển xung quanh nhau, mỗi lần đến ngày lễ của bộ tộc, đại tế sư bao giờ cũng một mình bước lên đài tế sử dụng thứ kỳ dị này để quan sát các ngôi sao trên trời.
Dù Babatou không biết Ba Tang đã nói chuyện gì với đại tế sư, nhưng người nào đã được đại tế sư công nhận thì cũng được người Kukuer tôn trọng, cô nhã nhặn nói: “Ngài Ba Tang.”
“Ừm,” Ba Tang điềm đạm nói, “năm ngày rồi.” Trong vẻ cao ngạo của anh ta thấp thoáng nỗi lo âu, ánh mắt anh ta cũng vô cùng phức tạp, dường như đang cực kỳ mâu thuẫn, lại như đang phải gánh trên vai áp lực nặng nề, ít nhất, đó là cảm giác của Babatou trong lúc này. Ẩn chứa trong giọng nói của Ba Tang là sự bất lực và cam chịu: “Kế hoạch ban đầu vốn không phải như vậy, chúng tôi chỉ muốn bình yên băng qua rừng già, đã suy tính hết sức đầy đủ đến hoàn cảnh môi trường khốc liệt và các loài động vật nguy hiểm rồi, có điều, căn bản không ai nghĩ đến chuyện sẽ xung đột trực tiếp với quân du kích và bọn buôn ma túy. Dường như trong bóng tối kia có một cánh tay vô hình đang thao túng hành trình của chúng tôi, đến giờ, cả ông Trời cũng muốn khảo nghiệm chúng tôi chắc?”
Babatou nói: “Đại tế sư có nói rồi, thần Chac vĩ đại đã phẫn nộ, người sẽ trừng phạt những kẻ phá hoại thế giới này. Có điều tôi cũng không được hiểu cho lắm, ông Ba Tang, ông có thể dùng kiến thức khoa học hiện đại để giải thích ngôn ngữ đã được đại tế sư thần hóa không? Dù sao thì, ông nói cũng giống hệt như đại tế sư vậy.”
Ba Tang lẩm bẩm đáp: “Rừng mưa nhiệt đới Nam Mỹ là môi trường nhiệt đới khí áp thấp, được luồng không khí xích đạo tuần hoàn bao bọc. Theo lẽ thông thường, khu vực này một năm có gần bảy tháng là bị mây mù bao phủ, thời tiết thường gặp nhất chính là hàng ngày lúc mặt trời lên thì mát mẻ dễ chịu, tới trưa bắt đầu có mây tích tụ, chiều thì mưa như trút nước tới tận hoàng hôn. Nhưng chúng tôi vào rừng đã năm ngày rồi, chẳng những không có một giọt nước mưa, hơn nữa đêm nào cũng trời trong đầy sao, mây mù nhiệt đới đi đâu rồi? Cô, cô có biết sóng thần không?” Ba Tang chợt hỏi.
Babatou nói: “Ừm, có nghe nói, địa chấn dưới biển gây ra sóng thần, là thảm họa tự nhiên vô cùng đáng sợ, nhưng có chuyện gì với việc này chứ?”
Ba Tang lắc đầu: “Không, không có quan hệ, chỉ có điều đạo lý là giống hệt như nhau. Khi tầng đáy đứt gãy gây ra xê dịch, địa hình đáy biển đột nhiên biến hóa, trước tiên không phải là biển động sóng thần, mà là dung tích đáy biển tăng lên, khiến mặt biển rút xuống, đường bờ biển rút ra ngoài xa mấy dặm hoặc nhiều hơn nữa, để lộ ra tầng đá ngầm trước giờ chưa từng hiện ra. Sau đó, mặt biển phải khôi phục lại cân bằng của nó, lượng nước biển kia sẽ dựng lên thành một bức tường nước, cuồn cuộn ập trở về, sức mạnh đáng sợ đủ để hủy diệt tất cả mọi thứ, thậm chí chúng còn cao hơn mặt biển trước đó mấy chục đến gần trăm mét, nhấm chìm, nuốt trọn tất cả những thứ dưới bậc nước đó, rồi lại rút đi. Lúc này tầng mây trên cao đang bị ảnh hưởng của khí áp, về cơ chế cũng giống hệt như sóng thần vậy, khi khí áp thấp bị khí áp thấp hơn ảnh hưởng, luồng khí tuần hoàn sẽ tản ra xung quanh, giống như là thổi bong bóng vậy, dồn hết mây ra bên ngoài quả bong bóng đó. Thế nhưng, một khi quả bong bóng ấy bị vỡ, mây ở xung quanh sẽ dồn vào lấp chỗ với tốc độ nhanh chưa từng thấy, tới lúc đó, mưa của mấy ngày, mấy chục ngày sẽ tập trung đổ xuống trong một ngày. Cô thử tưởng tượng, đó là cảnh tượng thế nào.”
“A.” Babatou kêu lên một tiếng khe khẽ, phảng phất như cảm thấy nguy cơ trong một sớm một chiều.
Ba Tang lại tiếp lời: “Kiểu khí hậu biến dị này, từ rất lâu trước đây hoặc phải mất mấy trăm năm mới có một lần. Còn bây giờ, rừng nhiệt đới bị chặt phá trên diện rộng, thảm thực vật trên núi Andes cũng bị phá hoại nặng nề, tốc độ tan chảy của sông băng tăng lên, tác dụng điều tiết khí áp của khe núi giảm sút, có lẽ sau này cứ vài năm, hoặc mỗi năm, đều sẽ xuất hiện thiên tai như vậy, đây chính là cái giá con người phải trả cho chính những hành vi của mỗi người thôi. Có điều, cô cũng không cần lo lắng, tôi quan sát rồi, khu rừng này cao hơn những nơi khác xung quanh đây, dù có mưa to, cũng không ảnh hưởng gì đến bộ tộc các cô đâu.”
“Ừm.” Babatou nói, “Đại tế sư cũng nói rồi, thần Kukuer sẽ bảo vệ chúng tôi được bình an.”
“Hừ, thần kukuer hả?” Trong tiếng cười của Ba Tang ẩn chứa chút khinh miệt, nhưng nét mặt lại không tỏ vẻ gì, anh ta ngoảnh mặt đi hỏi: “Các cô, là hậu duệ của người Anh điêng hả?”
“À…” Babatou không hiểu tại sao Ba Tang lại đột nhiên hỏi vấn đề này, cô líu ríu nói: “Chuyện này, tôi cũng không rõ lắm, có điều, chắc là phải đấy. Tổ tiên chúng tôi đã sống rất nhiều năm trong cánh rừng này rồi, theo những ghi chép trong bộ tộc, từ thời đại Kakupakate, tổ tiên của chúng tôi đã được các vị thần bảo vệ mà an cư lạc nghiệp ở đây rồi.”
Ba Tang nhìn cây thập tự, bình phẩm: “Bất kể các cô là hậu duệ của người nào, từ dụng cụ các cô dùng để làm quan sát bầu trời có thể thấy, tổ tiên của các cô có một nền văn minh hết sức huy hoàng chói lọi đấy. Dụng cụ này đơn giản thế thôi, nhưng lại có thể theo dõi đường đi của mặt trăng và mặt trời một cách rất dễ dàng, hơn nữa còn có tác dụng rất nỗi bật trong việc quan trắc chòm sao Đại Hùng và Tiểu Hùng nữa.”
Nghe Ba Tang đánh giá cao tổ tiên mình, Babatou tỏ ra vô cùng cao hứng, nhưng chỉ thoáng chốc cô lại ủ rũ nói: “Đáng lẽ, bộ tộc chúng tôi còn có cả thánh thạch truyền đời nữa cơ, nhưng mấy năm trước đã bị người ta ăn trộm mất rồi.” “Ừm, vậy hả?” Ba Tang đột nhiên nổi hứng với chuyện này, liền hỏi han cặn kẽ các chi tiết liên quan đến thánh thạch. Thì ra thánh thạch là một tảng đá hình trụ tròn có khắc các hoa văn kỳ quái, nghe nói có cán, có đầu, toàn thân đều chạm nổi, hình tượng đó, rất giống một trụ đá trổ hoa thu nhỏ theo tỷ lệ nhất định, cầm trong tay giống như một cái giản (1) bằng đá. Hai người nói chuyện rất muộn, trước khi rời khỏi đàn tế, Ba Tang vẫn không quên nhìn lên bầu trời một lần nữa. Vầng trăng lông kia lại tròn hơn hôm qua thêm một chút.
Độc tố trong cơ thể dần dần được thanh tẩy, mấy vết thương phần mềm kia đến nhanh, nhưng cũng đi nhanh, chiều hôm sau, Trác Mộc Cường Ba đã có thể xuống giường đi lại, hoạt động cho dãn gân dãn cốt, hầu như đã không còn gì đáng ngại, cả cảm giác đau đớn cũng không thấy nữa. Trác Mộc Cường Ba không ngờ, ngoài cửa kia, thủ lĩnh trẻ tuổi Gấu Mật Nanh Sắc đã dẫn theo một đám chiến sĩ, xếp hàng hoan nghênh gã khỏi bệnh, đằng xa là các nam nữ lão thiếu trong bộ tộc Kukuer, Babatou phụ trách phiên dịch. Nanh Sắc thân mật vỗ mạnh lên lưng Trác Mộc Cường Ba, cao hứng nói: “Người dám đối đầu với tướng Kulu, nhất định là anh hùng.” Nói xong anh ta lại chỉ vào ngực mình: “Anh cứu mạng tôi, chúng ta là anh em, là người một nhà.” Cả bộ tộc liền reo hò ầm ĩ.
Trác Mộc Cường Ba được Babatou và Nanh Sắc dẫn đi vòng quanh thôn làng của người Kukuer. Babatou làm hướng đạo kiêm phiên dịch, được âm thanh tràn trề niềm vui ấy giới thiệu, Trác Mộc Cường Ba dần dần hiểu được về bộ lạc Kukuer này.
Chiều cao trung bình của người Kukuer tương đối thấp, màu da sẫm hơn những chủng tộc người Anh điêng khác, hầu hết các chiến sĩ đều cường tráng mạnh mẽ, bắp chân thô ngắn, vai rộng, đầu to, đôi mắt màu da cam và mái tóc đen kia, nhìn cũng có mấy phần đặc điểm của dân người châu Á. Trang phục của họ tương đối đơn giản, đàn ông mặc một chiếc khố rộng bằng lòng bàn tay, bọn họ quấn khố vài vòng quanh hông, một đầu thả phía trước, một đầu ở phía sau, trông rất giống trang phục của võ sĩ Sumo Nhật Bản. Hai đầu mảnh khố đều có hình thêu do chính tay mẹ hoặc vợ người đó làm. Phụ nữ thì từ eo trở xuống quấn một chiếc váy. Trong bộ tộc bất kể nam hay nữ, những phần lộ ra trên cơ thể đều có hình vẽ totem, trong đó hình xăm trên mặt là đẹp nhất, dựa theo thân phận và đẳng cấp khác nhau mà xăm những hình khác nhau. Chỉ có đàn ông mới có trang sức trên đầu, phụ nữ thông thường tết tóc từ hai đến bốn bím, đàn ông dùng lông chim làm trang sức, cắm thành nhìn rẻ quạt, cũng có phân biệt theo đẳng cấp. Đàn ông thông thường cắm lông vẹt châu Mỹ, chiến sĩ thì cắm lông chim ưng, còn thủ lĩnh như Gấu Mật Nanh Sắc thì là lông của một loài đỗ quyên đến từ Trung Mỹ.
Họ sống trong nhà cỏ tranh hoặc nhà lợp bằng lá cọ, trong nhà có tường chia làm hai gian, phía trước là phòng khách, phía sau là phòng ngủ, phòng ốc thường không có cửa, mái hiên rất thấp, có thể chắn mưa che nắng. Giường bện bằng cành cây, bên trên rải cỏ, lúc ngủ dùng một tấm thảm bằng cỏ hoặc vải bông thay cho chăn. Họ không nấu nướng trong nhà, mà dùng bếp lộ thiên bên ngoài. Người Kukuer trồng khoai, sắn, đậu tằm, ngoài ra cũng chăn nuôi các động vật lớn như lạc đà không bướu, ngựa…, nhưng hầu hết các chiến sĩ đều vào rừng săn bắn, khỉ nhện là thức ăn thường xuyên nhất của họ. Họ có các thợ thủ công lành nghề chế tạo vũ khí, nhưng cũng tiếp xúc cả với súng ống hiện đại, quần áo mặc thường ngày cũng có một phần được dệt may bằng công nghệ hiện đại, bộ lạc này cũng không hề cách biệt với thế giới bên ngoài, mà tiếp xúc với nền văn minh hiện đại bên ngoài một cách vừa phải, thích đáng. Họ bắt một số động vật trong rừng ra ngoài đổi lấy nhu yếu phẩm, trong rừng nguyên sinh đâu đâu cũng cò nguy hiểm rình rập, các nhà sưu tập và chủ quán đặc sản muốn có các loại động vật hoang dã, đều đồng ý trả giá không hề thấp để mua các thứ đó.
Chiến sĩ của bộ tộc Kukuer từ nhỏ đã sinh ra trong rừng, lớn lên trong rừng, rừng già này chính là nhà của họ, họ thông thạo đủ các phương pháp tác chiến trong rừng sâu, bố trí những loại bẫy rập đơn giản để bắt dã thú. Vì vậy, lãnh địa của người Kukuer xưa nay đều bất khả xâm phạm, đến cả quân du kích và bọn buôn ma túy xưa nay vẫn xưng bá trong rừng sâu này cũng phải ký điều ước không xâm phạm lẫn nhau với họ. Có lúc bọn buôn ma túy còn phải trả một khoản tiền lớn làm phí mãi lộ, mới được đi qua lãnh địa của người Kukuer, nhưng nơi này đã là đường sát biên giới, chưa tới lúc vạn bất đắc dĩ, bọn chúng cũng không bao giờ đặt chân lên lãnh địa của họ. Nghe nói, ở sâu trong lãnh địa này, có thứ còn đáng sợ hơn cả người Kukuer gấp trăm gấp ngàn lẩn, nơi ấy thì càng không có một dấu chân người.
Trong bộ tộc chia làm nhân quyền và thần quyền, nhân quyền là tộc trưởng, cũng chính là cha của Gấu Mật Nanh Sắc và Babatou, thần quyền là đại tế sư, ông ta lúc nào cũng ở trong đền thờ. Đền thờ thần linh của họ, là một gian nhà gỗ không lớn lắm, đứng dưới tán của một cây cổ thụ cao gần bốn chục mét, đích thực là khiến người ta nảy sinh cảm giác kính ngưỡng trước bậc minh thần cao quý. Nghe nói sau khi Ba Tang tỉnh lại, có nói mấy câu về thời tiết biến dị, vừa hay lại trùng khớp với cách nói của đại tế sư trong đền thần, nên đã được đại tế sư mời vào nói chuyện, sau đó còn đồng ý cho anh ta lên đàn tế quan sát bầu trời nữa. Về chuyện này, cả Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy không thể nào tin nổi, nhưng sau đó Ba Tang lúc nào cũng chỉ hờ hững lảng tránh không nói gì.
Người Kukuer rất giỏi uống rượu, họ dùng mật ong, nước và một loại rễ cây đặc biệt để ủ rượu, làm ra một loại rượu nồng độ rất cao, mùi thơm sực nức.
Điều làm Trác Mộc Cường Ba thấy hứng thú nhất là người Kukuer hầu như nhà nào cũng nuôi chó, rất tạp, nhỏ thì có chó không lông, chó đốm hoa, chó chồn, lớn thì có chó fila, có chăn cừu, chó bull, thứ nào cũng có, thậm chí còn có cả loại mà Trác Mộc Cường Ba không gọi được tên. Đáng kinh ngạc nhất là, lũ chó này đều không sủa, thấy người tới thì chỉ nghếch mắt lên liếc nhìn một cái, rồi lại nhắm tịt mắt vào ngủ, đến cả mấy con nổi tiếng hung hăn như chó ngao Brazil cũng thế.
Trác Mộc Cường Ba hỏi Babatou tại sao chó họ nuôi lại không kêu, câu trả lời của cô là, đó là cách huấn luyện chó đã lưu truyền từ rất lâu rồi, ở đây họ có câu tục ngữ gọi là: “Chó không sủa mới là chó tốt.” Trác Mộc Cường Ba cứ có cảm giác hình như mình đã nghe cách nói này ở đâu rồi, có điều gã vừa mới khỏi bệnh, trước sau không tài nào nhớ ra nổi. Gã đến trước mặt một con chó trông có vẻ như là chó Argentina, xoa xoa đầu con vật đang rúc mình ngủ khò khò ấy, con chó mở đôi mắt nhập nhèm lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, ngáp một cái rõ dài, rồi quẫy quẫy đuôi, vùi đầu ngủ tiếp. Trác Mộc Cường Ba tò mò hỏi: “Nếu không sủa, vậy tác dụng chủ yếu của chúng là làm gì?”
Babatou đáp: “Có thể dùng đề truy dấu vật săn, có điều hầu hết thời gian bọn chúng đều chơi với lũ trẻ con, địa vị của chúng trong làng của chúng tôi cũng cao lắm đấy nhé. Trong làng có tập tục, nhà nào có chó bất hạnh qua đời, thì phải cử hành tang lễ long trọng cho nó, hơn nữa về sau chúng còn được hợp táng với chủ nhân của mình nữa cơ.” Trác Mộc Cường Ba lại hỏi thêm một số chuyện về lũ chó châu Mỹ này, kết quả phát hiện ra Babatou cũng không thích chó lắm, cô cũng chỉ biết là có tập tục như vậy, còn tại sao lại có, thì cũng không rõ cho lắm.
Ngoài đền thờ và đàn tế, Babatou đã dẫn Trác Mộc Cường Ba đi tới từng góc nhỏ của ngôi làng bộ tộc Kukuer cư trú, giúp gã có đượcn những hiểu biết đại thể về bộ lạc nửa nguyên thủy nửa văn minh này. Tham quan trong bộ lạc Kukuer này, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy sức khỏe mình đã khôi phục đáng kể, bèn định tạm biệt Babatou, nhưng bị cô từ chối. Babatou nói: “Bây giờ sức khỏe anh vừa mới bình phục, còn chưa cảm thấy gì, nhưng chất độc trong cơ thể thì chưa hoàn toàn hết đâu, đi trong rừng một hai ngày là lại tái phát nữa đấytôi phải tiếp tục bôi thuốc cho anh mới được. Còn nữa, dù có muốn đi, thì nhất định cũng phải đợi qua ngày mai mới đi được, ngày mai chính là ngày lễ của bộ tộc Kukuer chúng tôi, mọi người ai cũng tham gia chúc mừng, nếu đại ân nhân của bộ lạc như anh mà không tham gia, tức là đã coi thường người Kukuer chúng tôi, mà chúng tôi thù dai lắm đấy nhé. Trong rừng sâu, cả quân du kích và bọn buôn lậu đều biết rất rõ, ở vùng này mà đắc tộc với người Kukuer, muốn đi một bước cũng khó khăn lắm. Nhìn anh kìa, cuống lên muốn đi như vậy, chẳng lẽ người Kukuer chúng tôi làm anh thấy ghét thế à?”
Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Không phải, vì lần đầu tiên chúng ta gặp mặt vội vã quá, có rất nhiều chuyện mọi người còn chưa hay. Chúng tôi đang tham gia một đội thi đấu tranh giải, phải từ Putumayo băng qua rừng nguyên sinh tới Saint Mary trong thời gian quy định, bị chậm trễ ở đây, chúng tôi đã bị các đội khác bỏ rớt lại phía sau rồi, thế nên tôi mới nghĩ, nếu mình cử động được rồi, vậy thì phải nhanh chóng đuổi kịp các đội khác.”
Babatou dẩu môi lên nói: “Tôi mặc kệ, thế nào anh cũng phải đợi qua ngày mai mới đi được, mấy bạn kia của anh đều đang giúp chúng tôi sắp xếp cho buổi lễ cơ mà.” Vừa nói cô vừa nhủ thầm: “Bôi cho anh bao nhiêu nước ép với dầu Maja, thế nào cũng không thể chưa có tác dụng gì đã để anh đi rồi chứ.” Nghĩ tới đây, cô không giấu nổi một nụ cười tinh nghịch, làm Trác Mộc Cường Ba lại thêm một phen mù mờ chẳng hiểu ra làm sao.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngày mai chắc không phải ngày thu hoạch mùa màng, vậy là ngày lễ gì nhỉ?”
Babatou nghiêng đầu nói: “Ừ, nói thế nào nhỉ, ngày mai là ngày lễ lớn một năm một lần của chúng tôi, đã lưu truyền từ rất lâu rất lâu rồi, giống như… có lẽ là giống ngày lễ Độc lập của người Mỹ vậy, tôi nghĩ chắc là như thế đấy, có điều theo cách nói của tổ tiên, thì đây là ngày lễ do thần thánh đặt ra đó.”
Trác Mộc Cường Ba không nói lại được Babatou, đành miễn cưỡng gật đầu đáp ứng, gã muốn một mình yên tĩnh để suy nghĩ lại các vấn đề gặp phải trong lần băng rừng này. Babatou cũng bận rộn sắp xếp chuẩn bị cho lễ tế, liền dặn dò Trác Mộc Cường Ba không được đi lung tung, rồi để gã một mình nghỉ ngơi.
Trác Mộc Cường Ba nhớ lại các vấn đề gặp phải trong cuộc hành trình này, không phải là không có chuẩn bị, bọn gã cũng đã điều tra nghiên cứu phạm vi thế lực của quân du kích và bọn buôn lậu ma túy rồi, cũng tìm hiểu tư liệu về các sinh vật nguy hiểm trong rừng rậm châu Mỹ, thế nhưng, khi mấy người bọn gã phải thực sự đối mặt với những nhân tố nguy hiểm đó thì đều tỏ ra luống cuống tay chân cả. Gã nhớ lại những điều Lữ Cánh Nam từng cảnh cáo trong lúc huấn luyện cả bọn, xem ra những lời ấy đích thực là rất chính xác – “Không tự thân trải qua, chỉ biết lý thuyết không thôi, dù là anh có đọc cả ngàn vạn lần thuộc lòng như cháo, thì cũng không bằng vận dụng trong thực tiễn một lần.”
Từ miệng Babatou gã biết được, lãnh địa của người Kukuer nằm giữa Putumayo và Saint Mary, cũng có nghĩa là, bọn gã đã may mắn được người Kukuer đưa đi một đoạn khá dài. Nếu ngày kia mới rời khỏi bộ lạc Kukuer, thời gian đã mất một nửa, hành trình chỉ sợ mới đi được một phần ba, còn lại một nửa thời gian làm sao hoàn thành được hai phần ba hành trình còn lại đây? Không được, lần băng rừng này buộc phải hoàn thành, nhất định phải cho con mụ khó tính Lữ Cánh Nam đó biết được năng lực của bọn gã, dù là bị quân du kích và bọn buôn ma túy bắt tay vây bắt, bọn gã cũng vẫn băng qua được khu rừng rậm nguyên sinh nguy hiểm này. Tới lúc đó, để xem cô ta nói được gì? Như thế thì có thể trực tiếp đi tìm Bạc Ba La thần miếu được rồi. Trên thảo nguyên mênh mông ấy, bóng hình uy phong lẫm lẫm đó, đôi mắt tràn trề bá khí đó, vẫn còn đang đợi chờ gã cơ mà.
(1) Giản: Binh khí cổ, giống như thanh kiếm, nhưng không có mũi nhọn, cũng không có lưỡi hình trụ.
Lễ tế của người Kukuer 
Trác Mộc Cường Ba ngồi trên một bình đài cao hơn mặt đất một chút, lòng hướng về sự thanh thản an nhàn, phảng phất như đã thấy Tử Kỳ Lân ở ngay trước mắt. Ở thôn làng dưới kia, người Kukuer đang ra ra vào vào bận rộn chuẩn bị cho lễ tế. Trên bãi đất trống phía xa xa, đám trẻ con Kukuer đang chơi đùa, bọn chúng dựng mấy tấm bảng gỗ ở đằng xa, có lớn có nhỏ, cắm hờ trên đất bùn, sau đó dùng một cái túi hình vuông bên trong nhét đầy bùn đất, ném vào bảng gỗ, hình như xem độ to nhỏ của bảng gỗ ném trúng để xác định địa vị cao thấp, chơi đùa hết sức vui vẻ.
Trác Mộc Cường Ba nhìn lũ trẻ với ánh mắt đầy ngưỡng mộ, bọn trẻ này có cả nam cả nữ, nhưng trẻ con Kukuer đều không mặc bất cứ quần áo gì, bọn chúng vui vẻ nô đùa ầm ĩ, hình như không hề có phân biệt giới tính. Nhìn lũ trẻ ngây thơ hoạt bát ấy, Trác Mộc Cường Ba không khỏi nghĩ ngợi xa xăm: “Thời viễn cổ, phải chăng con người cũng như vậy? Mặc quần áo chỉ để chống lại cái lạnh, phòng ngừa bị sây sát kể từ khi nào, con người bắt đầu khoác lên cái áo văn minh, có nghi lễ tôn giáo, rồi tỏ ra khinh thường coi rẻ hành vi nguyên thủy này? Bọn họ quên mất bản tính động vật của mình, tự xưng mình là giống loài được thiên thần sủng ái, là tồn tại hoàn toàn khác biệt với những sinh mệnh khác trong tự nhiên, thế nên có quyền mặt sức muốn làm gì thì làm với những sinh vật cấp thấp hơn, đối với tự nhiên không có lợi cho văn minh của họ cũng thỏa ý phá hoại. Nền văn minh như của người Kukuer đây, liệu còn có thể tiếp tục tồn tại trong rừng sâu được bao nhiêu lâu nữa? Bọn họ hoặc là phải hòa nhập vào nền văn minh chung, hoặc là sẽ bị văn minh ấy tiêu diệt, chỉ có hai con đường ấy để lựa chọn mà thôi.” Gã đứng dậy, dõi mắt nhìn khu rừng già tĩnh lặng, ai mà biết được, đằng sau sự tĩnh lặng ấy, ẩn chứa bao nhiêu âm mưu và chém giết. Sinh mệnh tồn tại được là nhờ xâm chiếm, trong thế giới này, có lúc nào mà không diễn ra cảnh thôn tính và chiếm đoạt. Bỗng nhiên, Trác Mộc Cường Ba giật mình ngoảnh đầu lại lần nữa, nhìn lũ trẻ đang chơi đùa kia, trò chơi ấy quả thực quá đỗi quen thuộc, hình như bản thân gã hồi nhỏ cũng chơi rồi thì phải. Đúng hồ nhỏ gã cũng chơi trò này rồi, chỉ có điều dùng bảng đá thay cho bảng gỗ, đá cục thay cho túi vải đổ bùn mà thôi. Đã bao nhiêu năm gã không chơi trò này rồi? Ba mươi năm? Hay là ba mươi lăm năm? Lâu quá rồi, bản thân gã cũng không nhớ nổi nữa.
Ngày hôm sau, là ngày lễ lớn nhất trong năm của người Kukuer, được họ gọi là lễ thần Nadimuke, lễ tế được mở màn trong tiếng ồn ào náo động. Người Kukuer tập trung cả ở bãi đất trống lớn nhất giữa làng, dùng ván gỗ dựng thành một vũ đài. Từ sáng sớm nam nữ già trẻ lớn bé đã đến xung quanh vũ đài, ai nấy đều hết sức dày công tô vẽ trên thân mình, dùng những màu đậm sặc sỡ nhất, những hoạt tiết phức tạp nhất, tộc trưởng và đại tế sư cũng có mặt. Bọn Trác Mộc Cường Ba ra chào tộc trường và đại tế sư, được sắp xếp ngồi vào bàn khách quý. Babatou không ngồi bên cạnh trưởng tộc, mà đặc biệt chạy tới làm thuyết minh cho mấy người đám Trác Mộc Cường Ba.
Đại tế sư là một ông già, tên là Akima, ông vừa cất tiếng nói, người bên dưới vũ đài liền im lặng như tờ. Giọng nói âm sắc cao âm vang khắp không gian rộng lớn, đợi khi đại tế sư nói xong, Babatou mới thì thầm nói cho bọn Trác Mộc Cường Ba biết, đây là đại tế sư đang thay mặt toàn bộ tộc cầu khẩn với thần linh.
Sau khi đại tế sư nói một tràng dài, lễ tế chính thức bắt đầu, người Kukuer dùng các thứ phát ra âm thanh có tiết tấu giống như trống gỗ, xương thú, vỏ quả, đồ gốm, và một loại nhạc khí giống cây sáo bốn lỗ thổi ra tiếng nhạc trầm hùng. Bốn người cao lớn vạm vỡ nâng một người tiến vào, người trong bộ tộc lần lượt cung kính nhường ra một con người, cúi rạp đầu xuống đất, xung quanh còn có rất nhiều người khác vung tay múa chân xoay chuyển nhảy múa, theo vào tận giữa bãi.
Bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy, những người đứng giữa đều đeo mặt nạ khắc bằng gỗ, bên trên tô hai màu đỏ, lam, dáng điệu hung hăng dữ tợn vô cùng. Babatou nói, người đàn ông được khiêng vào kia là Quilan, anh ta là người mang lời đáp của vị thần tối cao truyền đạt lại cho người trong bộ tộc, đây là màn đầu tiên, gọi là nghi thức ban tên của thần.
Người tên là Quilan đó ngồi ở ngôi cao, theo sau có rất nhiều người Kukuer đeo mặt nạ hình các loại động vật khác nhau lục tục kéo nhau vào sân trong nhịp trống, tiếp nhận sự chúc phúc của Quilan. Mỗi người đầu thú đều biểu diễn một điệu múa giữa khoảng đất trước mặt đám người đep mặt nạ khắc gỗ, đại để mô phỏng lại hành vi của loài động vật ấy, biểu hiện các ích lợi mà loài vật đó mang lại cho người Kukuer. Babatou giới thiệu, Quilan đang truyền đạt ý chí của thần tối cao, ban cho các loài động thực vật có ích cho bộ tộc Kukuer danh hiệu của thần, tổng cộng có tới hơn một trăm vị thần bước ra.
Từ lời giới thiệu của Babatou, họ biết được người Kukuer là một dân tộc đa thần, bọn họ tin thờ giáo nghĩa “vạn vật trong trời đất đều có thần linh”, chẳng hạn như vị thần đầu tiên là thần quản việc trồng ngô, gọi là Yumil Kaxob, còn vị thần trông nom cây ca cao thì gọi là Ek Chuah. Trong đó so về thần bí thì không ai hơn được Yinawea, nghe nói, đó là bậc chân thần xuống chốn thế gian, đến cả một trong những vị thần có địa vị cao nhất là Thần Chó cũng phái phân thân xuống bảo vệ Yinawea. Vũ điệu tiếp sau biểu thị thần Yinawea chỉ dẫn tổ tiên người Kukuer đánh thắng chiến trận, xây dựng thành trì, lại dạy họ cách chữa bệnh, chế tạo đồ kim loại, canh nông, chăn nuôi gia súc, văn tự…
Xem mãi xem mãi, Trương Lập không khỏi nghi hoặc thốt: “Quái thật, sao càng xem tôi càng thấy giống lễ ‘nhảy đại thần’ ở Tây Tạng  thế nhỉ?”
Nhạc Dương hỏi: “Nhảy đại thần là cái gì?”
Trương Lập nói: “Cũng kiểu một hoạt động tôn giáo thôi, một điệu múa mà người biểu diễn phải đeo các loại mặt nạ khác nhau, sư đoàn trưởng có dẫn tôi đi xem một lần rồi. Mặt nạ ở Tây Tạng  to hơn, hình vẽ quái dị hơn, hình như là kể một số chuyện giáng yêu trừ ma gì đó. Chẳng biết có phải mấy nền văn minh cổ đại đều có các hoạt động tương tự như thế hay không nhỉ.”
Nhạc Dương nói: “Ừ, chỗ chúng tôi gọi là ‘nhảy nợ’, chỗ chúng tôi cũng có, nghe anh nói vậy, mới thấy giống thật, quái lạ nhỉ?”
Trương Lập nói: “Mấy điệu múa kiểu sùng bái thần thánh này, chắc Trác Mộc Cường Ba hiểu biết hơn phải không, Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia?”
Trác Mộc Cường Ba đang thần người ra, từ lúc điệu múa tế thần bắt đầu, gã đã ngẩn người ra đó rồi. Mặc dù những tấm mặt nạ khắc gỗ kia và mặt nạ của kịch Tây Tạng  có chút khác nhau, nhưng tư thế nhảy múa kia, nội dung điệu múa kia, chẳng phải chính là “khương mẫu (1)” của người Tạng hay sao? Mặc dù không thích đọc các thứ liên quan qua nhiều đến vấn đề tôn giáo, nhưng khương mẫu” và kịch nghệ của người Tạng, đều là những thứ hồi nhỏ Trác Mộc Cường Ba tương đối hứng thú. Bây giờ mặt dù không có âm nhạc hoành tráng như lúc biểu diễn “khương mẫu”, chỉ có tiếng trống và tiếng gõ vào vỏ cứng của quả cây, nhưng động tác nhảy múa của người Kukuer kia, mặt nạ đầu thú mà họ đang đeo trên đầu, thật giống hệt như điệu “khương mẫu” mà gã xem hồi nhỏ. Trong khoảnh khắc đó, điệu múa thần bí mà nguyên thủy ấy, cơ hồ như lại đưa Trác Mộc Cường Ba trở về Tây Tạng, Tây Tạng  thuở gã còn là một đứa trẻ, vùng đất vẫn còn chỉ thuộc về thiên nhiên vĩ đại, vùng đất còn chưa bị văn minh chinh phục!
Trương Lập hỏi mấy câu liền, Trác Mộc Cường Ba mới sực tỉnh, lẩm bẩm nói: “Cái gì? Nhảy thần? Hay lẽ nào, đây chính là ngôn ngữ cơ thể mô phỏng tự nhiên mà con người thời viễn cổ học được trước tiên, thế nên, những vũ điệu từ thời xa xưa lưu truyền lại này, bất kể là chủng tộc gì, khu vực nào, cũng đều có những nét tương tự đến kinh người. Đây là cách lý giải của tôi, các cậu thấy thế nào?”
Trương Lập nói: “Ừm… có lý đấy, tôi tán thành phân tích này của anh.”
Nhạc Dương lại phát biểu ý kiến bất đồng: “Nói như vậy hình như hơi miễn cưỡng thì phải. Tôi nghe nói, người Tạng trước đâu cũng là một dân tộc theo thuyết đa thần, bộ tộc Kukuer cũng có rất nhiều thần linh, lễ nhảy thần của họ lại giống với lễ nhảy thần của Tây Tạng như thế, dựa vào điểm này, có chắc là họ không có quan hệ gì với Tây Tạng  không nhỉ?”
Trương Lập phì cười nói: “Cậu đúng là biết liên tưởng, phải biết rằng bây giờ chúng ta đang ở đâu chứ, là Nam Mỹ cách Trung Quốc Đại lục hai mươi ngàn kilomet đấy. Bộ tộc Kukuer này lạ là thổ dân sống ở đây từ bao đời, lại cư trú ở vị trí địa lý thế này, gần như là không có tiếp xúc với thế giới bên ngoài, cậu nói họ và Tây Tạng  có quan hệ, chứng cứ ở đâu chứ?”
Nhạc Dương xòe hai tay ra, nói: “Bằng trực giác.”
“Phì.” Trương Lập khoát tay một cái, tỏ vẻ coi thường không thèm quan tâm nữa.
Nhưng sau đó Nhạc Dương lại bổ sung: “Từ trước khi chúng ta chuẩn bị xuất phát, bắt đầu là câu nói kỳ quái của giáo quan, sau đó là chúng ta chẳng hiểu sao lại bị quân du kích và bọn buôn ma túy đuổi giết, tiếp theo là gặp được một số thứ hình như có liên quan tới Tây Tạng  ở bộ lạc nguyên thủy này, những điều này làm tôi không sao hiểu nổi. Phía sau những sự việc tưởng chừng như riêng rẽ này, hình như có liên hệ gì đó, trực giác cho tôi biết, chuyến đi này của chúng ta, không đơn giản chỉ là băng qua rừng rậm thôi đâu, nhất định là có thứ gì đó, thứ gì đó mà chúng ta không biết.”
Trác Mộc Cường Ba giật mình, trực giác của Nhạc Dương hoàn toàn không đơn giản chỉ là dựa vào cảm giác để đưa ra kết luận, mà được đưa ra dựa trên một tư duy logic tinh tế tỉ mỉ. Nghe Nhạc Dương nói như vậy, gã cũng sinh lòng hồ nghi, vậy thì, trò chơi gã thấy lũ trẻ chơi hôm qua là thế nào, vùng đất này, lẽ nào thực sự có liên quan tới Tây Tạng?
Babatou trợn tròn mắt, hiếu kỳ nhìn hai người đang lầm rầm nói chuyện, lên tiếng nhắc nhở: “Tập trung xem đi, ít nói thôi, đây là lễ tế quan trọng của người ta đó.”\
Kế đó là Hành trình di cư, một người Kukuer đóng giả làm ông già, trên lưng vác một cái bao to tướng tượng trưng cho trọng lượng nặng nề, bắt đầu đi vòng xung quanh vũ đài, tất cả người Kukuer có mặt đều đứng lên, đi theo sau lưng ông già đó, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đứng lên đi theo, Babatou giải thích, tiết mục này nói lên tổ tiên họ năm xưa vì muốn tìm kiếm vùng đất an cư đã phải bôn ba vô cùng vất vả, tất cả người Kukuer đều sẽ không bao giờ quên, cuộc sống hôm nay là do vô số bậc cha ông đã dùng máu và tuổi xuân đổi lấy cho họ.
Đi quanh bốn vòng, hoạt động mang tính toàn bộ tộc này cũng kết thúc. Phần thứ ba là màn chiến tranh, chỉ thấy hai nhóm người Kukuer đeo các mặt nạ tô màu khác nhau, biểu thị cho hai bộ tộc, mở đầu là người bộ tộc khác đeo mặt nạ màu đen thắng thế, người Kukuer đeo mặt nạ đỏ liên tiếp bại trận rút lui, đúng lúc đó, một người Kukuer đeo mặt nạ tượng trưng cho thầy tế đứng ra, trịnh trọng lấy ra một mảnh vỏ cây tượng trưng cho lời dạy của thần thánh, lớn tiếng đọc vang, trong tiếng đọc đó, một thiếu nữ Kukuer được khiêng ra.

Thiếu nữ Kukuer này toàn thân không một mảnh vải, trên mặt vẽ hoa văn màu đen, được đặt xuống một bàn gỗ tượng trưng cho đàn tế, nét mặt cô có vẻ vô cùng hạnh phúc và vinh hiển. Những người Kukuer đeo mặt nạ đỏ dùng dao vạch ngang vạch dọc bên trên cơ thể thiếu nữ, sau đó đặt đủ loại hoa quả màu đỏ, quả hạch và ngũ cốc lên ngực, hông và tay chân cô, một lúc sau, họ lại lấy các thứ đó xuống, chia cho những người đeo mặt nạ đỏ khác cùng ăn.
Nhạc Dương kinh ngạc thốt: “Người Kukuer cũng biết trò này à, hình như đây là Nyotaimori (2) của người Nhật mà?”
Lần này đến lượt Trương Lập hỏi: “No no cái gì? Nyotaimori? Là cái gì thế?”
Nhạc Dương thè lưỡi nói: “Cái này, cái này… ây da. Đằng nào thì cũng gần giống như anh đang xem đây này.”
Babatou giải thích, những hoa văn màu đen vẽ trên mặt đó tượng trưng cho việc cô gái đã được chọn làm tế phẩm của thần, đó là một việc hết sức vinh hạnh. Tương truyền, rất lâu, rất lâu trước đây, thiếu nữ đó phải hiến lên thần linh cả máu tươi và sinh mạng của chính mình, không biết từ bao giờ, nghi thức này đã dần dần biến hóa thành như ngày hôm nay.
Những người đeo mặt nạ đỏ ăn uống xong liền xông ra tái chiến với người đeo mặt nạ đen, lần này, người Kukuer đeo mặt nạ đỏ như có thần linh phù trợ, uy lực tăng cao, chẳng mấy chốc đã đánh cho lũ người ngoại tộc đeo mặt nạ đen tơi bời hoa lá, bỏ cả vũ khí giáp trụ chạy trối chết.
Nhạc Dương nhìn đoạn biểu diễn đó, bỗng thấy chấn động trong lòng. Điệu múa nguyên thủy vụng về đơn sơ ấy, tiếng nhạc tràn đầy tiết tấu ấy, những hoa quả ngũ cốc màu đỏ mà các chiến sĩ Kukuer đặt trên thân thể thiếu nữ kia trong tiết mục chiến tranh giản hóa ấy, dường như ẩn dụ một điều gì đó. Anh không dám khẳng định, nhưng cứ có cảm giác, ẩn dụ ngầm ấy, làm sống lưng anh lạnh toát.
Còn một người nữa cũng cảm thấy kinh hãi, đó chính là Batang đang ngấm ngầm nắm chặt tay ngồi bên cạnh, chỉ là hình thức của điệu múa không làm anh ta chấn động là mấy, thứ làm Ba Tang thấy bất an và căng thẳng là tiếng trống và tiếng gõ kia, tiết tấu gấp rút tựa hồ như chiến đấu kia mang đến cho anh ta cảm giác sợ hãi. Anh ta biết, có lẽ trong sâu thẳm ký ức, mình đã từng nghe âm thanh đó rồi, nhưng là lúc nào, ở nơi đâu, thì anh ta không muốn và cũng không thể nhớ lại được.
Tiếp theo sau là bắt đầu lễ chúc mừng của toàn bộ tộc, mọi người đều tham gia, bắt đầu nhảy múa hát ca, nam nữ già trẻ cùng cất tiếng hoan ca, Nhạc Dương và Trương Lập không kìm nổi mà cuống quýt nhảy lên vũ đài, hòa vào đám người Kukuer kia. Trác Mộc Cường Ba đứng bên cạnh, cũng cảm nhận được lòng nhiệt tình dào dạt và niềm vui phấn khởi của họ.
Phía xa xa, có mấy thợ săn Kukuer đang lùa một con vật đeo vải đỏ, trông như con dê, chắc có lẽ là lạc đà không bướu châu Mỹ. Người đầu tiên cầm cốc gỗ, dùng cành cây nhúng nước vẩy mở đường, miệng lẩm nhẩm tụng niệm gì đó, một người lực lưỡng mình trần tay cầm vũ khí bằng sắt, cơ hồ như đợi để mổ bụng moi ruột con vật. Trác Mộc Cường Ba hỏi Babatou: “Họ làm gì vậy?”
Babatou mỉm cười: “Phóng sinh, vừa để chúc mừng buổi lễ, vừa chúc mừng anh khỏi bệnh luôn!”
“Ồ,” Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn, cảm thấy cảnh tượng này hết sức quen thuộc, tựa như đã thấy ở đâu rồi vậy. Ai ngờ người đàn ông mình trần kia cầm vũ khí, lại đâm thẳng vào ngực con vật trông giống dê kia một cách hết sức chuẩn xác, máu tươi lập tức phun trào ra, rõ ràng là đã đâm thẳng vào tim con vật rồi. Con vật bị mấy người Kukuer giữ chặt tứ chi, không thể giãy giụa, co rút mấy cái rồi lăn ra chết. Nhìn cảnh tượng đó, Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra, đây hình như là một màn pháp sự, ngày trước ở Tây Tạng , gã đã từng thấy cảnh tượng tương tự như vậy rồi. Lẽ nào, giữa các nền văn inh nguyên thủy, đúng là có sự tương đồng đến mức đáng ngạc nhiên như vậy hay sao? Đây rốt cuộc là chuyện gì? Trác Mộc Cường Ba không kìm được, liền hỏi: “Không phải là phóng sinh à? Sao lại…”
Babatou giải thích: “Phóng sinh theo cách hiểu của chúng tôi, là giải thoát triệt để. Trước tiên là mở ra hố sinh mệnh của con lạc đà không bướu đó, tức là tim, sau đó là cắt đứt động mạch, lột da rồi pha thành miếng nhỏ, đặt vào các đồ đựng khác nhau, dựa theo vị trí trên cơ thể mà phân thành đẳng cấp một cách nghiêm khắc, rồi dùng ba thanh gỗ bắc thảnh giá để nấu lên, đêm nay sẽ có nghi thức mời khách, mọi người sẽ hát bài ca cảm tạ với anh. Anh xem, mọi người đều đến cả rồi kìa.”
Người Kukuer vừa ca vừa múa, vô cùng náo nhiệt, bọn họ mang những món ngon nhất ra khoản đãi ân nhân của thủ lĩnh, dùng những lễ nghi long trọng nhất để chúc phúc cho Trác Mộc Cường Ba.
Tối hôm ấy mọi người vừa uống rượu, vừa nghe nhạc nhảy múa, Nanh Sắc rót mười bát rượu, chìa tay ra với Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba chỉ cười nhạt, mặt không đổi sắc uống một mạch hết cả mười bát rượu ấy, làm Nanh Sắc lấy làm kinh ngạc. Anh ta vốn định nói, mỗi người năm bát, vừa để bày tỏ lòng hữu hảo, đồng thời cũng có ý phân cao thấp thêm lần nữa, chẳng ngờ Trác Mộc Cường Ba lại một mình uống cả mười bát, hơn nữa lại còn điềm nhiên như không, bản lĩnh này, anh ta tự biết là mình không bì nổi. Mà người Kukuer thì cứ ai uống được rượu tức là anh hùng, Trác Mộc Cường Ba tự nhiên lại được vẻ vang thêm lần nữa. Babatou rót rượu cho gã, trong mắt cũng ánh lên ý đồ riêng. Song họ nào có biết, chưa tính đến chuyện Trác Mộc Cường Ba là người tộc Tạng, chỉ riêng việc  gã bao năm lăn lộn trên thương trường thôi, mười bát rượu đó đương nhiên chỉ là chuyện nhỏ. Lát sau, trên bàn tiệc, Nanh Sắc vô cùng thành khẩn mời bọn Trác Mộc Cường Ba ở lại bộ lạc thêm mấy ngày, gọi bọn gã là những vị khách tôn quý nhất của người Kukuer, Babatou cũng tỏ ý đó, nhưng Trác Mộc Cường Ba đều khéo léo khước từ.
“Tại sao lại đi gấp như vậy?” Không chỉ có Babatou ỉu xìu thất vọng, đến cả Trương Lập và Nhạc Dương cũng xị mặt ra.
Trác Mộc Cường Ba thành thực trả lời: “Thực ra mục đích chuyến đi lần này của chúng tôi, chỉ là băng qua khu rừng này, để lấy kinh nghiệm cho đợt huấn luyện sinh tồn nơi hoang dã mà chúng tôi tham gia thôi. Còn việc thành ra nông nỗi này, đến cả chúng tôi cũng chưa từng nghĩ tới. Thời gian định ra ban đầu chỉ có mười ngày, giờ đã qua mất một nửa, chúng tôi lại lỡ mất hai ngày ở đây nữa, giờ vết thương đã lành rồi, chúng tôi cần phải nhanh chóng lên đường mới bổ sung lại được thời gian bị chậm trễ.”
Nhạc Dương đứng bên cạnh nhắc nhở: “Nhưng mà, quân du kích đang rình rập xung quanh lãnh địa của người Kukuer, chỉ đợi chúng ta ra khỏi đây thôi đấy.”
Trương Lập cũng nói: “Đúng đấy, lần này chẳng biết là chúng ta tiếp nhận huấn luyện kiểu gì nữa, bị quân du kích và bọn buôn ma túy bắt tay đuổi đánh, đừng nói là chúng ta, dù là bộ đội đặc chủng chính quy chăng nữa, cũng chưa chắc mà bình yên rút lui được đâu. Muốn băng rừng trong mười ngày hả, tôi thấy chẳng thể nào đâu, hay là chúng ta cứ ở đây, chờ cho hết mười ngày, chắc là họ sẽ tới tìm chúng ta thôi, nếu không thì lúc ấy liên lạc với họ cũng được, coi như chúng ta lại thất bại lần nữa có sao đâu.”
Trác Mộc Cường Ba vừa nhíu mày, Ba Tang đã cười gằn lạnh lẽo: “Hừ, đây mà giống lời của sĩ quan đặc cảnh nói ra à. Mục đích của đợt huấn luyện này, chính là để chúng ta đối mặt với các hoàn cảnh nguy hiểm, cũng bao gồm cả chuyện chiến đấu với kẻ địch, bỏ cuộc như vậy, không chỉ đại diện cho một lần thất bại, mà còn nói lên rằng tất cả các nội dung huấn luyện đều uổng phí cả, rằng chúng ta căn bản không có cơ hội để đối đầu với những thách thức khó hơn nữa, cậu có hiểu không?”
Trương Lập phản bác: “Nhưng giờ cả vũ khí cơ bản chúng ta cũng chẳng có, chúng ta lấy gì để chiến đấu với đám quân du kích đó đây? Lần này bị thương, còn có người Kukuer giúp chúng ta, vậy còn lần sau thì sao? Lần sau anh hay Cường Ba thiếu gia hoặc người khác, bao gồm cả tôi và Nhạc Dương, chúng ta ngã xuống lần nữa, liệu còn may mắn như lần này nữa không?”
Babatou lúng túng nhìn bốn vị khách, sao họ càng nói càng hăng, chừng như sắp đánh nhau tới nơi thế kia. Trác Mộc Cường Ba cất tiếng: “Được rồi, được rồi. Không có gì phải tranh luận nữa, lấy ít thắng nhiều, xoay chuyển tình thế, tay không chiến đấu giữa vòng hỏa lực trùng trùng của kẻ địch, đây cũng là một trong các hạng mục huấn luyện của chúng ta. Trước giờ chúng ta vẫn được huấn luyện kỹ năng sinh tồn nơi hoang dã, chính là phải dựa vào đôi tay này tạo ra hoàn cảnh thích hợp cho mình sinh tồn ở môi trường hoàn toàn xa lạ. Không thể nào vác vũ khí đi khắp nơi được, chúng ta phải dựa vào… cái đầu mình nhiều hơn nữa chứ. Lần này tình thế bất lợi đối với chúng ta, ai bảo chúng ta phải so vũ khí nhiều với quân du kích đâu chứ? The tôi được biết, bộ tộc Kukuer, chẳng phải còn có lối đi sau có thể ra vào hay sao?” Câu cuối cùng, gã cố ý nói bằng tiếng Anh cho Babatou nghe.
Babatou lắp bắp thốt lên: “Cái đó, thì đúng rồi, nhưng mà chỗ ấy, chỗ ấy làm sao đi qua được chứ? Chỗ ấy đã được gọi là cấm địa yên nghỉ của Ah puch đấy.”
Nhạc Dương nói: “Thật sự phải đi đường đó sao? Đấy hình như là khu rừng chết mà hình như cả người Kukuer cũng bị cấm đi vào cơ mà?”
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “So với rừng rậm nguyên sinh có quân du kích vũ trang lập trạm canh, cậu thấy lối nào nguy hiểm hơn?”
Ba Tang nói: “Đều rất nguy hiểm, theo những ghi chép lịch sử của người Kukuer, từ thế kỷ mười sáu, người Tây Ban Nha, nhà khảo cổ người Đức, thám hiểm gia người Mỹ, bao nhiêu người bước vào khu rừng đó mà không một ai trở ra cả, đó à rừng Than Thở, được mệnh danh là mộ phần của các nhà thám hiểm. Lần cuối cùng là vào năm 1965, nhà thám hiểm người Anh Malaer đã đặt dấu chấm hết cho cuộc đời mình ở trong khu rừng ấy.”
Trác Mộc Cường Ba vỗ vỗ lên vai Ba Tang cổ vũ tinh thần: “Chẳng sao cả. Đừng quên bây giờ là thế kỷ hai mốt, giờ đây khoa học kỹ thuật mỗi ngày mỗi khác, người năm một chín sáu mấy có thể không qua được, nhưng cũng không chứng tỏ rằng chúng ta không vượt qua được.”
Ba Tang liếc xéo Trương Lập và Nhạc Dương: “Tôi thì chẳng sao cả.”
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Trương Lập, Trương Lập cúi đầu không nói, lại quay sang nhìn Nhạc Dương, Nhạc Dương nghĩ giây lát, rồi đáp: “Chết thì chết, ai bảo anh là đội trưởng.” Trác Mộc Cường Ba mỉm cười, nói: “Được, cứ quyết định như vậy đi.”
Nanh Sắc nhờ em gái phiên dịch, nói: “Nếu mọi người đã quyết ý muốn đi, chúng tôi cũng không thể miễn cưỡng, đêm nay chúng ta cứ uống cho thoải mái no say đi, thần Chac sẽ bảo vệ cho các bạn.”
“Nào, cạn ly!”

Chú thích:
(1)     Khương mẫu: Một điệu múa truyền thống của người Tạng, các từ “nhảy thần”, “nhảy đại thần”, “nhảy nợ” đều chỉ loại hình nghệ thuật này. Các phái khác nhau của Phật giáo Tạng truyền đều có nội dung “khương mẫu” của riêng mình, tuy có khác nhau, nhưng nội dung chủ yếu đều phản ánh tâm lý sùng bái tự nhiên của người cổ đại.
(2)     Hay còn gọi là body sushi, là cách bày món ăn truyền thống của Nhật Bản, trực tiếp bày đồ ăn lên mình một geisha khỏa thân.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét