Gió đưa gió đẩyVí như bún mắm còng rau đắng ở các huyện Cần Đước và Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An, hoặc ở lưu vực sông Ba Lai thuộc tỉnh Bến Tre. Tuy nhiên, nổi danh nhất Nam Kỳ Lục Tỉnh về mắm cá, mắm cua đủ loại, phải kể ngay tới tỉnh An Giang mà tiêu biểu nhất là miệt Long Xuyên và Châu Đốc. Từ cá lòng tong tới cá linh, cá trèng, cá chốt, cá sặc, cá thiều, hầu như bất kỳ con gì cũng được người dân đất này "mắm hoá" được nhiều kiểu. Chẳng hạn cá lóc đã cho quá nhiều thứ mắm: mắm trứng, mắm ruột, mắm thái y, mắm thái đu đủ, v.v. Mỗi kiểu mắm lại có lắm cách dùng. Riêng bún ăn với mắm lóc, ắt bún mắm trứng và bún mắm ruột được xếp hạng "tuyệt kỹ". Còn bún mắm thái khá phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long thì trước kia từng được thi sĩ Tản Đà khen ngất.
Về rẫy ăn còng
Về bưng ăn cá
Về đồng ăn cua...
Nước kèn là một dạng nước dùng, có nơi gọi nước lèo. Tuỳ quy cách gia giảm nguyên vật liệu, mỗi địa phương tạo nên bún nước lèo theo từng biến thể riêng. Tại thành phố Cần Thơ, tô bún nước lèo có thịt quay, cá lóc, mực tươi, trứng cút. Tại Trà Vinh và Sóc Trăng, bún nước lèo toả mùi mắm bò hóc cực kỳ đặc trưng. Về tỉnh Kiên Giang, dạo chơi thị xã Rạch Giá, thử gọi tô bún nước lèo sẽ thấy nổi bật mấy chú tôm rim thơm phưng phức.
Nếu còn thời gian nán lại trên dải đất phương Nam, bạn sẽ tiếp tục được trực tiếp khảo nếm nhiều món bún khoái khẩu. Nào bún thịt dơi ở Tây Ninh. Nào bún cá đuối ở Vũng Tàu. Nào bún cá bông lau ở Đồng Nai. Nào bún cá kèo ở Long An. Nào bún cá ba sa ở An Giang. Nào bún cà ri ở Bạc Liêu. Ví gặp dịp về Đồng Tháp Mười mùa nước nổi, bạn chớ bỏ sót món bún cá linh, kẻo tiếc. Cá linh béo múp, nấu với me chua cùng các loại bông súng, điên điển, so đũa, rồi xơi nóng sốt với bún, hỏi còn gì khoái bằng?
Vĩ thanh |
Một vòng xuyên
Việt, dẫu chưa đặt chân tới đủ mọi tỉnh thành, hẳn
bạn cũng đồng ý với tôi rằng: từ Bắc vô Nam, bún là
món ăn tuy quen mà lạ. Quen vì hầu như nơi nào cũng dễ kiếm
bún. Lạ, bởi không ngờ bún tồn tại quá nhiều món, vừa
dồi dào về chủng loại, vừa đặc sắc về chất lượng,
vừa đa dạng về phong cách. Lạ hơn nữa là sự hiểu biết
của chúng ta sao ít ỏi, sơ sài, thiếu hệ thống, thậm chí
có lắm điểm chưa chính xác quanh dạng thực phẩm được
xem là "thuần tuý dân tộc" và "đặc biệt Việt Nam".
Tôi đọc một luận
văn cao học về văn hoá ẩm thực được người thực hiện
bảo vệ thành công, đạt điểm xuất sắc, tại Hà Nội năm
1999. Cùng năm 1999, công trình nghiên cứu nọ còn được Hội
Văn nghệ dân gian trao giải thưởng. Tác giả luận văn khẳng
định vầy: "Cũng được làm từ bột gạo nhưng cách làm
bún khác hẳn với phở. Có 2 loại bún: bún đóng thành
bánh nhỏ khi ăn xén miếng và bún sợi uốn thành từng con".
Viết thế, e thiếu sót chăng?
Theo tôi biết, với tiết diện sợi có thể to nhỏ khác nhau, bún tồn tại ít nhất 4 loại thành phẩm hiện vẫn được tiêu thụ khắp chợ cùng quê như sau: 1. Bún mớ, còn gọi bún ngảo hoặc bún ki lô, là bún được sản xuất đại trà để bán theo đơn vị khối lượng. 2. Bún lọn, còn gọi bún khoanh, bún vắt hoặc bún con, là bún được làm thành từng búi tròn như búp len, hoặc xoắn dài hình số 8 tợ cuộn chỉ thêu. 3. Bún lá là bún trải lớp trên lá chuối tươi rồi để phẳng hay cuộn tròn, thường mỗi lá vừa một bát: "Mỗi người một rá, mỗi lá một tô". 4. Bún bánh tương tự bún lá nhưng không có miếng lót, và bún thường được xén thành từng vuông nhỏ; bánh hỏi cũng nằm trong loại này. Đấy mới kể bún tươi, chứ chưa tính bún khô. Nữ phóng viên K. băn khoăn: - Có thể xác định độ tuổi của bún không hở anh? Trong tình hình tư liệu hiện tại, vấn đề ấy chưa dễ giải quyết rốt ráo. Nếu căn cứ vào thực đơn liệt kê trong Essai sur les Tonkinois (Khảo luận về người Bắc Kỳ) do Georges Dumontier công bố trên tờ Revue Indochinoise ra ngày 15-9-1907, có thể biết rằng vào thời điểm đó tại Việt Nam chưa có phở, song đã phổ dụng các món bún như bún bung, bún thang. Lần giở thư tịch xuất hiện sớm hơn, cũng thấy bún. Chẳng hạn trong các từ điển An Nam của Génibrel (1898), Hùinh-Tịnh Paulus Của (1895), J. Bonet (1849), J. L. Tabert (1838). Đáng chú ý là giáo sĩ Alexandre de Rhodes biên soạn Ditionarium anamitium, lusitanium et latinum (Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh), ấn hành lần đầu tại Roma năm 1651, cũng ghi nhận từ "bún". Như vậy, từ thế kỷ XVII, đời vua Lê Thần Tông (16), bún đã quen thuộc ở nước nhà. Hy vọng chúng ta sẽ phát hiện thêm những chứng cứ khả tín để biết chắc rằng bún từng thọ rất lâu trước đó nữa. - Nói đầy đủ và đích xác thì bún là gì nào? Một du khách ngoại quốc vụt hỏi như thế, khiến K. đâm lúng túng. Cũng phải thôi, vì không ít chuyên gia từ điển học cũng gặp trúc trắc khi xử lý mục từ "bún". Đại Nam quấc âm tự vị(17) của Hùinh-Tịnh Paulus Của cắt nghĩa từ "bún" thế này: "Bột sợi, bột làm ra sợi". Nếu căn cứ theo đó, khách ngoại quốc làm sao phân biệt nổi bún với miến, với mì, với nui, với spaghetti? Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Hoàng Phê chủ biên (18), đưa định nghĩa về bún có thể chấp nhận được: "Sợi tròn, dài, làm bằng bột gạo tẻ luộc chín, dùng làm món ăn". Vậy mà chính từ điển này lại nhầm lẫn khi giải thích từ "bún Tàu" như sau: "Miến làm bằng bột đậu xanh". Thực tế, bà con Minh Hương ở thị trấn An Thái, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, sản xuất loại bánh sợi bằng bột đậu xanh (có trường hợp còn làm bằng bột đậu đen hoặc bột đậu trắng) và gọi đó là bún song thần - nguyên ngữ là "song thằng" tức sợi đôi, sợi kép. Còn bún Tàu vẫn được nhiều người hiểu là miến nhỏ sợi, thường làm bằng bột dong riềng, tuy gọi là bún mà chẳng phải... bún. Hỡi ôi! Ngay những món bún cùng tên, song ba miền đất nước cũng chế biến nên bao nét khác nhau tạo thành sự phong phú cho nghệ thuật ẩm thực, Chẳng hạn bún thịt nướng Hà Nội, Huế, Sài Gòn đều ngon lành, song chẳng giống nhau từ miếng thịt đến nước chấm và rau sống phụ trợ. Hoặc bún chả cá Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Rang, Vũng Tàu, Rạch Giá, mỗi nơi có những điểm riêng biệt về cách xử lý cá, cách nấu nước lèo, v.v. Cô em K. lại lúng liếng cười: - Theo anh đi du lịch ẩm thực chuyên về bún, em càng ngẫm ra chuyện "tự hiểu" là điều chẳng dễ. Bây giờ, bưng bát bún, em không những thưởng thức cái ngon của món ăn, mà còn thấy ẩn tàng cả bề dày lịch sử dân tộc, thấy lấp lánh tài hoa khắp ba miền đất nước, anh Phanxipăng à. |
Đã
đăng Tài Hoa Trẻ 167 ~ 169 (2001)
Đăng lại trên Khoa Học & Phát Triển 82 (10-2010) |
***
|
|
Ảnh: Phanxipăng |
Ảnh: Phanxipăng |
***
|
|
Ảnh: Phanxipăng |
Ảnh: Phanxipăng |
***
|
|
Ảnh: Phanxipăng |
Ảnh: Phanxipăng |
***
|
|
Ảnh: Phanxipăng |
Ảnh: Phanxipăng |
***
|
|
Ảnh: Phanxipăng |
Ảnh: Phanxipăng |
***
|
|
Ảnh: Suy Min |
Ảnh: Phanxipăng |
***
|
|
Ảnh: Phanxipăng |
Ảnh: Suy Min |
***
|
|
Ảnh: Phanxipăng |
Phanxipăng |
***
|
|
Ảnh: Phanxipăng |
Ảnh: Suy Min |
***
|
|
Ảnh: Phanxipăng |
Ảnh: Phanxipăng Sưu tầm |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét