Translate

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ - I

Những trống loại 1 đã thấy khá nhiều tại Thanh Hoá để có thể đoán chắc rằng Thanh Hoá là nới sản xuất và những trống cùng loại thấy ở các nơi khác ( Hà Đông, Hà Nam, Hà Nội, Hải Phòng, Hoà Bình, Cao Bằng, Lào Cai, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Nghệ An) là những trống được kịp thời giấu đi. Đó là những trống có thể đoán được là của các tù trưởng đã thuê lò Thanh Hoá đúc. Đó là những vật biểu tượng quyền uy của tù trưởng.
 Trong những di vật quý giá này , trống thuộc loại vừa kể, thuộc loại đẹp nhất, vẫn là trống tìm thấy năm 1902 ở Ngọc Lũ ( tỉnh Hà Nam ) hiện để tại viện bảo tàng lịch sử ở Hà Nội.
Các nhà khảo cổ có tinh thần khoa học mới, khi nghiên cứu về những di vật ấy chắc sẽ hứa hẹn nhiều khám phá về kỹ thuật, niên đại, tương quan tạo tác, tương quan sản xuất, xã hội, cả về trình độ tiến hoá mỹ thuật của dân tộc.
Chúng tôi nghiên cứu lịch sử, không bị ước thức bởi những mô thức, nên tự thấy được rộng tay đóng góp một phần tìm tòi thuộc về nội dung những hình vẽ. Tất nhiên không thiếu gì nhà khoa học mới mỉm cười cho là tưởng tượng, nhưng tìm hiểu ý nghĩa của một hình vẽ củ không có lời chú giải của tác giả bên cạnh, mà chẳng dùng tưởng tượng thì dùng cái gì ? Người ta đã tưởng tượng đây là bộ lạc thờ thần mặt trời, mặt trăng, hay thờ chim vật tổ. Nhưng có tinh thần khoa học nào cấm người khác không được có tưởng tượng khác, nhất là khi tưởng tượng này có thể hữu lý, dễ đúng hơn ? Huống chi chúng tôi có ở đây khá đủ những căn cứ của nền cổ học phương Đông mà dường như nhiều nhà khoa học mới vì lẽ nào đó không để ý tới khiến sự nhìn vào di sản văn hoá cũ ở Đông phương, mà thuần bắng con mắt Tây phương, thì có thể sẽ quên những khía cạnh quan trọng ở nột dung chăng ?
Chính vì ngại chuyện ấy mà chúng tôi có bản viết này, riêng đề cập tới hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, ước mong cho rằng nó sẽ là chìa khoá để mở nhiều những kho tàng khác có thể có trên những mặt trống khác. Chúng tôi không nói tới hình vẽ ở tang trống vì nó có giá trị trang trí nhiều hơn là thực tiễn.

Trống đồng Ngọc Lũ
Kể từ ngày cái trống này được moi ra khỏi chổ chôn giấu đến nay, những hình vẽ trên mặt trồng vẫn là một thách đố đối với các nhà khảo cổ học, cũng như với nhân dân Việt Nam muốn tìm hiểu nó định nói cái gì ?

Chúng tôi rất kính phục và cảm ơn các nhà khảo cổ Tây phương nhất là ở trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, để rất nhiều năm tháng và tâm tư cùng đem những sử học, mày mò, khảo sát, suy luận và giả thiết. Các vị ấy đã viết nên cả những bộ sách lớn khiến trống đồng trở thành một vật nổi tiếng trên Thế Giới. Nhờ các vị mà rất đông những nhà học giả của nước chúng tôi khi đề cập đến di sản văn hoá này cũng đã khiến được cho quần chúng bình dân biết đại khái rằng ngày xưa các bộ lạc của tổ tiên mình thờ vật tổ là con chinh tên là Lạc, thờ thần mặt trời ( vì hình vẽ ở trung tâm mặt trời loé ra nhiều tia sáng),lại có những hình người đội mũ cánh chim, mặc áo xòe ra như lông cánh chim, rồi có cả mắt chim ở đầu mũi thuyền, đầu mũi tên, trên mái chèo, bánh lái thuyền, …

Nhiều vị xác quyết rằng bộ lạc cổ xưa này sau đó di cư đến các hải đảo Thái Bình Dương, nên có liên hệ bà con với bộ lạc Dayak ở Bornéo, còn có hình thuyền giống như trên trống dùng vào dịp tang lễ. Nhiều vị khác còn thêm tại miền Bắc có bộ lạc hay hoá trang cái đầu thành đầu chim trong lễ nghi cúng kiếng theo điệu trống đồng.

Trống vốn không biết nói, cũng không biết thế nào mà dám cãi. Thôi thà tuỳ người ta nhớ được một tiền tích nào ở đâu thì sẵn ghép cho nó những nội dung khác nhau. Ra sao nó cũng phải chịu.

Chúng tôi chỉ trộm nghĩ rằng, trống đồng xưa chỉ tù trưởng mới được phép có, nó như một ấn ngọc tỷ, biểu tượng uy quyền của vị Hoàng Đế, người ta chả nên lầm mà hiểu nó như một sản phẩm công nghệ để trao đổi trong phiên chợ, và hiểu những hình vẽ là để cho vui mắt người mua dùng.

Việc cần là tìm cái ý tiên khởi của người xưa gởi gắm vào hình vẽ và nếu có thể được thì tìm hiểu xem hình vẽ đó để làm gì ?

Tạm coi là hình mặt trời ở giữa mặt trống, nhưng sao lại 14 tia sáng mà không hơn, không kém ?

Sao lại chỉ có 18 con chim ?

Sao lại có 6 con gà, 10 con hươu ? Rồi 8 con gà 10 con hươu nữa ?

Nếu làm cho đẹp sao không làm đều nhau ?

Có lẽ chăng đây là cái trống của người tù trưởng quản lãnh 14 vị tù trưởng nhỏ khác mà tiếng trống đánh lên thì 14 nơi kia đều phải nghe ?

Hoặc đây là một đám rước và người ta hoá trang chăng ? Nhưng đâu là đầu, đâu là cuối đám rước ? Và sao lại có người giã gạo ? Người ngồi nhà sàn ?

Tài ba và nhiệm vụ của tù trưởng 

Một tù trưởng hẳn phải có nhiều đám dân đến hỏi những việc thuộc đời sống hằng ngày của họ. Ông phải có hiểu biết gì hơn họ và chỉ bảo họ ra sao ?

Chẳng hạn, có đám hỏi đêm nay có thể đi săn được không ?

Liệu có trăng không ? Trăng lên vào chặp tối hay gần sáng ?

Ngày mai nước có lên không ? Có thể cho thuyền ra khơi đánh cá được không ?

Mùa này nên ở nhà hay đi hái trái ?

Đã nên giả gạo để ủ làm rượu dùng vào ngày lễ nào đó chưa ?

Ông tù trưởng phải có nhiệm vụ biết ngày giờ, sáng tối, trăng tròn trăng khuyết, tiết trời nóng lạnh, mưa gió, con nước, tình hình muôn thú, cũng như những dịp lễ lạt phải chuẩn bị trước. Sự tích lũy kinh nghiệm của nhiều đời tù trưởng đã phải được ghi lại, cũng như phải có gì để mà ghi lại, để mà làm việc và hướng dẫn quần chúng.

Một quyển lịch cổ xưa

Vì các lý lẽ trên, vị tù trưởng phải có một quyển lịch năm, tính theo tuần trăng, theo mùa màng khí tiết, đặt ngay cạnh mình, để dân hỏi gì là tra ngay ra được câu trả lời.

Lịch ấy vạch trên đồ đất nung thì dể vỡ, dễ mòn, không truyền được nhiều đời. Vạch trên mặt trống đồng thì thật là tiện, gọn, đúng với vật biểu tượng uy quyền của mình cùng cả dòng tù trưởng.

Vậy những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là một quyển Âm Lịch, có tháng đủ, tháng thiếu, có đêm trăng tròn, trăng khuyết, hay không có trăng, lại có cả năm nhuận và chu kỳ 18 năm để tính tháng dư, cũng như có những chỉ vạch về 4 mùa trong năm.

Nếu vậy thì không những không có gì là mê tính ( thờ chim, vật tổ mặt trời, mặt trăng, ca vũ để cầu thần linh,…) mà có vẻ như người xưa còn có tinh thần thực tế, hợp lý, khoa học, chính xác, chưa biết chừng người đời nay còn phải giật mình là đằng khác nữa.

Cách đếm ngày và đêm 

Năm âm lịch theo kinh nghiệm nhiều đời nghiên cứu mặt trăng, vẫn được tính là 354 ngày ( dương lịch tính 365 ngày ) chia ra cho 12 tháng, thì mỗi tháng 29 ngày gọi là tháng thiếu và có dư 6 ngày để thêm vào cho 6 tháng khác gọi là tháng đủ.

Vậy một năm âm lịch có 6 tháng 29 ngày và 6 tháng 30 ngày.

Cứ năm năm lại có hai năm mỗi năm dư 1 tháng, gọi là năm dư tháng nhuận.

Và cứ sau năm thứ 18, qua năm thứ 19 gọi là 1 chương thì lại không tính là năm dư, chỉ có 12 tháng thôi, kể như là năm thường vậy.

Do đó, vòng hình vẽ 18 con chim mỏ dài cánh lớn ở ngoài cùng là hình vẽ một chu kỳ 18 năm, mỗi con chim ấy là 1 năm.

Vòng hình vẽ thứ nhất ở trong cùng gần trung tâm có 6 người trang phục kỳ dị mỗi bên vòng tròn đối nhau, đã không phải người Giao Chỉ ăn bận như thế, mà đó là những vị thần cai quản mỗi vị 1 tháng, trong 6 tháng đầu ở 1 bên và 6 tháng cuối mỗi năm. Thêm có một hình người thấp bé hơn cạnh 6 người ở một bên, đó là để ghi tháng nhuận của năm dư.

Vòng hình vẽ thứ nhì ở giữa, có 6 con gà, 10 con hươu, rồi lại 8 con gà, 10 con hươu, ấy là hình vẽ những con vật tương trưng. Gà chỉ đi ăn vào ban ngày, Hươu đi ăn vào đêm trăng sáng. Có 6 đêm vào đầu tháng từ 1 đến 6 không trăng; và 8 đêm vào cuối tháng từ 22 đến 30 cũng không trăng. Những đêm ấy không đi săn thú được. Và sau đó, khi có trăng thì có thể tổ chức đi săn đêm.

Theo kinh nghiệm cũ truyền mãi tới ngày nay, có 6 đêm đầu tháng không trăng, người ta tính :

Mồng 1 lưỡi trâu - Mồng 2 lưỡi gà - Mồng 3 lưỡi liềm - Mồng 4 câu liêm - Mồng 5 liềm vật - Mồng 6 phạt cỏ - Mồng 7 tỏ trăng, là bắt đầu tuần trăng sáng.

Tuần trăng sáng kia dài đến đúng đêm 10 rằm trăng náu (đáo : đủ ). Mười sáu trăng treo ( chiêu : sáng sủa ). Mười bảy trải giường chiếu ( rủ giường chiếu ). Mười tám giương cạm ( trương : xếp đặt, chẩm : cái gối ). Mười chín bịn rịn (bị : áo ngủ đắp trùm, rị : tối ). Hai mươi giấc tốt ( ngủ ngon ). Hai mốt nữa đêm ( mới có trăng ).

Từ 22 lại vào tuần không trăng, ( 22 – 30 ) nên không cần tính nữa.

Cái hoa 14 cánh ở trung tâm không phải là hình mặt trăng hay mặt trời của bộ lạc thờ những tinh thể ấy, đó là hình vẽ để đếm đêm và ngày.

Đêm là khoảng cách nằm giữa mỗi 2 ngày, trong cả tháng 29 ngày. Tổng số khoảng cách ấy là 28 nếu là tháng thiếu, 29 nếu là tháng đủ.

Cái hoa 14 cánh, đếm hết vòng thứ nhất từ 1 đến đêm trăng tròn (15, đêm rằm ) và đếm vòng thứ 2 nữa, từ 16, thì lại trở về đêm không trăng (đêm 30).

Bắt đầu đếm từ đâu ?

Tìm ra đầu mối là vấn đề quan trọng. Chỉ có 1 điểm trong cả vòng tròn để dùng khởi đầu cuộc đếm. Ấy là điểm chỉ vào đêm 30 không trăng.

Ta biết rằng vào đầu tháng có 6 đêm không trăng.

Vậy điểm khởi đầu để xem lịch phải nằm ở đuôi con gà cuối cùng trong dòng 6 con.


Thực hành việc ghi lịch và xem lịch : 

Người ta có thể dùng một chất màu (son phấn, mực đen) mà bôi lên hình của mỗi cánh hoa khi có 1 đêm qua. Chẳng hạn đến cánh thứ tư mà vòng ngoài chưa có gì cả thì đó là đêm mồng 4 tháng giêng năm đầu của chu kỳ. Nếu vòng ngoài đã có 3 hình người tượng trưng cho tháng và vòng ngoài cũng đã có 6 con chim bị bôi rồi thì đó là đêm mồng 4 tháng tư năm thứ 7 của chu kỳ.

Người tù trưởng có thể lấy năm đầu của mình chấp chưởng quyền lãnh đạo làm năm đầu chu kỳ. Khi nhìn vào lịch thì biết rõ mình đã cai trị được bao nhiêu năm.

Con vật nhỏ theo sau mỗi con CHIM THỜI GIAN của một năm là để dành ghi năm nhuận 13 tháng. Cứ 5 năm thì bôi màu đánh dấu vào hai con vật nhỏ ấy, để hết tháng sáu nữa mới bôi vào tháng 6.

( Việc làm có vẻ mất công. Như ngày nay, mỗi ngày người ta cũng phải bóc một tờ lịch, và nếu lịch tháng thì mỗi ngày cũng phải lấy bút đánh dấu để hết tháng thì xé một tờ ).

Quyển Âm Lịch dùng cho nhiều năm

Như vậy, ta thấy quyển lịch này dùng được cho nhiều năm và chúng tôi nghĩ rằng ngay cả bây giờ vẫn dùng được, để có thể mệnh danh là Nguyệt Lịch Vạn Niên. Làm sao biết chính xác năm nào nhuận vào tháng nào ?

Điều ấy chưa có tài liệu nào khác để hiểu thêm. Có lẽ người xưa đã dùng lối chiêm nghiệm về khí tiết trong nhiều năm, nhiều chu kỳ, thấy có diễn biến trở lại như cũ mà bồi bổ dần cho sự hiểu biết chăng ?

Biết đúng tháng nào đủ, thiếu , hoặc hai ba tháng đủ liền, hai ba tháng thiếu liền, và nhất định vào đâu trong năm, tất cũng do chiêm nghiệm. Hoặc còn một dụng cụ để ghi nhớ nào khác, trên một mặt trống khác, hay một vật nào khác mà ngày nay chưa tìm ra ?

Điều ta có thể biết chắc được là người xưa đã quan sát tinh tế rồi chiêm nghiệm trước, sau mới tính toán, để lại chiêm nghiệm nữa, mà kiểm điểm những tính toán kia.

Sách Xuân Thu Tả Truyện có chép rằng : mùa đông tháng 12 (Năm Ai Công thứ XII) có châu chấu phá hoại. Quý Tôn hỏi Khổng Tử, ông đáp : “Tôi nghe rằng: chiều mà không thấy sao hoả nữa thì côn trùng ẩn phục hết. Nay sao hoả vẫn còn thấy chuyển vận về phía Tây, chắc các nhà làm lịch đã lầm”. Ý nói theo lịch Trung Hoa là tháng chạp. Đáng lý ra thì sao hoả không còn thấy được vào buổi chiều. Sâu bọ phải ẩn phục hết rồi vì lạnh. Thế mà nay sao hoả vẫn còn thấy hiện, côn trùng còn phá phách, như vậy các nhà làm lịch Trung Hoa thời ấy đã lầm, đáng lẽ phải có tháng nhuận nữa mới phải.

Đó chính là thể thức và phương pháp làm lịch chung cho cả mọi giống dân trên thế giới, mà quyển lịch trên mặt trống đồng Ngọc Lũ đã có sẵn những gì để phòng hờ chỗ ghi năm dư tháng nhuận, thì trước khi nó hiện ra là một bảng lập thành, dòng dõi các tù trưởng Giao Chỉ không phải chỉ chừng năm ba thế hệ. Chúng ta có thể đoán không sợ sai lầm là ít nhất cũng phải mươi cái chu kỳ 180 năm (tức ít nhất là 1800 năm cho đến khi cái trống Ngọc Lũ đầu tiên được đúc), còn hơn nữa thì không dám biết.

Những kết quả chiêm tinh lịch số riêng

Vâng, riêng của dòng tù trưởng Giao Chỉ. Đây là những bằng chứng hùng hồn nhất cho biết đích xác hồi đầu lịch sử, giống dân Giao Chỉ ở gốc tổ sống mà chẳng dính dáng gì về văn hoá với giống người Trung Hoa.

Người Trung Hoa cho rằng nền thiên văn của họ bắt đầu với Phục Hi, khoảng 2850 năm trước kỷ nguyên Tây lịch. Đến đời Hoàng Đế ( 2657 – 2557 ) ta đã thấy họ dùng cách tính năm tháng theo chu kỳ lục thập hoa giáp ( chu kỳ 12 năm ). Hán thư Nghệ Văn Chí có ghi : “Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập quyển”. Cháu ba đời Hoàng Đế là Chuyên Húc (2545 – 2485 ) rất có nhiều về thiên văn. Trúc Thư Ký Niên viết : Sau khi lên ngôi được 13 năm, vua bắt đầu làm lịch số, và tính toán vị trí các sao trên trời. Xuân Thu Tả Truyện cũng ghi nhận rằng đời vua Chuyên Húc đã có những quan coi về lịch, về nhị phân (xuân phân, thu phân) và nhị chí (đông chí, hạ chí) và đoán được các ngày đầu mùa ( Xuân Thu Chiêu Công năm XVII ). Đời vua Nghiêu ( 2356-2255) đã biết vị trí nhị thập bát tú, nhật nguyệt ngũ tinh, đã định năm là 365 ngày, đã biết đặt tháng nhuận.

Riêng dòng tù trưởng Giao Chỉ, một mình hùng cứ một cõi trời nam, thì tính năm 354 ngày với 6 tháng đủ, 6 tháng thiếu trong một năm, cho đúng với tuần trăng và khí tiết, mà đến ngày nay, âm lịch từ Trung Hoa in đem qua bán, cũng tính theo như thế. Nếu cần tính sổ vay mượn, thì có lẽ người Trung Hoa đã thiếu nợ của ta vậy.

Lịch in vào sách và lịch khắc trên mặt trống

“Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập tam quyển”. Thật đã rõ: người Trung Hoa in lịch trên sách và lịch 365 ngày. Người giao Chỉ khắc lịch vào mặt trống đồng và lịch 354 ngày. Người Trung Hoa dùng Thiên Can, Địa Chi tính năm tháng ngày theo chu kỳ thập lục hoa giáp. Người Giao Chỉ tính chu kỳ 18 năm và những bội số của 18 ấy. Tỉ như 180 là gồm 3 lần lục thập hoa giáp (180=3x60) . Kết quả vẫn như nhau vậy .

Riêng việc có một sáng kiến sắp xếp ngày tháng năm của quyển lịch cho tiện dụng hàng vạn năm thì đã thật là một sáng chế không kém cõi về khoa học, hợp lý, nhất là khi chúng ta được biết chưa thấy dẫn nước nào có một quyển lịch như vậy (Âm lịch hay Dương lịch ).

Đi sâu vào chi tiết. 
Hướng tiến chung :

Tất cả các hình vẽ chim, gà, hươu, người, đều tiến theo một hướng trong vòng tròn, từ trái qua phải, thuận theo chiều quay của Trái Đất đối với người quan sát, day mặt về hướng Bắc ( ngược chiều quay của kim đồng hồ ). Bởi lịch này là nguyệt lịch nên đặt tất cả theo chiều quay chung ấy.



Phương tí ngọ :

Đặt đúng khởi điểm của lịch ở cuối con gà trong dòng 6 con như đã nói, thì phương tí ngọ (bắc nam) chếch qua tia cuối bên tay trái của 14 tia ở trung tâm. Ấy là tiết đông chí nhất dương sinh, ngày đầu năm thiến văn, các loại vật đông miên bừng tỉnh dậy và mầm của cây cối cũng bắt đầu đội vỏ đâm lên.Ta gặp trên đường thẳng vạch từ trung tâm ra vòng thứ nhất, hình vẽ của những gì như người ở trong nhà sàn vừa tỉnh dậy.

Còn kéo thẳng đường ấy ngược lên phái Nam , là thái dương cư ngọ, ấy là ngày hạ chí, trời nóng nực. Ta gặp hình vẽ của những gì như người làm việc đồng án vắng nhà.

Phương mẹo dậu : 

Từ Tây sang Đông hới chếch lên, không vuông góc với Nam Bắc, ta gặp ở 2 đầu trên đường thẳng vạch tại vòng tròn thứ nhất, hai cái hình giống nhau, cùng khum tròn với 2 cột 2 bên, ở giữa một bệ như bệ thờ. Ấy là Xuân phân, Thu phân, khí trời mát mẻ, mọi người phải lo làm việc tế lễ.

Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch.

(Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau).

Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch.
Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao Bắt Đẩu :

Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng.

Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ.

Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền.
(Hình thuyền trên thân trống đồng Ngọc Lũ.)
Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của kim đồng hồ. Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng Tây.

Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng được ước định lại như sau:

Vì vậy, trên mặt trống đồng ta thấy :


Vấn đề hướng Đông Tây, theo sử gia Hy Lạp Hérodote, ở thế kỷ V trước CN, khi tiếp xúc với các tu sĩ Ai Cập, ông được các vị này cho biết trải qua 341 thế hệ thiên vương Ai Cập ( tính ra 11 ngàn năm ) đã có 4 lần mặt trời mọc và lặn ở phương khác nhau. 2 lần nó đã mọc ở phía nó lặn bây giờ và 2 lần nó đã lặn ớ phía nó mọc bây giờ.
Nhà học giả Nga Immanuel Velikovsky khi dẫn điều ấy trong sách “Tinh Cầu va chạm” ( Modes en collision ) còn nhắc thêm nhiều cổ tự Ai Cập khắc trên lá giấy papyrus nói về sự lộn ngược của Trái Đất hồi 2 thiên niên kỷ trước Tây lịch, không thể cho là mơ hồ được những lời như : Harakhte ( mặt trời chiều ) mọc ở phương Tây. Ông lại dẫn thêm những chữ khắc trong các kim tự tháp : “Mặt Trời đã thôi ở phương Tây và bắt đầu chói sáng ở phương Đông”. Sau khi có hiện tượng đảo ngược phương hướng ấy, thì danh từ phương Tây và mặt trời mọc đã không còn đồng nghĩa với nhau nữa, mà người đời đã phải nói thêm để xác định : l’Quest, qui est à l’Occident (phương Tây là ở về phương Tây).

Theo luận cứ của tác giả thì đó là kết quả của hiện tượng lộn ngược trục xoay của Trái Đất. Chúng tôi chưa dám tin là đúng như vậy, bởi vì đúng như vậy thì kể từ ngày đổi phương hướng Đông Tây ấy, mà chữ khắc trong kim tự tháp ghi nhận, và đây mặt trống vẽ ra khi chưa đổi phương hướng, người ta tất phải chiếu theo để ước định rằng quan niệm và chiêm nghiệm này có tuổi thọ xưa hơn quan niệm và chiêm nghiệm ghi trong kim tự tháp.

Tác giả: Lê Văn Siêu
Nguồn: Việt Nam Văn Minh Sử

Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013

ĐỒ GỐM THỜI LÝ TRẦN, THỜI THĂNG HOA

Bùi Ngọc Tuấn
Tước gốm men nâu, thời Trần cao 10cm.
Sau khi Ngô Quyền dựng lại nền độc lập, nhà Ðinh, nhà Tiền Lê bắt đầu mở mang đất nước, nhưng phải đến đời nhà Lý, văn hóa Việt Nam mới phát triển rực rỡ. Ðời Lý, đời Trần là giai đoạn thăng hoa của đồ gốm Việt Nam. Khi Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) vào Thăng Long, xây dựng thành trì, cung điện, tôn sùng Phật giáo thì một nhu cầu to lớn về đồ gốm diễn ra. Theo gót dời đô, những nhà làm đồ gốm ở khắp nơi hoặc dọn về gần kinh thành, hoặc tăng mức sản xuất. Dưới thời đó, với tinh thần dân tộc mạnh mẽ, với tinh thần Phật Giáo ảnh hưởng tràn ngập xã hội, nhu cầu xây dựng cung thành, nhu cầu của giới trưởng giả, cuả các đình chùa được xây dựng tăng lên bội phần. Từ đó tài năng, kỹ thuật, nghệ thuật của những lò gốm phát triển, đưa đến một cuộc bừng nở rực rỡ của đồ gốm Việt Nam. Trong quyết tâm bảo vệ văn hóa dân tộc, họ đã phát triển đồ gốm thành một nghệ thuật tạo hình Việt Nam, riêng biệt, rực rỡ, phong phú, cũng như nền văn hóa Hoà Bình, Phùng Nguyên, Bắc Sơn, Ðông Sơn trước đó. Người thợ đồ gốm Việt Nam đã tạo nên rất những dáng kiểu, sắc men và hoa văn rất Việt Nam, thể hiện tinh thần sáng tạo phóng túng và phong phú. Họ tạo nên những dáng kiểu, nước men và hoa văn đa diện, không thể thấy trong văn hóa Trung Hoa vốn nhiều khuôn khổ gò bó. Vì thế, cho dù họ có học được một vài kỹ thuật nghề nghiệp, nhưng phần nghệ thuật đã gần như không mấy chịu ảnh hưởng của nghệ thuật đồ gốm Trung Hoa. Trong khung cảnh hứng khởi của nền tự chủ vừa tìm lại được, cùng các nhu cầu xây dựng thành quách, cung điện, đình chùa, ảnh hưởng mạnh của Phật Giáo, Lão Giáo và truyền thống văn minh Việt đã hội nhập trong các tô, chén đĩa, bình Việt Nam. Sự khởi đầu đơn giản, với các món đồ còn ảnh hưởng đồ gốm nhà Tống, bỗng vươn mạnh lên qua bàn tay sáng tạo của người thợ Việt Nam thành một nền văn minh rực rỡ, mà ngày hôm nay, khi nâng niu những món đồ tuyệt đẹp ấy trên tay, chúng ta còn cảm thấy bừng bừng sức sống mãnh liệt của dân Việt, như nhìn thấy cái phóng túng của bàn tay nghệ sĩ trên bàn xoay, hay trên nét vẽ nhanh, thoát như gió thổi, nước trôi dưới nước men mỏng. Người nghệ sĩ Trung Hoa vẽ đồ gốm một cách cẩn trọng, tỉ mỉ. Họ vẽ như người quan sát thiên nhiên một cách khách quan, tuân theo những quy luật nhất định, đường thẳng như kẻ thước, đường cong như cánh cung, bên phải bên trái đối xứng, bên trên bên dưới đều đặn. Ðề tài rất tôn nghiêm: Long Ly Quy Phụng. Họ vẽ như cử hành một nghi lễ. Trong khi đó, người nghệ sĩ Việt Nam vẽ tự nhiên, vẽ thoải mái, vẽ như chơi, như thả diều, như đánh đáo, vẽ tự nhiên như ăn như ngủ; Ðề tài là hoa, là lá, là chim, là thú, là côn trùng, là thảo mộc của đồng ruộng, thôn quê kề cận bên mình, như chim sẻ, như tôm, như cua, chuồn chuồn, cóc nhái. Tại sao rồng cứ phải bay với mây không thôi, rồng với hoa càng đẹp, càng thân cận chứ sao?! Vậy thì ta cứ bỏ mặc cái luật lệ của anh Tàu, ta vẽ rồng hoa chung nhau cho nó thích. Anh Tàu ảnh không có voi thì kệ ảnh, xứ mình nhiều voi thì mình làm bình vòi voi chơi; mình thích bình con rồng, thì mình làm bình con rồng theo kiểu mình; mình thương con gà cục tác lá chanh, thì mình làm cái ấm con gà cho vui. Ngồi nặn tô, thấy mấy con cóc nhảy quanh nhà, thì ta làm cái ấm hình con cóc, rồi tô cho nó một nước men xanh chơi, chao ơi là thú vị. Họ vẽ đời sống nông thôn của họ lên các món đồ gốm đó. Họ và đề tài của họ là một; Con chim sẻ, con cá bống, con chích chòe sống trong người họ rồi tràn ra nét bút tự nhiên, sống động, không cố gắng. Ôi! Khi cầm trên tay, làm sao mà ta không cảm thấy được cái khoái trá của người nghệ sĩ đầu đời Lý khi họ làm cái bình rượu nhỏ với dạng con tôm càng cưỡi trên lưng con cá chép. Con cháu Khổng Tử nghiêm túc với Kinh Lễ, Kinh Thư, nghe cái chuyện đó cũng hết vía rồi, làm sao mà dám nghĩ đến việc làm bình có cái hồn phóng khoáng đó được. Nét bút người nghệ sĩ Việt múa nhẹ, mũi tre cắt vào đất sắc mà nhanh, men chỗ dày chỗ mỏng thì càng tự nhiên chứ đâu có sao; cái hình bên này nhỏ hơn cái phía bên kia một chút thì lại càng ngộ càng xinh chứ hề chi. (Trong trống đồng tên là “Sông Ðà”, khi chạm xong con chim hạc thứ mười sáu, người nghệ sĩ thời Ðông Sơn mới thấy mình chỉ chia vòng tròn làm mười bảy phần, làm sao chạm mười tám chim hạc bây giờ? Thôi thì ta giải quyết bằng cách chạm chim hạc số mười bảy và mười tám sát nhau, mà đứng chứ không bay, cho đủ chỗ. Xin xem hình trống “Sông Ðà” trong Những trống đồng Ðông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên và Hoàng Vinh, do Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam ở Hà Nội xuất bản năm 1975. Ông thợ Trung Hoa mà gặp lỗi này thì phải bỏ hết để làm lại từ đầu chứ đâu có dám tự tiện như vậy. Nói như thế không phải là chê đồ gốm Tàu không đẹp, đồ Tàu cực đẹp là đằng khác. Nhưng hai cách làm đẹp và hưởng đẹp rất khác nhau. Ðồ gốm Tàu đẹp như một cô gái trang điểm lộng lẫy của dạ hội, đồ gốm Việt đẹp như cô gái hàng xóm thơ ngây, tươi mát. Cái đẹp của đồ Tàu là cái đẹp của thơ Lý Bạch: “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung – Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng”, trong khi cái đẹp của đồ Việt là thơ Nguyễn Khuyến: “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí – lá vàng trước gió sẽ đưa vèo’. Một bên đẽo gọt tinh xảo, một bên gần gũi đơn sơ, một bên là cái đẹp của trí tuệ, một bên là cái đẹp của tâm hồn.
Gọi là đồ đời Lý, nhưng ta gồm cả nơi đây đồ gốm đời Trần, bởi vì đồ đời Trần tiếp tục truyền thống đặc sắc của đồ đời Lý. (Cho đến đời Hậu Lê, sự phát triển đặc sắc của đồ gốm Chu Ðậu, Bát Tràng mới thực sự trở nên cá biệt, tạo những chiều hướng khác). Hoa văn đồ gốm đời Lý thường là ám họa, hoa văn vẽ màu chỉ thấy trên các món Lý Trắng mà cũng chỉ là một màu men xám. Phải chăng đây cũng là ảnh hưởng Phật giáo trong tinh thần đơn sơ của truyền thống thôn làng? Nền Phật giáo nơi đây là Phật giáo truyền theo đường phương Tây, phương Nam mà vào chứ chưa phải là nền Phật giáo truyền từ Trung Hoa xuống như sau này, tương ứng vời thời Phật còn thường được gọi là bụt (Budha), cách ký âm Việt Nam, chứ chưa theo cách ký âm Trung Hoa và giọng đọc Hán Việt mà thành chữ Phật. Ða số đồ đời Lý thường để dấu con kê, đôi khi thấy có vành men cạo. Những kỹ thuật thường dùng cho đồ khỏi dính vào nhau trong lò nung.
Ngoài cách phân loại theo dáng kiểu, người ta thường phân loại đồ gốm Việt ra theo nước men: Ðồ men ngọc, đồ Lý trắng, Lý nâu, Lý lục.
1. Ðồ men ngọc (celadon): ảnh hưởng Phật giáo chen kẽ với ảnh hưởng đồ men ngọc đời Tống. Hoa văn với những mô thức Phật giáo như cánh sen, hoa cúc. Ðôi khí có ảnh hưởng đồ gốm nhà Tống nhưng đã Việt hóa (ám họa hình ảnh 2, 3 hay 4 em bé trai chơi trong một vườn hoa, ám họa hình 2 lực sĩ đấu vật…). Ngoài những bát, chén và đĩa men ngọc nhỏ, ta còn thấy có nhiều tước (hay bôi), bình trà, nậm rượu nhỏ. Có những nậm rượu men ngọc chạm nổi hình 2 con cá chép đang bơi. Có những nậm rượu hình quả bầu. Các nậm rượu này nhỏ, chắc để dùng trên bàn thờ nhiều hơn là để dùng chứa rượu uống. Ngoài những đĩa trang trí bằng các ám họa hoa sen, hoa cúc, cũng có những đĩa nhỏ (5cm) chạm nổi hình cá chép đang bơi. Men ngọc màu xanh rêu với nhiều sắc từ nhạt đến đậm, có khi rất đậm, gần như xanh đen. So với đồ men ngọc đời nhà Tống, đồ men ngọc đời Lý thường dày hơn, nước men cũng khá dày, cốt men bằng đất sét trắng pha cát, cầm trên tay thấy nặng, tiếng gõ đục tiếng vang ngắn và nhỏ. (Ðồ men ngọc đời Tống men mỏng, nhẹ, tiếng vang trong và ngân rất dài vì làm bằng đất pha đá nghiền). So với các món Lý trắng, Lý nâu thì đồ men ngọc (cũng như đồ Lý lục) không còn nhiều, phải chăng vì không được làm nhiều?
2. Ðồ Lý trắng: Bát chén Lý trắng cùng các bình ấm rất đẹp, một vẻ đẹp thanh nhã mà cao sang, càng nhìn càng ưa. Bình và ấm vẫn theo truyền thống Việt Nam, quai cầm chỉ có tính cách trang trí, không thực dụng. Nước men rất mịn, màu trắng tuyền, nhìn mát rượi, thảng hoặc có món men trắng thoáng ẩn sắc xanh dương. Có chén nhỏ lòng tráng men trắng, nhưng bên ngoài lại tráng men nâu. Bình men trắng đôi khi có phác họa một vài cánh hoa màu xám nhạt. Chúng tôi sưu tập được một bình Lý trắng (cao 15cm) có quai cầm là hình một con cá bống nhỏ màu trắng, mắt đen, rất linh động, nắp bình vẽ hoa cúc, thân bình vẽ cành trúc, cành mai màu xám nhạt. Những bình khác có quai cầm hình xoắn ốc hay hình một con rồng chui từ trong thân bình ra rồi lại chui vào, tạo thành quai cầm để lại chui sang mé bên kia cất cao đầu trở nên vòi rót. Rồng đây không phải là con rồng Trung Hoa, mà là một con rắn mình trơn, có kỳ trên lưng, đầu giống như hình linh vật Naga hay Makara của Ấn Ðộ. Miệng bình thường khá nhỏ, chỉ có thể dùng làm nậm rượu hay bình nước, chứ không thể thành ấm trà. Có những tô Lý trắng ám họa hình ảnh của văn hóa Ả Rập, hình ảnh trăng lưỡi liềm và các vì sao cùng với 2 đoản đao bắt chéo… Có những bát, trong lòng toàn biểu tượng Phật giáo như chữ Vạn, như hình ảnh bát bửu, hay trong lòng chén, lòng đĩa là cả một bông hoa sen, bông hoa cúc đang nở. Có lu nhỏ cao 20cm rông 15cm, nắp lu là cả một bông sen, miệng lu cũng chạm nổi những cánh sen đang nở. Có tô đường kính 12cm, đáy tô là một bông cúc nở, quanh lòng tô là những nhành lá và hoa cúc. Bình ấm rất đẹp, nhiều cái hình quả dưa, quả bầu, hình con tôm càng cưỡi trên lưng con cá chép…
3. Ðồ Lý nâu: ta gọi chung là Lý nâu, nhưng ở đây màu nâu có rất nhiều sắc, từ nâu nhạt đến nâu đậm gần như là đen. Ngay trên cùng một món, men nâu cũng pha nhiều sắc. Có những bát, chén men nâu có gờ miệng không nhẵn mà lại gẫy cạnh như hình hoa cúc, trong lòng bát là những ám họa hoa cúc khác, rõ ràng là chén bát dùng trên bàn thờ chứ không phải để dùng trong đời sống hàng ngày. Trong những số lượng sưu tập, bát chén có ám họa biểu tượng nhà Phật như hoa cúc, hoa sen… đồ men nâu có rất nhiều. Có phải đây lại là một ảnh hưởng Phật giáo khác? Bình ấm men nâu rất đặc sắc, có nhiều bình men nhoè (sau khi tráng xong men nâu, người ta tưới lên bình một sắc men nâu đậm hơn, rồi để cho tu chảy loang lổ, hoặc sau khi tráng men xong họ tạt nước lên cho men chảy nhoè). Nước men trên bát chén men nâu mỏng trong khi nước men trên bình men nâu dày, bóng sáng mịn, độ dày mỏng của nước men trên bình cũng không đều, tạo ra nhiều sắc đậm nhạt khác nhau. Có nậm rượu men nâu trang trí hình chân chim (do bút tre vạch lên nên men sau khi tráng). Nhiều bát men nâu có trang trí hình chạm nổi từ khuôn đúc rất đẹp. Cũng như đồ Lý trắng, bình ấm Lý nâu rất đẹp, hình dạng thay đổi từ tròn sang bầu hay hình con nghê…
4. Ðồ Lý lục: Màu men lục nơi đây là màu men xanh cánh trả, trong biếc. Nước men mỏng, ám họa nổi. Số lượng đồ Lý lục còn lại không nhiều. Tìm được một món Lý lục đẹp rất khó. Bình Lý lục rất đẹp nhưng hiếm thấy, hoa văn nhành rêu, vòi rót hình đầu makara. Bát đĩa, bình ấm Lý lục cũng có nhiều sắc, hoặc xanh biếc, hoặc xanh rêu, hoa văn trên bát đĩa cũng vẫn là biểu tượng hoa cúc, hoa sen của nhà Phật hay hình cá chép theo kiểu song ngư của văn hóa nhà Tống.
Tóm lại, đồ gốm thời Lý Trần là một giai đoạn rất quan trọng trong nghệ thuật đồ gốm cổ truyền Việt Nam. Ðây chính là giai đoạn thăng hoa của nghệ thuật này. Khởi đi từ những món đồ không tráng men dưới thời Bắc Thuộc, sang đời Lý đồ gốm Việt Nam phát triển rực rỡ. Số lượng rất nhiều, đủ mọi thứ loại, đủ mọi sắc men, đủ mọi hoa văn với ảnh hưởng Phật giáo đậm đà tạo nên một thời cực thịnh của nền đồ gốm dân tộc để rồi lên đến tuyệt đỉnh với đồ gốm Chu Ðậu vào thời Hậu Lê, thời nhà Mạc sau đó.
Bùi Ngọc Tuấn

Thứ Tư, 20 tháng 11, 2013

ÂM DƯƠNG THÀNH HÌNH ĐỒ

Một bức tranh khắc gỗ cổ ở một ngôi chùa tại Hưng Yên mang tên Âm Dương Thành Hình Đồ. Nhìn bức tranh này, người viết bỗng thấy liệu có nên trách con người không hiểu mình hay trách cơ thể mình quá bí ẩn?

Bức tranh về sự hình thành từ âm dương. Bản in gỗ chùa Đại Từ (Hưng Yên), bản in lại năm 1994
Tư duy tình dục mang dấu vết triết học
Ai cũng có một cơ thể, một cuộc đời nhưng không phải ai cũng có một tấm lòng đủ độ lượng để bao dung cho những ham muốn tự nhiên của mình.
Tên của bức tranh là Âm Dương Thành Hình Đồ, nghĩa là bức tranh nói rõ mối quan hệ âm dương và sự hình thành âm dương.
Bên góc phải của tiêu đề tranh có tám chữ Thiên Địa Khai Tịch Chi Nhất Lý Dã, nghĩa là sự khai mở trong cõi tạo này chính là chuyện âm dương và đó đích thị là cái lý của cuộc đời.
Trung tâm của bức tranh là một bông hoa sen tám cánh, loài hoa tinh túy của nhà Phật và con số biểu thị cho tám quẻ âm dương, biểu trưng cho bát nhã.
Nằm ở vị trí nhụy sen là hình đôi trai gái đang trong tư thế giao hợp, giống như hình bát quát mà chúng ta vẫn thường gặp.
Cách búi tóc của người đàn ông và người đàn bà cho thấy, họ là người thuộc những thế kỷ rất xưa. Việc đặt đôi trai gái này vào trung tâm bức tranh trong một cách biểu thị chân thực nhất cho thấy, sự trân trọng của người Việt xưa đối với bản thân hoạt động tình dục, hoạt động không chỉ mang lại cho người ta niềm hạnh phúc giản dị mà còn mang lại tất cả mọi sự sinh sôi nảy nở trên đời.
Bức thành đồ không thể hiện hình con cá âm dương mà đi ngay vào hình ảnh nam nữ đang quấn quýt, thể hiện tư duy rất cụ thể và mang tính trực giác cao của người Việt, không ẩn giấu, không thách đố, gọi tên sự vật như vốn có.
Sự chân thực này không chỉ mang lại cho bức tranh một cách tư duy khác biệt, mà còn mang lại một lợi thế khác về mặt không gian. Hướng đi của chân và tay của đôi trai gái được đặt vào đúng quỹ đạo quay của trục quay trái đất, hướng đi vật lý có quan hệ rất mật thiết tới sự thụ thai của vạn vật.
Tương ứng với tám cánh sen là tám quẻ âm dương chạy theo một hình elip 24h hoàn hảo, trong đó thể hiện rõ sự thấu biết về hoạt động tình dục của con người.
Đi vào từng cánh sen, người xưa không những chỉ rõ thời điểm nào trong ngày là tốt nhất cho việc thụ thai, thời điểm nào sức khỏe của con người rơi vào trạng thái mệt mỏi và những nguy cơ của việc quan hệ tình dục khi đó…
Chỉ có một cái nhìn thực sự bao dung với lòng tham của con người, với sự quy định của con tạo của những bộ óc trí tuệ mới vẽ ra được một bức tranh nói lên rằng, tình dục là điều giản dị, cũng như cây cỏ cần ánh nắng, em bé cần được chăm sóc…
Bức tranh mang những mã văn hóa của Đạo giáo, Phật giáo và Nho giáo, được khắc gỗ ở trong một ngôi chùa tại một vùng không phải kinh đô như Hưng Yên còn lại này, cho thấy, ông cha ta từng đi qua một thời kỳ hiểu biết viên mãn về loại nghệ thuật nguyên thủy nhất của loài người, thứ mà ngày nay, chúng ta càng cố tìm đúng đường đi thì càng lạc vào một cõi hỗn mang của đủ mọi thứ đạo đức cao siêu.
Lấy hòa hợp là căn bản
Từ lâu, bằng nhiều cách, con người cố gắng lý giải tại sao đời sống tình dục lại trở thành chủ đề cấm kị và tội lỗi như vậy, những mặc cảm, những dồn nén…
Nhưng, tựu trung lại, người ta vẫn không thể chối rằng, tình dục là món quà tuyệt vời của tạo hóa và một ngài thượng đế nhân từ nào đó đã khéo léo thêm thắt tình yêu vào đó như một thứ gia vị thơm tho, khiến món ăn trở nên lãng mạn.
Nhưng cho đến giờ, qua bao nhiêu lớp lang của sự dịch chuyển văn hóa, trong đó, có cả những lớp lang đau thương mà con người cứ mãi phải ẩn giấu nó dưới một hình thức nào đó, tình dục bỗng trở nên xa lạ và đáng phải để mắt thận trọng.
Thời xa xưa, ở những vùng kinh tế hái lượm, nông nghiệp chiếm ưu thế – vùng Đông Nam Á, vai trò chủ đạo thuộc về người nữ, tạo thành truyền thống văn hóa mẫu hệ.
Nhiều tộc người Việt như Gia Rai, Ê đê… đến nay vẫn còn giữ tục người nữ chủ động tìm chồng, có giai đoạn sống thử để chọn được người nam ưng ý nhất rồi mới cưới chồng…
Đó cũng chính là truyền thống văn hóa tình dục của người Việt cổ trước khi tiếp xúc với Trung Hoa. Nghĩa là, trái với suy nghĩ nhiều người, truyền thống văn hóa tình dục ban đầu của người Việt từng chấp nhận tình dục trước hôn nhân và không hề biết đến “chữ trinh”.
Cũng thế, nội dung của bức tranh nói rất nhiều đến sự hòa hợp trong hoạt động tình dục, chứ không phải là quan hệ lấn át của nam giới, mối ràng buộc không thể tách rời của thực thể âm và thực thể dương, mối ràng buộc nguyên thủy nhất mà sau này bị người ta gán cho những cái tên mang đầy màu sắc tội lỗi.
Hình ảnh đôi tay của người đàn ông nằm trọn trong lòng tay của người nữ thể hiện sự lĩnh nhận mà từ đó sự thụ thai được bắt đầu. Cái nắm tay đó còn thể hiện một sự âu yếm không chỉ thuần xác thịt, nó còn thể hiện bản năng làm mẹ của người phụ nữ, hứa hẹn một sự thương yêu tột cùng, sự che chở chỉ có được từ một sinh vật mang tên giống cái.
Cung Khảm ở vị trí trên đầu của người nữ có ghi: “Nước thai tạng giới nhất đức thủy tương giao hòa hợp”, việc hòa hợp không chỉ mang lại sự khỏe mạnh cho thế hệ sau mà còn mang lại hạnh phúc giới viên mãn nhất mà ngày nay phong trào nữ quyền đang khó công tìm kiếm.
Qua những hình dáng cách điệu trí tuệ về âm dương, có thể nhận thấy, ở đây có tầm hiểu biết của các bậc tôn giả lớn lao của đạo Phật. Bức tranh cho thấy, âm dương trên đời chính là Phật tính, thứ mà người ta cứ khổ công đi tìm mãi những dị bản của nó.
Những mã văn hóa trong bức tranh gỗ, dù nhỏ bé, cũng cho thấy một xã hội Việt xưa từng thấu biết tình dục là tự nhiên, là giản dị nhưng lại là nguồn của vạn vật. Nhìn từ bức tranh này, mới biết dị bản “văn hóa tình dục” mà chúng ta đang dùng hiện nay có phần lạc hậu so với ngày xưa mất rồi.
TS Cung Khắc Lược - Thùy Ninh
Nguon: tienphong.vn

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

TRANH DÂN GIAN HÀNG TRỐNG


149 bức tranh thuộc dòng tranh cổ quý giá của Hà Nội, thu thập trong vòng 10 năm, được nhà sưu tầm Phạm Đức Sĩ trưng bày tại Trung tâm nghệ thuật Việt, Hà Nội từ 9/9.
Cảm thấy bất an trước sự tàn lụi của một dòng tranh truyền thống Hà Nội, của nền tảng tinh thần Hà Nội ngày trước, nhiều nhà sưu tập đã âm thầm đi lùng lại những bộ tranh Hàng Trống quý giá. Phạm Đức Sĩ là một trong số đó. Từ năm 2001, anh cất công tìm lại dòng tranh niên họa Hàng Trống phục vụ nhu cầu trang trí, chúc lành chúc phúc năm mới hoặc đốt thờ cúng cho người âm, làm bùa “trấn trạch” trong nhà của người thị thành.



Bức "Lý thu vọng nguyệt".

Trong bộ sưu tập của Phạm Đức Sĩ, có hàng chục bộ tranh trang trí vẽ theo các tích truyện (Chiến quốc; Tam quốc; Hán Sở tranh hùng), tranh thờ Đạo giáo của người thiểu số đặt hàng thợ Hàng Trống chế tác (Tam Thanh - Tày Nùng; Hành say - Dao Tiền).
Ngoài ra còn rất nhiều tranh lẻ vẽ các ông Hoàng bà Mẫu để phục vụ tín ngưỡng đạo Mẫu (Ông Hoàng cưỡi cá; Ông Hoàng cưỡi lốt; Bà Chúa thượng ngàn; Bà Chúa thượng thiên…), tranh “trấn trạch” dán ở cửa và trong nhà để trừ tà ma. Và rất quý giá là những bức tranh Hàng Trống như nhật ký thời gian ghi lại cuộc sống của Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX (Hội Tây; Duyệt binh).
Tuy nhiên, trong dịp này, Phạm Đức Sĩ chỉ trưng bày một phần trong số tranh sưu tập, gồm 22 bộ tranh (83 bức) và 66 bức tranh lẻ. Bộ tranh được trưng bày phần nào làm người xem hình dung ra một nền đồ họa Hàng Trống từng rất phong phú đa dạng.





Bức "Nam tào".

Nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Ngọc Khuê nhận xét, giá trị của tranh dân gian Hàng Trống được thể hiện trong nhiều tác phẩm, khó có thể bình luận được. “Chúng ta nên hiểu được ý nghĩa tượng trưng, huyền thoại, giáo lý giấu sau những hình hài cụ thể, phải tìm được cơ sở con người trong triết học, tôn giáo và tâm lý qua dòng tranh này”, ông nói.
Phạm Đức Sĩ sinh năm 1967, là chủ xưởng mộc đóng khung tranh có tiếng gần Đại học Mỹ thuật Hà Nội. Khoảng từ năm 1999, anh bắt đầu sưu tập đồ gốm cổ, đến năm 2001, bắt đầu chuyển sang sưu tập tranh. Đến nay, anh đã có một số bộ sưu tập giá trị, bao gồm gốm Đông Sơn, gốm Hán; tranh cổ động trong thời kỳ chiến tranh; tranh thờ cúng Đạo giáo - Phật giáo của một số dân tộc Việt Nam, tranh Hàng Trống.
Triển lãm mở cửa đến ngày 13/9.







Ảnh: Phạm Đức Sĩ
Hòa Ca

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

TRANH TẾT HỨNG DỪA

Nguyễn Dư
Tranh Tết của ta có từ bao giờ? Câu hỏi sao mà ngây ngô, cộc lốc. Lại còn... khó trả lời. Nhiều học giả cho biết tranh Tết có từ... nhiều mốc thời gian khác nhau. Người thì dựa vào ghi chép của sử, người thì ngắm kèo, cột của mấy ngôi chùa cổ, để đi đến kết luận là dân ta biết khắc gỗ, biết in kinh Phật, từ thời Lí. Biết khắc, biết in tức là... biết làm tranh mộc bản. Từ đó có thể suy ra rằng tranh dân gian, trong đó có cả tranh Tết, đã xuất hiện từ thế kỉ 11. Người khác lại cho rằng tranh dân gian đòi hỏi một số tiêu chuẩn của "hội hoạ" như nét vẽ phải đa dạng, khắc in phải tinh vi... Các tiêu chuẩn mĩ thuật và kĩ thuật này phải chờ đến đầu thế kỉ 15, ta mới đạt được. Thời Hồ Quý Li, nước ta mới làm được tiền giấy. Nghề làm tranh dân gian có thể được ra đời và phát triển từ đây. Cái mốc đầu thế kỉ 15 được nhiều làng làm tranh xê dịch, đặt vào giữa thế kỉ 15. Các làng này thờ Lương Như Hộc (người tỉnh Hải Dương, đỗ tiến sĩ năm 1442), người được công nhận là ông tổ của nghề làm tranh mộc bản. Gia phả của dòng họ Nguyễn Đăng ở Đông Hồ cho biết con cháu của dòng họ này nối tiếp nhau làm tranh dân gian từ hơn 500 năm nay. Đến nay đã được 20 đời (1).
Ghi chép và lí luận thì như vậy nhưng cụ thể thì... chúng ta không có trong tay một tấm tranh giấy nào có tuổi thọ được trên 200 năm. Theo Yves Laubie, thuộc Hội Truyền Giáo Paris thì tấm tranh cổ nhất của "hội hoạ Việt Nam" còn được lưu truyền đến ngày nay là tấm vẽ cảnh giáo sĩ và giáo dân bị chém tại Sơn Tây. Tranh được vẽ vào khoảng năm 1838, năm 1937 vẫn còn được treo tại phòng Thánh tử vì đạo của hội Hội Truyền Giáo Paris (2).
Bằng chứng cụ thể và chính xác nhất về tranh Tết mà chúng ta hiện có trong tay là bộ sưu tập Technique du peuple annamite (Kĩ thuật của người An Nam) của Henri Oger (3). Mấy tấm tranh , tranh Lợn, tranh Hứng dừa, ta quen gọi là tranh Tết Đông Hồ, đều nằm trong bộ sưu tập này. Tranh do một nhóm thợ và các ông Nguyễn Văn Đãng (người Hải Dương), Phạm Trọng Hải (người Hưng Yên), Nguyễn Văn Giai, Phạm Văn Tiêu vẽ và khắc in năm 1908-1909 tại Hà Nội. Tranh chỉ có nét đen, không tô màu. Dựa vào bằng chứng cụ thể này thì có thể khẳng định rằng tranh , tranh Lợn, tranh Hứng dừa... được ra đời tại Hà Nội, năm nay (Tân Mão, 2011) được 102 tuổi.
Tết về, khắp nước nhìn đâu cũng thấy hoa. Hoa tiền. Hoa hậu. Hoa liễu. Choáng váng, hoa cả mắt! Đề nghị bá quan văn võ tạm ngưng... chơi hoa. Chúng ta đi... chơi Tết. Cùng xem lại tấm tranh "nhạy cảm" Hứng dừa.
Hứng dừa của Oger vẽ một chàng trai trên cây dừa, đang hái quả thả xuống cho một cô gái đứng dưới đất. Cô gái vén váy lên hứng dừa. Cô gái đi chân đất. Dưới gốc dừa có một đứa bé đang leo cây, bị ông bố cởi trần ngăn lại. Hai bố con chân đi giày dép.
Đây là cảnh cha con phú ông sai người làm hái dừa.
Tranh có thơ nôm ở góc trên bên trái:
Khen ai khéo nặn nên dừa
Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi
Ba chữ nặn, đấy đây được viết bằng chữ hán nạn, đế đê. Hứng dừa (1909) được đời sau sao chép nhiều lần. Chưa đến nỗi tam sao thất bản, nhưng cũng đã biến đổi, khó nhận ra nét... vẽ chữ nôm. Kết quả là Hứng dừa của sách Tranh, tượng dân gian Việt Nam (4), không giống Hứng dừa của sách Tranh dân gian Việt Nam (1), không giống Hứng dừa của "bàn tay vàng" Nguyễn Đăng Chế (tranh Đông Hồ, 1990).
Hứng dừa (Oger)
Hứng dừa (Nguyễn Đăng Chế)
Đối chiếu các tranh thì thấy vài điểm khác nhau : - Tranh Oger đứng một phe. Tất cả các tranh khác đều vẽ ngược, phải thành trái, trái thành phải, so với tranh Oger. Điều này dễ giải thích : người ta đã vẽ lại tranh Oger trên ván, rồi khắc. Lúc in ra giấy, tranh trở thành ngược chiều với nguyên bản.
- Tranh sao chép có thêm một chùm 3 quả dừa.
- Câu thơ nôm được đổi thành :
Khen ai khéo dựng nên dừa
Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi
Chữ dựng nghe rất hay, nhưng cũng rất khó đoán theo mặt chữ. Thỉnh thoảng có người đọc sai thành Đây trèo đấy hứng (4). Đọc như vậy vừa sai mẹo đọc chữ nôm, vừa sai cả mẹo... tâm lí. Đây trèo đấy hứng là lời người con trai trên cây nói với người con gái dưới đất. Chữ hứng chỉ có một nghĩa là đón đỡ quả dừa đang rơi thôi. Người con trai chỉ biết tả chân. Chả có thêm tình ý gì cả. Sao mà vô duyên thế!
Đấy trèo đây hứng là lời người con gái nói với người con trai. Chữ hứng bỗng có thêm nghĩa thứ hai là... cơn hứng. Ngước nhìn anh trên cao mà em... hứng quá trời. Hứng kiểu này thì chỉ có chính đương sự mới biết, mới nói lên được. Em đang kín đáo thổ lộ với anh đấy! Nhạy cảm ra phết!
Câu thơ nặng trĩu chất trữ tình! Thâm thuý. Thú vị... chết đi được!
Tranh Hứng dừa được nhiều học giả phân tích, bình luận :
- Cái tình huống trong tranh "Hứng dừa" thật bất ngờ. Đôi trai gái đều duyên dáng, "hai mắt cùng nhìn, hai lòng cùng ưa", nhưng trong cách biểu đạt của cô gái, vừa có cái nhí nhảnh như múa, vừa có cái hớ hênh kéo thốc váy lên để "hứng dừa". (1)(tr.107).
- Ngắm tranh "Hứng dừa ", phải ở trong cái xã hội mà ức chế của tư tưởng nho giáo hết sức nặng nề, nó bắt "nam nữ thụ thụ bất thân", chiêm ngưỡng những nét và màu cứ phởn phơ, tươi rói, những động tác của cô gái có cái hớ hênh đáng yêu bộc lộ sự nhí nhảnh, hớn hở nhận hai trái dừa của chàng trai từ trên cây dừa thả xuống, ta mới thấm thía hết hai câu thơ ở góc trên bên trái tờ tranh (*):
Khen ai khéo dựng nên dừa,
Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi
Một sự đòi hỏi giải phóng hạnh phúc lứa đôi, mà có lẽ người lao động chỉ tìm thấy ở xã hội trong tranh mới không nghiệt ngã (...).(1) (tr.112). - Tranh "Hứng dừa" vẽ một người lên cây dừa hái quả ném xuống cho người ở dưới dơ váy lên hứng quả dừa. Người ở dưới mải mê hứng quả dừa, đã không nghĩ rằng khi tốc váy lên thì để hở cả cơ đồ ra, và quả dừa chỉ là lợi nhỏ, hở cơ đồ của mình ra là hại lớn. (5).
Các học giả chỉ mải mê nhìn ngắm cái hớ hênh phơi bày, cái lợi nhỏ, cái hại lớn, mà quên mất cái hứng kín đáo, rạo rực của cô gái.
Xét cho cùng, có phải cô gái chỉ thấy cái lợi nhỏ mà quên mất cái hại lớn như Toan Ánh (5) nhận xét không? Của đáng tội, chàng trai ở trên cây thì có thấy "cái gì trăng trắng như con cúi" (Nguyễn Khuyến) dưới cái váy đâu mà lợi với hại. Có chăng thì chỉ có phú ông đứng gần được rửa mắt thôi. Thế thì hỏng chuyện rồi. Cô nàng nhắm đối tượng khác à? Cô đang ỡm ờ định "chơi trèo" với chủ chăng? Hi vọng rằng cô không ôm đồm tính nước đôi như vậy. Cô chỉ thấy đấy trèo làm cho đây hứng thôi.
Kẻ lắm điều có thể thắc mắc : vì nổi hứng cô gái mới tốc váy hay vì tốc váy mà cô thấy hứng? Câu hỏi khó như bài toán con gà và cái trứng. Chỉ có chính cô mới trả lời được.
Người xem tranh xin bái phục câu thơ dí dỏm, đa tình của nghệ nhân dân gian.
Leo dừa (Oger)
Trong như ngọc trắng như ngà (Durand)
Ngoài tranh Hứng dừa "nhạy cảm" của người lớn, sưu tập Oger còn có tranh Leo dừa hồn nhiên của trẻ con. Leo dừa vẽ hai bé trai (?) hái dừa trên cây, hai bé gái dưới đất giơ tay hứng dừa. Ông bố đứng bên cạnh phe phẩy cái quạt, xem tụi nhỏ chơi đùa. Hai bé gái đều cởi trần. Một bé tốc cao váy, bé kia để tụt hẳn váy xuống đất. Trẻ con còn hồn nhiên, chưa biết thẹn.
Leo dừa cũng được đời sau, vào khoảng những năm 1925-1935, bắt chước, sửa đổi thành tranh Trong như ngọc, trắng như ngà (6).
Trong như ngọc, trắng như ngà có bố cục giống Leo dừa của Oger. Tranh vẽ hai cô gái (thay cho hai đứa bé con) tốc váy hứng dừa do hai chàng trai trên cây thả xuống. Xung quanh chỉ có một thằng bé con (thay cho ông bố) tay cầm một chùm dừa. Người vẽ muốn nói gì? Chẳng lẽ hai cô gái lại khoe ngọc ngà với thằng bé con? Hai chàng trai đầy nhựa sống đang ở trên cao, làm sao thấy được lối vào động đào? Hai cô gái muốn khoe của quý nhưng không gặp người sành điệu biết thưởng thức. Phí của trời!
Nguyễn Bá Lăng có nhận xét :
- Tranh "Hứng dừa" vẽ hai người đàn ông đóng khố leo cây hái trái ném xuống cho hai người đàn bà kéo váy ra đỡ. Tranh đề: "Trong như ngọc, trắng như ngà "để tả cùi dừa và nước dừa nhưng cũng còn ám chỉ đến da dẻ người đàn bà (7).
Durand đi xa hơn Nguyễn Bá Lăng, đưa ra nhận xét là mấy trái dừa lủng lẳng kia khiến người ta liên tưởng đến... ngọc hành, của quý của quý ông (Les noix de coco suggèrent les testicules d'homme) (6)! Gớm, sự táo bạo của Durand sao mà... to thế! Cứ đà tiến hoá này thì chả bao lâu cái của quý gia truyền (bijou de famille) kia sẽ... bùng nổ. Người Việt bẩm sinh vốn khiêm tốn. Thích những cái be bé xinh xinh. Được mân mê quả cam Bố Hạ là sướng rồi. Không dám mơ tưởng quả dừa to lớn của Durand.
Quả dừa được dân ta ví với một báu vật khác :
Con gái chơi với con giai,
Ngày sau cái vú bằng hai quả dừa.
Có chết thì chúng tôi đưa,
Bằng hai quả dừa cho trẻ nó chơi.
Thật ra thì Trong như ngọc, trắng như ngà chỉ là một ngộ nhận. Chẳng dính dáng gì đến cùi dừa, nước dừa hay ngọc hành. Trong như ngọc, trắng như ngà là lời Nguyễn Du ca tụng thân hình cô Kiều lúc tắm :
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên
Nghệ nhân thấy hai đứa bé tụt váy, tốc váy của tranh Leo dừa cũng muốn đối cảnh sinh tình, bèn nhại lời cụ Nguyễn Du. Nhưng nhại... vô duyên. Thân hình của hai bé gái kia làm sao có thể ví với "một toà thiên nhiên" của cô Kiều? So sánh cô Kiều "vỗ bì bạch" với hai đứa bé chơi đùa tụt cả váy thì tủi cho cụ Nguyễn Du quá! Tranh Trong như ngọc, trắng như ngà của Durand bắt chước tranh Leo dừa của Oger. Bắt chước một cách vụng về. Đổi trẻ con thành người lớn, bắt người lớn thành trẻ con. Đổi cái hồn nhiên thành cái gượng ép.
Bắt chước không khéo. Chơi chữ không đúng chỗ. Làm cho người xem tranh... bực cả mình ! Hết cả hứng với leo!
Nguyễn Dư
(Lyon, Tết Tân Mão, 2011)
(1) Nguyễn Bá Vân và Chu Quang Trứ, Tranh dân gian Việt Nam, Văn Hoá,1984, tr. 34. (2) Yves Laubie, Réflexions sur l'imagerie populaire au Tonkin, Bulletins des Amis du Vieux Hue, 1-1937.tr. 79-92.
(3) Henri Oger, Technique du peuple annamite (Kĩ thuật của dân An Nam), 1909.
(4) Tranh, tượng dân gian Việt Nam, Nhà Xuất Bản Mỹ Thuật-Hà Nội, 1962, tr. 31.
(5) Toan Ánh, Làng xóm Việt Nam, Xuân Thu, tr. 409.
(6) Maurice Durand, Imagerie populaire vietnamienne, EFEO, Paris, 1960, tr. 6.
(7) Nguyễn Bá Lăng, Phong tục Tết Việt Nam và các lân bang, Đông Nam Á, 1986, tr. 201.
_______
(*) Tấm tranh được Nguyễn Bá Vân và Chu Quang Trứ phân tích chép hai câu thơ ở góc trên bên phải. Chỉ có tranh Oger mới chép ở bên trái.

Sưu tầm từ: http://chimviet.free.fr/42/nddg107_Hungdua.htm

Thứ Ba, 5 tháng 11, 2013

Thiền sư TỪ ĐẠO HẠNH và văn khắc chuông chùa Thiên Phúc

Nguyễn Hữu Vinh dịch và giới thiệu, Thích Thiện Niệm đính chính.

Thiền sư Đạo Hạnh là một danh sư đời Lý, có công lớn đối với triều đình. Công đức của ngài được ghi lại nhiều trong Thiền Uyển Tập Anh (3), Lĩnh Nam Chích Quái (4), Đại Việt Sử Lược (6), Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư (7), An Nam Chí Lược (12)...

Theo An Nam Chí Lược, một cuốn sử xưa, quyển thứ 15 viết rằng: "Thiền sư Từ Đạo Hạnh là một nho sinh, thích thổi sáo, ngày cùng bạn đi chơi khắp nơi, đêm đọc sách suốt sáng. Một hôm vào chơi núi Phật Tích, thấy một hòn đá có dấu chân bên phải, ấn chân vào so thử, in như hệt. Về nhà từ biệt cha mẹ vào núi cất am tu hành. Vua Lý chưa có con nối dõi, khiến các thầy chùa danh tiếng cầu đảo. Có một ông sư, không đến làm lễ cầu tự cho vua mà còn dùng phép trám yểm. Vua nghe được bèn hạ ngục tất cả các thầy chùa trong vùng. Nhờ có một hoàng tử, hết lòng cứu giúp mới khỏi. Hoàng tử nói với sư rằng: "Ta cũng không có con, xin sư vì ta mà cầu đảo". Sư nói với hoàng tử bảo với phu nhân vào phòng tắm rửa, sư đi ngang cửa phòng, phu nhân liền có thai. Đến ngày hạ sinh, hoàng tử cho mời sư đến, thì sư đã mất trong núi. Phu nhân sinh được một trai, mặt mũi khôi ngô. Vua Lý lập làm Thái tử…". Chuyện này khá trùng hợp với chính sử ghi trong sách Đại Việt Sử Lược, thì vị hoàng tử này là Sùng Hiền Hầu, em vua Lý Nhân Tông. Sau vua Lý Nhân Tông vì không có con, nên nhường ngôi cho con của Hầu,, tên là Dương Hoán, sau này là Lý Thần Tông.

Theo Thiền Uyển Tập Anh, thì "Thiền sư Đạo Hạnh (? - 1117) ở chùa Thiên Phúc 天福寺, núi Phật Tích 佛跡, họ Từ, tên Lộ. Cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan Đô Án, thường đi học tại làng An lãng. Lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ…". Cuộc đời của sư thần bí, thường ngao du cầu sư học đạo, tu và mất ở chùa Thiên Phúc. Theo Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (10) của Phan Huy Chú thì “chùa Phật Tích ở xã Thuỵ Khê, huyện Yên sơn, một tên khác là núi Sài. Phong cảnh đẹp đẽ trông ngang xuống mặt hồ, trên núi có hang sâu là chỗ Từ Ðạo Hạnh mất. Vách hang còn có dấu đầu và dấu chân. Trên đó có am Hương Hải và viện Bồ Ðà đều do Thiền sư dựng nên, nay là chùa Thiên Phúc...”. Chùa Thiên Phúc, theo Đại Việt Sử Lược, phần Lý kỷ thì chùa do vua Lý Thánh Tôn xây vào năm Đinh Dậu Long Thuỵ Thái Bình thứ 4 (1057). Theo Kiến Văn Tiểu Lục (1) của Lê Quý Ðôn, phần Phong Vực (bờ cõi) thì “chùa toạ lạc ở núi Sài (Sài sơn) thuộc huyện Yên sơn, núi này đời Lý gọi là Bồ Ðà Lạc, đời Trần gọi là núi Phật Tích. Trên núi có động tiên và chùa, trong núi có tám chỗ lõm, như dấu chân người va chạm vào, lại có dấu chân như của người khổng lồ. Dưới núi có chùa Thiên Phúc, trước có hồ nước lớn, sau có lầu chuông, có chuông do Thiền sư Ðạo Hạnh đúc thành vào năm Long Phù Nguyên Hoá thứ 9 (1109) đời Lý Nhân Tông, do đệ tử Huệ Hưng soạn ra văn khắc trên chuông...Ðấy là vật xưa 700 năm đến nay. Dưới văn khắc có khắc sắc chỉ của vua Trần Anh Tông cấp ruộng thờ vào năm Hưng Long thứ 12 (1304)... Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí, phần Bắc Kỳ, tỉnh Sơn Tây, mục Tự quán thì “Chùa Thiên Phúc toạ lạc tại xã Sài tây, huyện Yên Sơn, xưa gọi là am Hương Hải, còn gọi là viện Bồ Ðà. Bên trái chùa thờ Thiền sư, bên phải có tượng thờ vua Lý Thần Tông, ở giữa thờ Phật...”. Chùa, nay tục gọi là chùa Thầy, còn gọi là Tử Trầm sơn, toạ lạc tại chân núi Sài, tức núi Phật Tích, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.

Văn khắc trên chuông chùa Thiên Phúc dưới đây là một tư liệu xưa, rất quý nói về công đức hoằng pháp Phật giáo của ngài Từ Ðạo Hạnh. Nhiều điều trong bài văn khắc này rất phù hợp với An Nam Chí Nguyên (9) trang 209 viết về Từ Ðạo Hạnh như sau: “Thiền sư Ðạo Hạnh là vị sư ở huyện Thạch Thất, thường đi khắp nơi trong núi non tầm sư học đạo. Sư đắc đạo, có thể gọi kêu chim rừng thú nội cùng nhau đến nghe lệnh sai bảo. Sư cầu mưa trị bệnh, không có gì là không ứng nghiệm...”. Cũng như rất phù hợp với những điều mà Lê Quý Đôn đã đề cập tới trong cuốn Kiến Văn Tiểu Lục. Có lẽ đây chính là chuông này. Tư liệu nguyên viết bằng chữ Hán lối cổ, được công bố trong sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam- từ Bắc thuộc đến thời Lý” (1). Sách này là công trình nghiên cứu về văn khắc xưa của Việt Nam, do sự hợp tác của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm ở Hà Nội, École Francais d’Extrême Orient ở Paris và trường đại học Chung Cheng ở Taiwan.

Nhận thấy đây là tài liệu quý về vị thiền sư nổi danh này bằng chữ Hán, dịch giả xin dịch ra tiếng Việt giới thiệu và để tiện bề tham khảo.

[山西處國威府安山縣瑞圭杜佛蹟山]

天福寺洪鐘銘文

維龍符元化九年己丑正月、道行禪師緣化巨越國、朱門白屋、人人喜供、獲赤銅貳千餘斤、鑄洪鐘一口、懸於蒲陀落山香海院內、扣擊六時行道、上報四恩、下濟三塗者。

夫妙理雖一、妄境寔繁、稟雖一而萬化生成、隨萬化而惟一圓點、無形可測、無語可諳、無形而形遍大千、無語而語周億剎、窄不為礙、雜不為緇、在纖塵而花藏莊 嚴、居濁劫而圓珠瑩徹、是眾生之幸意、非諸佛之別心、覺也者、一路涅槃,迷也者、六趣生滅、由是自相悲憫、假相殊倫、聖賢服如蟻慕羶、神力化如風偃草、亟 職芒昧、邪病纏綿、演古教而導矣、定未齊知,俾信器而警焉、方能漸進、其教也、依根立說、以一乘而括囊,其器也、取象成名、以洪鐘為鈐轄。

鐘者、外示圓寔、內表含虛、其圓也、常用而靡覺,其寔也、取難壞之名,其含也、諸入而勿礙,其虛也、揚無盡之意、不如是、何佛命一叩、天雷吞聲、地籟收 響、即三界返悟;幸智乃三塗纘諸苦真、豈越列不以事濟天下耶、洎後欣光結席、承撻而淨眾駢羅,慶喜登猊、依擊而說法嚴備、自茲、孰能繼者、是真可矣。

而今即有道行禪師、幼而秀骨、長乃奇姿、誦習蓮經、玉戛喉而嘹喨,出家運度、佛生意而慈悲、建八種而海寓盡嚴,究三篋而禪經共貫、覯時大旱、燃一指而雨霈 然、斅古休糧、坐多年而容無饑色、萬民起厲、持水洒而幸絕病源,諸事未萌、預言知而的如符契、經曰:「佛有八辨」、非師而不繼圓音、佛制尸羅、非師而不能 堅固、帝釋福田、非師而不播雄馨、藥王燒臂、非師而不奈苦誠、觀音救難、非師而不紹功名、高僧顯異、非師而不踵神靈」。

然濟機云畢、擇處栖遲、出城西而耳斷喧、歷禍路而心自淨、越一江水、見一山青、掉石而步落俗塵、捫蘿而身登上界、其山也、聳稜(楞)伽之繞、生寶月之秋、 有奇尺梯、八圓龕、石龕也、五色雲成就、七珠寶纍垂、蛛網相聯、銖衣間綵、下存佛跡、中壯倪臺、其跡也、白玉在底、青龍盤外,其臺也、犀角鎮傍、燈釭連 次、豈模仗室、即模鷲峰、昔隱者功德所成、豈神靈造化所異、師居未逾旬、事還感應、野虎來伏、山虯自馴、寂寞夜而誦蓮經、穹崇天而送花鼓、處周六載、惠普 積千、諸王子之車馬響風、傾國人之香花頂禮、御書赍詔、法席降臨、賜寶衣而等上朋、陟佛車而牟四果、齋罷之日、金錫迴立於山腳、弟子各伸其言意、雷同曰: 「岩巔峭直、雲路歌(敧)危、師神足之易登、客凡蹤之難步、唯占下土、亦合勝方、巒屈曲而豈異蒲陀、水澄徹而何殊香海」、命其良匠、揆彼中央、構玉宇而晃 四維、坐金容而光有截、眾馳斯語、樹即揚聲、片時而士女親來、不日而境界便現、採梓杞木、陶碧瓦爐、繩墨縱橫、斤斧雜遝、峨峨新院、業業巍樓、裁(栽)松 而徑引清涼、藝化而景延馥郁。

師乃曰:「斯堂秩秩、就眾森森、不免說法之筵、必掛洪鐘之警、法雖自我、鐘必從他」、故築(策)仗(杖)下化、高於阡陌、如麟遊獸舞、逐鳳翔凰、競隨行未 兩旬、施堆一阜、詣於興福寺、章飛雲陛、天錫金宮、鍊土成模、揚火精鍛、鑄之日、師雖緘默、人競稱揚、感太后之同風、遣中使之赍室、次乃輪蹄奔而空朱戶、 少艾走而閴(闃)閭閻、擅入香階、紛若東市、頃、火工肆力、金匠嚴令、鼓橐籥而聲振海隅、迸煙爐而光騰銀漢、完器有異、嘉瑞相生、未幾者、更邀庶類、抗縻 巨扛、纔礱而色奪雪花、乍擊而聲逾雷吼、天下聆之、人咸慶仰、師將歸蒲陀岩畔大悲雲樓、懸以金索、撞以鯨槌、旦夕行道、先報今上永化、寶祚長新、感國器而 世蕃昌、字黎元而邦彌泰、然願崇高慕道、洞達純真、以福蔭於蒼生、用匡扶於洪業、後冀施修巨細等、順風遷善、頂戴香花、今景祿來茨、後悟符本覺。

師見余曰:「新成犍稚一口、則眾緣同修、我罔績可紀、留芳施者名、聊記傳後」、惠興淺學、不辭搦管為銘。

銘曰:

佛以洪鐘警物兮、悟本心
師成法器化世兮、發信音
天宮既著欲色兮、還自覺
地府當要刑戮兮、放若深

龍符元化九年己丑、八月、初九日立記、天福寺賜紫大沙門釋惠興撰。

[…]

[陳英宗興隆十二年、給祀田聖旨]。

Văn khắc chuông chùa Thiên Phúc

Bản dịch của Nguyễn Hữu Vinh

Văn khắc trên chuông chùa Thiên Phúc, ở núi Phật Tích, xã Thuỵ Khê, huyện An Sơn, Phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây.

Tháng giêng năm Kỷ Sửu nhằm vào năm thứ chín niên hiệu Long Phù Nguyên Hoá [1] Thiền sư Đạo Hạnh đi lạc quyên trong nước Đại Việt [2]. Mọi người từ giàu đến nghèo, ai ai cũng vui vẻ cúng dường. Quyên được đồng đỏ tất cả hơn hai ngàn cân. Đúc được một cái chuông lớn, treo trong viện Hương Hải [3] ở núi Bồ Đà Lạc [4], sáu thời [5] đánh chuông hành đạo, trước báo bốn ơn [6], sau cứu tam đồ [7].

Diệu lý tuy chỉ có một mà vọng cảnh [8] thì thật nhiều. Tuy là một nhưng do thiên biến vạn hoá tạo thành. Dù thiên biến vạn hoá tạo thành cũng chỉ là duy nhất mà thôi, không hình tượng mà có thể lường được, không lời nói mà có thể cảm được, không hình tượng mà hiện khắp cõi đại thiên [9], không lời nói mà nghe vang khắp cõi Phật [10]. Nhỏ bé mà không cùng, hổn độn mà không hoá thành đen, ở đời trần bụi mà trang nghiêm như Hoa Tạng thế giới [11], ở kiếp ô trược mà long lanh như ngọc thạch. Đó là sự may mắn của chúng sinh, chứ chẳng phải ý riêng gì của chư Phật. Kẻ giác ngộ thì thẳng đường lên Niết Bàn, còn kẻ mê lầm thì sinh diệt theo Sáu con đường [12]. Rồi thì cứ lo lắng, giả tướng thì nhiều. Việc thánh hiền sánh như kiến tìm mùi tanh. Chuyện thần lực cũng như gió đè cỏ mọc. Cứu mê tăm tối, bận rộn lăn lóc với những công việc cấp bách, lại phải vươn mang vào tà ma, bệnh tật. Đem lời cổ nhân ra dạy bảo cũng khó làm được. Nay dùng chuông làm vật cảnh tỉnh, mới có thể có hiệu quả dần dần. Việc giáo hoá thì phải tuỳ căn cơ mà tìm phương cách. Thấy giáo lý "Nhất Thừa" [13] là hơn cả, mà chuông là vật quan hệ nhất.

Chuông, ngoài Tròn [14], Chắc [15] trong Rỗng [16], Không [17]. Thường sử dụng, quá quen nên hay quên nên gọi là Tròn. Khó bị hư nên gọi là Chắc. Đem vật thọc vào, đổ chứa vào mà không trở ngại gì nên gọi là Rỗng. Ngân nga vang vọng nên gọi là Không. Nếu không phải thì sao Phật cho gõ một tiếng mà sấm trời im bặt, mọi âm vang trên mặt đất đều lặng câm. Đó là lúc trong Tam Giới [18] tỏ ngộ. May mắn biết rằng chúng sinh trong Tam Đồ mãi chịu Khổ. Biết như vậy mà không đem sức mình ra để cứu thiên hạ hay sao? Từ đó về sau, mỗi khi gặp lễ, đèn treo, chỗ sắp, nghe tiếng chuông Phật tử sắp thành hàng. Bước lên bệ gióng chuông thuyết pháp bội phần trang nghiêm. Làm được như vậy, có ai hơn được!

Nay có thầy Đạo Hạnh, từ bé cho đến lớn, cốt cách lạ thường, Tụng học kinh Liên [19] sang sảng. Xuất gia hành đạo, thấm nhuần ý Phật từ bi. Xây tháp [20] trang nghiêm. Học kinh kệ thấm nhuần đạo lý. Gặp lúc trời hạn, vung tay một cái trời mưa xuống dầm dề. Học thói người xưa nhịn ăn, ngồi nhiều năm mà vẻ mặt không thấy đói. Dân gặp lúc bịnh dịch, phẩy nước lạnh thì bịnh lành ngay. Việc chưa xảy ra mà đoán biết trước như có phù phép. Kinh dạy rằng Phật có "Tám Lời" [21], nếu không có thầy thì làm sao Tám Lời âm vang tiếp tục. Phật đặt ra "Thi La" [22], nếu không có thầy thì làm sao "Thi La" bền vững. Nếu không có thầy thì làm sao thắp được hương trong vườn phúc của Đế Thích [23]. Dược Vương [24] đốt thịt chữa bệnh, nếu không có thầy thì ai chịu đựng nỗi. Quan Âm cứu nạn, nếu không có thầy thì ai biết đến công đức của ngài. Cao tăng tỏ việc linh dị, nếu không có thầy ai nối gót thần linh?

Nay chuyện hành đạo đã xong, muốn tìm nơi ẩn náu. Ra phía tây kinh thành, nơi tĩnh mịch xa, chốn ồn ào huyên náo, đi qua đường lối hiểm nghèo nhưng lòng thanh tịnh. Qua khỏi con sông, gặp núi xanh, leo đường dốc đi lên, đất đá rơi xuống lăn lóc, nắm dây trèo lên nơi cao. Núi này cao ngút bao bọc như núi Lăng Già [25], có trăng thu tròn đẹp, có dốc đá kỳ vĩ, có vòm đá, động đá thờ Phật, có mây ngũ sắc kết tủa như châu ngọc buông rèm, rực rỡ tơ vương đan hình vào nhau như màng nhện. Dưới có vết tích của Phật, giữa có đài nghê tráng lệ. Dấu Phật có ngọc trắng dưới đáy, có rồng xanh bao bọc bên ngoài. Ðài nghê có tê giác đứng trấn bên cạnh. Có đèn treo kết chuỗi thành hàng. Ðây đâu phải chỉ giống phòng phương trượng, mà chính là ngọn Thứu Phong [26]. Ngày xưa các bậc ẩn sĩ góp sức, góp của làm nên, đâu có khác gì thần linh tạo thành? Thầy đến ở chưa tới mười ngày mà đã có điều linh ứng. Cọp tới chầu hầu, rồng kia thuần tính. Ðêm vắng tụng kinh Liên, trời cao vòi vọi vang nghe tiếng trống. Thầy ở suốt sáu năm, ân huệ vun đầy. Các hoàng tử xe ngựa tới lui tấp nập. Mọi người trong nước đến dâng hoa đảnh lễ. Vua cho người lại ban chiếu chỉ, làm tiệc chay cúng dường. Ban cho áo mão cà sa, cung nghinh như bậc thượng khách. Lên xe Phật để cầu Tứ quả [27]. Lễ chay xong rồi, thầy chống gậy đi trở xuống chân núi. Tất cả các đệ tử mọi người cùng nói rằng: “Vách đá dựng đứng, đường đi nguy hiểm. Bước chân như thần của thầy thì đi dễ, chứ khách phàm thì làm sao bước đi được. Xem chỗ đất này cũng là nơi thắng cảnh. Ðồi núi chập chùng đâu khác gì núi Bồ Ðà. Nước trong vắt thua gì biển Hương Hải. Gọi thợ giỏi, chọn nơi chính giữa, xây lầu ngọc sáng chói bốn phương. Giữa đặt tượng Phật hào quang sáng rạng. Mọi người cùng tỏ lời nói này. Cây cỏ rì rào cùng loan tin đi. Trong chốc lát, thiện nam tín nữ tề tựu đông đúc. Chỉ trong một ngày mà quang cảnh trở nên khác lạ. Người đốn cây quý, kẻ xây lò gạch. Thước mực giăng đầy. Búa rìu chan chát. Chốc lát, sân mới nguy nga, gác lầu sừng sững. Trồng tùng xanh cho mát mẻ lối đi. Gầy hoa cảnh cho vườn thêm ngát.

Thầy nói rằng: "Chùa thì trang nghiêm, Phật tử thì đông đúc. Gặp lúc lễ lượt thuyết pháp thì phải treo chuông cảnh tỉnh. Phật pháp là chuyện của ta, nhưng chuông thì phải nhờ người". Nói rồi, chống pháp trượng ra đi, thoăn thoắt trên khắp nẻo đường, như lân vờn thú nhảy, như phượng múa rồng bay. Người ta tranh nhau đi theo, chưa tới hai mươi ngày đã quyên được (đồng đỏ) đem về chất một đống cao. Rồi đem đến chùa Hưng Phúc. Gửi thư về tâu cho vua rõ, ngài đã cho phép dựng chùa. Nhào đất làm khuông, đốt lửa luyện đồng Ngày đúc, thầy dù chẳng nói gì, nhưng người người vui vẻ huyên náo. Cám ơn Thái Hậu [28] nhiệt tình cho người đem tặng lễ vật. Rồi thì hết cả nhà giàu đều kéo xe tới, trai trẻ cũng lũ lượt tới giúp đến nối buôn làng vắng vẻ. Người đến đông như đi phiên chợ đông vậy. Chẳng mấy chốc, thợ rèn gắng sức, thợ đúc lo lắng chuẩn bị, thổi ống bệ tiếng nghe vang dội, lửa đỏ cháy rực, chiếu sáng lên tới dãy ngân hà. Chuông đúc xong thấy rõ lạ thường, có nhiều điểm tốt lành. Không lâu sau đó, mời mọi người buộc thừng khiêng lên. Mới chùi mà sáng bóng tợ hoa tuyết. Vừa gõ thì tiếng ngân vang như sấm, vang dậy khắp nơi. Mọi người đều mừng rỡ thích thú. Thầy sắp trở về lầu Đại Bi trên núi Bồ Đà. Dùng dây vàng buộc treo, dùng chày kình đánh chuông, ngày đêm hành đạo. Trước, báo ân dày của Vua [29], cầu mong ngai vàng bền vững. Nhờ pháp khí (chuông) mà dân gian thanh bình, đất nước bình yên, con dân no ấm. Nguyện rằng đem đạo nhiệm mầu, thấu triệt thuần chân làm phúc lớn che chở cho mọi người, để khuông phò nghiệp lớn. Sau, mong cho mọi. người lớn bé cùng nương theo mà hướng đến cõi thiện, cùng theo Phật pháp. Hôm nay có được phúc lành để sau chứng ngộ.

Thầy nói với tôi rằng: "Chuông đã đúc xong, vì mọi người có duyên tu tập, còn ta chẳng có công đức gì. Hãy ghi lại tên tuổi của những người đã cúng dường để lưu truyền lại mai sau". Huệ Hưng ít học, cầm bút viết bài minh này.

Viết rằng:

Chừ Phật dùng chuông [30] cảnh tỉnh để ngộ bản tâm
Nay thầy dùng chuông phát tín âm để răn dạy đời
Cung trời đã mang dục sắc, hãy trở về bổn giác
Âm phủ đã bắt đầu hình phạt, hãy nghĩ cho sâu xa

Sa Môn áo tía [31] Thích Huệ Hưng phụng soạn vào ngày mồng chín, tháng tám, năm Kỷ Sửu niên hiệu Long Phù Nguyên Hoá thứ chín.

[…]

Đời Trần Anh Tông thứ 12 niên hiệu Hưng Long có chiếu cấp cho ruộng thờ [32]. Do câu cuối trong văn khắc trên chuông, chúng ta biết chuông đã được người đời Trần khắc thêm hàng chữ này.

Chú thích

[1] Long Phù nguyên Hoá cửu niên Kỷ Sửu: Tức là năm Kỷ Sửu niên hiệu Long Phù Nguyên Hoá thứ chín (1109), đời vua Lý Nhân Tôn.
[2] Đại Việt: Nguyên chữ Cự Việt quốc 巨越國, Cự nghĩa là Lớn, Đại
[3] Viện Hương Hải: tên xưa của chùa Thiên Phúc
[4] Bồ Ðà Lạc sơn: tức là núi Phật Tích, nơi chùa toạ lạc
[5] Sáu thời 六時 Nguyên chữ “Lục thời” chỉ: Sáng, Trưa, Chiều, Tối, Khuya và Sáng sớm
[6] ) Bốn Ơn 四恩 Tứ Ân, có nhiều thuyết. 1. Theo Kinh Tâm Ðịa Quán Bốn ơn gồm: , Ơn mẹ cha, Ơn chúng sanh, Ơn quốc vương và Ơn Tam bảo. Theo Thích Thị Yếu Lãm thì bốn Ơn gồm: Ơn cha mẹ, Ơn sư trưởng, Ơn quốc vương và Ơn thí chủ.
[7] ) Tam đồ 三塗 Chỉ ba con đường ác là Ðịa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh. Ba đường còn là: 1. Hỏa đồ (đường lửa): Chỉ cho Ðịa ngục là chổ nổi lửa mạnh để thiêu đốt tội nhân; 2. Huyết đồ (đường máu): Chỉ cho nẻo Súc sanh là chổ ăn thịt lẫn nhau; 3. Ðao đồ (đường dao): Chỉ cho nẻo Ngạ quỷ là chổ bị gươm đao, gậy gộc bức bách.
[8] Vọng cảnh 妄境 Cảnh giả, không thật
[9] ) Đại thiên 大千. Tức là Tam thiên Ðại thiên thế giới, Kinh nói: Thế giới chia ra làm Tiểu thiên, Trung thiên và Ðại thiên, ba loại khác nhau. Gộp 4 đại châu, mặt trăng, mặt trời, chư thiên lại thì thành một thế giới. Một ngàn thế giới thì gọi là Tiểu thiên thế giới. Một ngàn Tiểu thiên thì gọi là Trung thiên thế giới. Một ngàn Trung thiên thì gọi là Ðại thiên thế giới.
[10] Cõi Phật: Nguyên chữ "Sát 剎" , nghĩa là: Ruộng, nước, xứ. Thông thường dùng để chỉ "đất Phật"
[11] Hoa Tạng thế giới: Padma-garbha-loka-dhàtu, còn gọi là Liên Hoa quốc. Thế giới hàm chứa công đức vô lượng trang nghiêm từ trong hoa sen hiện ra, được mô tả trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Phạm Võng. Theo kinh Hoa Nghiêm, Liên Hoa Tạng thế giới còn gọi: Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải, Hoa Tạng Thế Giới Hải, Hoa Tạng Thế Giới, Hoa Tạng Giới....Theo kinh Phạm Võng, Liên Hoa Tạng Thế Giới còn gọi: Liên Hoa Hải Tạng Thế Giới, Liên Hoa Ðài Tạng Thế Giới. Tất cả đều chỉ cho thế giới Trang Nghiêm Thanh Tịnh của Ðức Phật Tỳ Lô Giá Na. (Theo Từ Ðiển Phật Học Huệ Quang, tập 5, trang 3710-11).
[12] Sáu con đường: Nguyên chữ Lục thú: 六趣 Còn gọi là Lục đạo, sáu đường ở chốn luân hồi. Theo Phật học, chúng sanh tùy theo nghiệp quả của mình mà chuyển sanh vào lục đạo: Thiên (Trời), A Tu La (Thần), Nhân (Người), Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ (Quỷ đói), Súc Sinh (Thú vật).
[13] Nhất Thừa: 一乘 Cỗ xe duy nhất, để chỉ Phật thừa, là pháp môn duy nhất viên mãn. Cỗ xe mà Phật dùng đi đường, tức cỗ xe độc nhất tối sơ tối hậu mà mỗi chúng sanh vốn mang Phật tính dùng để đi trên con đường Ðạo nhất như chân thật. Danh từ này còn dùng để chỉ Bồ tát thừa trong Tam thừa.
[14] Tròn: Nguyên chữ Viên 圓
[15] Chắc: Nguyên chữ Thực 寔
[16] Rỗng: Nguyên chữ Hàm 含
[17] Không:.Nguyên chữ Hư 虛
[18] ) Tam Giới 三界 Chỉ nơi sinh sống của chúng sinh gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới
[19] Kinh Liên: Nguyên chữ Liên kinh 蓮經 chỉ kinh Pháp Hoa
[20] Xây tháp: Nguyên chữ Bát Chủng 八種, chỉ Bát Chủng tháp 八種塔 như : tháp Như Lai 如來塔, tháp Bồ Tát 菩薩塔, tháp Duyên Giác 緣覺塔, tháp A La Hán 阿羅漢塔, tháp A Na Hàm 阿那含塔, tháp Tư Ðà Hàm 斯陀含塔, tháp Tu Ðà Hoàn 須陀洹塔 và tháp Chuyển Luân Vương 轉輪王塔. Tám vị: Như Lai, Bồ Tát, Duyên Giác, A La Hán, A Na Hàm, Tư Ðà Hàm, Tu Ðà Hoàn và Chuyển Luân Vương sau khi nhập diệt (chết) phải xây tháp thờ.
[21] Tám Lời: Văn khắc viết 辨(辯), nguyên chữ Bát Biện 八辯 Tám biện tài. Chỉ tám tài khéo biện luận của Như Lai: 1. Bất Tư Hát biện 不嘶喝辯 (Biện luận chẳng cần hò hét, gào thét) ; 2. Bất Mê Loạn biện 不迷亂辯 (Biện luận chẳng mê loạn, lú lẫn) ; 3. Bất Bố Úy biện 不怖畏辯 (Biện luận mạnh dạn, không sợ hãi gì) ; 4. Bất Kiêu Mạn biện 不憍慢辯 (Biện luận không tỏ vẻ kiêu mạn) ; 5. Nghĩa Cụ Túc biện 義具足辯 (Biện luận nghĩa lý đầy đủ) ; 6. Vị Cụ Túc biện 味具足辯 (Biện luận ý vị đầy đủ) ; 7. Bất chuyết sáp biện 不拙澀辯 (Biện luận lưu loát, chẳng vụng về ngắt ngứ) ; 8. Ứng Thời Phân biện 應時分辯 (Biện luận đúng lúc).
[22] Thi La 尸羅 Dịch âm tiếng Phạn Sila, có nghĩa là phòng ngừa, ngăn cấm sự sai trái của thân và tâm. Phật đặt ra để đệ tử thi hành ngăn ngừa điều dữ.
[23] Vườn phúc của Đế Thích: Nguyên chữ Đế Thích phúc điền 帝釋福田. Do chữ Đế Thích tứ uyển 帝釋四苑 là nơi Đế Thích Thiên cư ngụ, có hồ Như Ý đầy ắp nước tám Công Đức 帝釋天居於須彌山頂之善見城,城外之四面各有一苑,形皆正方,於各苑之中央皆有一如意池,池中八功德水盈滿,為帝釋諸天遊戲之處
[24] Dược Vương 藥王 vị Bồ Tát chuyên ban phát thuốc lành cứu chữa bệnh tật cho chúng sinh.
[25] Lăng Già sơn 楞伽山 núi Lăng Già, còn gọi là Già Sơn. Tương truyền nơi đây Phật truyền giảng kinh Lăng Già. Núi chất đầy bảo vật, hào quang sáng lạng, chiếu khắp mười phương, có đầy hoa thơm cỏ lạ, nhiều chùa, nhiều bảo vật cúng dường Phật pháp.
[26] Thứu phong 鷲峰 Còn gọi là Linh Thứu phong, Thứu Ðầu sơn, Thứu Ðài. Tương truyền đây là nơi Phật truyền giảng kinh Pháp Hoa.
[27] Tứ quả: 四果 Chỉ bốn loại thánh quả khác nhau của Thanh Văn thừa: Các nhà phiên dịch cũ dùng tên Phạn gọi bốn quả đó là: Quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm và quả A-la-hán. Các nhà phiên dịch mới dịch là: Dự Lưu quả, Nhất Lai quả, Bất Hoàn quả và A La Hán quả.
[28] Thái hậu: Tức Ỷ Lan nguyên phi của vua Lý Thánh Tông, mẹ vua Lý Nhân Tông.
[29] Vua: Chỉ vua Lý Nhân Tông
[30] Chuông: Trong truyện Cảm Thông kể rằng ngày xưa Phật Tỳ Lô Giá Na ở nước Tu Ða La xứ Càn-Trúc tạo một cái chuông bằng đá xanh, mỗi lần đánh lên thì có vô số Hoá Phật hiện thân trong hư không tuyên thuyết diệu pháp, người nghe ngộ đạo đến vô số. Chuông ở đây là chuông chuông lớn, còn gọi là Ðại Hồng chung hay chuông U Minh, đánh vào mỗi buổi sáng và khi hoàng hôn. Ðánh lúc hoàng hôn để nhắc nhở cảnh vô thường, đánh vào buổi sáng sớm thức tỉnh lòng người bỏ tà quy chánh, dứt bỏ trần duyên để thoát ly sanh tử luân hồi.
[31] Áo tía: Vua ban Cà Sa màu tía cho các vị thường là Quốc sư. Tục này bắt đầu tới Võ Tắc Thiên (684-774) ở Trung Quốc. Ở nước ta, được biết Thông Biện là người đầu tiên được vua ban áo tía.
[32] Hưng Long: niên hiệu của vua Trần Anh Tông

Tham khảo

1. “Văn khắc Hán Nôm Việt Nam-từ Bắc thuộc đến thời Lý”, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 1999
2. “Phật Quang đại từ điển”, Fo kuang xuất bản xã, Taipei
3. “Thiền Uyển Tập Anh”, Lê Mạnh Thát, nhà xuất bản T.P Hồ Chí Minh, 1999
4. “Lĩnh Nam Chích Quái”, Chen Ching Hao, Học Sinh thư cục xuất bản, Taipei, Taiwan, 1987
5. “300 ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam”, Võ Văn Tường, CD, Tin Việt, T.P Hồ Chí Minh, 1996
6. “Việt Sử Lược”, bản Tứ Khố Toàn Thư, Library of Academia Sinica, Taipei, Taiwan
7. “Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư” bản Chính Hoà, 1696, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1999
8. “Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư”, Hiệu hợp bản của Chen Ching Ho, Soka university, Tokyo
9. "An Nam Chí Nguyên", École Francais d’Extrême Orient, Hà Nội, 1931
10. "Lịch triều hiến chương loại chí", Library of Academia Sinica, Taipei, Taiwan
11. "Kiến Văn Tiểu Lục", Lê Quý Đôn, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977
12. "An Nam Chí Lược", "Lê Trắc (Tắc)", Trung Hoa thư cục xuất bản, Peking, 1995.