Translate

Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

KỸ THUẬT TÀNG HÌNH

 Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà

(Đây thôn Vỹ Dạ, Hàn Mặc Tử)

 
Lúc nhỏ tôi có cái thói quen xấu là thường bỏ bê việc nhà len lén trèo lên gác trốn vào một góc mải mê đọc truyện Tàu quên ăn quên ngủ. Những bộ truyện Tàu nầy đa số được dịch giả Tô Chẩn chuyển ngữ và do Tín Đức Thư Xã tại Sài Gòn xuất bản đã có một thời là những truyện tiêu khiển rất phổ biến từ thành thị đến thôn quê và được mọi lứa tuổi từ các ông bà cụ đến học trò tiểu học yêu thích. Trong những bộ truyện nầy phải nói "Tây Du Ký" của Ngô Thừa Ân viết cách đây hơn bốn trăm năm là một bộ truyện hùng tráng đầy kịch tính đã từng làm say mê những hằng triệu độc giả qua nhiều thế hệ. Sự hấp dẫn của bộ truyện cũng phải kể đến công lao của ông dịch giả có một lối hành văn ngồ ngộ vừa xưa vừa nay rất ư là "truyện Tàu". Tác giả đã khéo tạo ra chú khỉ Tôn Ngộ Không với bảy mươi hai phép thần thông biến hoá sinh ra từ một cục đá được thụ khí âm dương ngàn năm tại Hoa Quả Sơn, Thủy Liêm Động. Họ Tôn đã từng đại náo Thiên Cung, Long Cung, Diêm Cung thách thức Ngọc Hoàng lại ăn trộm đào tiên để được sống ngàn năm. Tôn Ngộ Không có thể đằng vân bay thám thính từ nơi nầy sang nơi khác, nhìn xa hằng trăm dặm. Một trong những phép thần thông làm kích thích sự tưởng tượng của các độc giả nhí là họ Tôn tàng hình hay biến thành con ruồi con muỗi hoặc một Tôn Ngộ Không tí hon chui vào cơ thể của kẻ địch để nghe ngóng "quậy quọ". Họ Tôn còn có thể giựt ra một chùm lông thổi phù một cái biến thành hằng chục chú khỉ cũng áo quần tươm tất cũng thiết bảng đàng hoàng giả làm Tôn Ngộ Không lô nhô lúc nhúc dàn trận đánh biển người. Kẻ địch đâm ra bối rối thất thần dáo dác như bị đưa vào mê hồn trận đánh đấm loạn xị không biết chân giả là ai. Hồi nhỏ tôi thích cái đoạn nầy lắm.

Chúng ta không cần phải đợi đến tiểu thuyết của Jules Verne (1828-1905) để so sánh khoa học giả tưởng và khoa học hiện thực. Những phép thần thông biến hoá của Tề Thiên Đại Thánh đã từng làm cho "lão Tôn" xem trời bằng vung tưởng như chỉ là những câu chuyện thần kỳ trong ký ức ấu thơ thì bây giờ đã và đang trở thành những thực tế khoa học có tầm áp dụng trong công nghệ dân sự lẫn quốc phòng. Những con ruồi con muỗi hay một Tôn Ngộ Không tí hon theo thuật ngữ khoa học ngày nay là những bộ cảm nhận (sensors) mà những nhà khoa học ngày càng làm thu nhỏ lại (miniaturization) thành những trang cụ (devices) có tên là MEMS (micro-electromechanical systems: hệ thống cơ điện vi mô) có kích thước trong phạm vi micromet (µm = 10-3 milimet = một phần ngàn milimet; đường kính sợi tóc có kích thước một phần mười milimet). Người ta gắn MEMS vào những con robot nhỏ làm cho nó biết đi biết bay biết cảm nhận và truyền thông tin trong những công tác do thám hay phá rối rồi tự huỷ diệt sau khi hoàn thành sứ mệnh. Trong bài nầy, tôi không đề cập đến MEMS vì tính chất phức tạp và bao quát của nó nhưng có dịp sẽ trở lại trong một bài viết tương lai.

Trong thời Xuân Thu 2500 năm trước, nhà chiến lược Tôn Tử từng nói "Việc binh là việc giả dối" (Binh giả, ngụy đạo dã). Những chùm lông mà lão Tôn thổi ra hằng chục Tôn Ngộ Không giả làm choá mắt kẻ địch là vật nghi trang (decoy) thường được sử dụng trên chiến trường. Ở những cuộc giao tranh trên biển hay trên không người ta thường bắn ra những đám bụi kim loại (chaff) bay lơ lửng giữa không trung làm vật nghi trang khiến cho hoả tiễn địch tưởng lầm mục tiêu mà đâm sầm vào. "Tàng hình" (stealth) cũng có tác dụng "giả dối" như vật nghi trang. Nhà ảo thuật điển trai David Copperfield đã từng làm khán giả vừa thán phục vừa ngơ ngác khi ông ta làm tàng hình nguyên một toa xe lửa hay cả bức tượng nữ thần Tự Do của thành phố New York hay ông ta tự tàng hình từ bức tường bên nầy rồi xuất hiện sang bức tường bên kia của Vạn Lý Trường Thành. Cái mờ mờ ảo ảo bí mật nhà nghề của các ông xiếc ảo thuật thường cho người xem một ấn tượng kỳ bí khó hiểu. Kỹ thuật tàng hình "chân chính" được áp dụng trong quân sự cũng được bảo mật tuyệt đối và ít khi được công bố trên báo chí. Tuy nhiên, khác với việc tàng hình của David Copperfield khái niệm gọi là "tàng hình" được áp dụng trong máy bay "tàng hình" là một hiện tượng mà ta có thể thoải mái "bật mí" dưới ánh sáng của vật lý học.
Người ta thường bảo "Rõ như ban ngày" thể hiện sự cảm nhận rõ ràng của thị giác nhờ vào sự phản hồi (reflection) của ánh sáng từ vật thể đó vào mắt ta. Khi không còn sự phản hồi của ánh sáng như lúc về đêm thì sự cảm nhận của thị giác sẽ không còn hiệu quả đưa đến kết quả là ta sẽ không nhìn thấy vật thể đó hay ta sẽ "trông gà hoá cuốc". Nói ngược lại, nếu ta đi đêm trong bóng tối mà không muốn bị người khác phát hiện thì ta dùng kỹ xảo "đạo chích" mặc áo đen. Nếu ta lẫn vào bụi cây thì phải bôi mặt và ăn mặc rằn ri. Như vậy, trước mắt người xung quanh ta đã tàng hình nhưng ta vẫn hiện hữu không biến mất như nhiều người thường lầm tưởng.

Radar là một "thiên lý nhãn" dùng để "nhìn" sự di động của vật thể từ xa. Kể từ lúc radar được khám phá ở thập niên 30, radar đóng một vai trò quan trọng trong ngành hàng không và hàng hải, trong dân sự lẫn quốc phòng. Radar là một phần của phổ sóng điện từ có tần số của sóng radio trải dài đến sóng vi ba (microwave) và sóng milimet. Để định vị trí của một vật thể ở khoảng cách hằng trăm hoặc hằng ngàn cây số, ta phát sóng radar về hướng của vật đó.  Ta "nhìn" được là nhờ sự phản hồi của radar từ vật thể đó mà ta bắt được nhờ máy thu (receiver) radar. Để làm vật thể "tàng hình", ta sẽ phủ lên vật thể nầy một lớp "sơn" có khả năng hấp thụ (absorption) radar ngăn chận sự phản hồi thì máy thu sẽ không nhận được hoặc nhận rất ít những làn sóng radar. Trên màn hình của chiếc máy thu ta sẽ không còn nhìn thấy vật thể hoặc chỉ thấy vật thể bị thu nhỏ rất khó phân biệt. Vật thể đã bị "tàng hình". Trên cái nguyên lý đơn giản nầy, "tàng hình" chẳng qua một hình thức ngụy trang (camouflage) bằng cách lợi dụng sự hấp thụ sóng radar cho đối phương một ảo giác. Có lẽ, điểm chung giữa tàng hình của David Copperfield và tàng hình quân sự là cùng tạo một ảo giác làm cho đối phương mờ mịt hoang mang.  Sự ra đời của những chiếc hỏa tiễn "lùng và diệt" có trang bị radar khiến cho các nhà khoa học quốc phòng chuyên tâm vào công tác nghiên cứu chống radar của phe địch. Khi ta có một tuyệt chiêu thì đối phương sẽ có một tuyệt chiêu cao hơn (countermeasure) để chống lại, ta lại sẽ có một tuyệt chiêu cao hơn nữa (counter-countermeasure) nếu muốn sống còn. Một trong những tuyệt chiêu chống hỏa tiễn có trang bị radar là thiết kế và chế tạo những vật liệu có khả năng hấp thụ radar để ngăn chận sự phản hồi. Lịch sử nghiên cứu của vật liệu có khả năng hấp thụ radar cũng có những quá trình dài tương đương với quá trình phát triển radar. Từ phương trình sóng điện từ Maxwell người ta có thể tính được độ phản hồi và hấp thụ radar của một vật liệu. Nếu là kim loại, radar sẽ không bị hấp thụ và bị phản hồi 100 %. Sự hấp thụ radar nhiều hay ít tuỳ vào điện tính và từ tính của vật liệu đó. Từ những tính toán nầy người ta thấy bột than (carbon powder), than chì (graphite) hay sợi carbon (carbon fibres) với một độ dẫn điện ở mức trung bình có thể trộn với sơn, polymer/plastic hoặc cao su để tạo vật liệu hấp thụ radar. Sơn có thể dùng để phủ lên những chiến đấu cơ. Những tấm cao su có thể dùng để che những nơi trọng yếu của tàu chiến. Ferrite là một loại bột oxyd sắt mang từ tính có thể hút radar trong vùng vi ba như carbon nhưng hữu hiệu hơn. Tiếc thay, ferrite có tỷ trọng nặng tương đương với sắt và dễ bị rỉ sét nên không thể sử dụng cho máy bay và ở trong môi trường ẩm và nóng. Với độ dầy vào khoảng vài mm những vật liệu nầy có thể hấp thụ radar trên 90 % và phản hồi 10 % ở một tần số radar nhất định. Trên màn hình radar, vật thể bị thu nhỏ lại. Nếu độ hấp thụ là 99 % thì vật thể to như chiếc máy bay sẽ "tàng hình" thành một vật có kích thước như con chim nhỏ trên màn hình. Nếu độ hấp thụ đạt đến con số lý tưởng 100 % (0 % phản hồi) thì vật thể hoàn toàn biến mất trên màn hình. Như vậy, nếu ta biết tần số radar của địch thì ta có thể tạo ra một vật liệu hút ở tần số đó.  Thông thường tần số radar quân sự là cơ mật quốc phòng, tìm ra tần số của đối phương có lẽ thuộc về phạm vi hoạt động của James Bond 007! Để khắc phục khó khăn nầy, nhiệm vụ của các nhà khoa học là phải làm sao tạo ra một vật liệu vừa nhẹ vừa mỏng vừa có thể hút radar trên một băng tần dải rộng (broadband) và lại có thể sử dụng lâu dài mà không bị lão hoá. Đây là một vấn đề nghiên cứu đầy thử thách trong ngành vật liệu hiện tại.
Gần 8 năm trước, người viết và các đồng nghiệp phát hiện ra polymer (plastic) dẫn điện (electrically conducting polymers) cũng có tác dụng hấp thụ radar [1-2]. Khác với carbon với một độ dẫn điện nhất định, độ dẫn điện của polymer dẫn điện có thể được điều chỉnh tại chỗ lúc cao lúc thấp cho một khả năng chế tạo vật liệu hấp thụ radar "thông minh". Lúc ở thời bình, ta biến nó thành một vật liệu "ngu si" phản hồi radar; ở thời chiến nó trở thành "thông minh" hấp thụ radar.  

  Chiến đấu cơ F-117A

Vào một ngày của tháng 12 năm 1989, sáu chiếc máy bay "tàng hình" Nighthawk F-117A của không lực Mỹ lần đầu tiên thực hiện phi vụ không kích vào những mục tiêu mềm nhằm mục đích uy hiếp chính quyền chống Mỹ tại Panama. Sáu chiếc máy bay đều lọt lưới trời radar của quân đội Panama, lặng lẽ bay vào không phận Panama không ai hay biết. Trên phương diện tác chiến tàng hình, phi vụ nầy được đánh giá là thành công mỹ mãn, mặc dù các phi công ưu tú của không lực Mỹ trong lúc tranh tối tranh sáng đã oanh tạc nhầm mục tiêu! Máy bay "tàng hình" B-2 và Nighthawk F-117A là những thành quả rực rỡ của những công trình nghiên cứu "mờ mờ ảo ảo" mà theo Tôn Tử thì đây là phương tiện "giả dối" dùng để trấn áp đối phương. Thừa thắng xông lên, không lực Mỹ liên tiếp triển khai B-2 và F-117A trên các chiến trường tại vùng Vịnh (1991) tại Yugoslavia (1999) và gần đây tại Iraq. Khác với máy bay bình thường được chế tạo từ nhôm, phần lớn cấu trúc của oanh tạc cơ chiến lược B-2 và chiến đấu cơ chiến lược F-117A được chế tạo từ hợp chất composite gồm polymer (plastic) và sợi carbon (carbon fibres). Nghe đâu chất muối kiềm Schiff (Schiff base salts) - một khám phá của Đại Học Canergie-Mellon (Mỹ) - cũng được hoà tan vào composite [3]. Muối kiềm Schiff có thể hấp thụ radar trên một băng tần dải rộng. Tuy nhiên, thiết kế của máy bay tàng hình không phải chỉ dừng ở việc chọn lựa vật liệu cấu trúc. Sự phản hồi của radar có thể làm giảm thiểu bằng cách thiết kế hình dạng của chiếc máy bay để phân tán (scattering) sóng radar của phe địch. Radar phản hồi rất mạnh trên những vật thể có góc vuông hay góc nhọn, nhưng nếu vật thể có hình dạng tròn hay góc tù thì radar sẽ bị phân tán khắp nơi. Thiết kế nầy là những hình dạng ta thấy ở B-2 và F-117A. Đó là những thiết kế tối ưu (optimization) để cân bằng hai hiệu ứng đối chọi là "tàng hình" và khí động lực học (aerodynamics) nâng cao tốc độ của một phản lực cơ. Bởi vì nếu "tàng hình" được nhưng chỉ bay "rề rề" thì cao xạ địch cũng có thể "vớt" như chơi.... Sự phối hợp của vật liệu hấp thụ radar và hình dạng có khả năng phân tán radar đã thu nhỏ oanh tạc cơ B-2 và chiến đấu cơ F-117A vào cỡ một con chim trên màn hình radar. Radar bị phản hồi từ máy bay ít hơn 1 %.  
Độ lớn hiện trên màn hình radar được gọi là "tiết diện radar" (radar cross section). Nếu không có lớp phủ hút radar, tiết diện radar của một vật thể tỉ lệ thuận với kích thước vật thể đó. Một thí dụ là pháo đài bay B-52 không có lớp phủ hút và thiết kế phân tán radar nên tiết diện radar là 100 m2 rất lớn so với tiết diện radar của B-2 là 0.1 m2. Tương tự, Mig-21 và F-117A cùng kích thước nhưng tiết diện radar của Mig-21 là 4 m2 và của F-117A là 0.025 m2 [4] .
 

Oanh tạc cơ B-2

Các loại tàu chiến như hộ tống hạm, khu trục hạm cũng được phủ những lớp sơn hút radar và bề mặt tàu cũng được thiết kế với những góc cạnh để làm phân tán radar.

Tàu chiến tàng hình Visby (Thụy Điển) [5]

Cái hoạt cảnh "đi đêm mặc áo đen, chui vào bụi mặc áo rằn" nghe như một việc làm mờ ám, đi ngang về tắt nhưng lại là những việc suy nghĩ vô cùng nghiêm túc của các chiến lược gia về "tàng hình học" lưu tâm đặc biệt cho tàu chiến và chiến đấu cơ tương lai. Hiệu ứng "con cắc kè hoa" (chameleon effect) của một lớp sơn polymer dẫn điện được nhóm của giáo sư John Reynolds (Đại Học Florida, Mỹ) nghiên cứu gần 10 năm qua [6]. Lớp phủ nầy có đặc tính đổi màu tuỳ theo điện thế được áp đặt vào vật liệu đó (electrochromism). Một chiếc tàu màu xám có thể biến thành màu xanh của biển. Một chiếc máy bay có thể biến thành màu thiên thanh da trời. Chúng ta có thể dự phóng trong vòng vài thập niên tới là một lớp sơn của polymer dẫn điện sẽ được phủ lên tàu chiến hoặc chiến đấu cơ mang hai cơ năng tàng hình: hấp thụ radar tầm xa của địch và khi đến gần địch đổi màu cho phù hợp với màu của môi trường xung quanh làm nhoà thị giác của đối phương. Tơ sợi cũng có thể "nhuộm" với các loại polymer dẫn điện để dệt một thành loại vải "thông minh" cho quân phục với tác dụng tàng hình giống như sơn. Khả năng nầy nghe như là một câu chuyện giả tưởng mông lung nhưng ở thời điểm hiện tại những khúc mắc khoa học để thực hiện được các hiệu quả nầy đang lần lần được giải mã [7]. Theo sự suy luận của người viết, sự xuất hiện của ống nano carbon (carbon nanotubes) có thể là một vật liệu thú vị cho kỹ thuật tàng hình nhất là khi kết hợp với polymer dẫn điện tạo ra composite. Hiện nay, vì giá thị trường của ống nano carbon rất cao ($100 - 500 USD/gram) nên vẫn chưa phải là một vật liệu thông dụng trong lĩnh vực nầy.
Kỹ thuật tàng hình cho đến ngày hôm nay vẫn chưa phải toàn bích, vì ta càng cố gắng tránh ánh mắt của địch thì địch càng dùng nhiều cách để soi mói ta. Chiếc Nighthawk F-117A bị bắn rơi trên chiến trường Yugoslavia (1999) chứng tỏ những sản phẩm công nghệ cao quốc phòng mà chính phủ Mỹ đã phải đầu tư hằng trăm tỷ Mỹ kim không phải là những sản phẩm vô địch. Hiện nay, B-2 và F-117A có thể bay lả lướt trong làn sóng radar vi ba (tần số Giga Herzt, độ dài sóng cm) mà không bị phát hiện. Nhưng ngoài phạm vi của sóng vi ba chẳng hạn như radar của sóng radio HF (tần số 5 - 28 Mega Herzt, độ dài sóng 11 - 60 m) hoặc sóng milimet (tần số 40 - 300 Giga Herzt) là những dải sóng có thể truy lùng được hai loại máy bay nầy [8].   
Ngoài ra, nhiệt phát ra từ các buồng máy hoặc từ đầu, rìa cánh và đuôi máy bay do sự ma xát với không khí sẽ tạo ra bức xạ hồng ngoại (infrared). Bức xạ nầy được phát hiện dễ dàng bởi những thiết bị cảm ứng hồng ngoại (infrared sensor). Công ty Lockheed Martin chế ra loại sơn chứa sulphide kẽm (ZnS) nhằm giảm thiểu độ phát xạ hồng ngoại bằng cách di chuyển bức xạ nầy đến độ dài sóng có thể được hấp thụ bởi không khí xung quanh [9]. Ngoài sulphide kẽm những lớp phủ giảm bức xạ hồng ngoại bằng những vật liệu khác vẫn còn tiếp tục được nghiên cứu để nâng cao hiệu quả nầy đến mức tối đa. 
"Đỉnh cao của trí tuệ loài người" lúc nào cũng được nâng cao dường như vô hạn bởi những thúc đẩy và thử thách liên tục trong nghiên cứu khoa học. Những thử thách nầy là những khoắc khoải triền miên nhưng lại là cái "thú đau thương" của những nhà khoa học. Làm khoa học như đeo đuổi một giai nhân vì khoa học cũng đẹp như giai nhân và cũng giống giai nhân ở chỗ khi càng đeo đuổi thì người đẹp càng đỏm dáng làm cao.... Khoa học càng đẹp khi khoa học phục vụ cho một mục tiêu hoà bình. Điều làm nhà khoa học bớt trăn trở với lương tâm của mình trong cuộc đấu trí chết người giữa "địch và ta" là ứng dụng hoà bình của những sản phẩm quốc phòng trong đó sự ứng dụng của radar là một thí dụ điển hình. Loại vải "thông minh" làm cho người mặc "tàng hình" trong những cuộc hành quân tác chiến có thể tiếp tục được nghiên cứu để chế thành loại vải cung cấp điện cá nhân từ năng lượng mặt trời (photovoltaic effect) hay làm mát người trong những ngày hè nóng bức, làm ấm người trong những đêm đông giá buốt  (micro-climate control). Hãy nghĩ đến một ngày ta có thể dùng chiếc áo đang mặc trên người lợi dụng ánh sáng mặt trời tạo ra một điện thế để đổi màu áo cho vui, hay nạp điện cho chiếc điện thoại di động, hoặc chuyển sang cơ năng điều hòa nhiệt độ cơ thể nếu ta cảm thấy nóng nực hay rét buốt. Niềm mơ ước tuổi thơ muốn biến thành người hùng với bao phép thần thông như chú khỉ của Ngô Thừa Ân rồi đây cũng sẽ là hiện thực. Tôi nghĩ ngày ấy chắc không xa.

* Đã đăng trên www.erct.com www.khoahoc.net, viết lại cho Vietsciences với một số bổ sung.
TVT
January 2006
 

Tài liệu tham khảo

1.     Xem "Một phát hiện của thế kỷ 20: Plastic dẫn điện" cùng tác giả, www.erct.com, www.khoahoc.net/baivo/truongvantan/plasticdandien.htm
2.     V.-T. Truong, S. Z. Riddell, R. F.  Muscat, “Polypyrrole based microwave absorbers”, J. Mater. Sci., 33 (1998), pp. 4971
3.     J. H. Goldberg, "The technology of stealth", Technology Review (May/June 1989), pp. 33
4.     "Handbook of Organic Conductive Molecules and Polymers" (H. S. Nalwa Eds.), Volume 3, Chapter 8, 1997 John Wiley & Sons Ltd
5.     www.lowobservable.com
6.     Thí dụ: A. A. Argun, A. Cirpan, J. R. Reynolds, “The first truly all-polymer electrochromic devices”, Advanced Materials, 15 (2003), pp. 1340
7.     S. S. Hardaker, R. V. Gregory, "Progress toward dynamic color-responsive "chameleon" fiber systems", MRS Bulletin, 28 (August 2003), pp. 564
8.     R. A. Stonier, "Stealth aircraft & technology from World War II to the Gulf", SAMPE Journal, 27  (September/October 1991), pp. 9
9.     "Disappearing Tricks", Chemistry in Britain, October 1999, pp. 24
 

Tài liệu đọc thêm về lịch sử phát triển của máy bay tàng hình:

Bill Sweetman, “Stealth aircraft: Secrets of future airpower” (1986), Motorbooks International Publisher, Wincosin, USA.

 Sưu tầm từ

           © http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.net  Trương Văn Tân
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét