Translate

Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

TRÀ THƯ - IV

- Văn hóa trà Việt Nam xuất phát từ vùng Tây-Bắc miền Bắc Việt Nam
Còn đối với Việt Nam, các chứng cứ cho thấy trà là cây bản địa, nhưng chứng minh người Việt biết uống trà từ bao giờ và phong cách uống trà của người Việt hình thành từ bao giờ quả là câu hỏi hóc búa. Nhiều khả năng tập quán uống trà của người Việt là tự có hay khởi sinh từ sự giao lưu giữa người Việt với các dân tộc thuộc Nam Chiếu – Đại Lý xưa kia. Ở đây muốn nhấn mạnh là sử liệu không có dấu vết gì chứng minh tập quán uống trà và giống trà do người Trung Hoa đem qua Việt Nam cả. Nếu có chắc hẳn sử Trung Hoa đã có ghi như từng ghi những kỹ thuật truyền bá qua Việt Nam.
Một số cơ sở cho thấy có sự giao lưu văn hóa trà và các dân tộc này như sau:
  • Một phần lãnh thổ miền Bắc Việt Nam ngày nay (vùng thượng du) xưa kia là lãnh thổ nước Đại Lý[7], sự giao lưu giữa các dân tộc hẳn nhiên là có. Như trên đã nói nước này theo Phật giáo Mật tông; và các thiền sư Việt Nam thời đầu Công nguyên đều có dấu ấn Mật tông hơn là Thiền Nam Tông.  Như truyện Từ Đạo Hạnh đi đến xứ Kim Xỉ Man (mọi răng vàng) để học phép thuật về trả thù cho cha; tiến sĩ thiền sư Lê Mạnh Thát chú: “phần đất ấy thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Xem Nguyên sử 16 tờ 8a4. Gọi là Mọi Răng Vàng vì dân tộc ấy dùng vàng lá mà trang sức răng mình, “khi ăn thì lấy ra”. Họ có nhiều giống, mà Tân Đường Thư 222 hạ tờ 15b-16a liệt ra như giống Tú Cước, giống Tú Diện, giống Điêu Đề, giống Xuyên Tỷ. An Nam Chí Lược 1 tờ 19 nói: “Đà Giang Lộ tiếp giáp với Kim Xỉ”. Kim Xỉ đây đương nhiên là Kim Xỉ Man.”. Trong bài viết tựa đề “4.000 năm Văn hiến” giáo sư Nguyễn Đăng Thục có trích dẫn sách “Hoa Dương Quốc Chí, q.3 Thục Chí” của Trung Hoa rồi diễn giải: “Vân Nam với Bắc Việt liền tiếp với nhau, từ thời cổ xưa hai miền giao thông rất thịnh, cho nên thời cổ sự giao thông giữa Tứ Xuyên với Bắc Việt chắc hẳn là tấp nập.”
  • Lối nấu trà xanh Việt Nam (trà tươi) có thêm gừng đã nói ở chương 3 “Danh trà” là dấu vết của giao lưu văn hóa trà này. Vùng Thanh Hóa[8] xưa kia có loại trà Bạng với cách chế biến gần giống trà bánh của vùng Vân Nam. Đến đầu thế kỷ 20, trà nổi danh vẫn là trà Mạn Hảo (một địa danh ở Vân Nam) cho thấy một mối giao lưu trà và “gu” uồng trà với vùng này và Việt Nam có truyền thống lâu đời.

trà-9
Nhìn theo góc độ này dòng trà Việt Nam kết tinh từ sự giao lưu với vùng Tây-Nam Trung Hoa (nói cụ thể là với Nam Chiếu – Đại Lý), và có thể cùng vùng này là nơi khởi sinh nền văn hóa trà đầu tiên trên thế giới ở Tây Bắc miền Bắc Việt Nam. Cũng có thể nói người Việt ít nhất biết dùng trà trễ nhất là thế kỷ thứ 4-5 hình thành nền văn hóa trà hoàn thiện và rực rỡ vào thế kỷ 10-12 (đời Lý-Trần).
Đứng trên góc độ lịch sử, người Bạch và người Di từ vùng Vân Nam di cư vào vùng Tây-Bắc Việt Nam cũng có những cứ liệu khá chính xác. Trong tác phẩm “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam” Cẩm Trọng viết: “Từ những tư liệu trên có thể nhận định tổng quát về nhóm Thái Trắng ở Miền Bắc – Tây Bắc là một nhóm người Thái sau khi tách khỏi nhóm tộc gốc (người Tày cổ) đã gia nhập nhóm ‘Bạch’ gồm các tộc thiểu số, đặc biệt là các tộc người trong nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến cư trú ở miền thượng Sông Đà, sông Nậm Na. Quá trình họ gia nhập nhóm ‘Bạch’ cũng là quá trình tổ tiên họ di cư đến ở caá thung lũng Mường Lay, Mường Tè và Phong Thổ trong khoảng những năm đầu thiên niên kỷ I Công Nguyên. Sau khi đã ổn định nơi cư trú ở các vùng thung lũng đó, có những bộ phận họ lại chuyển dịch theo các con suối và sông Đà tiến sâu hơn nữa xuống phía nam Tây-Bắc và các vùng lân cận khác ở nước ta ” và nêu luận điểm các dân tộc này vào thế kỷ thứ 7 và thứ 8 đã hùng cứ vùng Lai Châu và Vân Nam, thời điểm cực thịnh của nước Nam Chiếu. Và viết trước đó có giới thiệu: “Đời Trần, toàn vùng tây Bắc là lộ Quy Hóa, lộ Đà Giang. Quê hương của người Thái chủ yếu nằm ở lộ Đà Giang. Đến đời Hồ thì đổi thành trấn Thiên Hưng. …. Từ đời Lê (Hậu Lê) về sau, Tây Bắc được gọi là Hưng Hóa
Nhưng trước khi Việt Nam giành được độc lập đối với Phương Bắc, người Thái ở vùng Tây Bắc đã hình thành và tương đối có quyền tự trị so với Trung Hoa, Cẩm Trọng viết: “Thời kỳ nước ta bị phong kiến Phương Bắc thống trị, miền Tây-Bắc sẵn vị trí vô cùng hiểm trở, con người ở đây dũng cảm, bất khuất, kẻ thù đã nhiều lần dùng vũ lực đàn áp, khuất phục, nhưng rốt cuộc vẫn nằm ngoài vòng cương tỏa của chúng. Điều phán đoán này đã chứng tỏ qua sự thú nhận của viên thái thú Đào Hoàng (thời Tam Quốc): ‘Đất ấy là đất hiểm trở, người Di, Lảo[9] hung bạo trải nhiều đời không phục
Đến đời nhà Trần tuy quy thuận Việt Nam nhưng thực sự các vua Trần vẫn để tự trị và nhiều lần gã công chúa để kết tình giao hảo. Trong cuốn Dư Địa Chí[10] phần chú của Lý thị có viết: “Tuyên, Hưng, Lạng, Thái, Cao Bằng là 5 lộ ở miền Thượng Du, hiểm trở đảng cậy, rắn rết, ma quỷ thường làm tai quái cho người, thủy  thổ độc dữ hay làm bệnh tật cho người; thế mà nam tử phụ đạo vẫn không bỏ lễ phiên thần” cho thấy một khoảng thời gian dài trong lịch sử vùng đất này là phiên thuộc chứ không là châu huyện của Việt Nam. Qua đến đời Lê quan lại Việt Nam mới từng bước cai quản miền đất này, nhưng vẫn chưa hoàn toàn cai trị vì trong Dư Địa Chí Nguyễn Trải từng viết: “…đó là phên giậu thứ hai ở phía tây.” Đến thời Nguyễn mới thực sự trực thuộc Triều Đình Huế, nhưng ngay sau đó trao cho Pháp quyền bảo hộ.
Cuộc di cư này chắc chắn du nhập vào vùng đất mới phong tục tập quán của họ, trong đó có tập quán uống trà.
*****
Vậy tại sao ngày nay khi nói đến trà người ta nghĩ ngay đến Trung Hoa và Nhật Bản. Đó là vì họ có phương thức truyền bá tư tưởng tốt: người Trung Hoa bằng các huyền thoại và cửa miệng các Hoa Kiều (chưa kể ngụy thư đời sau viết gán cho người đời trước để làm chứng cứ giả tạo); người Nhật có tác phầm Book of the Tea[11] của Okakura Kakuzo gây tiếng vang trên thế giới và gây tò mò người Phương Tây nơi nghi thức trà của họ vừa cầu kỳ vừa thoang thoảng kỳ bí.
Theo ông Đỗ Ngọc Quỹ nói về cuộc tranh luận về quê hương cây trà đã kéo dài trên hai thế kỷ: Năm 1951 Đào Thừa Trân, một học giả Trung Quốc, đã sắp xếp các cuộc tranh luận đó thành 4 học thuyết: thuyết Trung Quốc, thuyết ấn Độ, thuyết hai nguồn gốc và thuyết chiết trung (đứng giữa). [Khanhhoathuyngashop’s blog]. Ở đây cũng vậy, xin nhấn mạnh chỉ là một giả thuyết chứ không mang tính khẳng định. Nhưng nếu đúng thì cội nguồn văn hóa trà là của người Bạch và người Di, tổ tiên của người Thái ngày nay. Văn hóa trà của Trung Hoa là sự vay mượn rồi thôn tính luôn.

[1] Theo nhận định của Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời (NXB Văn hóa Thông tin, 2005) dựa vào các sách cổ thì Giao Châu phủ kín đất Bắc Bộ ngày nay, trừ vùng thượng lưu sông Đà và thượng lưu sông Mã, đồng thời ăn sang cả vùng tây nam Quảng Tây (Trung Quốc) ngày nay. Do vậy giả thuyết Đại Lý bao gồm cả vùng thượng du Bắc Việt không phải thiếu cơ sở.
[2] Trước đó Đinh Liễn còn cống trà như món hang hoá quý.
[3] Chính sử chỉ ghi chép vua Huy tông thích uống trà và thường mở tiệc trà thưởng quần thần hay ban trà cho sứ thần. Nhờ vậy trà lan truyền qua Nhật Bản và Hàn Quốc bằng con đường ngoại giao, cũng chứng tỏ trà vào thời này là thức uống quý hiếm. Nhưng chúng minh Tống Huy Tông là người sành điệu trà viết thành cuốn Đại Quan Trà Luận còn cần nhiều dữ liệu thuyết phục hơn vì sử chẳng hề ghi chính tay vua pha trà. Có thể trong triều có một vị quan giỏi về pha trà.
[4] Phái lý học Tống Nho ra đời một phần do hoàn cảnh lịch sử dời kinh đô về phía nam của    nhà Nam Tống, có dịp cho trí thức Nho giáo cọ sát với dòng tư tưởng Lão Trang của Hoa Nam. Tống Nho hay gọi theo phương tây là Tân Nho giáo mang một sắc thái dân chủ và phóng khoáng hơn Hán Nho.
[5] Lấy làm quận huyện chgu71 không còn cho tự trị như nhà Nguyên nữa.
[6] Cuối đời Nam Tống, tức sắp bước qua nhà Nguyên, giới trí thức Trung Hoa mới xuất hiện một danh nho tự lấy hiệu là Trà Tiên (茶仙) khi đã xế chiều, người đó là Chu Hy. Truy cho tường Tận, Chu Hy tuy người quê quán Vụ Nguyên nhưng sinh đẻ ở Phúc Kiến (Hoa Nam), ông sống gần 40 ở vùng trà Vũ Di Sơn, lý học của ông in đậm dấu vết của Lão Giáo và Phật Giáo. Như vậy đến cuối đời Năm Tống trà vẫn là nền văn hóa riêng của vùng Bách việt Hoa Nam.
[7] Dư Địa Chí của Nguyễn Trải cũng viết: Hưng Hóa xưa thuộc bộ Tân Hưng, ở thời Hán là Nam Trung. Mạnh Hoạch chống cự với Khổng minh ở đấy. Phía Tây giáp Vân Nam, phía Tây giáp Sơn Tây, phía Bắc và phía Nam giáp Tuyên, Nghệ. [Nguyễn Trải Toàn Tập – NXB Khoa Học Xã Hội 1978 – Trg 227]. Chứng tỏ vào thời Tam Quốc đất nước chúng ta không rộng về phía Thượng Du bắc Việt, vì lúc đó chúng ta thuộc Đông Ngô và Mạnh Hoạch không là người Việt.
[8] Trong bài Giới thiệu đề tháng 1-1978 in trong cuốn “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam”, Bế Viết Đằng (lúc đó là Viện phó Viện Dân Tộc Học) có viết: “…; chính từ đó xưa kia một bộ phận họ (tức người Thái) đã đến các vùng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh làm ăn sinh sống …” Truyền thống trà truyền vào vùng Thanh Hóa cũng có thể do dòng di cư này.
[9] Người Hán vùng cận Vân Nam quen gọo caá dân tộc Hà Nhì, Lô-lô (nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến) là người Di và gọi người Thái (cũng nói ngôn ngữ Tạng Miến) là là người Lảo (nói chệch từ người Lự) và nay gọi là ngừơi Bạch hay Bạch y (Thái trắng). Di vào Bạch là hai dân tộc hiện sống ở Vân Nam.
[10] Sách này còn có tên là An Nam Vũ Cống. Tài liệu sử dụng trích từ cuốn Nguyễn Trải Toàn Tập. Trích dẫn này nằm ở trang 228.
[11] Tương tự cuốn Thiền Luận của Daisetz Teitaro Suzuki, qua tác phẩm này thế giới dùng chữ  “zen” của Nhật để dịch chữ thiền
Trà thư – Đức Chính biên soạn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét