b. Statues:
Tượng Phật Tây Tạng nổi trội hơn so với
bất cứ nơi nào trên thế giới bởi sự đa dạng phong phú về thể loại, mỗi
tượng lại xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau (Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc,
bản địa), hình thái phong cách dáng ngồi tay ấn nét mặt màu sắc trang
phục đều cực kỳ sinh động, toát lên những nét riêng của văn hoá Phật
giáo Mật tông huyền bí. Nhìn ngắm mỗi bức tượng Tây Tạng, du khách sẽ bị
thu hút bởi đôi mắt Phật không phải lúc nào cũng hiền từ nhìn xuống mà
đôi khi mở to nhìn thẳng hay nhắm mắt, tuỳ thuộc theo tư thế thiền
định và mỗi dáng ngồi, sau đó là những phù điêu trang trí nhiều tầng
bao quanh tượng và cả chân bệ. Người Tạng còn dùng vàng, bạc, đồng, các
kim loại quý và ngọc thạch, hổ phách, đá quý … để tô điểm thêm cho
tượng, nâng giá trị của các bức tượng lên tầm có một không hai, trở
thành tài sản vô giá của dòng Phật giáo nơi đây. Tây Tạng có những bức
tượng cá biệt đến vài nghìn năm tuổi được trưng bày bên trong cung
Potala. Thường các tu viện lớn và cung Potala đều cấm chụp ảnh nên cách
tốt nhất có lẽ là một lần đến Tây Tạng để được chiêm ngưỡng những bảo
vật truyền đời nơi đây.
(Tượng Thiên Vương chụp ở Shigatse)
c. Murals:
Murals hay các bích hoạ vẽ trên tường là
hình thức nghệ thuật nổi tiếng của Tây Tạng, không chỉ mang tính trang
trí làm đẹp với sắc màu cực kỳ sặc sỡ, những bức mural còn biểu hiện
đức tin cổ giáo của người Tạng vào trời đất cỏ cây sông hồ núi tuyết,
đôi khi là hình thức kể chuyện thuật lại tích cũ việc xưa trong quá
trình gây dựng và hoằng trương tông phái, có lúc lại khắc hoạ chân dung
những vị Phật, Bồ Tát, La hán, Hộ pháp, Tạng vương cũng như danh sư
đạo Phật. Được biết chất liệu để vẽ tranh tường đều dùng nguồn nguyên
liệu sẵn có ở mỗi địa phương, qua các công thức pha tạo màu cộng với
chất liệu tự nhiên khả năng bảo vệ bức tranh theo thời gian hàng trăm
năm mà không phai nhạt hay hư hại gì!
(Bức mural chụp ở Shigatse)
d. Thangkas:
Thangka cũng là các bức tranh Phật giáo
bắt nguồn từ Nepal và du nhập vào Tây Tạng từ thời vua Tùng Tán Cương
Bố lấy công chúa Nepal Ba Lợi Khố Cơ. Thangka Tây Tạng có thể xem là
đỉnh cao của nghệ thuật tượng hình (Iconography) mà đề tài thường gặp
là các bức vẽ về cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni, Pháp luân, Phật Dược
Sư, các tư thế toạ thiền, các vị hộ pháp và quỷ thần … Được biết
Thangka được vẽ trên vải dệt sợi đay, rồi dùng mật của giống trâu Yawk
trộn với bột đá để bồi mặt vải cho mịn, sau đó căng tấm vải đã bồi lên
khung gỗ và dùng các loại màu khoáng hay bột vàng để vẽ. Tranh Thangka
sau đó được khâu vào khung bằng lụa để dễ dàng cuộn lại, tiện lợi cho
việc di chuyển và bảo quản.
Người ta tin rằng Thangka không chỉ cảm
nhận được bằng mắt mà còn bằng tâm, việc chiêm bái Thangka một cách
trang nghiêm sẽ giúp Phật tử nhập tâm, hoá thân với đối tượng được vẽ
trong tranh, cảnh giới này có lẽ chỉ được nội truyền trong các tông phái
mà không truyền cho người ngoài. Màu sắc sử dụng trong Thangka cực kỳ
sinh động, sặc sỡ và chi tiết tới từng đường nét nhỏ. Chính bởi tính
độc đáo của Thangka và ảnh hưởng tín ngưỡng của nó mà người đời sinh ra
sùng bái và ham thích sở hữu Thangka, phá vỡ quy luật gốc của tranh là
không được trao đổi mua bán! Ngày nay Thangka đã thương mại hoá, việc
sao chép, vẽ lại và buôn bán trở nên phổ biến tại thị trường các nước;
tuy nhiên vẻ đẹp và sự tinh xảo thì kém xa những Thangka hàng nghìn
tuổi của vùng Tây Tạng. Do đó đến Tây Tạng ngắm những bức Thangka cổ
đại, người ta vẫn rung động và trân trối bởi nét độc đáo đầy tính Chân
Thiện Mỹ toát lên từ mỗi bức tranh.
Trường phái Thangka Tây Tạng nổi bật lên
với 2 tên tuổi: Khentse Chenmu School và Menthang School, tác phẩm của
2 trường phái này du khách sẽ bắt gặp nhiều khi đi thăm quan hành cung
Potala
Mandala: Mandala cũng là những bức hoạ
hình giống như Thangka, điểm khác biệt ở đây là Mandala luôn chú trọng
vào các hình vẽ vòng tròn biểu thị cái nhìn của người Tạng về thế giới
và vũ trụ, trong đó hoạ hình các đức Phật hay Bồ Tát hoặc những biểu
tượng Phật giáo. Điểm độc đáo ở Tây Tạng là có những mandala cỡ lớn và
cực lớn bằng cát, có Mandala ba chiều mô phỏng các cung điện, và đặc
biệt là các tu viện được xây theo kiến trúc Mandala như tu viện Samye
(Samye Monastery) đã có dịp nhắc đến trong phần 1 về Phật giáo Tây Tạng.
(Bức Mandala lớn vẽ trực tiếp trên tường – ảnh chụp ở Shigatse)
e. Stupas:
Stupa (hay Chorten) xây theo dạng hình
tháp, được coi như ngôi nhà lưu giữ phần hồn, cũng giống như các pho
tượng được xây để lưu giữ phần xác vậy. Ở Tây Tạng, stupas có mặt ở khắp
mọi nơi, không chỉ là nơi chứa tro cốt di hài mà còn chứa những vật
dụng bình sinh được Đức Phật hay các môn đệ sử dụng; qua đó thể hiện sự
tôn kính của người dân đến di thể của Phật.
Stupa thường gặp gồm nhiều tầng: tầng
đáy thấp nhất tượng trưng cho 10 điều tâm niệm (Thập tâm hạnh), tầng
tiếp theo gồm 4 bậc tượng trưng cho Tứ Diệu Đế (Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế,
Đạo Đế) và Tứ Thần Túc (Dục, Tinh, Tâm Quán), phần trên nữa có dạng
bầu là biểu hiện của Ngũ Căn (Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Huệ
căn) và Ngũ Lực (Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Ðịnh lực, Huệ lực), phía
trên là 13 bậc thang dẫn lên cao tượng trưng cho đường tới cõi Niết bàn
chỉ có thể thông qua Bát Chính Đạo, và trên cùng luôn là mặt trăng và
mặt trời biểu thị sự minh triết soi sáng mọi vật.
Nổi bật phải kể đến bộ 8 stupa lớn
(Eight Great Stupas) kể lại những thành tựu trong cuộc đời tu hành đắc
đạo của Phật Thích Ca Mầu Ni; và các Stupa Tomb bằng vàng ròng cực lớn
của các đời Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng lưu giữ bên trong cung Potala:
Những chi tiết thú vị khác của văn vật
trong Phật giáo Tây Tạng sẽ được nhắc lại khi cùng bạn đọc đi qua những
địa danh ở Tây Tạng ở các bài viết tiếp theo.
Sưu tầm từ:http://ue.vnweblogs.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét