Translate

Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2012

KHẢO CỨU VỀ CHỢ VIỆT XƯA - I

Chân dung chợ Việt xưa
Khảo cứu của Trịnh Quang Dũng

Chợ vốn dĩ là nhu cầu tối thiết yếu của con người, với người Việt nam chợ lại cũng là một cái gì gần gũi hơn nữa, máu thịt hơn nữa…chả thế mà cả đến cái tên nôm na của chốn quốc đô cũng gọi là “Kẻ Chợ”. Tên Kẻ Chợ được nhiều người gọi trong dân gian, đặc biệt là các giáo sĩ, thương nhân phương Tây và trở nên rất phổ biến từ thế kỷ 17 khi mà Tonquin (Đông Kinh) thời bấy giờ trong những ngày “Phiên” trở thành một cái “chợ khổng lồ” [1:].Người phương Tây đầu tiên dùng từ Kecho phải dành cho giáo sĩ Bồ Đào Nha, ông Barros. Ông đã phiên âm tiếng Kecho (cacho) trong cuốn sách “Nói về Châu A-Da Asia” của mình và cho ấn hành vào năm 1550. Rất nhiều các từ phiên âm khác xuất hiện muộn hơn trong các văn bản, bản đồ của người phương Tây sau này như: kechu, cachu, cacho v.v…tất cả đều là phiên âm của từ Kecho. Kẻ có nghĩa là “vùng” vậy nên trong dân gian, địa danh kẻ Mơ, kẻ Cót, kẻ Noi v.v… vẫn còn tồn tại khá phổ biến cho tới tận nửa đầu thế kỷ 20. Bởi vậy cái tên Kẻ Chợ bao hàm ý nghĩa “vùng đất họp chợ”, “vùng rất nhiều chợ”. Chỉ riêng điều đó cũng cho ta thấy sự phát triển của mạng lưới chợ như “trăm hoa đua nở” ở mảnh đất đế đô Đông Kinh vào thế kỷ 17,18.
Sự hình thành của thị trường thương mại ở Đông Kinh-Kẻ Chợ
Từ thế kỷ 15, sau khi chiến thắng quân Minh, nước Đại Việt trở lại hồi sinh và nền kinh tế dần dần phát triển đạt tới mức độ sầm uất, tấp nập cực điểm vào thế kỷ 17,18. Trong hai thế kỷ này chế độ phong kiến trung ương tập quyền hình thành từ thời Lê Thánh Tôn (1460-1497) và được phát triển một cách sáng tạo đột biến dưới triều Lê-Trịnh (1592-1786) như một yếu tố cốt lõi cho sự hòa nhập của Đại Việt vào cuộc “bùng nổ đại mậu dịch” thời đó. Sau sự kiện Chúa Trịnh Sâm tiến vào Phú Xuân, kết thúc sứ mệnh bình Nam (1774), non nước Đại Việt đã thâu về một mối. Việc thống nhất tiền tệ, thông thương Nam Bắc lần đầu tiên được nhà nước chính thức xác lập sau khoảng 150 năm chia cắt. Một mạng lưới chợ đã được liện kết mở rộng cả vào khu vực phía trong tạo nên thương trường rộng lớn. Trong bối cảnh như vậy Đông Kinh - Kẻ Chợ đóng vai trò như một trung tâm đầu mối quan trọng hàng đầu của nền thương mại Đàng ngoài. Với việc khu trung tâm quyền lực chính trị, hành chính- Vương phủ Chúa Trịnh không đóng trong thành, Đông Kinh lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trở thành một đô thị -Kinh đô mở, không tường thành bao quanh, không biên giới hạn chế, thông thương kiểu các đô thị Châu Âu trung đại. Giáo sĩ A. De Rhode đã gây bất ngờ lớn khi ước định về dân số Đông Kinh: “Người ta thấy rất đông dân chúng đi đi lại lại rảo khắp phố phường đụng chạm nhau…thành thử mất rất nhiều thì giờ mà chỉ tiến đựơc chút ít. Rồi thêm vào nhiều phỏng đoán khác, theo dư luận chung thì dân cư ở kinh thành lên tới “một triệu người ”[1:16]. Con số đó hoàn toàn có thể tin được khi một người phương Tây khác, ông W. Dampier cũng ước đoán rằng “Kẻ Chợ có vào khoảng 20.000 nóc nhà…”. Đã có rất nhiều tư liệu lịch sử và ghi chép của các nhân chứng đương thời khẳng định Đông Kinh-Kẻ Chợ là một đô thị to lớn hàng đầu khu vực và có thể sánh với các đô thị lớn ở Châu Âu như Venise.Việc tăng dân số đột biến ở Đông Kinh-Kẻ Chợ không phải ngẫu nhiên. Một mặt do Chúa Trịnh luôn duy trì ở kinh sư một bộ máy quân sự khổng lồ thuộc loại hùng mạnh nhất đương thời”. Chúa thường có 100 ngàn quân”[2:132] nên gia đình quan lại, binh lính, tầng lớp nô bộc, phục vụ họ đã nhanh chóng bổ sung dân số Đông Kinh mà ngày nay ta quen gọi với danh từ “dân số tăng cơ học”. Mặt khác tình hình làm ăn phát đạt ở Kinh đô biến khu 36 phố phường phát triển và mở rộng như một nam châm khổng lồ khiến làn sóng “di dân” lập nghiệp cuồn cuộn đổ về Thăng Long. Phố Hàng Bạc vốn chỉ có dân Châu Khê Hải Dương lên lập nghiệp đúc bạc, tiền, từ thế kỷ 16 thì nay lại có thêm thợ kim hoàn làng Thanh Trì kéo về vào đầu thế kỷ 18. Họ Nguyễn-Sơn Nam Hạ tới Làng Nam Đồng. Họ Nguyễn Thanh Hoá tới làng Phương Liệt. Hậu duệ Chúa Trịnh kéo tới Thái Kiều - thôn Trung Phụng định cư. Dân Hải Dương kéo về làm nghề da và đóng dày ở phường Hài Tượng. Dòng Nguyễn Đắc Cổ Định –Thanh Hóa tới Thăng Long, dòng Nguyễn Hữu Liêu từ Châu Ái ra Làng Tây Tựu Từ Liêm v.v… Một nguyên nhân khác góp phần thúc đẩy dân số Kẻ Chợ tăng vọt chính là số lượng đông đảo các cậu học trò kéo về đất kinh kỳ học tập “dùi mài kinh sử “làm khởi sắc,no nhiệt cả một khu Sĩ Hoạn ở phường Bích Câu suốt hai thế kỷ. Điển hình là câu chuyện hình thành ngõ Phát Lộc gần cửa ô Trừng Thanh. Chính từ cậu học trò người làng Phát Lộc lên học thi ban đầu rồi kéo cả làng theo tạo lập nên con ngõ này còn tồn tại tên cho tới ngày nay. Có thể nói suốt hai thế kỷ 17,18 Đông Kinh đã có một cuộc “bùng nổ dân số” chưa từng có trong lịch sử phong kiến Việt Nam.Ta có thể tưởng tượng với dân số cỡ một triệu, tương đương với dân số Hà Nội nửa sau thế kỷ 20 sẽ đòi hỏi một mạng lưới chợ to lớn biết nhường nào ở Đông Kinh.
Mạng lưới chợ ở Đông kinh
Mạng lưới chợ Thăng Long Đông Kinh- Kẻ Chợ được hình thành dần dần theo thời gian. Đặc thù nền kinh tế nơng nghiệp Đại Việt thế kỷ 17-18 đưa đẩy hình thành một cách tự nhin ba dạng chợ: Chợ kinh thành, chợ nông thôn và chợ chuyên doanh. Chưa có tư liệu lịch sử nào xác thực về sự tồn tại các chợ chuyên doanh ở thời Lý, Trần. Nhiều khả năng loại hình chợ chuyên doanh chưa xuất hiện vì trình độ sản xuất và sức sản xuất thời kỳ này khá thấp.Thêm nữa nhu cầu tiêu dùng xã hội chưa cao bởi số lượng cư dân Kẻ Chợ còn thưa thớt, vẻn vẹn vài vạn người trong một quan thành giới hạn chỉ 4Km2 [9]bao bọc bởi sơng Hồng ,sông Kim Ngưu và sông Tô Lịch (dân số cả nước năm 1054: chỉ khoảng 2,2 triệu, 1407: 3,1 triệu).
Mạng lưới chợ thành thị ở Đông Kinh được tổ chức trên cơ sở các phường thị kiểu “buôn có bạn, bán có phường” theo từng ngành hàng riêng. Ta hãy nghe Cha Marini,nh truyền gio người Ý (1666) mô tả:” Ở lối cổng vào mỗi phường có một tấm bảng đề, hoặc một tấm biển ghi rõ loại hàng và chất lượng hàng đươc bán ở đó”[2:194]. S.Baron (1680 ) còn cho ta biết rõ Phường buôn bán ở Kẻ Chợ chính là đầu ra của các chợ và các làng vùng thôn quê”…Tất cả những phẩm vật khác nhau bán trong thành phố này đều được dành riêng cho từng phường và mỗi phường đó lại phụ thuộc vào một hay nhiều làng và dân chúng các làng xã này được đặc quyền mở các cửa hiệu ở đấy”[10:12]. Lúc bấy giờ đi chợ thật dễ dàng: Tơ, lụa đi vào trong phố Hàng Đào…đồ kim khí vào trong phố Hàng Đồng…Mũ nón vào phố Hàng Nón,rồi Hàng Khoá, Hàng Thuốc Nam, Thuốc Bắc, phố Hài Tượng vv … thật không thiếu thứ gì. Ngoài mạng lưới chợ theo ngành nghề ở khu 36 phố phường ta phải kể đến mạng lưới chợ nông sản, nhu yếu phẩm nằm ở các cửa thành ngoài, cửa hoàng thành, bến đò, cửa sông. Ít nhất có thể điểm danh trên 10 chợ lớn còn thu thuế vào năm Bảo Thái thứ hai 1727, chợ Cửa Đông lệ thuế đóng 318 quan 8 tiền, 100 tấm da trâu. Chợ Cửa Nam, chợ Huyện, chợ Đình Ngang, chợ Bà Đá lệ thuế là 310 quan 8 tiền 100 tấm da trâu. Chợ Vân Cử lệ thuế là 19 quan tiền 2 tiền quý, chợ Ông Nước lệ thuế là 46 quan 8 tiền vv…[6:36]. Còn rất nhiều chợ khác ở các cửa ô: chợ Yêu Thơ (ô Cầu đền), chợ Dừa (ô Chợ Dừa), chợ Cót (ô Cầu Giấy), chợ Bạch Mã (ô Đông hà), chợ Bác Cử, v.v… Chợ Dừa vốn là một bến trên sông Lừ, đầu mối giao thương quan trọng ở phía Nam kinh thành khiến cho cửa ô chợ Dừa luôn sầm uất náo nhiệt[4:95]. Chợ Cửa Đông tọa lạc ở khu trung tâm Kẻ Chợ là một chợ lớn và nhộn nhịp bậc nhất kinh sư. Nằm ở phía cửa Đông Hoàng thành nên nó còn một tên khác-chợ Đông Thành. Là chợ lớn nhất kinh thành nên nó nhóm họp thường xuyên hàng ngày song vẫn có ngày phiên vaò ngày 1 và ngày 5 vốn là dấu ấn từ xa xưa của cái thuở Lý Thái Tông lập chợ “… Cho mở chợ về cửa Đông, hàng quán san sát, chen chúc sát đến bên đền Bạch Mã rất là huyên náo”[2:82]. Chợ này đầu thế kỷ 18 còn họp bên cầu Đông trên phố Hàng Đường sau mở rộng dịch chuyển về phía tây chiếm một diện tích rộng lớn gồm phía Bắc là dãy phố Hàng Mã, phía nam là phố Bát Đàn, phía Tây là nửa phố Hàng Cót, phía Đông là phố Thuốc Bắc. Sau khi Pháp chiếm Thăng Long,lấp sông Tô Lịch quy hoạch lại khu phố chợ này được chuyển ra chợ mới tức chợ Đồng Xuân hiện nay[11:341].
Các chợ xứ Tonkin đều họp theo phiên, theo chu kỳ để dân tứ xứ biết mà hội về họp chợ. Chu kỳ phiên chợ này được ghi nhận trong nhiều từ chính sử, tư liệu cá nhân, cho tới các ký sự của giáo sĩ phương Tây và du khách tới Đại Việt. Cha Marini (người Ý), giáo sĩ A. Rhodes (Pháp) có mặt ở nước ta ngay từ những năm đầu thế kỷ 17 cho biết “… Chợ ở Kẻ Chợ mỗi tháng có hai phiên vào hai ngày rằm và mồng một”. Tuy nhiên sau hơn 100 năm vào cuối thê kỷ 18, danh sĩ Phạm Đình Hổ tả rõ 8 phiên trong tháng “… phiên chợ là các phiên ngày 1, 6, 11, 14, 15, 21, 26, 30 “[5:83]. Thế kỷ 19, khi không còn giữ vị trí đế đô của quốc gia Kẻ Chợ bước vào thời kỳ suy thoái và ngay lập tức tần suất các ngày phiên chợ đã “giảm nhiệt” đáng kể chỉ còn 5-6 phiên mỗi tháng[2:38].
Cảnh phố xá ngày phiên chợ ở thế kỷ 17,18 thật sầm uất khiến chúng ta ngày nay cũng không khỏi ngỡ ngàng: “…Rất nhiều phố tuy đã rộng rãi, nhưng lúc đó cũng trở thành chật ních, mà người ta hy vọng là nếu có thể tiến lách qua những đám đông khoảng chừng 100 bước trong nửa giờ, thì cũng đã sung sướng lắm rồi”[10:12]. Chợ thường họp từ 6 giờ sáng đến 2 giờ chiều, có chợ kéo dài đến 5 giờ chiều. Thời gian họp chợ chốn kinh thành dài hơn chợ nông thôn, thường từ sáng sớm 5 giờ sáng cho tới 16 -17 giờ. Song ở Kẻ Chợ còn có các loại chợ họp theo những giờ đặc biệt, đó là chợ Hôm chuyên họp lúc chiều tối ở Nam Phố (phố Hàng Bè), lại có những chợ chỉ họp lúc tinh mơ như chợ Mơ vùng Hoàng Mai. Có một chợ Hôm khác ở làng Giáo phường, tổng Tả Nghiêm huyện Thọ Xương (phố Huế ) vốn là một chợ nhỏ cũng chỉ họp lúc chiều hôm. Sang đầu thế kỷ 20, chợ này lớn dần chỉ thua chợ Đông xuân và họp suốt ngày từ sáng sớm, bởi vậy mới có câu ca dao:
Chợ Đuổi họp lúc chiều tà
Chợ Hôm họp sáng…chợ Hàng Da họp ngày!
Sau 6 giờ chiều, các ông “khán chợ”(bảo vệ) ở chợ này đóng cổng đuổi hết mọi người khỏi chợ. Vì kế sinh nhai, dân chúng bèn kéo nhau về bãi cỏ làng Thể Giao họp chợ tiếp… Và dần dần hình thành nên chợ Đuổi còn lưu tên phố cho tới ngày nay.
Các mặt hàng ở chợ là rất đa dạng đủ các loại từ thực phẩm thịt, cá, rau xanh, trái cây cho đến các đồ gia dụng thông thường nồi niêu, dao, xoong chảo …Thật thú vị khi đồ trang sức tôn vinh cái đẹp được cho biết là rất hấp dẫn thị trường. Hàng hoá ở chợ Việt Nam từ thế kỷ 17 đã được bổ sung nhiều mặt hàng của phương Tây như gương lược, kim và các đồ dùng phụ nữ khác mang lại món lời lớn. Giáo sĩ Bori (khoảng 1618) cho biết: một hộp kim giá không quá 30 duy-ca (tiền xưa của Venize) mà lãi hơn 1000”[3:107].Các lái phương Tây giới thiệu, nhắn nhau mang những thứ như hoa tai, nhẫn, xuyến đang là các mặt hàng ăn khách đến xứ Đại Việt. Vào thế kỷ 18 các loại nồi gốm truyền thống đã bị cạnh tranh dữ dội bởi nồi niêu xoong chảo bằng gang bằng đồng của phương Tây. Thuốc bắc, thuốc nam và cả thuốc tây cũng đã có mặt từ cuối thế kỷ 17 ở các chợ Đông Kinh (Lê triều cựu điển). Chính Tuyên phi Đặng Thị Huệ của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm đã từng uống thuốc dưỡng thai của Tây y. Trầu cau là một mặt hàng cực kỳ thiết yếu của dân chúng Đại Việt đương thời. Nó có mặt khắp hang cùng ngõ hẻm của Kẻ Chợ. Ta hãy nghe A.de Rhodes kể: “Họ có tục đem theo một túi con hay một bị con đầy, đeo ở thắt lưng…Khi gặp họ bắt đầu chào hỏi nhau rồi mỗi người lấy ở trong túi của bạn một miếng trầu để ăn…theo đúng phép xã giao…Người ta nói có tới 50 000 người bán lẻ và bán ở nhiều địa điểm trong thành phố”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét