Translate

Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2012

ÁO DÀI XƯA VÀ NAY NHỮNG NGỘ NHẬN

12
II- THẾ KỶ XX - ÁO LEMUR VÀ ÁO "TÂN THỜI"
* Áo Lemur - Năm 1934, họa sĩ Cát Tường Lemur đã đưa ra "bản tuyên ngôn' nói rõ quan niệm căn bản của ông về cải cách áo dài, trên tờ Phong Hóa "Các nhà đạo đức thường nói quần áo chỉ là những vật dùng để che mưa nắng, nóng lạnh, ta chẳng nên để ý dến cái sang cái đẹp của nó làm gì (...). Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân thể song nó có thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ trí thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của người nước họ cũng đủ hiểu. Y phục của người các nước Âu Mỹ không những rất gọn gàng, hợp với khí hậu xứ họ mà kiểu mẫu lại rất nhiều và rất đẹp. Như thế đủ tỏ rằng họ có một cái trình độ trí thức rất cao, một nền văn minh rất rõ rệt và luôn luôn tiến bộ. Y phục của các bạn gái, tôi xem thấy có nhiều điều bất tiện mà lại không có vẻ chi là mỹ thuật. Tuy rằng vài năm gần đây cũng có một vài phần sửa đổi (...) chẳng qua chỉ ở mấy cái mầu sắc sặc sỡ, mấy thứ hàng lạ nước ngoài (...) còn thì vẫn kiểu áo lòe xòe ấy, vẫn cái quần lụng thụng đen ngòm ấy. Hoặc giả cũng có người ưa mặc quần trắng song tiếc rằng số đó vẫn rất ít (...). Cần sửa đổi dần :Trước hết phải hợp với khí hậu xứ ta, với thời tiết các mùa, với công việc, với khuôn khổ, mực thước của thân hình mỗi bạn. Sau nữa phải gọn gàng, giản dị, mạnh mẽ và có vẻ mỹ thuật và lịch sự (...) cũng phải có tính cách riêng của nước nhà". 
Đó là phần thuyết lý. Xin sơ lược sau đây những đặc điểm cụ thể của áo dài Lemur :
1- Cổ áo : Cổ bẻ ra theo kiểu tây phương, góc nhọn thì gọi là "cổ lưỡi dao", tròn gọi là "cổ bánh bẻ", cổ khoét hình quả tim, buộc giây..., đều mở ở giữa ngực, duy cổ lọ vai bồng mở ở vai bên phải, gài khuy từ cổ tới vai. Hồi nhỏ, khoảng đầu thập niên '40, tôi đã từng mặc áo cổ lọ vai bồng bằng len đỏ, khuy nhựa của Tây, hình vuông cùng mầu đỏ như áo .
2- Khuy áo bằng nhựa của Tây, hình vuông, tròn, bầu dục... và có hoa nổi hay chìm, đủ các mầu để chọn tùy theo mầu áo. Loại khuy bằng vải tết lại như Trung quốc không dùng nữa nhưng tôi đã từng mặc áo loại khuy này, gài hay tháo rất khó vì vải rít chặt chứ không trơn như khuy nhựa. Khuy nhựa sau bị thay thế khoảng thập niên '50 bằng khuy giả ngọc trai do bà Lê thị Lựu vẽ kiểu.
3- Tay áo - Ông Cát Tường nhận xét là tay áo cổ truyền chật hẹp rất bất tiện mỗi khi co tay, và không hợp với khí hậu nóng bức...Tuy nhiên ông có vẽ một kiểu áo dạ hội tay cắt ngắn ở khoảng giữa cánh tay rồi đeo bao tay (gants) dài đến tận giữa cánh tay. Có người khen là trông "rất sang trọng". Với tư cách là người mặc áo dài tôi cảm thấy thay thế cái tay áo dài bằng cặp gants dài còn nóng bức và bất tiện hơn.
4- Thân áo - Ông Cát Tường cho áo cổ truyền lụng thụng quá, cần phải ôm sát thân người mặc áo thì mới đẹp. Song quần áo không phải chỉ có mục đích che mưa nắng, nóng lạnh và có mỹ thuật như ông nói. Thời xưa, nó còn để che thân, người phụ nữ không được để thân thể lộ liễu cho người ngoài nhìn thấy. Chị cả tôi còn phải nịt ngực, lấy vải quấn quanh ngực mấy vòng, ép xuống cho ngực phẳng lì. Bà Bùi thị Xuân, khi bị Gia Long giam trong ngục trước khi đem hành hình, đã nhờ người mua lụa trắng quấn hết chân tay để khi bị tử hình (voi tung) thân thể có mỗi nơi một mảnh cũng khg bị bộc lộ ( Lemonnier de la Bissachère).
Trên thực tế, áo Lemur chỉ ôm hờ thân người mặc chứ không ôm sát, cứ xem ảnh cưới của chính ông Lemur (1936) cũng thấy rõ cả cô dâu lẫn các cô phù dâu đều mặc áo Lemur nhg nó không ôm sát thực sự như áo dài ngày nay, mà chỉ bớt lụng thụng nhờ cắt lượn theo thân hình chứ xếp nếp (plis) không sâu, có khi không có cả plis nữa. Năm 1952, tôi và các bạn vẫn còn mặc áo không chiết plis. Có thể vì ông Cát Tường chỉ vẽ kiểu yếm chứ chưa nghĩ đến vẽ soutien (có người dịch là "nịt ngực" e không đúng vì "nịt" có nghĩa là nén ép xuống trong khi soutien nâng ngực cho cao lên). Từ áo Lemur đến áo dài hiện đại có một khoảng xa cách không kém gì từ áo dài lụng thụng tới áo Lemur.
5- Viền tà - Tà áo cổ truyền phải mất 3 đường khâu và một cái nẹp dài để viền tà cho cứng cát, vạt áo sẽ đứng chứ không cong queo. Ông Cát Tường tung ra lối viền tròn như con giun bằng một thứ hàng và mầu khác hẳn mầu áo, giống kiểu viền quần áo ngủ pyjamas, đỡ tốn công hơn và lạ mắt. Mầu viền tà cũng như mầu khuy giống nhau. Tôi cũng có một chiếc áo mầu vàng chanh, hàng Bombay mỏng và mịn, khuy nhựa hình bầu dục và viền tà cùng mầu xanh lá cây.
Áo dài Lemur rất được hoan nghênh, thậm chí có cô (?) Phan thị Nga ở Hội An ca tụng không tiếc lời :" Kiểu quần áo Cát Tường đã làm cho chị em thêm diễm lệ ở nét mặt..." (Ngày Nay, số 13, 1935) tôi bội phục trí tưởng tượng của cô. Chắc là khi "thoa son dồi phấn" kiểu Cát Tường cô sẽ thấy thân hình chị em nở nang, "có những đường cong tuyệt mỹ" hơn ?
* Áo Lê Phổ - Áo Lemur tuy được hoan nghênh nhưng cũng bị chê là "lai căng". Theo Wikipedia thì ông Lê Phổ, cũng năm 1934, "đã sửa bớt những nét lai căng, đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn, dung hợp hài hòa. Áo dài đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó". Như vậy có nghĩa là hai vạt dưới của áo Lemur không được tự do bay lượn ? Nếu không phải thế thì khác ở chỗ nào ? Tôi thấy ảnh cưới ông Cát Tường, rõ ràng hai tà áo phụ nữ đều "tự do bay lượn".
Theo Hoàng Huy Giang thì Lê Phổ "bỏ đi những nét Tây phương như không tay, tay phồng, cổ hở, không viền tròn vạt dài v.v... Nhưng đến đầu thập niên '40, chính tôi còn mặc áo cổ lọ vai bồng và tà áo viền tròn. Tóm lại, tôi vẫn chưa rõ sự khác biệt giữa áo Lemur và áo Lê Phổ, chỉ biết gọi theo mọi người là "áo tân thời".
Mốt năm 1952, khi tôi sang Pháp, là áo rộng và ngắn đến đầu gối nhưng ngực vẫn xẹp. Mãi khoảng giữa thập niên '50, mới có cô ca sĩ từ Saigon sang Pháp, lên sân khấu mặc áo dài thực sự ôm sát người, ngực nở nhờ có đeo soutien nâng cao lên và áo chiết plis sâu nên bụng thon. Chúng tôi đều suýt soa là đẹp và... bạo !
III - TỪ ÁO LEMUR ĐẾN ÁO DÀI HIỆN ĐẠI
(Sau đây phần lớn tôi chép theo người khác vì sống ở Pháp). * Áo dài có thắt lưng. Khi tôi sang Paris được xem bà Anh Trần (sau này làm điêu khắc) mới chế ra kiểu áo dài có thắt lưng sau khi học một lớp dậy cắt quần áo Tây phương. Kiểu áo này không mấy người biết có thể vì không gập cơ hội thuận tiện.
* Áo dài kiểu bà Nhu tức bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đình Nhu. Năm 1958 bà Nhu xuất hiện trước công chúng với chiếc áo dài cổ hình thuyền (bateau) và tay ngắn. Đấy cũng là một cải cách quan trọng đáng kể vì trời nóng bức mặc áo cổ đứng rất khó chịu.
* Áo tay giác lăng (raglan) Khoảng thập niên '60, hiệu may Dung Dakao ở Saigon tung ra kiểu áo dài tay giác lăng, ráp tay xéo vai khiến cho chỗ nách không còn những đường nhăn nhúm như trước... hàng may áo dầy nhưng tay với ngực lại bằng hàng mỏng hoặc thân áo và hai tay là hai mầu, nút cài từ cổ xéo xuống ôm sát thân hình người mặc từ nách đến eo. Sau đó còn kiểu mini va maxi raglan nữa.
* Áo ba tà. Một số nhà may ở Saigon tung ra vào thập niên '70 kiểu áo ba tà gồm một vạt sau và hai vạt trước với nút gài từ cổ xuống eo mặc với quần ống voi.
* 2010 . Việt Nam hiện nay cũng có những nhà thiết kế vẽ các kiểu áo dài "mới" như áo không cổ hoặc mình một thứ hàng, hai tay dùng hàng mỏng trông suốt qua được. Phần nhiều mặc áo trơn hay thêu chứ không dùng áo vẽ, và thêu gần kín ngực không còn chỗ để đeo nữ trang. Cũng có kiểu áo dài chui đầu, không khuy...Quần đồng mầu với áo hay mầu khác hẳn như đỏ, vàng, xanh...
KẾT LUẬN
Ông Cát Tường - Lemur có nhiều sáng kiến và tài năng, song những cải tiến mà ông đã thực hiện chưa hẳn theo sát "bản tuyên ngôn" năm 1934 của ông và trừ ý kiến áo dài phải ôm sát thân người thì những cải tiến khác của ông không để lại dấu vết gì nữa. Áo hai vạt, quần trắng, áo mầu đều đã xuất hiện từ trước 1934, ông không phải là người đầu tiên đã "biến cái áo từ thân ra áo hai vạt" hiện nay. Cái áo hiện nay có vẻ đẹp riêng của nó nhưng ta cũng không nên quá tôn vinh nó, các nước khác cũng có áo đẹp và nhiều áo đẹp. Áo dài dẹp nhưng chỉ khi đi tha thướt, ung dung chứ đem nó lên sân khấu nhẩy múa, giơ chân lên cao hay chạy nhanh, chân một nơi, áo một nẻo thì không đẹp chút nào. Người ngoại quốc khen áo dài vì thực sự thích nó cũng có và cũng có khi vì họ rất lịch sự, hễ gập là khen bất cứ áo gì mình mặc chứ không chê bao giờ.
Ông Cát Tường nói "quần áo là tấm gương phản chiếu trình độ trí thức của một nước. Nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của nước họ cũng đủ hiểu...". Tôi không hoàn toàn đồng ý với ông. Người mặc áo đẹp chưa hẳn đã là người có văn hóa. Tôi nghĩ là ông sống ở thời người Việt đang chán văn minh "cũ rích" cổ truyền và đang ngưỡng mộ văn minh mới lạ của Tây phương nên ông chịu ảnh hưởng của thời đại và đôi khi quá thán phục nên đi quá đà. Cái "mề đay" nào cũng có mặt phải mặt trái. Nếu ông sống khoảng thập niên '80 ở Pháp ông sẽ thấy giới trẻ đua nhau mặc jean nhưng mua quần mới về lại đem mài, cắt cho rách bươm và giặt đủ mọi cách cho cũ bạc đi mới đem ra mặc. Áo thì lục tìm trên gác xép những áo cũ của cha ông để lại, những cái sơ mi đàn ông vừa dài vừa rộng thùng thình, làm gì có eo có ngực, có những "đường cong tuyệt mỹ" ? Chẳng lẽ nó cũng phản ánh sự tiến bộ, văn minh của Pháp ? Còn "mỹ thuật" ? Ông Cát Tường chê áo Việt Nam lòe xòe, lụng thụng, không "mỹ thuật", nhưng tôi lại thấy áo tứ thân, áo giao lĩnh cũng như áo dài đều đẹp cả, mỗi cái một vẻ. "Nhân tâm tùy thích", khó mà tranh cãi.
Tóm lại, ông Cát Tường không phải là người đã biến cái áo tứ thân thành áo hai vạt, ông thực sự có công đóng góp cho áo dài hiện đại song ông chỉ là một mắt xich trong chuỗi dài những người không để lại tên tuổi nhưng cũng góp phần cải sửa, giúp cho cái áo dài mang hình dáng hiện nay. Chúng ta "tri ân" ông nhưng chúng ta cũng không quên những người "vô danh" ấy.
Hà Nội, tháng 12, 2010
Nguyễn thị Chân Quỳnh
CHÚ THÍCH
1- Nguyên văn câu tiếng Pháp :"Pour le corps elles le couvrent de certains corps de côte, fait en échiquier, tous diversifier en couleur...". Câu này không minh bạch, tôi tạm dịch nhưng không ưng ý. 2- Tiếng Pháp :"Ces habits de la ceinture en bas tout autour tailladez et déchiquetez à belles mouchetures. Si bien qu'allant par la ville ils font parades de toutes ces couleurs mêlées ensemble : que si quelque doux ventelet vient...". Câu này rất tối nghĩa nên tôi bỏ không dịch.
3- Phủ Biên Tạp Lục chép là năm Bính Dần (1746), dịch giả đoán là bản sao chép sai nên đã sửa thành năm Bính Thân (1776) hợp lý hơn vì 1776 Lê Quý Đôn mới làm Hiệp trấn Thuận Hóa và nhận xét :"Trong khoảng hơn 30 năm phong tục đã thay đổi..." trỏ thời gian từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát bắt dân mặc kiểu Trung quốc (1744) đến khi Lê Quý Đôn ra huấn lệnh cải sửa lại,theo quốc phục.
SÁCH BÁO THAM KHẢO
- BARON, Samuel, Description du Royaume de Tonquin. Traduction de l'anglais par H. Deseille. Reproduite par la Revue Indochinoise (première traduction publiée par l'abbé Prévost en 1751). - BORRI, Christoffe, Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine. Traduite de l'italien du Père C. Borri, Milanais, qui fut un des premiers qui entrent en ce Royaume, par le Père Antoine de la Croix, de la même Compagnie. Rennes, Jean Hardy, M DC XXXI (1631).
- CHAIGNEAU, Michel Đức, Souvenirs de Huế. Paris, M DCCC LXVII (1867).
- Forum Diễn Đàn sách xưa (net) 1-8-2009, "Họa sĩ NGUYỄN CÁT TƯỜNG - LEMUR"
- HOÀNG HUY GIANG, Tà áo bay trên trời quê đất khách : http://chimviet.free.fr/quehuong/chung/hhgn050.htm
- LÊ QÚY ĐÔN, Phủ Biên Tạp Lục, Phần 1 & 2. Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007. Bản dịch của Nguyễn Khắc Thuần.
- Pierre Jacques LEMONNIER de la BISSACHÈRE, La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine,d'après les manuscrits des Archives des Affaires Etrangères, 1807.
- LÊ TRIỀU CHIẾU LỊNH THIỆN CHÍNH- Dịch giả Nguyễn Sĩ Giác. Saigon : Trường Luật khoa, 1961.
- Louis-Gabriel MULLET DES ESSARDS, Voyage en Cochinchine 1787-1789. Retranscrit par son descendant Bruno BIZALLION. Les Editions de Paris, 1996.
- NGÔ THÌ SĨ, Việt Sử Tiêu Án. Bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu. Saigon, 1960. San Jose, Hoa Ký : Văn Sử tái bản, 1991.
- NGUYỄN CÁT TƯỜNG. Y phục của phụ nữ, Thế Kỷ 21 số 201 &202, tháng giêng và tháng hai, 2006, in lại báo Phong Hóa, 1934.
- NGUYỄN TẤT ĐẠT, "Bố tôi, họa sĩ "Lemur-Nguyễn Cát Tường". Xuân Bính Tuất, 20-1-2006. Forum Diễn Đàn 01/08/2009
- NGUYỄN TRỌNG HIỀN, Tiểu sử và sự đóng góp vào văn hóa Việt Nam của họa sĩ Nguyễn Cát Tường-Lemur. Thế Kỷ 21 số 201 & 202, 2006.
- PHAN KHOANG, Lịch sử : Xứ Đàng Trong (1558-1777), tập 1 & 2. Houstan, Texas : Xuân Thu tái bản, 1991 (?).
- TAVERNIER, J.B., Relation nouvelle et singulière du Royaume de Tunquin. Texte de 1681, reproduit par la Revue Indochinoise, Octobre, 1908.
- THÁI ĐÌNH LAN,Hải Nam Tạp Trứ. Dịch giả Ngô Đức Thọ. Nhà xuất bản Lao Động, 2009.
- VŨ NGỌC TRUY, Áo dài Lemur, Thế Kỷ 21 số 201 & 202, 2006.
- WIKIPEDIA (Bách Khoa Toàn Thư mở), Áo dài - Lịch sử.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét