Vạn ,vàn , muôn ,man đều là
những biến thể của một từ gốc Hán được tiếp nhận vào tiếng Việt trong
những giai đoạn khác nhau .Trong các đơn vị này thì vạn được coi là từ Hán Việt ,còn vàn ,muôn, man được coi là từ tiền Hán Việt hoặc hậu Hán Việt .
Vạn chỉ số lượng xác định là mười nghìn : Một vạn là mười nghìn ; hai vạn là hai mươi nghìn ...
Khi dùng để chỉ số lượng xác định là mười nghìn ,vạn đồng nghĩa với man . Sự khác nhau giữa vạn và man là ở chỗ :vạn là từ dùng chung ,có tính phổ biến , còn man là từ được dùng hạn chế ,có tính chất nghề nghiệp :một man ngói ,sản xuất hàng trăm man gạch .
Từ nghĩa gốc trên đây ,vạn và man đều có thể được dùng với nghĩa rộng ,chỉ số lượng nhiều ,không xác định trong khoảng trên dưới một vạn . Có hàng vạn người tham gia mít tinh là có khoảng trên dưới một vạn người tham gia mít tinh .Cơ man là người đi trẩy hội cũng nghĩa là hàng vạn người đi trẩy hội .
Với nghĩa rộng như vừa nói ,vạn đồng nghĩa vói muôn .Vạn sự khởi đầu nan là muôn việc bắt đầu đều khó ;
vạn thọ vô cương là sống lâu muôn tuổi ;
Vàn là một hình thái biến âm của vạn ,hầu như rất ít được dùng độc lập trong tiếng Việt ,nó thường kết hợp với
vô thành vô vàn ,muôn thành muôn vàn .Song muôn vàn khác với muôn vạn .nếu như muôn vạn nói về số lượng nhiều ,cụ thể và tương đối xác định thì muôn vàn cũng nói về số lượng nhiều nhưng trừu tượng và không xác định .Ví dụ như :Muôn vàn yêu thương ;Muôn vạn hùng binh .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét