Translate

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM

 
 


Click to view full size
    Văn Miếu  được xây dựng từ  đời Lý Thánh Tông năm Canh Tuất 1070 .Ban đầu chỉ là tòa miếu nhỏ thờ Chu Công, Khổng Tử và bốn môn đồ của Khổng Tử . Đồng thời ,vua Lý Thánh Tông lo tổ chức việc học một cách chính quy.Năm Ất Mão 1075 mở cuộc thi tuyển đầu tiên  ,đây chủ yếu tuyển thầy dậy học cho Hoàng Tử ( Lê Văn Thịnh là người đỗ đầu cuộc thi này nên hậu thế mặc nhiên coi Ông là người đầu tiên đỗ Tiến sĩ) . vua Lý Nhân Tông năm Bính Thìn 1076 đã cho mở rộng Khổng Miếu thành   Quốc Tử Giám ,học trò được chọn trong số các Hoàng Tử , con em trong Hoàng tộc ,quý tộc hoặc đại thần trong triều .Từ đó việc học được đề cao ,Nho sĩ được trọng vọng .Năm Bính Dần 1086 ,những người đỗ cao trong các kỳ thi được đưa vào Hàn Lâm Viện .Mạc Hiển Tích là người đầu tiên được vinh dự đó .Năm Bính Tý 1156 triều Lý Anh Tông ,Tô Hiến Thành làm Phụ chính cầm quyền đã cải cách lại chính trị ,mở mang việc học :Khổng Miếu chỉ thờ có một mình  Khổng Tử mà không có Chu Công và bốn vị môn đồ .
   Sang đến triều Trần  việc học được sửa đổi ,bắt đầu có khoa thi Thái học sinh (Tiến sĩ ) từ Nhâm Thìn 1232 ,và đặt ra Tam Khôi ( Trạng Nguyên ,Bảng Nhãn ,Thám Hoa -khoa Đinh Mùi 1247 Lê Văn Hưu đỗ Bảng Nhãn ).Quốc Tử Giám được sửa chữa mở rộng thành Quốc Học ,tuyển cả con nhà thường dân học giỏi vào học .Trong nhà Quốc Học lúc đầu chỉ có bài vị Khổng Tử ,người được coi như Tổ Sư Nho Giáo ,sau  vua Trần Nghệ Tông đưa thêm Chu Văn An vào cùng thờ .Sau này thêm hai người nữa là Trương Hán Siêu và Đỗ Tử Bình  (đến thời  Hậu Lê ,triều đình chỉ công nhận riêng có Chu Văn An là xứng đáng được thờ chung với Khổng Tử ).Nhà Hậu Lê còn làm hơn nhà Trần : dựng bia Tiến sĩ đỗ trong các kỳ thi Hội ,đó là sáng kiến của Lê Thánh Tông ,một ông vua giỏi cả quân sự ,chính trị ,lại là một thi sĩ có công với văn học nước nhà ,thường tự nhận là hội chủ Tao Đàn (gồm hầu hết các nhà thơ nổi tiếng đất kinh kỳ ) .Bia Tiến sĩ cùng với Văn Miếu đã đánh dấu truyền thống hiếu học của dân tộc ta ,tuy chỉ ghi được những khoa thi Hội dưới triều Lê Sơ ,Mạc và Hậu Lê.
   Nếu kể từ những năm ấy đến nay thì Văn Miếu -Quốc Tử Giám đã trải qua gần 1000 năm lịch sử. Kiến trúc này xưa được xây dựng ở phía ngoài cửa tây nam hoàng thành Thăng Long, bên Thái Hồ, thuộc thôn Minh Giám, tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương, nay  nằm giữa bốn con đường - mặt trước là phố Quốc Tử Giám, phía sau là phố Nguyễn Thái Học, bên trái là phố Văn Miếu và bên phải là phố Tôn Đức Thắng (xưa là phố Hàng Bột) - và được chia làm hai khu vực chính : Thái Hồ và Nội Tự.
                                         
                        
                       Thái Hồ
    Trước Tứ Trụ  (Nghi Môn) của Văn Miếu, bên kia đường Quốc Tử Giám có một hồ rộng nhưng đã bị dân chúng lấn chiếm xây nhà nên chỉ còn được trên mười nghìn mét vuông.

S 055.jpg
     Ở giữa hồ có một cái gò tên gọi là Kim Châu,trên đó, năm 1863 Bố Chính Hà Nội là Hoàng Giáp  Lê Hữu Thanh, Án Sát Đặng Tá đứng lên quyên tiền xây lại nhà bia đã đổ nát.Lại nạo vét Thái Hồ, trồng cây, xây đình trên gò Kim Châu.Sau này có người yêu thơ văn ở gần đó tên là Phủ Hào sửa lại đình, làm thành hình bầu rượu gọi là Nhất Hồ Đình cho các tao nhân mặc khách thường lui tới đàm đạo văn chương nên gọi là Văn Hồ,  nhưng trong dân gian vẫn thường gọi là Hồ Giám .
                                                      Gò Kim Châu
S 050.jpg
    Không có cầu để sang Gò, người ta dùng thuyền rồi bám tay theo sợi dây thừng rồi kéo thuyền đi, cũng không hiểu bây giờ ai ở trên đấy nữa.    Nguyễn Du trong bài Long Thành cầm giả ca  viết năm 1813 cũng có nói đến nơi đây:
                      Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến,
                      Giám hồ hồ biên dạ khai yến.
                     Tôi nhớ lúc trẻ đã từng gặp (người ca nữ) một lần,
                      Bên hồ Giám trong một cuộc dạ yến.
S 052.jpg
                                 
       Cá dưới hồ Văn lên ăn bánh mọi người thả 

                                                       Nội Tự
    
   Nội tự Văn Miếu -Quốc Tử Giám, hình chữ nhật bề dài 350 mét và bề rộng 70 mét, được ngăn cách với vườn Giám và bên ngoài đường phố băng hàng tường gạch bao quanh đã được chia làm năm khu vực và mỗi khu được ngăn cách bằng  một bức tường ngang có cửa thông nhau gồm một cửa chính và hai cửa phụ.Từ ngoài vào trong có Tứ trụ, Văn Miếu môn, Đại Trung môn, Khuê Văn các, Đại Thành môn – Khu điện thờ và đền Khải Thánh – Quốc Tử Giám.
                                                      Tứ trụ   
    Bên ngoài, hai bên về phía Đông và Tây của Nghi Môn là bia Hạ Mã
                                                      Bia Hạ Mã
S 1567.jpg

   Phía trước Văn Miếu là Nghi Môn gồm bốn trụ có bờ tường bằng gạch ngăn cách với ngoài đường cái nhưng đến nay bờ tường ấy đã bị phá đi chỉ còn lại bốn cái  trụ.
                                                       Tứ Trụ
S 002.jpg
     Ở hai cột ngoài có cặp câu đối :
                                   Đông tây nam bắc do tư đạo
                                   Công khanh phu sĩ xuất thử đồ
                                   (Đông tây nam bắc cùng theo học đạo Nho này,
                                    Công khanh phu sĩ đều xuất thân từ con đường khoa cử này.)
                                              Văn Miếu Môn
S 045.jpg


S 001.jpg

   Cổng vào là một Tam Quan  có ba cửa: cửa giữa cao to, xây hai tầng và mỗi bên có một cửa phụ. Tầng trên có ba chữ Văn Miếu Môn .Trên các cột có những cặp câu đối bằng chữ Hán, đáng kể là đôi câu đối sau đây:
Đại quốc bất dịch giáo, bất biến tục, thả tôn sùng chi, diệc tín tư văn, nguyên hữu dụng;
Ngô nho yếu thông kinh, yếu thức thời, vô câu cố dã, thượng ân thánh huấn, vĩnh tương đôn.
(Nước lớn giáo dục chẳng thay, phong tục chẳng đổi, lại được tôn sùng, tư văn ấy hãy còn hữu dụng;
Nhà nho điển kinh phải thuộc, thời thế phài tường, không được cố chấp, ơn thánh kia truyền mãi lâu dài.)
S 1599.jpg


   Trước và sau cổng có hai thành bậc cửa bằng đá xanh, tạo hình mây xoắn, hoa lá cách điệu tạo dáng rồng chầu mang phong cách thời Lê sơ.
                                            Đại Trung Môn
   Khu vực này vuông vắn có trồng nhiều cây cao bóng mát, nay đã là cổ thụ. Ở hai bên lối đi, mỗi bên có một cái hồ hình chữ nhật càng làm tăng thêm vẻ thanh tịnh của nơi “văn vật sở đô. Khách tham quan có thể theo những con đường thẳng để đi tới cổng thứ hai là Đại Trung Môn làm theo kiểu nhà ba gian, ở hai bên có cửa phụ: bên phải là Thành Đức Môn và bên trái là Đạt Tài Môn. Một bức tường ngang nối ba cửa ngăn cách với khu Bi Đình.
                                        Thành Đức Môn
S 008.jpg
                                            Khuê Văn Các

S 011.jpg
   Từ cửa Thành Đức  đi tới cửa Bi Văn và từ cửa Đạt Tài khách  có thể đi tới cửa Súc Văn. Ở giữa hai cửa ấy là Khuê Văn Các (gác có vẻ đẹp của sao Khuê, ngôi sao chủ về văn học) được xây dựng vào năm 1805, đời Gia Long triều Nguyễn. Gác xây trên một nền vuông cao, mỗi bề rộng 6,8 mét. Tầng dưới chỉ có bốn trụ gạch, bốn phía để trống. Tầng trên làm bằng gỗ, có lan can tiện bao quanh với trang trí đề tài bát bảo. Bốn phía đều có một cửa tròn gắn trong khung vuông với các thanh gỗ tỏa  ra bốn phía tượng trưng cho ánh sao Khuê đang tỏa sáng.
S 014.jpg
  Mé trên sát mái phía cửa ngoài vào có treo một biển sơn son thếp vàng ba chữ Khuê Văn Các. Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một câu đối chữ Hán thếp vàng như câu sau đây rất có ý nghĩa:
                                  Khuê tinh thiên lãng nhân văn xiển
                                  Bích thủy xuân thâm đạo mạch trường
                                  (Sao Khuê trời sáng văn minh rạng,
                                   Nước biếc xuân thâm đạo mạch bền.)
   Mái ngói theo kiều chồng diêm, ở các góc có trang trí hình rồng uốn cong lên trông thật thanh thoát. Ở hai bên Khuê Văn Các có cửa Bi Văn  và cửa Súc Văn .Qua hai cửa này là đến Thiên Quang Tỉnh , một cái giếng đào hình vuông, có tường hoa thấp xây quanh, in bóng Khuê Văn và những vòm lá cây xanh mát.
  
                                               Thiên Quang Tỉnh
S 015.jpg
   Theo quan niệm người xưa, giếng hình vuông là tượng trưng cho mặt đất. Cửa sổ tròn của gác Khuê Văn là tượng trưng cho bầu trời, ý nói nơi đây là chỗ tập trung những tinh hoa của trời đất để đề cao tinh hoa của Nho giáo ngàn năm còn sáng tỏa như đôi câu đối sau đây đã diễn tả:
                                          Khoa giáp trung lai danh bất hủ
                                          Cung tường ngoại vọng đạo di cao
                                          (Khoa giáp đến nay danh vẫn trọng
                                          Học đường chiêm ngưỡng đạo càng cao)
   Khách thăm quan có thể theo hai con đường bên giếng để rẽ sang hai vườn bia đá, mỗi bên có 41 tấm bia dựng thành hai hàng ngang, mặt bia quay về phía giếng. Giữa hàng bia, ở mỗi bên, có một tòa đình vuông thờ bia.


  Tấm ảnh này chụp năm 1945.
   Trong 82 tấm bia còn lại, khắc tên 1323 tiến sĩ, tấm được dựng sớm nhất vào năm 1484 đời vua Lê Thánh Tông, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) là do Tiến sĩ Thân Nhân Trung, Thượng thư Bộ Lại phụng mênh soạn. Trong bài ký có đoạn:
“Nghĩ rằng: Việc dựng bia một khi được thực hiện thì ý tốt cầu hiền tài, mưu thịnh trị của thánh tổ thánh tông được lưu truyền lâu dài. Đó chính là phép lớn để rèn giũa người đời và là điều rất may cho Nho học.
…Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp…
Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quí chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng…
Thế thì việc dựng tấm bia đá này lợi ích rất nhiều: kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng, dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tuong lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa để củng cố vận mệnh cho Nhà nước…
Ai xem bia nên hiểu ý sâu như vậy”.
    Năm 1994, hai vườn bia đã được tu sửa lại thành tám nhà bia – mỗi bên bốn nhà – để che mưa nắng cho di sản tư liệu quý giá này.
                                             Phương Đình
S 041.jpg

Đây là tấm bia ở trong tòa Phương đình  dãy bên phải khu Bi đình ,trên này khắc tên cụ tổ đời thứ Nhất họ Trần Vân Canh bên họ mẹ tôi ,Tiên Tổ Trần Đương ,ngoài  Tổ ra ,trong  họ conf hai cụ nữa cũng có tên trên bia là Cụ Trần Hiền và Cụ Trần Bá Lãm ,đến tôi là đời thứ 17 .
                                          Đại Thành môn và khu điện thờ

     Từ khu văn bia, khách tham quan đi tới Đại Thành Môn ,một ngôi nhà lợp ngói có bậc đá lên xuống -hai bên còn có hai cổng phụ là Ngọc Trân Môn và Kim Thanh Môn ( hiện nay trừ hai cửa Đạt Tài và Thành Đức là còn tên ,bốn cổng còn lại đã bị xoá tên mặc dù mới đuợc trùng tu tôn tạo ,thật không thể hiểu nổi ?). Qua  Đại Thành Môn là tới Đại Bái Đường gồm 9 gian có sân rộng ở phía trước và phía sau có Tiểu Đình hình vuông nối với tòa Thượng Điện cũng xây 9 gian tạo thành  hình chữ công (Hán tự).
   Năm Quí Mão, Hồng Đức thứ 14 (1483) vua Lê Thánh Tông cho trùng tu lại điện Đại Thành để thờ Tiên Thánh, Đông vu Tây vu để thờ các bực Tiên Hiền Tiên Nho, điện Canh Phục ( nơi thay quần áo trước và sau khi nhà vua làm lễ ở chánh điện), Minh Luân Đường v.v… .
   Thượng Điện là nơi thờ Khổng Tử và bốn vị tứ phối(môn đồ): Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan Tử và Tử Tư, tất cả đều có tượng gỗ sơn son thếp vàng.Quần thể kiến trúc này mang nặng phong cách thời Hậu Lê, không có chạm trổ cầu kì.
                                         Đền Khải Thánh – Quốc Tử Giám
   Từ khu điện thờ khách thăm quan có thể theo hai con đường lát gạch ở phía sau Tả vu và Hữu vu hoặc cũng có thể từ sau lưng Thượng Điện qua cửa Thái Học ( cũng xây ba gian) để sang khu Khải Thánh – Quốc Tử Giám.
   Đền Khải Thánh cũng có Tả vu và Hữu vu ở hai bên. Nơi đây xưa kia là Quốc Tử Giám từng đào luyện nhân tài cho nhiều triều đại. Kiến trúc thời ấy như thế nào thì không được rõ nhưng theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục  thì vua Lê Thánh Tông cho sửa lại nhà Thái Học có Đông Tây giảng đường để giảng dạy cho các học sinh. Lại đặt thêm kho Bí Thư để chứa các ván in sách. Phía đông phía tây đều có ba dãy nhà cho ba hạng “xá sinh”, mỗi dãy có 25 gian.Nhiều nhân tài đã được đào tạo từ Quốc Tử Giám này trong suốt hơn 700 năm. Khi Gia Long chuyển trường Giám về Huế, ngôi trường cũ này được lấy làm nhà Khải Thánh thờ cha mẹ Khổng Từ.Năm 1946, quân Pháp đã bắn đại bác làm đổ nát hoàn toàn khu Khải Thánh, chỉ còn lại còn sót lại bốn trụ đá trên đặt nghiên mực bằng đá ,nền nhà Hậu cung và Bái đường .Kiến trúc hiện nay mới được xây lại hoàn toàn vào năm 1999, gồm Tiền đường và Hậu đường.Tòa Tiền Đường cũng 9 gian nhưng cao to hơn nhà Bái Đường. Nơi đây được dùng để tổ chức các cuộc hội thảo khoa học và các sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật.Tòa Hậu Đường là một kiến trúc gỗ hai tầng:
   Tầng một là nơi thờ Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và nơi trưng bày các tư liệu lích sử về Văn Miếu – Quốc Tử Giám và nền giáo dục thời Nho học để bảo tồn lấy truyền thống giáo dục và văn hóa dân tộc.
        Hoành phi đề bốn chữ Vạn Thế Sư Biểu

   Tầng hai là nơi thờ các vị đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám như Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông.


S 030.jpg
   -Phụ chú :
   -"xá sinh ": Đời vua Lê Thánh Tông ,các giám sinh ở Quốc Tử Giám họp lại thi .Ai trúng tam trường được sung thượng xá sinh ,trúng nhị trường sung trung xá sinh ,trúng nhất trường sung hạ xá sinh ,mỗi  lấy 100 giám sinh .Hằng tháng ,thượng xá sinh được cấp một quan ,trung xá sinh được cấp 9 tiền  ,hạ xá sinh được cấp 8 tiền .

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét