MƯỜI ,MƯƠI ,CHỤC
MƯỜI là từ chỉ số đứng sau số chín trong hệ số đếm của tiếng Việt . Nếu mười cộng thêm 1,2,3,..cho đến 9 ,thì gọi là mười một ,mười hai ,mười ba ,...mười chín .Hai lần mười gọi là hai mươi ,ba lần mười là ba mươi ,...chín lần mười là chín mươi nhưng mười lần mười là một trăm ( chứ không phải là mười mươi !) .
Mười là từ chỉ số chính xác sau số chín trong hệ số đếm của tiếng Việt :
Hai năm rõ mười ( tng.)
Lênh đênh một chiếc thuyền tình
mười hai bến nước biết gửi mình vào đâu ( cd )
MƯƠI là biến thể ngữ âm của mười .Trong tiếng Việt ,mươi được dùng với hai nghĩa :
1 -Chỉ số lượng tương đương với mười như trong các tổ hợp hai mươi ,ba mươi ,bốn mươi,...
2 -Chỉ số lượng không xác định ,ước lượng khoảng độ mười :
Lớp này có độ mươi em học giỏi .
Cứ mười đơn vị gộp lại làm một thì gọi là một chục :
Nó xách cần đi chỉ một lúc là có ngay xâu cá vài chục con .
Cũng giống như vậy ,cứ mười hai đơn vị gộp lại là một tá .Một chục trứng có mười quả ,một tá bút bi có mười hai cái tuy nhiên ở miền Nam nước ta một chục thường là mười hai .
Ngoài nghĩa vừa nêu ,từ chục trong tiếng Việt còn được dùng để chỉ hàng thứ hai ,trên hàng đơn vị trong dãy số tính từ phải sang trái :
Chẳng hạn trong dãy số 2345 ,nếu tính từ phải sang trái thì 5 là hàng đơn vị ,4 là hàng chục ,3 là hàng trăm ,còn 2 là hàng nghìn .
Cũng có nghĩa là mười trong tiếng Việt còn có thập ,một yếu tố gốc Hán ,thường được dùng hạn chế hoặc thành ngữ :
Thập ác ,thập cẩm ,thập phương ,số thập phân
Ốm thập tử nhất sinh .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét