Translate

Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

CHÙA THẦY - THIÊN PHÚC TỰ


Nghệ Thuật Kiến Trúc Chùa Thầy Với Phật Giáo Mật Tông

Đặng Thị Phong Lan










Chùa Thầy.

Thiền sư ngày đó thường nổi tiếng về phép thuật chữa bệnh. "Từ Đạo Hạnh hàng ngày tụng kinh Đại bi tâm Đàlani đủ 108000 lần, sai khiến được Tứ trấn thiên vương, trả thù cho cha. Sư còn làm bùa phép, bùa chú, còn thác sinh làm vua Lý Thần Tông sau này"(2)

.
Tuy nhiên, Mật Tông khi truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với chân tế, cầu hồn, pháp thuật, yểm bùa trị tà ma chữa bệnh…(3). Như vậy, chùa Thầy được coi là một trong những ngôi chùa mang đậm dấu ấn của phái Mật Tông, chủ trương dùng hình tượng cụ thể kết hợp với mật chú, mật ngữ để khai mở trí tuệ và giác ngộ, thường sử dụng các yếu tố: phong thuỷ, nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình, sắp đặt điêu khắc, đồ thờ để tạo hiệu quả thị giác, để người Phật tử tự suy ngẫm đi đến giác ngộ.
    Chùa Thầy (Thiên Phúc Tự), thuộc xã Thụy Khuê, huyện Quốc Oai,  Hà Nội. Từ lâu đã nổi tiếng không phải chỉ ở vẻ đẹp của kiến trúc, danh lam thắng cảnh mà còn bởi những truyền thuyết kỳ ảo, linh thiêng xung quanh thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lối tu mang màu sắc huyền bí của dòng thiền Mật Tông cùng với những huyền tích của Từ Đạo Hạnh đã tạo nên những sắc thái riêng biệt của kiến trúc cũng như nghệ thuật tổ chức không gian nơi đây.
    Trong quần thể danh thắng gồm 16 ngọn núi với những hang động nổi tiếng, chùa Thầy nổi bật cả về quy mô và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc. Dường như từng ngọn núi, con sông nơi đây đều in dấu sự tích, cuộc đời tu hành của Từ Đạo Hạnh. Cái tên "núi Thầy", "chùa Thầy", "Tổng Thầy" là cách mà dân gian thể hiện sự tôn kính đối với vị "Thầy"-nhà sư trụ trì, hành lễ để cầu phúc, chữa bệnh, dạy nghề cho dân địa phương. Là thiền sư đời thứ 12 của dòng thiền Tỳ Ly Đa Lưu Chi, một tông phái của Trung Hoa truyền sang Việt Nam từ năm 580 cho đến cuối đời Lý, song cách tu của Từ Đạo Hạnh cùng một số thiền sư khác như Vạn Hạnh, Ma Ha, Nguyễn Minh Không… lại mang nhiều yếu tố Mật Giáo (1).  Bản thân dòng Tỳ Ly Đa Lưu Chi cũng là sự kết hợp giữa Thiền Tông và Mật Tông, do vậy nó gần với tín ngưỡng phong thuỷ, sấm kỳ, cầu đảo, điều phục tà ma, bốc thuốc… rất thịnh ở Trung Quốc và Việt Nam. Thiền sư ngày đó thường nổi tiếng về phép thuật chữa bệnh. "Từ Đạo Hạnh hàng ngày tụng kinh Đại bi tâm Đàlani đủ 108000 lần, sai khiến được Tứ trấn thiên vương, trả thù cho cha. Sư còn làm bùa phép, bùa chú, còn thác sinh làm vua Lý Thần Tông sau này".(2)
   Tuy nhiên, Mật Tông khi truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với chân tế, cầu hồn, pháp thuật, yển bùa trị tà ma chữa bệnh(3). Như vậy, chùa Thầy được coi là một trong những ngôi chùa mang đậm dấu ấn của phái Mật Tông, chủ trương dùng hình tượng cụ thể kết hợp với mật chú, mật ngữ để khai mở trí tuệ và giác ngộ, thường sử dụng các yếu tố: phong thuỷ, nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình, sắp đặt điêu khắc, đồ thờ để tạo hiệu quả thị giác, để người Phật tử tự suy ngẫm đi đến giác ngộ. Tất cả những yếu tố này được qui gọn trong bốn pháp Mạn Trà la bao gồm: "Đại Mạn Trà la, Tam muội gia Mạn Trà la, Pháp Mạn Trà la, Yến Ma Mạn Trà la"(4).
    Về phong thuỷ, chùa Thầy không chỉ ở vị trí đắc địa mà bản thân sự sắp đặt kiến trúc phối hợp với cảnh quan thiên nhiên cũng phù hợp với thuyết phong thuỷ. Đó là hình tượng con rồng. Núi Thầy được xem là con Rồng lẻ đàn sắc sảo (Quái Long), chung quanh có Thập lục kỳ sơn (là các con Lân, con Phượng, con Rùa) chầu về. Chùa Thầy được dựng ở chân núi Sài Sơn uốn lượn như đuôi rồng, mặt nhìn ra núi Long Đẩu, phía trước là hồ Long Trì (ao rồng), xung quanh có làng xóm đông vui. Chùa nằm trên khu đất Hàm Rồng, sân cỏ trước là hàm trên của rồng, bờ hồ bên trái là hàm dưới, miệng rồng há ra đón hòn ngọn là Thủy Đình; hai dải đất rộng ra hai bên là hai chân trước của rồng ôm lấy chùa; hai cầu Nhật Tiên Kiều và Nguyệt Tiên Kiều là răng nanh của rồng; hai bên có giếng tượng trưng cho mắt rồng(5) ; hai cây gạo khúc khuỷu vươn lên trời trước chùa là râu rồng; ba lớp chùa Hạ, Trung, Thượng là đầu rồng; hành lang hai bên chùa có gác chuông, gác trống là tai rồng. Chính vẻ đẹp, hình tượng kỳ ảo của chùa Thầy đã khiến Chúa Định Vương Trịnh Căn (1682-1709) khi qua đây phải ghi lại trên bia Phật Tích Sơn Tự: "Nay thấy chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích như viên ngọc nổi lên giữa đám ruộng sỏi đá rạng vẻ xuân tươi cả bốn mùa"(6).
   Về kiến trúc, đây là một ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh linh thiêng và đẹp đẽ, đánh dấu sự hội nhập giữa tín ngưỡng bản địa với Phật giáo, giữa tính chất từ bi của Phật với sự linh thiêng của Thánh. Đây cũng là  kiểu kiến trúc ở chùa Nền (Đản Cơ Tự)cùng nằm trong hệ thống chùa liên quan đến Ngài.  Chùa Thầy được biểu hiện bằng một cấu trúc hoàn chỉnh gắn kết giữa kiến trúc chùa với một cung Thánh nối vào phía sau tòa nhà Tam Bảo trên cùng một trục. Cung Thánh là một không gian đóng kín, với diện tích nhỏ để tạo nên vẻ huyền bí, linh thiêng. Toàn bộ kiến trúc chùa trải dài, ăn cao dần theo triền núi theo bố cục nội công ngoại quốc, dạng mặt bằng hoàn chỉnh, phổ biến nhất của kiến trúc Phật giáo thế kỷ XVII. Khu Tam Bảo bao gồm cả tòa nhà Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện gắn kết theo chữ (Công), hai bên có hai dãy hành lang dài nối gác chuông, gác chống, nhà hậu tạo nên một khung chữ nhật (Quốc), tạo cho chùa một không gian thoáng bên trong nhưng lại kín đáo bên ngoài. Cùng kiểu, còn có một số chùa thờ Thánh khác như Bối Khê (Hà Tây), Keo (Thái Bình), Láng (Hà Nội)… Song ở những chùa này, ngay ở kiến trúc phía ngoài có sự kết hợp giữa kiến trúc chùa (Tam quan) với kiến trúc đền (Nghi môn) gọi chung là Tam quan nội, Tam quan ngoại. Với những chùa mà việc thờ thánh quan trọng hơn thờ Phật thì ngũ môn hay nghi môn tứ trụ của đền được đặt trước Tam quan chùa. Chùa Thầy xưa nay không có Tam quan, bởi thế không có đường vào mặt trước. Đó cũng là đặc điểm riêng của kiến trúc chùa Thầy. Một dấu ấn nữa ghi nhận sự kết hợp tín ngưỡng bản địa với Phật giáo là việc sử dụng những miếu thờ Thần để Phật hóa Thần. Hang Thánh hóa của chùa Thầy nay vẫn còn treo biển Hương Hải Am gợi về nơi tu hành xưa của Từ Đạo Hạnh. "Khởi đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ ứng với Bồ đề viện của Từ Đạo Hạnh, tương ứng với tòa "Điện Thánh" của chùa. Hiện nay nền điện thánh còn bảy hòn đá tảng chân cột bằng đá màu đỏ nâu kích thước 0.65m x 0,65m và một số hiện vật niên đại sớm thời Lý"(7).
    Những tòa chính của chùa Thầy được xây trên nền rất cao, thấp nhất là hành lang và nhà hậu cũng được làm trên nền cao 1m, tiền đường cao hơn mặt đất 1m, điện Phật cao 1,76m, cao nhất là điện thánh cao 2,20m, xung quanh kê đá hộc. Toàn bộ cấu trúc chùa theo kiểu chồng dường kèm giá chiêng. Hành lang kiểu hệ thống vì kèo ván chống. Đáng lưu ý nhất là tòa thiêu hương (hay ống muống) là kiến trúc nối liền dựa chủ yếu hai tòa Tiền đường và Thượng điện nên không có cột, hai bên có lan can gỗ chạm chấn song con tiện. Tuy nhiên ở một ngôi chùa đặc biệt như chùa Thầy, nó còn được dân địa phương gọi là nhà cầu. Theo tác giả Trần Lâm - Hồng Kiên(8) , kiến trúc của tòa này rất gần dạng thượng gia - hạ kiều dù trên dưới không hề có nước. Cùng dạng kiến trúc thượng gia - hạ kiều còn có hai chiếc cầu đá Nhật Tiên Kiều và Nguyệt Tiên Kiều uốn cong hai bên phải trái trước chùa, trong địa hình tổng thể như hai răng nanh và hai mắt rồng. Cầu Nhật Tiên Kiều bên trái chùa để đi ra đảo nhỏ có đền thờ Tam Thánh, còn Nguyệt Tiên Kiều bên phải chùa nối với bờ hồ có đường lên núi, tương truyền do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan xây dựng cuối XVI đầu XVII. Mỗi cầu gồm năm gian, dưới xây đá cuốn, trên dựng bộ khung nhà gỗ lợp ngói. Hai bên thành cầu thông thoáng, có lan can thấp. Ngoài nét đẹp của kiến trúc soi bóng bên hồ, tạo sự bề thế cho chùa, Nhật - Nguyệt Tiên Kiều còn là biểu hiện của trời - trăng, âm - dương đối đãi, hòa hợp tạo thế cân đối, tăng thêm vẻ đẹp cho ngôi chùa. Nằm giữa hồ nước xanh Long Trì trên trục chính của chùa là nhà Thủy Tạ kiểu phương đình, gồm hai tầng tám mái chồng diêm xoè ra bốn phía tựa bông sen khổng lồ mọc lên từ hồ nước. Vào ngày hội chùa, đây là nơi diễn ra trò rối nước vui nhộn.



   Về điêu khắc, mỗi hệ thống tượng với chức năng riêng biệt sẽ được đặt ở những vị trí nhất định trong chùa. Ở chùa Thầy với kiến trúc tiền Phật hậu Thánh, có hai hệ thống tượng chính: hệ thống tượng Phật và hệ thống tượng Thánh.
   Trọng tâm của hệ thống tượng Phật là ở chùa Trung (Đại Hùng Bảo Điện). Cách sắp xếp cơ bản vẫn chia trên hai chục chính: Trục ngang (thời gian) là bộ tượng Tam Thế (Quá khứ, hiện tại, tương lai) và trục dọc (không gian) gồm tượng Tuyết Sơn - Di Lặc - Thích Ca sơ sinh. Mỗi nhóm tượng được chú trọng, nhấn mạnh đến thần thái, cách tạo hình ứng với chức năng của tượng. Bộ tượng tam thế tượng trưng cho ba ngàn đức Phật trong ba kiếp, cho tính bình đẳng về Phật tính, do đó ba pho tượng hình dáng, kích thước tư thế tọa thiền tương tự nhau chỉ khác thế tay và một vài chi tiết trang trí. Nhóm tượng Di Đà Tam Tôn bao gồm Bồ Tát Đại Thế Chí - A di đà - Bồ Tát Quan Âm. Ba tượng này có thế ngồi tọa thiền kiết già (yoga), khiến tâm không thể lay động. Điểm đặc biệt ở ba pho tượng này là phong cách tạo hình mới chú trọng yếu tố trang trí bằng hệ thống hạt nổi, bao gồm những hạt tròn to nhỏ khác nhau, kết hợp với hoa cúc mãn khai kết năm hàng dọc, ba hàng ngang bao quanh thân tượng. Chưa có tượng nào trước và sau này lại có nhiều hạt như vậy. "Đó là hàng hạt kỳ ảo, được chạm theo một qui luật bắt nguồn từ ý nghĩa của Mật Tông (gọi là bí mật giáo, một Phật phái tin vào linh phù, châu ngôn, pháp ấn) tạo ra cái linh thiêng"(9).
Trên cao nhất là tượng Di Đà Tam tôn được tạc vào đời Mạc. Phật A Di Đà ngồi giữa dáng vẻ phúc hậu. Pho tượng Quán Thế Âm bên phải ngồi buông chân trái xuống, chân phải co lên, tay cầm một cây phất trần, dáng vẻ ung dung. Pho Đại Thế Chí ngồi xếp bằng, hai tay bắt ấn chuẩn đề. Ba pho tượng mỗi pho một vẻ không giống nhau, tạo thành một bộ tượng đẹp đặc biệt.
tam-bao-chua-Thay.jpg picture by nguyentruongquy

   Tiếp đó, theo trục dọc là tượng Tuyết Sơn-Di Lặc-Thích Ca sơ sinh tượng trưng cho ba đoạn đời tu hành của Phật. Tuyết Sơn là Phật ở giai đoạn tu khổ hành, chưa thành Phật, còn đau đáu về cuộc đời, với hình dạng một nhà sư gày gò, ngồi an tịnh, trầm mặc, khuôn mặt đầy suy tư. Di Lặc được coi là vị Phật của tương lai, đấng Từ Tôn cứu thế, người ta cho rằng "Di Lặc xuất thế thiên hạ thái bình". Bởi vậy tượng Di Lặc thường béo tốt, mặt tròn, bụng phệ, chân tay ngắn, tư thế một chân co, một chân chống, khuôn mặt tượng luôn cười hớn hở bắt nguồn từ đại tâm từ bi hỉ xả của ngài(10) . Cuối cùng là tượng Thích Ca sơ sinh một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất ý nghĩa "Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn", xung quanh có chín con rồng tượng trưng cho mây trời linh thiêng hội tụ lấy nước thiêng tẩy trừ những uế trọc cho đức Phật.
   Bao bọc hai bên Tam Bảo là hành lang với hệ thống tượng La Hán, hiện thân của những người tu hành xuất thân từ nhiều tầng lớp có tiểu sử, cá tính, lối tu khác nhau do vậy cũng là nhóm tượng sinh động, hiện thực, tạo nhiều cảm hứng. Tuy nhiên 18 vị La Hán bằng đất ở chùa Thầy không phải là nhóm tượng đặc sắc về thẩm mỹ và tạo hình. So với một số chùa cùng niên đại thế kỷ XVII, hệ thống tượng chùa Thầy có số lượng ít, không đầy đủ, phần nào cho thấy vai trò của Từ Đạo Hạnh trong chùa lớn hơn vai trò của Phật giáo.
   Tượng Từ Đạo Hạnh ở ba kiếp khác nhau được thờ trong điện Thánh: tượng kiếp tu tiên đặt trong khám thờ bên trái, giữa là tượng chân thân của họ Từ, bên phải là tượng Lý Thần Tông, hóa thân Từ Đạo Hạnh. Nếu pho chân thân Từ Đạo Hạnh mang tính chân dung thể hiện khuôn mặt khắc khổ gân guốc, trong trang phục áo cà sa, mũ pháp sư, ngồi thiền định thì tượng Lý Thần Tông mang nhiều yếu tố tượng trưng, kích thước lớn hơn người thực. Sinh động, độc đáo nhất là tượng Từ Đạo Hạnh ở kiếp tu tiên đặt trong khám thờ. Theo yếu tố Mật giáo tượng Phật được tạo hình động, yếu tố cơ học được thể hiện ở pho tượng này. "Pho tượng có kích thước bằng người thực, làm bằng gỗ chiên đàn đặt trong khám thờ. Khi xưa trong ruột tượng có đặt dây máy theo lối con rối, do đó mỗi khi mở cửa khám tượng từ từ đứng dậy, đóng cửa khám tượng lại từ từ ngồi xuống. Về sau... mới cắt dây máy, và tượng ngồi luôn…"(11)
tam-bao-chua-Thay-4.jpg picture by nguyentruongquy
Tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh, phía trên là ba pho Di Đà
 
Ban thờ chùa Thượng, nơi tập hợp đầy đủ phong cách điêu khắc VN từ thời Lý đến Nguyễn, nghĩa là gần như toàn bộ nền phong kiến VN: Bệ đá tòa sen đỡ tượng Từ Đạo Hạnh kiếp tu (mặc áo vàng) là hình thức đời Lý, giống bệ tượng A Di Đà Phật Tích; Bệ đá lớn hai tầng ở giữa là điêu khắc thời Trần; Bộ tượng Tam Thế trên cùng thời Mạc; Bàn thờ gỗ phía trước và hai con hạc là thời Lê; phần còn lại là thời Nguyễn và sau này. Bức tượng Từ Đạo Hạnh được tạc rất sống, tô màu da như thật.
   Có thể thấy tượng Phật đã được thể hiện bằng nhiều yếu tố hình tượng, màu sắc... để chuyển tải ý tưởng của đạo Phật. Điểm nổi bật của tượng Phật giáo nói chung, tượng chùa Thầy nói riêng là trạng thái Thiền định, tĩnh tại, trừ tượng Kim Cương ở thế động còn đều có thế tĩnh, tọa sen thiền định hay đứng thẳng.

ong-Thien-chua-Thay.jpg picture by nguyentruongquy

ong-Ac-chua-Thay.jpg picture by nguyentruongquy
 Hai pho  Hộ Pháp

Cái động chỉ nằm ở thế ấn quyết trên các cánh tay tượng Phật, một mặt tạo ra sự linh thiêng, mặt khác, trong không gian ngôi chùa, nó có tác dụng giúp Phật tử thâm nhập vào ý nghĩa của việc tu hành.
    Về hình và màu, tượng Phật thể hiện sự viên mãn hoàn chỉnh đầy đủ 32 quý tướng nhà Phật: tai dài, mặt tròn đầy, tóc bụt ốc… Y phục cân đối tĩnh tại, hài hòa thiên địa nhân. Riêng các tượng La hán có cá tính riêng do xuất thân, tiểu sử của mỗi vị. Tượng Thánh mang tính chân dung, hiện thực, đặc biệt chú trọng đến tính động, tác dụng mạnh tới thị giác người xem.

            Gian thờ Mẫu

   Về chất liệu: Các nghệ nhân phối hợp giữa gỗ và đất để tạo hình phong phú. Nếu tượng gỗ với màu của vàng, đỏ của sơn, màu cánh gián dưới ánh đèn nến tạo cảm giác lung linh, huyền ảo. Tượng đất hút màu tạo nên độ trầm sâu cho các pho tượng. Tuỳ loại tượng, tuỳ chức năng mà hệ thống tượng được sử dụng trang trí màu sắc cho phù hợp. Tượng Phật, đặc biệt tượng Tam thế, được sơn son thếp vàng tạo vẻ trang nghiêm, linh thiêng. Tượng La hán, Hộ pháp sử dụng màu mạnh, tươi, tương phản gây ấn tượng mạnh về sự trấn áp, oai phong, tạo cái động. Tượng Tuyết Sơn màu đen, thể hiện giai đoạn khởi thủy, tu hành theo lối khổ hạnh của Phật.
   Không chỉ sử dụng hệ thống điêu khắc, chùa Thầy còn sử dụng tổng hợp các yếu tố sắp đặt kiến trúc không gian ánh sáng để chuyển tải giáo lý Phật pháp đến với Phật tử. Đó là yếu tố phong thuỷ tìm sự hòa hợp con người - thiên nhiên, tạo vật. Từ ngoài vào chùa cũng là sự chuyển trạng thái từ nơi cuộc sống thế tục để bước vào một thế giới yên tĩnh lắng đọng. Tiền đường bao giờ cũng là nơi trống vắng, ít tượng, tạo không gian yên tĩnh. Trong cái không gian đó, tượng Hộ pháp to lớn, oai phong có tác dụng trấn áp sự ngạo mạn trong mỗi con người. Càng đi sâu vào chùa Phật tử càng được đến gần với cõi Phật. Nơi tiếp xúc trọng tâm nhất là Phật điện, đông đảo vị Phật đang cứu độ, giáo hóa chúng sinh. Về ánh sáng càng đi sâu vào chùa, ánh sáng tự nhiên càng mất dần để chuyển sang ánh sáng của đèn, nếu giúp con người tĩnh tâm suy ngẫm tạm xa rời cuộc sống đời thường.
    Nghệ thuật bày đặt điêu khắc, kiến trúc độc đáo, đẹp đẽ linh thiêng, kết hợp với cảnh quan thiên nhiên vốn có (cụm di tích Chùa, hang động tự nhiên) và truyền thuyết linh thiêng về vị thiền sư Từ Đạo Hạnh đã đưa chùa Thầy vào hàng đệ nhất trong di sản nghệ thuật kiến trúc Phật giáo cổ truyền. Đến nay, chùa Thầy vẫn cuốn hút khách hành hương đến vãn cảnh, cầu phúc cầu tài, và hấp dẫn các nhà nghiên cứu tìm hiểu về giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ, lịch sử, tôn giáo nơi đây.
 Lưng chừng núi Thầy là chùa Cao hay còn gọi là Đỉnh Sơn Tự (vốn là Hiển Thụy Am) là nơi Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên. Chùa nằm vào vị trí đẹp trong khu vực với tòa kiến trúc gồm 3 gian, có gác chuông cao, vách chùa có nhiều bút tích các danh nho. Phía trên chùa Cao có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu,... trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi là bàn cờ tiên. Từ chùa Cao, đi vòng ra phía sau là hang Cắc Cớ huyền nhiệm. Hang khá sâu, lại hẹp và tối, muồn vào hang phải mang theo đuốc và lửa, càng xuống sâu hang càng cao, càng rộng, với nhiều ngóc ngách, lối đá rêu phong trơn tuột với những cột đá sáng long lanh như được khảm bạc dát vàng, những âm thanh tưởng như từ cõi âm vọng lên, những lỗ thông ra ngoài hang để ánh sáng luồn vào nhảy múa trong màn đêm… và tận cùng của hàng động, tục truyền vẫn còn hài cốt của quân nhà Triệu do Lữ Gia chỉ huy trong cuộc chiến chống lại nhà Hán từ đầu thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên. Từ hang Cắc Cớ, men theo sườn núi qua hàng cây đại già là đến đền Thượng, nơi thờ thánh Văn Xương và cũng là nơi hội họp của Đông Kinh Nghĩa Thục xưa kia. Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u. Cách một đoạn là đến hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu.

Cổng vào chùa Cao
Ở chân núi phía Tây còn có chùa Bối Am, còn gọi là chùa Một Mái, chùa có tên như vậy là vì chùa chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách núi. Hang Thánh Hóa nằm lưng chừng núi đá, lối vào hang chênh vênh, nhỏ hẹp, lờ mờ vẻ huyền bí, càng nhìn kỹ vào vách đá trong hang, càng thấy có nhiều vết lõm, đó là: Vết đầu, vết chân và vết tay, năm xưa Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã tỳ vào lúc giải thi (lìa khỏi xác). Bên cạnh đó có hang Hút Gió, thềm đá Thái Lão ...


Cổng trời ở hang Cắc Cớ
Xem thêm ở đây:http://www.5giay.vn/showthread.php?t=211076
Chú thích:
1. Nguyễn Hùng Hậu (Minh Không), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 2002.
2. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng, Mỹ thuật của người Việt, Nxb Mỹ thuật 1989.
3. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP.Hồ Chí Minh, 1997.
4. Hòa thượng Thích Thiện Hoa, Bản đồ tu Phật, Thành hội Phật giáo TpHCM.
5, 7. Phạm Ngọc Trung, Bước đầu khảo sát chùa Thầy, Tư liệu Viện Mỹ thuật.
6. Chu Quang Trứ, Sáng giá chùa xưa mỹ thuật Phật giáo, Nxb Mỹ thuật.
8. Cục Di sản văn hóa, Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, Nxb Hà Nội, 2005.
9. Trần Lâm Biền, Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, 2003.
10. Nguyễn Tiến Cảnh, Nguyễn Du Chi, Trần Lâm, Nguyễn Bá Vân, Mỹ thuật thời Mạc, Viện Mỹ thuật, 1993.
11. Kiều Thu Hoạch, Xứ Đoài, Nxb Văn hóa dân tộc, 2000.
                                                                            Sưu tầm từ:http://daitangkinhvietnam.org/
http://www.hanoiyeu.com/forum/showthread.php?t=574217
Đây là link dẫn đến một bài viết tâm huyết kêu gọi chung tay đóng góp để trùng tu tôn tạo lại chùa Nền - Đản Cơ Tự, rất mong quý vị hưởng ứng.
Xin đa tạ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét