Translate

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

THẦN PHẢ LẢNH GIANG TỪ



Ngày xưa (vào thời vua Hùng thứ 18), ở trang An Cố huyện Thuỵ Anh - phủ Thái Ninh - trấn Sơn Nam, có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà đã cao tuổi mà vẫn chưa sinh được mụn con nối dõi.

Một đêm trăng thanh, gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi, bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô gái về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, đang lúc ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn ba vòng quanh mình nàng, khiến nàng kinh hoàng mà ngất lịm, lúc sau thuồng luồng bỏ đi. Từ hôm đó, nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời dèm pha, khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Thời gian thấm thoát thoi đưa, ngày mùng 10 tháng giêng năm Tân Tỵ, nàng chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điềm chẳng lành, nàng đem cái bọc quẳng xuống dòng sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao”. Khấn xong, ông Minh rạch ra bỗng thấy ba con rắn từ trong chiếc bọc trườn xuống dòng sông. Con thứ nhất theo hướng cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám (nơi nàng Quý đang sống). Nhân dân các trang ấp ở đay thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều nghe thấy dưới dòng sông có người ngâm vịnh:

"Sinh là tướng, hoá là thần,
Tiếng thơm còn ở lòng dân muôn đời.
Khi nào giặc dã khắp nơi,
Bọn ta mới trở thành người thế gian."

Bấy giờ Thục Phán thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thủy bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy, nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thủy thần sinhở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉng dậy, Duệ Vương liền sai sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang ĐÀo Động, bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng, hình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó ông Vĩnh gọi hai em đến bái biệt thân mẫu rồi cùng nhau đến yết kiến vua Duệ Vương. Vua Hùng Liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, Ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại dưới sự chỉ huy của ông, năm đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.

Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn, nhà vua phong ông là Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần, nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua đồng ý, ông Vĩnh cùng hai em về quê bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng. Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không còn nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình. Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Thái Thượng Đẳng Thần, đồng thời đặt lệ, ban sắc chỉ cùng tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu phụng thờ.

Các triều đại sau đó đều có sắc phong cho ông, tất cả 12 sắc. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7 (1913).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét