Translate

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

HÀNH HƯƠNG ĐI LỄ CẦU AN NƠI ĐỀN PHỦ - PHẦN IV


D. NGHI THỨC HÀNH LỄ

   1. Nghi thức xin phép tổ tiên tại gia
Trước khi hành hương đi lễ tại các đền phủ, nhất là các nơi xa , các hương tử thường thắp hương khấn vái tại ban thờ tổ tiên tại gia. Thành tâm với nén hương chén nước, hương tử xin phép thổ công, thổ địa , (táo quân), cùng gia tiên tiền tổ được hành hương lễ thánh, sau là khấn xin tổ tiên gia hộ độ trì để xuất hành được thuận lợi , đắc lễ đắc bái, cúi xin các vị đoái thương con cháu mà tấu đối Phật Thánh nguyện cầu cho nội tộc bình an, âm siêu dương thái, phúc lộc lai đồng.
     Sau đây, Phúc Yên xin giới thiệu một bản văn khấn thường dùng để quý vị tham khảo:
Nam mô a di đà Phật (3 lần)
Con lạy chín phương trời mười phương phật
Con lạy Táo phủ thần quân, bản gia thổ địa, bản xứ tôn thần
Con lạy chư vị liệt tổ liệt tông công đồng nội ngoại
( Con lạy bà Cô, ông Mãnh, Cô bé đỏ, Cậu bé đỏ họ…)
Ngày hôm nay là ngày………………..
Con có nén hương chén nước kính cẩn thưa trình xin phép gia tiên tiền tổ cho con được xuất hành lễ thánh tại ………………………………………………
Cúi xin tiên tổ phù hộ độ trì cho con đi đến nơi về đến chốn, được thuận buồm xuôi gió. Cúi xin tổ tiên linh thiêng có tiếng có lời, kêu  thay lạy đỡ trên tấu dưới trình cho con cháu chúng con được ơn nhờ công đức :đắc lễ, đắc bái, đắc kêu, đắc cầu .
Nam mô a di đà Phật (3 lần)
Lưu ý:  Khi lễ thánh tại đền phủ có nhiều người kêu cầu tổ tiên, bà cô, ông mãnh …để được ơn nhờ các vị kêu thay lạy đỡ  giúp cho việc lễ thánh được mãn ý mãn tâm. Nhưng cũng có nhiều người cho rằng đền phủ là nơi thờ Phật Thánh nên các vong linh tổ tiên bà cô ông mãnh không được phép đến, và cũng không được kêu khấn như vậy trước ban thờ Phật Thánh mà chỉ nên khấn vái tại ban thờ tổ tiên tại gia mà thôi.  Trước khi hành hương lễ Thánh tại đền, phủ người ta thường chuẩn bị các đồ lễ chu đáo, ăn mặc gọn gàng, tránh mặc những đồ ngắn , ăn những thứ có mùi vị khó chịu như hành ( cách thông), hẹ ( từ thông), tỏi (đại toán), kiệu ( lan thông)…Sau khi đã chuẩn bị xong, xin phép tổ tiên tại gia thì hương tử bắt đầu xuất hành đi lễ Thánh tại các đền phủ.

  2. Thứ tự thực hiện nghi lễ tại các ban thờ trong đền:
Khi đi lễ tại các đền phủ, đầu tiên người ta lễ trình tại ban tiền bái ( hay còn gọi là ban lễ trình, ban đại bái ) .Đó là ban thờ thường được đặt ở vị trí trước gian thờ chính . Sau đó hương tử dâng lễ vật lên các ban thờ trong đền và tiến hành nghi lễ. Thông thường, người ta lễ từ ngoài vào trong, lễ hết trung cung ( hàng giữa ), vào đến hậu cung  rồi mới lễ sang hai bên. Sau đó trở ra ngoài lễ ban Mẫu Cửu và cuối cùng là ban thờ Cô, thờ Cậu
    Sơ đồ bố trí của một đền thường gặp như sau:

     Ban tiền bái thường đặt một án thờ, một bát hương lớn . Nhiều đền hiện nay khuyến mọi người không thắp hương trong đền mà thắp hương ở ban tiền bái. Trong những cụm di tích gồm nhiều đền chùa, ở nhiều nơi thường có bố trí đền trình. Đó là nơi đầu tiên để người hành hương đến lễ trình tế cáo xin phép đuợc hành lễ tại nội khu bản đền .
    Trung cung có thể chia làm nhiều lớp, lớp ngoài cùng thường bố trí ban thờ Công Đồng Tứ Phủ. Ban thờ này thường bài trí tượng Vua Cha Ngọc Hoàng cùng Quan Nam Tào và Quan Bắc Đẩu phía trên, tiếp dưới là tượng ngũ vị tôn quan, quan lớn bản đền, tượng các ông Hoàng, các cô các cậu hầu cận….Phía dưới thường bố trí ban thờ ngũ hổ, ban thờ này thường gọi là hạ ban. Hạ ban còn là nơi cúng lễ thanh xà bạch xà ( các ông lốt). Các lớp trong của trung cung có thể bố trí các ban thờ khác như: ban Thánh thủ đền, ban Ngọc Hoàng ( trường hợp này ban công đồng không bố trí tượng Ngọc Hoàng nữa)…..
    Hậu cung ( cung cấm) là nơi thâm nghiêm, thường bài trí tôn tượng Tam Tòa Thánh Mẫu, Các vị thần chủ thờ tại đền….Cung cấm thường không mở cửa rộng rãi để mọi người lễ bái, mà để tôn nghiêm các đền phủ thường “ cửa khóa then cài”. Các hương tử khi đó sẽ khấn vái ở phía ngoài, trước cửa cung.
   Tả biên, hữu biên: Tả biên (bên trái) thờ Bà Chúa Sơn Trang và thập nhị tiên nàng, hữu biên ( bên phải ) thờ Đức Thánh Vương Trần Triều ( Hưng Đạo Đại Vương) . Cũng có nhiều đền thờ bên tả là Đức Trần Triều bên hữu là Chúa Sơn Trang, những trường hợp này cũng it gặp hơn.
   Ban thờ Mẫu Cửu, lầu cô , lầu cậu : Ban Mẫu Cửu ( Mẫu Bán Thiên…) thường được bài trí ở ngoài trời. Lầu cô lầu cậu có thể bố trí ở trong đền chính hoặc ở phía sân đền ( như hình vẽ)

    Trên đây là phần giới thiệu các ban thờ đặc trưng, điển hình và thường gặp. Mỗi đền mỗi phủ lại có một cách bài trí sắp xếp khác nhau. Trước khi vào lễ thánh theo thường lệ, hương tử nên hỏi thăm người trông coi đền ( thủ nhang, đồng đền, ban quản lý di tích…) và xin phép được vào lễ thánh. Khi vào lễ nên đi từ cửa bên, không đi cửa chính . Cửa chính được coi là cửa để Chư Phật Thánh, quốc vương, hay các vị đức cao trọng vọng bước vào. Những dịp đại lễ cửa chính cũng thường để các vị hương tế bước qua để thực hiện nghi lễ. Các ngày thường các đền phủ thường không mở cửa chính. Khi vào đền  cần cung kính, không nói to, cười đùa , gây ồn ào, náo loạn chính điện ảnh hưởng đến sự trang nghiêm nơi thờ tự.

3. Thực hiện nghi lễ (cách hành lễ) :

- Dâng lễ: sắp lễ và dâng lên các ban thờ

- Dâng hương: Nén hương từ lâu đã được coi là cầu nối tâm linh giữa cõi trần thế và cõi linh thiêng nơi thiên tào địa phủ. Người ta thường thắp một nén, ba nén, năm nén… với những số lẻ  đầy ý nghĩa theo quan điểm của người phương Đông. Điều đặc biệt với tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ phủ đó là hương tử có thể thắp ba nén hay bốn nén hương tương ứng với kính lễ tam phủ , tứ phủ. Nén hương khi đốt lên còn có tác dụng khai quang, xua đuổi tà quỷ . Nhiều người khi sắp lễ thường cắm thêm một nén nhang vào mâm lễ với ý nghĩa làm trong sạch, thanh tịnh phẩm vật dâng lễ. Khi dâng hương có thể cầm nén hương nguyện cầu khấn vái rồi mới cắm vào bát hương hoặc cầm nén hương vái ba vái sau đó cắm vào bát hương rồi mới khấn lễ. Số lần vái cũng như số nén hương có thể là một lần, ba lần, năm lần ( số lẻ)… hay ba lần , bốn lần ( tương ứng với vái tam phủ, tứ phủ).

- Đánh chuông và khấn lễ: Tùy duyên, hương tử có thể quỳ hoặc đứng để hành lễ. Tại các ban thờ ở trung cung ( như ban công đồng) thường bố trí sập thờ, chiếu thờ để thực hiện nghi thức quỳ bái. Sau khi quỳ trước ban thờ, người ta đánh ba hồi chuông chắp tay và khấn vái . Nội dung khấn vái chính là các bài văn khấn như đã trình bày ở trên. Sớ văn có thể đọc trước ban thờ (tuyên sớ) hoặc chỉ cần đặt trên đĩa dâng lên ban thờ cũng được. Trường hợp văn khấn in , viết ra giấy và dâng lên ban thờ cũng có ý nghĩa như việc dâng sớ văn. Khi khấn vái xong , hương tử có thể gieo đồng đài âm dương xem lời kêu cầu của mình đã được chư Thánh chấp thuận hay chưa. Nếu chưa được  thì kêu cầu xin các  ngài đại xá và gieo lại lần nữa. Thường người ta chỉ gieo đến ba lần. Cũng có khi những việc quan trọng để an tâm người ta thường gieo ba lần và cả ba lần chư thánh đều chấp thuận thì mới coi là đạt.

         Linh vật dùng để xin đài thường là một đôi tiền đài và một chiếc đĩa sứ. Tiền đài là loại tiền xu có hai mặt, một mặt có ghi chữ hán ( mặt ngửa) và một mặt có in hình hoa văn ( long phụng, lưỡng long…) hoặc để trơn ( mặt sấp). Theo phong tục dân gian đồng tiền đài muốn có “ linh” thì sau khi mua về phải làm lễ khai quang, trì chú hoặc  dùng đồng tiền đài đã sẵn có “ linh” rồi (thường là đồng tiền đài ở đền phủ) để gieo đài xin chư thánh  “giáng linh” xuống đồng tiền đài mới. Đồng tiền đài không được để nơi uế tạp và phải nâng niu như một “ linh vật”. Hình vẽ dưới giới thiệu các mẫu tiền xu thường sử dụng làm tiền đài:



Khi gieo đài quy ước :
-         Một đồng sấp , một đồng ngửa ( nhất âm, nhất dương) là đài thuận tức là những lời kêu khấn được chư thánh chấp thuận
-         Hai đồng cùng ngửa là đài cười. “Cười là tươi là tốt “ tuy chư thánh chưa chấp thuận nhưng ngài vẫn thương
-         Hai đồng cùng sấp là đài quở. Trường hợp này được coi là thất lễ khiến chư thánh ra điều quở trách.
Hai đồng tiền đài còn được tương ứng với quan niệm về âm và dương.
-         Quan niệm thứ nhất cho rằng đồng sấp tượng trưng cho dương và đồng ngửa tượng trưng cho âm , giống như quan niệm dương thượng âm hạ dương nằm trên âm nằm dưới, dương sấp còn âm ngửa.
-         Quan niệm thứ hai cho rằng đồng ngửa là tượng trưng cho dương và đồng sấp tượng trưng cho âm. Đồng ngửa là đồng thấy rõ chữ ghi trên đó, không còn chướng ngại, thấy rõ ràng , minh bạch ứng với dương . Đồng sấp là đồng còn mờ mịt chưa biết rõ ràng nên tượng trưng cho âm
Hai quan điểm tuy khác nhau nhưng đều có điểm chung là sự thuận hòa âm dương, đó là điều ta luôn hướng tới. Âm dương tưởng chừng hai mặt trái ngược giữa tốt và xấu, chất lượng và giá cả, nóng và lạnh, tự tin và tự ti………Nhưng thiếu một trong hai mặt thì cũng không được. Có trời có đất, có tối có sáng, làm sao để âm hòa dương thuận , âu đó cũng là lẽ sống ở đời. Việc gieo tiền đài là một nghi lễ tâm linh. Đứng trước ban thờ chư thánh, hương tử nguyện cầu xin được các ngài soi đường chỉ lối, để tâm được an, để lòng được tịnh. Việc gieo đài âm dương cho kết quả có đúng hay không, thời mong quý vị cùng chiêm nghiệm. Có tâm thời ắt có linh – tâm tại lòng ta- linh tại ngã - bất linh tại ngã.

- Lễ tạ và hạ lễ : Sau khi lễ thánh xong, trước khi ra về người ta thường vào lễ tạ và hạ lễ, đem hóa các sớ văn và đồ mã. Trước khi hạ lễ cũng có thể gieo đài xem ý chư thánh đã chấp thuận cho hạ lễ chưa. Khi đốt mã ( hóa mã) thì đốt sớ văn trước. Đồ lễ sau khi hạ được coi là lộc thánh. Người ta có thể đem biếu người trông đền đôi chút và xin lộc bản đền. Tục lệ này gọi là lại lộc nhà đền. Các cụ xưa có câu: “Một miếng lộc thánh bằng cả gánh lộc trần “, lộc thánh dù ít dù nhiều nhưng mọi người đều trân trọng nâng niu. Nhiều người đem lộc về dâng lên bàn thờ gia tiên để tổ tiên thụ hưởng ân phúc chư thánh trước rồi con cháu mới thụ lộc sau.

Sưu tầm từ:http://hatvan.tk/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét