©
http://vietsciences.free.fr
và
http://vietsciences.org
Lê Anh Minh
Translate
Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012
Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012
ẤN CHƯƠNG
Ấn chương 印章
(con dấu,
con triện)
là một nét
văn hóa rất
độc đáo của
Trung Quốc.
Khắc ấn là
một nghệ
thuật,
nghiên cứu
và giám định
ấn là một
môn học hẳn
hoi. Ấn có
thể bằng
vàng, đá
quý, ngà,
xương. Ấn
dùng trong
công văn
giấy tờ đã
đành, nhưng
ấn có thể
kết hợp với
thư
書
(thư pháp)
và họa
畫
(tranh thủy
mặc), chúng
bổ túc nhau
mà tương
hỗ tương
thành
相互相成. Một
bức họa có
thư pháp và
một hoặc
nhiều ấn
chương trở
thành một
chỉnh thể
gọi là
«kim thạch
thư họa cộng
nhất thể»
金石書畫共一體
(ấn triện
bằng đá hay
vàng, thư
pháp, hội
họa hợp nhất
thành một
thể).
Trong sinh
hoạt hàng
ngày, người
Trung Quốc
phân biệt
hai loại ấn
chương: công
và tư. Ngoài
ra tư ấn còn
có danh
chương
名章 (khắc
tên, biệt
hiệu tác
giả) và
nhàn chương
閑章 (có
nội dung đa
dạng). Chúng
có hình
vuông, tròn,
chữ nhật,
bầu dục, đa
giác.
Ấn chương là một yếu tố quan trọng của một bức thư pháp hay một bức họa. Đặt đúng vị trí, ấn chương tôn thêm giá trị của tác phẩm; ngược lại, sẽ làm hỏng nó. Nghiên cứu kỹ ấn chương, người ta có thể giám định một bức thư họa là chính bản hay ngụy tạo.
Nguyên tắc khắc ấn triện là khắc chìm hoặc khắc nổi. Khắc chìm, ấn chương khi in ra có nét chữ trắng (gọi là âm văn 陰文, bạch văn 白文) trên nền đỏ. Khắc nổi, ấn chương khi in ra có nét chữ đỏ (gọi là dương văn 陽文, chu văn 朱文) trên nền trắng. Nói chung, thời Tiên Tần ấn triện chủ yếu là âm văn (tức là khắc chìm). Vật liệu làm ấn triện thay đổi khác nhau. Từ thời Tần-Hán, vật liệu làm ấn thay đổi nhiều về ngoại hình ấn triện lẫn chữ khắc bên trong. Thời Nam Tống-Bắc Tống, khắc ấn thêm phát triển vì nhiều thư pháp gia và họa gia kiêm luôn nghề kim hoàn (để đúc ấn bằng kim loại quí) hoặc nghề làm đá (để làm ấn bằng đá quí). Do đó mà có kim ấn, thạch ấn, ngọc ấn.
Các cách đúc ấn vàng thời Tống-Nguyên đã lạc hậu. Thời Minh-Thanh ngọc ấn rất đa dạng. Những ấn bằng đá quí như kê huyết, điền hoàng hoặc các loại đá phổ thông như thọ sơn thạch (của huyện Thọ Sơn tỉnh Phúc Kiến), thanh điền thạch (của huyện Thanh Điền tỉnh Chiết Giang) v.v. đều là văn phòng chi bảo. Vật liệu khắc ấn cũng có thể là thủy tinh thạch, ngọc thạch, ngà voi, xương thú, sừng trâu, hồng mộc. Ngày nay cũng có người dùng êbônic hoặc gốm sứ làm ấn. Do bảo vệ môi sinh, người ta có lẽ sẽ dùng một chất nhân tạo tổng hợp nào đó để làm ấn.
Mỗi thư họa gia có không ít ấn chương, như Tề Bạch Thạch cả chục biệt hiệu nên số ấn chương cũng nhiều chẳng kém. Bản thân ông cũng làm nghề khắc ấn mưu sinh, nên có nhiều ấn cũng không lạ. Bát Đại Sơn Nhân có khoảng 30 ấn, phân làm danh chương và nhàn chương (như đã nói trên). Nhàn chương phản ảnh tư tưởng và tâm trạng tác giả trong một giai đoạn đặc biệt nào đó trong đời ông ta. ấn văn (nội dung của ấn) có thể là một danh ngôn, hoặc do tác giả đặt ra để bày tỏ nỗi lòng hay ý chí. Chuyên gia về ấn có thể xác định ấn được khắc vào khoảng thời gian nào trong cuộc đời tác giả. Chuyên gia Chu Sĩ Tâm (HongKong) đã bỏ công nghiên cứu khoảng 30 ấn chương của Bát Đại Sơn Nhân và phân tích tỉ mỉ ấn văn của từng con ấn, thật là kỳ công. Thí dụ, có một ấn của Bát Đại Sơn Nhân mà ấn văn chỉ có một chữ lư 驢 (con lừa). Bấy nhiêu đó cũng đủ hiểu tâm trạng của đại thư họa gia này. Bát Đại Sơn Nhân mang tâm trạng u uất của một di thần nhà Minh khi Nhà Thanh thành lập. Ông trở nên điên loạn, khi làm tăng khi làm đạo sĩ, nét bút cuồng phóng, cho nên lấy chữ lư là mượn ý của Trần Đinh Sơn Nhân: «Ta nay là thày chùa rồi, sợ gì mà không lấy biệt hiệu là Sơn Lư 山驢 (lừa núi).» Do đó bức tranh hay thư pháp nào của Bát Đại Sơn Nhân có ấn văn lư 驢 thì nó đã được sáng tác từ lúc ông đi tu vậy.
Trên đây là một thí dụ nhỏ. Kỳ thực, mỗi thư họa gia cố tự tạo ấn triện của mình có bản sắc riêng, khi đóng lên tác phẩm, coi như là «chứng thực chính bản» của tác giả. Việc giảo nghiệm một tác phẩm thư họa Trung Quốc trở nên khó khăn là thế. Ngoài việc xem xét chất liệu vải, lụa, hay giấy, người ta còn xem bút pháp, chữ ký cùng với tính cách của ấn chương nữa. Sự khó khăn càng tăng vì số ấn chương của một tác giả có thể rất nhiều và người ta không rõ hết nội dung của chúng (ấn văn). Ngoài ra người chủ mua bức thư họa về có quyền đóng lên đó ấn chương của riêng mình. Qua một đời chủ là tác phẩm mang thêm một hai ấn chương. Đó là lý do ta thấy tác phẩm thư họa cổ thường có nhiều ấn chương chằng chịt.
Trên đây là những điều hết sức cơ bản về ấn chương. Ta cần nhớ mấy điểm chính về các loại ấn chương như sau:
1/ Nhàn chương 閑章: cũng gọi dẫn thủ chương 引首章 (vì đóng ở đầu tác phẩm) hoặc tùy hình chương 隨形章 (vì tùy theo hình dạng có sẵn của cục đá mà khắc ấn). Gọi là nhàn thực tế chẳng nhàn chút nào. Thí dụ, đi mừng một đám cưới, ta tặng một tấm hoành phúc (tức hoành phi) với đại tự «Mỹ ý diên niên» 美意延年 nhưng nội dung nhàn chương là «khổ trung lạc» 苦中樂 (sướng trong cảnh khổ) thì khác nào tát nước vào cô dâu chú rể. Nội dung nhàn chương phải phù hợp nội dung tác phẩm. Nói chung, khi đem tác phẩm mừng tặng ai, nhàn chương với nội dung «như ý cát tường» 如意吉祥 là an toàn và bảo đảm nhất. Trong số nhàn chương cũng phân ra mấy loại:
a- Niên hiệu chương 年號章: Ghi giáp tý 甲子, ất sửu 乙丑, bính dần 丙寅, nhất cửu cửu bát niên 一九九八年, v.v.
b- Nguyệt hiệu chương 月號章: Ghi tên tháng như hoà nguyệt 和月, cốc vũ 谷雨, thịnh hạ 盛夏, v.v.
c- Trai hiệu chương 齋號章: Ghi tên hiệu của thư trai 書齋 (phòng đọc sách) của ta như Mặc Nhân Cư 默人居, Thụy Đức Thảo Đường 瑞德草堂, Tích Tự Các 積字閣, v.v.
d- Nhã thú chương 雅趣章: Nội dung loại này rất đa dạng, ghi nỗi lòng, hoài bão, ý chí, danh ngôn, phương châm v.v. Thí dụ: Lạc nhi khang 樂而康 (vui vẻ mạnh khoẻ), khổ trung lạc 苦中樂 (sướng trong cảnh khổ), thiên địa tâm 天地心 (lòng trời đất), mặc thú 墨趣 hay mặc lạc 墨樂 (thú vui thư pháp), thần công 神功, cần phấn 勤奮 (siêng năng cố gắng), khổ công 苦功 (công phu khổ luyện), trị học 治學 (chuyên học), tửu trung tiên 酒中仙 (tiên trong rượu), thanh thú 清趣 (thú vui thanh nhã), sư cổ bất nệ 師古不泥 (noi theo xưa mà không câu nệ), thư đức 書德 (đức viết chữ), tinh cần 靜勤 (tinh chuyên và cần mẫn), phúc thọ 福壽 , mặc hương 墨香 (hương thơm của mực), quan viễn 觀遠 (nhìn xa), v.v.
2/ Yêu chương 腰章: Đối với một bức trung đường (trực phúc, tức là tấm hình chữ nhật đứng, kiểu portrait) mà quá dài, dù có đóng dẫn thủ chương rồi thì vẫn cảm thấy trống trải. Ở ngang thắt lưng tác phẩm ta đóng thêm một ấn. Ấn chương đóng ở ngang lưng bức thư pháp gọi là yêu chương [yêu 腰: eo thắt ngang lưng]. Yêu chương phải nhỏ hơn nhàn chương và danh chương, có thể hình chữ nhật, vuông, hoặc tròn.
3/ Danh chương 名章: Ấn chương khắc tên hoặc tự hiệu của tác giả, đóng dưới hạ khoản. Có thể đóng hai ấn chương nội dung khác nhau, nhưng tốt nhất là một ấn bạch văn và một ấn chu văn. Thí dụ, ấn văn có thể là: Lê ấn 黎印, Anh Minh ấn 英明印, Anh Minh chi ấn 英明之印, Lê Anh Minh ấn 黎英明印. Các chữ này khi đã in trên giấy phải theo thứ tự ngược chiều kim đồng hồ thì mới đúng qui cách.●
Sưu tầm từ
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Lê Anh Minh
|
|
Ấn vàng
của Hán
Văn Đế.
Ấn văn
là: Văn Đế hành tỷ 文帝行璽 |
Ấn ngọc
đời Tây
Hán. Ấn
văn là:
Hoàng hậu chi tỷ 皇后之璽 |
Ấn chương là một yếu tố quan trọng của một bức thư pháp hay một bức họa. Đặt đúng vị trí, ấn chương tôn thêm giá trị của tác phẩm; ngược lại, sẽ làm hỏng nó. Nghiên cứu kỹ ấn chương, người ta có thể giám định một bức thư họa là chính bản hay ngụy tạo.
|
âm văn
陰文 (bạch
văn 白文):
chữ trắng trên nền đỏ. |
Nguyên tắc khắc ấn triện là khắc chìm hoặc khắc nổi. Khắc chìm, ấn chương khi in ra có nét chữ trắng (gọi là âm văn 陰文, bạch văn 白文) trên nền đỏ. Khắc nổi, ấn chương khi in ra có nét chữ đỏ (gọi là dương văn 陽文, chu văn 朱文) trên nền trắng. Nói chung, thời Tiên Tần ấn triện chủ yếu là âm văn (tức là khắc chìm). Vật liệu làm ấn triện thay đổi khác nhau. Từ thời Tần-Hán, vật liệu làm ấn thay đổi nhiều về ngoại hình ấn triện lẫn chữ khắc bên trong. Thời Nam Tống-Bắc Tống, khắc ấn thêm phát triển vì nhiều thư pháp gia và họa gia kiêm luôn nghề kim hoàn (để đúc ấn bằng kim loại quí) hoặc nghề làm đá (để làm ấn bằng đá quí). Do đó mà có kim ấn, thạch ấn, ngọc ấn.
|
dương
văn 陽文
(chu văn
朱文):
chữ đỏ trên nền trắng. |
Các cách đúc ấn vàng thời Tống-Nguyên đã lạc hậu. Thời Minh-Thanh ngọc ấn rất đa dạng. Những ấn bằng đá quí như kê huyết, điền hoàng hoặc các loại đá phổ thông như thọ sơn thạch (của huyện Thọ Sơn tỉnh Phúc Kiến), thanh điền thạch (của huyện Thanh Điền tỉnh Chiết Giang) v.v. đều là văn phòng chi bảo. Vật liệu khắc ấn cũng có thể là thủy tinh thạch, ngọc thạch, ngà voi, xương thú, sừng trâu, hồng mộc. Ngày nay cũng có người dùng êbônic hoặc gốm sứ làm ấn. Do bảo vệ môi sinh, người ta có lẽ sẽ dùng một chất nhân tạo tổng hợp nào đó để làm ấn.
Mỗi thư họa gia có không ít ấn chương, như Tề Bạch Thạch cả chục biệt hiệu nên số ấn chương cũng nhiều chẳng kém. Bản thân ông cũng làm nghề khắc ấn mưu sinh, nên có nhiều ấn cũng không lạ. Bát Đại Sơn Nhân có khoảng 30 ấn, phân làm danh chương và nhàn chương (như đã nói trên). Nhàn chương phản ảnh tư tưởng và tâm trạng tác giả trong một giai đoạn đặc biệt nào đó trong đời ông ta. ấn văn (nội dung của ấn) có thể là một danh ngôn, hoặc do tác giả đặt ra để bày tỏ nỗi lòng hay ý chí. Chuyên gia về ấn có thể xác định ấn được khắc vào khoảng thời gian nào trong cuộc đời tác giả. Chuyên gia Chu Sĩ Tâm (HongKong) đã bỏ công nghiên cứu khoảng 30 ấn chương của Bát Đại Sơn Nhân và phân tích tỉ mỉ ấn văn của từng con ấn, thật là kỳ công. Thí dụ, có một ấn của Bát Đại Sơn Nhân mà ấn văn chỉ có một chữ lư 驢 (con lừa). Bấy nhiêu đó cũng đủ hiểu tâm trạng của đại thư họa gia này. Bát Đại Sơn Nhân mang tâm trạng u uất của một di thần nhà Minh khi Nhà Thanh thành lập. Ông trở nên điên loạn, khi làm tăng khi làm đạo sĩ, nét bút cuồng phóng, cho nên lấy chữ lư là mượn ý của Trần Đinh Sơn Nhân: «Ta nay là thày chùa rồi, sợ gì mà không lấy biệt hiệu là Sơn Lư 山驢 (lừa núi).» Do đó bức tranh hay thư pháp nào của Bát Đại Sơn Nhân có ấn văn lư 驢 thì nó đã được sáng tác từ lúc ông đi tu vậy.
|
Các ấn chương chằng chịt trên một bức tranh cổ chứng tỏ tác phẩm đã qua tay rất nhiều đời chủ. |
Trên đây là một thí dụ nhỏ. Kỳ thực, mỗi thư họa gia cố tự tạo ấn triện của mình có bản sắc riêng, khi đóng lên tác phẩm, coi như là «chứng thực chính bản» của tác giả. Việc giảo nghiệm một tác phẩm thư họa Trung Quốc trở nên khó khăn là thế. Ngoài việc xem xét chất liệu vải, lụa, hay giấy, người ta còn xem bút pháp, chữ ký cùng với tính cách của ấn chương nữa. Sự khó khăn càng tăng vì số ấn chương của một tác giả có thể rất nhiều và người ta không rõ hết nội dung của chúng (ấn văn). Ngoài ra người chủ mua bức thư họa về có quyền đóng lên đó ấn chương của riêng mình. Qua một đời chủ là tác phẩm mang thêm một hai ấn chương. Đó là lý do ta thấy tác phẩm thư họa cổ thường có nhiều ấn chương chằng chịt.
Trên đây là những điều hết sức cơ bản về ấn chương. Ta cần nhớ mấy điểm chính về các loại ấn chương như sau:
1/ Nhàn chương 閑章: cũng gọi dẫn thủ chương 引首章 (vì đóng ở đầu tác phẩm) hoặc tùy hình chương 隨形章 (vì tùy theo hình dạng có sẵn của cục đá mà khắc ấn). Gọi là nhàn thực tế chẳng nhàn chút nào. Thí dụ, đi mừng một đám cưới, ta tặng một tấm hoành phúc (tức hoành phi) với đại tự «Mỹ ý diên niên» 美意延年 nhưng nội dung nhàn chương là «khổ trung lạc» 苦中樂 (sướng trong cảnh khổ) thì khác nào tát nước vào cô dâu chú rể. Nội dung nhàn chương phải phù hợp nội dung tác phẩm. Nói chung, khi đem tác phẩm mừng tặng ai, nhàn chương với nội dung «như ý cát tường» 如意吉祥 là an toàn và bảo đảm nhất. Trong số nhàn chương cũng phân ra mấy loại:
a- Niên hiệu chương 年號章: Ghi giáp tý 甲子, ất sửu 乙丑, bính dần 丙寅, nhất cửu cửu bát niên 一九九八年, v.v.
b- Nguyệt hiệu chương 月號章: Ghi tên tháng như hoà nguyệt 和月, cốc vũ 谷雨, thịnh hạ 盛夏, v.v.
c- Trai hiệu chương 齋號章: Ghi tên hiệu của thư trai 書齋 (phòng đọc sách) của ta như Mặc Nhân Cư 默人居, Thụy Đức Thảo Đường 瑞德草堂, Tích Tự Các 積字閣, v.v.
d- Nhã thú chương 雅趣章: Nội dung loại này rất đa dạng, ghi nỗi lòng, hoài bão, ý chí, danh ngôn, phương châm v.v. Thí dụ: Lạc nhi khang 樂而康 (vui vẻ mạnh khoẻ), khổ trung lạc 苦中樂 (sướng trong cảnh khổ), thiên địa tâm 天地心 (lòng trời đất), mặc thú 墨趣 hay mặc lạc 墨樂 (thú vui thư pháp), thần công 神功, cần phấn 勤奮 (siêng năng cố gắng), khổ công 苦功 (công phu khổ luyện), trị học 治學 (chuyên học), tửu trung tiên 酒中仙 (tiên trong rượu), thanh thú 清趣 (thú vui thanh nhã), sư cổ bất nệ 師古不泥 (noi theo xưa mà không câu nệ), thư đức 書德 (đức viết chữ), tinh cần 靜勤 (tinh chuyên và cần mẫn), phúc thọ 福壽 , mặc hương 墨香 (hương thơm của mực), quan viễn 觀遠 (nhìn xa), v.v.
2/ Yêu chương 腰章: Đối với một bức trung đường (trực phúc, tức là tấm hình chữ nhật đứng, kiểu portrait) mà quá dài, dù có đóng dẫn thủ chương rồi thì vẫn cảm thấy trống trải. Ở ngang thắt lưng tác phẩm ta đóng thêm một ấn. Ấn chương đóng ở ngang lưng bức thư pháp gọi là yêu chương [yêu 腰: eo thắt ngang lưng]. Yêu chương phải nhỏ hơn nhàn chương và danh chương, có thể hình chữ nhật, vuông, hoặc tròn.
3/ Danh chương 名章: Ấn chương khắc tên hoặc tự hiệu của tác giả, đóng dưới hạ khoản. Có thể đóng hai ấn chương nội dung khác nhau, nhưng tốt nhất là một ấn bạch văn và một ấn chu văn. Thí dụ, ấn văn có thể là: Lê ấn 黎印, Anh Minh ấn 英明印, Anh Minh chi ấn 英明之印, Lê Anh Minh ấn 黎英明印. Các chữ này khi đã in trên giấy phải theo thứ tự ngược chiều kim đồng hồ thì mới đúng qui cách.●
© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Lê Anh Minh
Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012
Mật Mã Tây Tạng 3 - Phần C
Dịch giả: Lục Hương
Chương 15
CÁNH CỬA SINH MỆNH
Cổ cách cơ quan PhậtHai mắt Nhạc Dương sáng lên, vội rối rít hỏi: “Ôi cha, vậy sao? Tình hình lúc đó thế nào vậy?”
Lạt ma Á La và Nhạc Dương nói được hai ba câu, giáo sư Phương Tân đi qua liền hỏi: “Hai người đang nói chuyện gì mà cứ phải thì thà thì thầm vậy?”
Á La chỉ khẽ cười cười, lắc đầu quay đi. Nhạc Dương lại thấp giọng nói với giáo sư Phương Tân: “Giáo sư, ông có cảm thấy hôm nay thái độ của giáo quan cới cô Mẫn Mẫn không ổn lắm không, đặc biệt là sau khi ăn cơm ấy. Lạt Ma Á La nói, vẻ mặt họ lúc ở trong lều rất kỳ quái, tôi lo là có chuyện gì xảy ra mất”
Giáo sư Phương Tân nói: “Chắc không đâu, mà cậu lo cái gì cơ chứ?”
Nhạc Dương liền khoa tay múa chân nói: “Chính là cái vấn đề ấy ấy, mọi người đều biết cả rồi. chắc không cần tôi phải nói ra chứ” Anh chàng nghiêng nghiêng đầu về phía lều của Trác Mộc Cường Ba gật gật mấy cái.
Giáo sư Phương Tân cười cười vỗ nhẹ lên vai Nhạc Dương : “Mấy người trẻ các cậu ấy à…”
Nhạc Dương vội thầm cãi: “Không phải đâu, cả lạt ma Á la cũng tận mắt trông thấy rồi mà, ông ấy nói họ ở trong lều thế này…thế kia…”
Vừa hay lúc ấy Ba Tang ở trong lều đi ra, thấy giáo sư Phương Tân chỉ lắc lắc đầu không nói gì, bèn hỏi: “Sao thế, giáo sư? Có cần tôi giúp gì không?”
Giáo sư Phương Tân mỉm cười: “Nghe Nhạc Dương nói, giáo quan Lữ Cánh Nam và cô Đường Mẫn hình như đang bạt kiếm giương cung ở trong lều kia kìa, không biết có phải thật không nữa…”
Mấy phút sau. Trương lập xông vào lều của Trác Mộc Cường Ba kêu toáng lên: “Không xong rồi, Cường Ba thiếu gia, giáo quan và cô Mẫn Mẫn đang đánh nhau trong lều rồi! Giống mấy bà đanh đá đánh nhau ngoài chợ ấy, giật tóc xé áo đối phương, nhốn nháo hết cả lên rồi!”
Trác Mộc Cường Ba vội đứng phắt dậy, lớn tiếng nói: “Hả? Sao lại thế cơ chứ?”
Bên trong lều, Đường Mẫn đưa tay quệt mấy giọt mồ hôi li ti trên trán, hoan hỉ nói: “Được rồi, cuối cùng cũng tháo được ra”
Lữ Cánh Nam ngoảnh đầu lại nói: “Cám ơn…” Đột nhiên, Trác Mộc Cường Ba sùng sục như con bò mộng thò đầu vào trong lều: “”Các cô…
Trương Lập cà Nhạc Dương đứng đằng xa nhìn bóng Trác Mộc Cường Ba khuất sau chiếc lều. Anh chàng họ Trương thì thào hỏi: “Tin tức có đáng tin cậy không đấy, Cường Ba thiếu gia đã xông vào rồi…”
Chỉ nghe một tiếng “Á…” sắc nhọn rạch ngang bầu trời đêm đang mưa lâm thâm, rõ ràng là tiếng hét của một cô gái nhưng lại không giống tiếng của Mẫn Mẫn…
Trác Mộc Cường Ba ôm nửa gương mặt rát bỏng lủi thủi ra khỏi căn lều, đi tìm Trương Lập và Nhạc Dương, chỉ mặt hai anh chàng lắm chuyện nói: “Các cậu…ai bảo bọn họ đánh nhau hả! Là ai?”
Trương Lập vội vàng giải thích: “Tôi nghe anh Ba Tang nói thế mà”
Nhạc Dương cũng xua tay lia lịa: “Tôi không nói, tôi không có nói mà!”
Sự việc nhanh chóng được làm rõ, Lữ Cánh Nam đanh mặt tuyên bố, hôm nay Trương Lập và Nhạc Dương trực đêm. Cả hai anh chàng không hiểu sao mình lại chọc giận giáo quan đến thế, cũng không hỏi được rốt cuộc Cường Ba thiếu gia đã phát hiện ra chuyện gì. Đêm về khuya, hai người ngồi bên cạnh lều Trác Mộc Cường Ba giơ tấm bạt lên che mưa, lửa vẫn cháy nhưng gió lạnh thổi vù vù, mưa dường như lại lớn hơn một chút. Vì Ba Tang đã lạnh lùng nhắc nhở từ trước rằng: “Cẩn thận một chút, đêm nay dốc núi đối diện có thể bị sụt lở đấy!” Nên hai người đều không dám đi ngủ. Trương Lập run lên một cái, làu bàu oán trách: “Đều tại cái thằng ngốc nhà cậu, hại tôi phải trực đêm theo”
Nhạc Dương nói: “Làm sao trách tôi chứ, tôi làm sao biết được họ làm gì trong đó, tôi cũng làm sao biết được Cường Ba thiếu gia lại dễ kích động như thế, với cả tôi làm sao biết được sau khi Cường Ba thiếu gia vào trong ấy…giáo quan bỗng hét lên the thé như thế. Tôi lại chẳng tưởng mọi người sẽ cùng đi ra, không thể vì chút chuyện nhỏ này mà gây lộn với nhau được, chuyện giáo quan có ý với Cường Ba thiếu gia anh xũng biết rồi còn gì, đúng là hiếm có, bà già ấy lại nảy nở mầm tình, vốn là tôi cũng rất hi vọng vào giáo quan…chậc, nhưng tiếc nỗi Cường Ba thiếu gia lại yêu cô Mẫn Mẫn đến chết đi sống lại như thế, tôi thấy hy vọng của giáo quan không lớn rồi”
Trương Lập vội đặt tay lên môi: “Suỵt…nghe thấy tiếng gì không?”
Nhạc Dương vểnh tai lắng nghe: “Chỉ có tiếng mưa thôi mà?”
Trương Lập nói: “Không phải…” Anh nheo mắt lại, tựa hồ muốn nhìn xa hơn chút nữa, rồi đột nhiên đứng phắt dậy, chỉ về phía xa kêu lên, “những cái cây kia hình như đang chuyển động”
“A” Nhạc Dương dựa hẳn sang bên trái, cả người trượt chân đổ sập vào chiếc lều, Trác Mộc Cường Ba nằm bên trong lập tức bị giật mình tỉnh giấc, vội hỏi: “Chuyện gì thế?”
Nhạc Dương còn chưa kịp trả lời, Trác Mộc Cường Ba đã ở trong chui ra, Trương Lập chỉ tay về phía xa nói: “Anh xem đám cây kia có phải đang di động không?”
Đằng xa tối đen như mực, bóng cây khổng lồ kéo dài hình thành nên sống lưng con quái vật, không nhìn kỹ quả nhiên khó phát hiện được những cây ấy dường như đang khẽ chuyển động, không phải, tốc độ di động đang dần tăng lên! Lúc Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn, sự chuyển động của cây cối đã hết sức rõ rệt rồi,gã thấp giọng nói: “Sụt lở rồi, triền núi bị sụt”
Đất đá trôi ầm ầm đổ xuống, từng cây rồi lại từng cây cổ thụ đổ rạp. Dòng lũ vốn chảy thàn hai đường rãnh hai bên trái phải, đột nhiên lại tuôn thêm một dòng đất cát chảy vào chính giữa, nhằm thẳng hướng lều trại lao tới. Trương Lập kêu toáng lên: “Đất đá trôi tới rồi, mọi người mau ra đi!”
Trác Mộc Cường Ba thốt: “Không kịp mất rồi!” Thấy dòng đất đá trôi thẳng về phía lều trại của Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam , gã vội rút con dao săn cá sấu ở bắp vế, vung lên chém đứt sợi dây thừng cố định lều bạt, cũng không kịp tìm người, chỉ cách một lớp chăn mò thấy hai người, vội ôm chặt, lăn sang một bên. Ba Tang người vừa mới lăn đi, dòng đất đá trôi lệch hướng kia đã nuốt chửng chiếc lều bạt rồi chảy tiếp chừng gần 500m nữa mới dừng lại.
Lúc này giáo sư Phương Tân và mấy người khác mới ra khỏi lều. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thò đầu ra khỏi đống vải chăn lùng nhùng, chỉ thấy Trương Lập và Nhạc Dương sắc mặt tái mét đứng bên cạnh, một người đưa tay lau mồ hôi thốt lên: “Nguy hiểm quá!”
Giáo sư Phương Tân nói: “Nhìn trên kia kìa, dòng đất đá thứ hai lại sắp hình thành rồi, chúng ta phải lập tức rời khỏi đây thôi”
Tám người vội vàng thu dọn hành trang, rời khỏi khoảnh đất bằng với tốc đọ nhanh nhất có thể, rồi theo ý kiến ban đầu của giáo sư Phương Tân, dịch sang phía Tây chừng hơn 300m, chuyển tới vị trí trung tâm của khu rừng. Dòng đất đá trôi hoành hành hung hãn bên ngoài, nhưng đều bị những gốc cây quái dị này chặn lại, chỉ trôi thêm được mấy mét là đã bị chia cắt thành dòng nhỏ, không còn cuồn cuộn hung dữ nữa.
Trương Lập ngạc nhiên nói: “Tại sao giáo sư Phương Tân lại biết đây là vùng an toàn?”
Giáo sư Phương Tân điềm đạm giải thích: “Đoạn này vốn là khu vực thường xuyên xảy ra đất đá trôi, nham thể và núi đều dễ xuất hiện hiện tượng đất trôi đá lở, nhưng rừng cây này chắc cũng mấy trăm tuổi rồi, có thể giữ được tình trạng không bị phá hoại cho tới tận bây giờ, chứng tỏ bộ rễ của những thực vật kỳ lạ này còn bám đất chặt hơn bộ rễ của cây bách, vì vậy nơi này có lẽ là tương đối an toàn”
Nhìn dòng đất đá xối vào khoảnh đất bằng phẳng phía trên kia, đồng thời chất chồng chất đống lên đó, nơi ấy dần dần trở nên rộng hơn, phẳng hơn, Nhạc Dương lè lưỡi nói: “Mẹ của tôi ơi, thì ra là chỗ đó là do đất đá trôi tích tụ mà thành, suýt chút nữa chúng ta tự chui đầu vào rọ rồi”
Lữ Cánh Nam nói: “Lần này tôi sơ suất, cũng may đã phát hiện kịp thời, đành để mọi người tạm nghỉ ngơi trong khu rừng này vậy”
Lạt ma Á La lắc đầu nói : “Địa điểm vốn không chọn sai, chỉ là không ngờ hai dòng đất đá trôi ấy lại va chạm tác động lẫn nhau, dẫn đến chuyển hướng xối thẳng vào giữa, đây là tự nhiên biến hóa khôn lường, chúng ta không thể dự đoán một cách hoàn toàn chính xác được đâu, sắp xếp người canh phòng ban đêm, giữ cảnh giác bất cứ lúc nào là hành động đúng đắn”
Trong khu rừng đầy những cây cối quái dị đó, trời lại mưa gió ầm ầm, muốn bình yên ngủ một giấc nào có dễ dàng gì, mọi người đều mở mắt thao láo cả đêm dài, ngày hôm sau lại tiếp tục dựa theo chú thích trên bản đồ, nhằm hướng Đông Nam thẳng tiến.
“Đinh…..đinh đinh….” giữa khu vực hoang vu không người lạnh lẽo mênh mông vang lên tiếng đục đẽo chát chúa, bên cạnh mấy chiếc lều bạt là một pho tượng Quan Âm cao đến mười bốn mười lăm mét đứng nghiêm trang trong hang động. Không, đây dường như không phải Quan Thế Âm Bồ Tát ngàn tay ngàn mắt truyền thống, trước tiên là tạo hình của phần đầu pho tượng có tới ba mắt, đông thời người thợ tay nghề hết sức uyên thâm ấy đã tạo cho bức tượng một vẻ mặt mỉm cười đầy vẻ từ bi, nhưng khóe miệng lại nhếch lên lạnh lùng ngạo nghễ; kế đó là, ngàn tay ngàn mắt, biến thành ngàn tay ngàn miệng, giữa lòng bàn tay, không phải con mắt quan sát thế sự mà là những cái miệng hình dạng khác nhau, có cái nhếch mép, cười gằn, có cái nghiến răng nghiến lợi, có cái há to như chậu máu, tượng Phật như vậy, thật khiến người ta phải kinh hãi, lạnh người.
Lúc này bên ngoài pho tượng đá đã lắp xong giàn giáo, bên trên người bước qua bước lại hết sức bận rộn, họ cẩn trọng đục từng nhát lên đó, nhưng đám người này không phải đang tạc tượng mà đang….
“Rầm” Một mảng lớn trước ngực tượng Phật tróc ra rơi xuống, dưới đất bụi bay mù mịt. Merkin huýt sáo, thái độ vô cùng ung dung. Y cầm bộ đàm lên hỏi: “Đã thấy chưa?”
Soares đứng trên giàn giáo đáp lời: “Chưa thấy, chắc còn phải đục sâu thêm chút nữa, chất đá ở đây không tốt, rất dễ bong tróc, chắc chỉ lát nữa là xong thôi” Vừa dứt lời, lại một tiếng động nữa vang lên, kế đó là một mảng đá lớn hơn tróc xuống, trước ngực bức tượng đá khổng lồ liền lộ ra một mảng kim loại, Soares mừng rỡ nói: “Xong rồi, để tôi khởi động cơ quan xem”
Merkin ngẩng đầu lên nhìn vầng trán của tượng Quan Âm, nơi đó, phía trên đôi mắt Phật từ bi hiền hòa, có một con mắt lớn phát ra những tia sáng bàng bạc. Chỉ cần Soares cắm bốn cây quyền trượng vào bản kim loại nơi ngực tượng Phật, con mắt bạc ấy sẽ rơi xuống, mà con mắt này, tương truyền có thể mở ra một bí mật còn lớn hơn gấp bội.
Soares lấy ra bốn cây gậy dài chừng một thước (khoảng 30cm), một đầu hình thoi, bên trên hình thoi khảm một phiến tròn bằng kim loại to như đồng tiền có hình vẽ. Soares quan sát bảng kim loại, rồi cắm đầu có đồng tiền vào lỗ tương ứng, từ từ cắm sâu vào, mỗi khi một cây quyền trượng dấn vào, con mắt lớn trên trán tượng đá lại lơi ra một chút, bụi đá lả tả rải xuống như mưa.
Soares dặn dò: “Xong rồi, một đứa chúng mày lên lấy nó xuống đi”
Một tên trong đám thủ hạ liền xắn tay áo bám vào cánh tay tượng Phật trèo lên, vừa mới leo được hai ba mét, đột nhiên kêu “Á…” một tiếng lớn, trượt chân rơi khỏi giàn giáo cao mười mét. Soares liền vung roi ra, quấn chặt tên đó, kéo trở lại giàn giáo rồi hỏi: “Chuyện gì vậy?”
Tên kia đáp: “ Không biết nữa, hình như có con gì đó cắn tôi một cái”
Soares xoay xoay cổ tay tên đó, vừa trông thấy vết thương liền nói luôn: “Ồ? Bò cạp, mày chạm phải chỗ nào rồi?”
Tên kia lắc đầu: “Đâu có đâu, tôi bám vào cánh tay tượng Phật trèo lên thôi, vết thương bắt đầu tê đi rồi”
Soares chỉ vào hai tên khác nói: “Hai thằng chúng mày, đỡ nó xuống dưới, tiêm huyết thanh vào”
Vừa dứt lời, dưới chân bỗng rung lên dữ dội, cả giàn giáo phát ra những tiếng “rắc rắc lách cách”, một cánh tay pho tượng cơ hồ như muốn nhấc lên. Merkin bên dưới nhìn thấy tượng đá biến đồi, vội vàng với lên hỏi: “Sao vậy? Xảy ra chuyện gì à?”
Soares đáp: “Không sao, pho tượng này là tượng cơ quan Phật, giờ tôi đã khởi động cơ quan, chỉ sợ tượng Phật sắp sụp xuống rồi. Tôi sẽ đích thân đi lấy con mắt bạc, anh tổ chức cho người bên dưới rút đi” Kế đó y lại quay sang bảo đám người đang lao động trên giàn giáo, “Chúng mày lập tức rời khỏi đây, sắp sập tới nơi rồi”
Thân hình Soares lắc nhẹ, trèo lên với tốc độ nhanh hơn tên vừa nãy không biết bao nhiêu lần. Lúc leo tới gần chỗ cánh tay quả nhiên trong cái miệng nơi lòng bàn tay bò ra một con bọ cạp dài chừng 10cm, toàn thân trắng như tuyết, chỉ có mũi kim nơi đuôi là màu đen. Soares lấy làm hứng thú, ngạc nhiên thốt lên: “Không ngờ lại là bọ cạp trắng” Y vươn tay ra, thành thạo bắt lấy con bọ cạp, rồi ném xuống dưới eo, vậy là đã cho con vật vừa bắt được vào một chiếc lọ thủy tinh.
Đột nhiên nơi đốc nách của cánh tay đó có đá vụn rơi xuống, cả cánh tay lập tức gãy lìa, Soares suýt chút nữa cũng rơi xuống theo, may mà kịp bám vào một cánh tay khác. Lúc này, trong chỗ gãy kia, dường như có gì đó nhúc nhích, đưa mắt nhìn lại, thì thấy vô số bọ cạp trắng đang tràn ra, bò loạn lung tung khắp nơi. Soares cũng không khỏi kinh ngạc, nhủ thầm: “Nhiều vậy sao!” Song y cũng không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, lại tiếp tục nhanh nhẹn leo lên. Bên trên lại có một cánh tay gãy khác rơi xuống giữa đầu. Soares vội lách người né tránh, cánh tay y đặt chân cũng rơi, cả người y thụt xuống. Y liền bám tay vào một cánh tay khác, gắng sức áp sát thân tượng Phật, đột nhiên bỗng nghe thấy một tiếng “cạch”
Soares là người kinh nghiệm phong phú, vừa nghe tiếng động là biết ngay đây chính là âm thanh phát ra trước khi cơ quan khởi động, liền không chút ngần ngừ vung cây roi dài trong tay ra, quấn lấy một cánh tay đu từ bên trái sang bên phải tượng Phật, mấy mũi lao đen ngòm sượt qua vai. Lúc đu qua bảng kim loại chỗ ngực tượng Phật, chỉ nghe bên trong vang lên những tiếng “cách cách cách cách” không ngừng, Soares thầm than “hỏng rồi”, vội đạp chân vào bảng kim loại hòng tănng thêm tốc độ. Quả nhiên, vừa lướt qua đó, tên và mũi lao liền bắn ra vù vù, chỉ hơi chậm một chút là lão đã bị bắn lỗ chỗ như tổ ong rồi.
Soares đu sang cánh tay bên phải, không dám ngừng lại, thu roi lại rồi tiếp tục vung ra quấn vào một cánh tay khác, mượn lực đó nhảy lên cánh tay, đoạn nhanh chóng leo lến mây mét như leo thang tre, kế đó đã tới vai tượng Phật. Không ngờ chất đá chỗ vai tượng chỉ là một lớp mỏng dính, Soares vừa giấm lên đã đạp vỡ một khoảng lớn, chân thụt vào trong, Y lâm nguy mà không rối loạn, ứng biến tức thì, hau tay bám được tai tượng Phật, tức khắc rút chân lên, lộn ngược người một vòng, đã đứng lên trến tai tượng Phật. Soares vươn tay ra lấy con mắt bạc xuống, lầm bầm mắng chửi: “Tượng Phật quỷ quái này, còn ghê hơn cơ quan của người Maya nữa”. Ngoảnh đầu nhìn lại y mới nhận ra chỗ mình vừa đập vỡ lại tràn ra vô số bò cạp trắng nhỏ, còn chỗ đặt con mắt bạc không hiểu đã sắp xếp cơ quan gì mà cũng bắt đầu chảy ra rất nhiều chất dịch màu đỏ.
Lũ bọ cạp trắng đã tràn ra rất nhiều, chiếm cứ hết gần nửa vai tượng Phật và hầu hết các cánh tay, Soares trong một thoáng cũng không tìm thấy chỗ nào đặt chân, mà tai tượng Phật cũng đã bị vô số bọ cạp trắng khác tràn lên. Lúc này, y lại nghe bên dưới chân có tiếng “lạch cạch”, cúi đầu quan sát, thấy gốc tai cũng bắt đầu có vụn đá rơi lả tả, Soares nhíu chặt hai hàng lông mày, lầm bẩm chửi: “Chó chết” Y ngầng đầu lên, bám lấy tóc xoắn ốc của tượng Phật, trèo lên đỉnh đầu. Chỉ nghe một tiếng “bục”, tựa hồ như có tấm màng chắn bị phá vỡ, kế đố một lượng lớn dịch đỏ tràn ra nơi lỗ tai tượng Phật, tai Phật tựa hồ như làm bằng đất bột, vừa đổ nước vào là tan ra ngay, cái cái tai rơi luôn xuống dưới,. Vậy còn chưa hết, lại nghe “xì” một tiếng nữa, trên đỉnh đầu tượng Phật cũng bắt đầu rỉ ra thứ dịch đỏ kia, Soares không còn đường nào để đi, chỉ biết mở mắt nhìn trân trân chỗ đứng của mình bắt đầu đung đưa dao động, cuối cùng cũng không nhịn nỗi mà ngoác miệng ra chửi: “Chó chết! Khốn nạn! Bọn người Cổ Cách trời đánh!...” Lời còn chưa dứt, cả đầu tượng Phật đã rơi khỏi thân tượng, Soares cũng theo đó mà rơi xuống.
Cùng lúc ấy, Merkin ở dưới đất cũng kinh hoảng luống cuống cả tay chân. Y không tài nào ngờ được một pho tượng lớn như thế, vậy mà bảo sụp là sụp xuống ngay được. Hiện trường loạn như bầy ong vỡ tổ,căn bản không thế nào chỉ huy được, đành ai có mạng người ấy chạy thôi vậy. Merkin vừa mới tránh ra một bên, đã thấy đầu tượng Phật khổng lồ rơi uỳnh xuống đất, vỡ làm bốn năm mảnh, chất dịch màu đỏ bắn ra tung tóe, lan khắp mặt đất, quả giống như máu chảy thành sông. Merkin và đám thủ hạ đều bị dính khá nhiều chất dịch này lên người. Bọn bọ cạp trắng kia, không hiểu nhân được thông tin gì từ chất dịch, liền như bầy sói đói thấy thịt tươi, gấu chó ngửi được mùi mật, tức khắc ào đến như thác lũ. Merkin thấy tình thế không hay, ngoác miệng chửi một tiếng: “Chó chết”, rồi xoay người co giò bỏ chạy. Cả đám thủ hạ cũng luống cuống chạy theo.
Soares lơ lửng trên không, thì ra lúc từ trên trời cao rơi xuống, rốt cuộc y cũng nhờ vào tài nghệ dùng roi của mình kịp thời quấn vào giàn giáo, nhặt lại tính mạng từ tay tử thần. Nhân lúc đám bò cạp trắng chưa kịp vây kín, y lập tức rút roi rồi lại ném ra, liên tiếp bốn lần cuối cùng cũng hạ chân xuống đất, chay lao theo đám người Merkin.
Cả đám người chạy một mạch nửa tiếng đồng hồ, trèo lên một cái tháp đất tương đối cao. Merkin thở hổn hến nói: “Không đuổi . không đuổi theo nữa rồi”. Điểm lại quân số y phát hiện ra thiếu bốn người, mà cũng không phải quay lại tìm làm gì nữa, ai nấy đều rõ số phận của bốn tên đó thế nào rồi. Merkin nhìn con mắt bạc trong tay Soares, vừa thở vừa mỉm cười nói: “Chúng mày, đây chính là di tích Cổ Cách treo ngược giữa không trung đấy”
Soares nghiến răng nói: “Nhan lên, đưa tôi hai ống huyết thanh, chó má thật”
Merkin kinh ngạc thốt lên: “Sao cơ? Cả anh mà cũng…?”
Soares nói: “Ừm, lúc đạp lên vai pho tượng. Những cơ quan chết tiệt này toàn thiết kế ở những chỗ người ta không thể tưởng tượng ra nổi” Merkin trầm giọng nói: “Trung Quốc dù sao cũng có đến năm ngàn năm lịch sử, kỹ thuật cơ quan của họ phát triển cũng tương đối kinh người, chúng ta không thể có tâm lý cầu may được. Cái hang Thiên Phật này chẳng qua chỉ là một pho tượng cơ quan Phật bình thường mà đã đáng sợ nhường này, Đảo Huyền Không tự chỉ sợ còn nguy hiểm nhiều hơn nữa đấy”
Thôn Công Bố
Đường núi dốc đứng, hơn nữa lại vừa dứt cơn mua nên rất trơn, dù mọi người đã đi giày đinh chuyên leo núi cũng vẫn lên được một bước lại trượt về nửa bước. Càng đi sâu vào trong lại càng không thấy bóng dáng dấu tích gì của con người. Song nơi này sơn thanh thủy tú, sau cơn mưa cây cối đều xanh mướt mát, bầy chim chao liệng trên không lại càng tăng thêm phần sinh động, đoàn người bọn Trác Mộc Cường Ba đi đường vất vả, mà không ai cảm thấy khổ sở gì. Họ đi hết một ngày đường gian khổ, tới gần buổi xế chiều, phía trước bỗng hiện ra một làn khói mờ. Nhạc Dương mừng rỡ reo vang: “Có người, phía trước có người”
Đi tới dưới chân một ngọn núi không biết tên, quả nhiên trong sơn cốc có một thôn làng hiện lên trước mắt, sống hơn trăm hộ dân trông rất giống với phong cách dân Tạng. Một con đường nhỏ quanh co đi xuyên qua khu làng, dẫn thẳng tới sâu trong khe núi. Cả nhóm người mừng vui ra mặt, chạy thẳng tới khu làng ấy, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên. Người đầu tiện họ gặp được là một cô bé chăn gia súc. Cô bé dựa người vào sát cánh cổng làng, chiếc roi da trong tay vung vẩy nhè nhẹ, chiếc áo Phổ Lỗ dệ bằng lông cừu và tấm khăn đầu đỏ tực như lửa ánh lên cùng ráng chiều rực rỡ nơi trời Tây và lũ cừu trắng toát dưới làn mây khói lững lờ. Cảnh tượng hiện lên như một bức tranh sơn thủy khó tả nổi bằng lời. Đàn cừu đã ngoan ngoãn trở về thôn trang, nhưng cô bé vẫn lưu luyến nhìn về phương Đông, tựa hồ như đang đợi ai đó. Trương Lập mắt sáng lên, đang chuẩn bị bước lên chào hỏi, cô bé kia thốt nhiên trông thấy người lạ, vội kêu lên một tiếng rồi vung roi đuổi đàn cừu chạy đi, chỉ để lại trong mắt nhóm khách phương xa một bóng hình yểu điệu mỏng manh.
Đi vào giữa làng, chỉ thấy già trẻ gái trai, hầu hết đều dừng chân nhìn ngó mấy du khách lạ mặt. Trang phục của họ đậm nét đặc trưng của người Tạng, song lại có phong cách rất riêng, tựa hồ như phục sức của người Môn Ba, nhưng lại không hoàn toàn là thế.
Trác Mộc Cường Ba sải chân lên trước, dùng tiếng Tạng hỏi một ông già trông giống người Tạng: “Ông ơi, chúng tôi ở ngoài núi vào đây, muốn tá túc một đêm, ở đây có chỗ nào trú tạm không ạ?”
Giọng ông già kia vang lên gắt gỏng: “Cậu nói cái gì? Tôi không hiểu?”
Trác Mộc Cường Ba thoạt nghe, nhận ra đây là một kiểu phát âm chẳng giống tiếng Tạng bình thường cũng không giống tiếng Tạng cổ, mà dường như là giữa hai thứ tiếng ấy, nghe nửa hiểu nửa không, gã liền dứt khoát dùng tiếng Tạng cổ hỏi một lượt. Ông già kia liền lộ vẻ ngạc nhiên ra mặt, rõ ràng là cảm thấy kinh ngạc trước chuyện Trác Mộc Cường Ba biết nói tiếng Tạng cổ; thế nhưng, ông ta cũng chỉ lạnh lùng đáo một câu: “Không biết”, rồi quay người đi thẳng.
Trác Mộc Cường Ba lấy làm ngạc nhiên. Gã hiểu rõ, đồng bào của mình đều là những người nhiệt tình hiếu khách, nhưng dân tộc trong núi này sao lại lạnh lùng như nước đá thế kia? Lạt ma Á La và Trác Mộc Cường Ba lại chia nhau đi hỏi mấy người khác, tử tế một chút thì trả lời “Không biết”, còn đâu thì thấy họ lại gần là đã tránh ra xa, đi được mấy bước lại dừng, ngoảnh đầu quan sát. Thẳng thừng hơn nữa, có người thậm chí còn lớn tiếng quát đuổi: “Đi đi, đi đi, chỗ chúng tôi đây không tiếp khách vùng ngoài. Mặc xác các anh là người gì thì người! Mời các anh mau mau đi khỏi đây cho”
Đã đến giờ cơm tối, người trong làng dường như đã hẹn nhau trước, đột nhiên tản đi hết, nhà nhà cửa kín như bưng, đường làng bỗng dưng trở nên hoang vắng thê lương. Tám ngượi chán nản tụ lại giữa làng, nhìn gió thổi lá bay xào xạc, cây cỏ đung đưa, tâm tình trĩu hẳn xuống. Đường Mẫn dầu môi lên nói: “Người ở đây sao lại như thế chứ?” Trương Lập và Nhạc Dương ngơ ngác nhìn nhau không biết trả lời thế nào.
Giáo sư Phương Tân nói: “Có lẽ là mỗi nơi mỗi phong tục thôi” Ba Tang chỉ cười gằn không ra tiếng.
Lạt ma Á La nói: “Theo bản đồ, thì nơi kia cũng gần ở đây thôi, không biết người trong làng này có biết gì không nhỉ”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không thể nào đây, chuyện từ hơn ngàn năm trước, ai nhớ nổi chứ”
Giáo sư Phương Tân lắc đầu phản đối: “Không, có rất nhiều nơi đã mất hết văn tự và hình vẽ ghi chép sự kiện, nhưng người dân địa phương vẫn dùng hình thức truyền thuyết hoặc câu chuyện thần thoại để lưu truyền cho đời sau. chẳng hạn như dân cư ở Song Nhũ Sơn, Hán Vương mộ đều biết truyền thuyết nói về mộ cổ”
Lữ Cánh Nam nói: “Người ta đã không hoan nghênh, vậy chúng ra ra ngoài thông dựng lều hạ trại đi. Đằng nào cũng không thiếu nước với thức ăn. Sáng sớm mai sẽ lên đường, không làm phiền tới họ nữa”
Vậy là cả nhóm chọn một khoảng đất trống phía Đông làng, cắm lều hạ trại, đốt lửa nấu cơm. Trác Mộc Cường Ba giúp Đường Mẫn nhen lửa, bị cô trêu chọc, hun cho muội khói dính đen sì cả mặt. Nước còn chưa sôi, bỗng nghe sau lều có tiếng cãi vã. Trác Mộc Cường Ba chạy ra xem thử, thì thấy Ba Tang đang lạnh lùng nhìn một đứa bé trai chừng tám chín tuổi, Trương Lập và Nhạc Dương đang mỗi người nói một câu gì đó. Vừa thấy Trác Mộc Cường Ba tới, cả hau vội tranh nhau nói: “Cường Ba thiếu gia, thằng nhỏ này ăn trộm đồ của chúng ta”
Mặt mũi thằng bé lấm lem bùn đất, hình như vừa chơi đùa thỏa thích ở đâu về, đôi mắt sáng cứ nhìn chằm chặp vào người ta không chịu chớp, bàn tay nhỏ nắm chặt lại , điệu bộ vẻ như oan ức lắm. Trác Mộc Cường Ba thân thiện hỏi: “Bé con, tên cháu là gì?”
Đứa bé cũng lấy làm ngạc nhiên trước người đàn ông biết nói tiếng Tạng cổ này, ngước lên nhìn thân hình cao lớn của Trác Mộc Cường Ba: “Tôi tên Thứ Cát”
Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Tốt lắm, Thứ Cát, có thể cho chú biết tại sao cháu lại trộm đồ ăn của chúng ta không?”
Sắc mặt Thứ Cát lập tức đầy vẻ phẫn nộ, bàn tay nhỏ lại càng nắm chặt hơn: “Không có! Tôi không có!” Điệu bộ thằng nhóc như thể đang nói, có đánh chết tôi cũng không thừa nhận.
Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên: “”Nó bảo không ăn trộm”
Trương Lập và Nhạc Dương cùng lúc kêu lên: “Nói bậy đấy!” Trương Lập nói : “Tôi tận mặt chứng kiến nó đang lục balo của chúng ta. Anh Ba Tang cũng trông thấy nữa, nếu không phải anh ấy bắt nó lại, thằng nhóc này đã lỉnh mất từ lâu rồi”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Trong balo có thiếu thứ gì không”
Ba Tang lạnh lùng đáp: “Phát hiện ra sớm, nên không để nó lấy mất thứ gì”
Trác Mộc Cường Ba xoa xoa đầu Thứ Cát, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Bỏ qua đi, trẻ con nơi rừng sâu núi thẳm, chưa thấy balo to như thế bao giờ, hiếu kỳ một chút cũng là thường thôi. Đằng nào chúng ta cũng không mất gì cả, các cậu nghĩ sao?”
Trương Lập nói: “Thằng nhóc này ở trong làng kia, lúc nãy tôi đã thấy nó rồi”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Tôi biết, tôi cũng thấy nó rồi” Lúc ở trong làng thằng bé này đứng cạnh một phụ nữ trung niên, quần áo khi ấy vẫn còn sạch sẽ. Ba Tang hơi lỏng tay ra, tay kia hất về phía thằng bé, ra hiệu nó có thể đi được rồi.
Không ngờ, Thứ Cát lại hiểu lầm, nó lớn tiếng rống lên: “Các người giết tôi, anh Đa Cát nhất định sẽ báo thù!”
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười ngồi xổm xuống, quệt quệt muội than trên mặt, vẽ một cái vòng trên má Thứ Cát, cười cười bảo: “Ai nói chúng ta sẽ giết cháu? Cháu về nhà được rồi, lần sau muốn xem gì thì bảo với chúng ta, trong cái túi này có nhiều thứ thú vị lắm”
Thứ Cát nghi hoặc tròn mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, lùi lại mấy bước rồi mới quay người bỏ chạy. Chạy được vài bước, thằng bé quay đầu lại ngó xem bọn họ có đuổi theo không. Thấy đám Trác Mộc Cường Ba không đuổi theo, cậu nhóc mới hét lớn : “Kẻ Cướp! Ăn trộm…” rồi chạy tót vào làng.
Lạt ma Á La và Giáo sư Phương Tân cùng Lữ Cánh Nam đi quan trắc địa hình quay trở lại, báo cho những người còn lại biết, vị trí đánh dấu trên bản đồ chắc là ở phía Đông làng, lệch về phía Nam chừng ba mươi độ, cách khoảng 30km, nhưng đó là đường chim bay, còn vượt núi băng rừng thì thật khó nói là phải đi mất bao lâu nữa. Trác Mộc Cường Ba kế sơ qua chuyện về Thứ Cát cho mấy người. Lúc này, một phụ nữ trung tuổi đang ngại ngần đứng cạnh lều trại của họ, thấp giọng nói: “Này…”
Cả bọn quay lại, liền thấy người phụ nữ người Tạng chừng bốn mươi tuổi đang khom mình cúi đầu nói: “Thằng bé đó, thật là ngại quá. Thứ Cát bướng bỉnh quá, thật là làm phiền các vị, tôi dẫn nó đến xin lỗi đây” Thứ Cát lấp ló phía sau vạt áo mẹ nó, vẻ mặt xem chừng không phục.
Trác Mộc Cường Ba đứng dậy nói: “Không có gì, Thứ Cát là đứa trẻ ngoan. Nó hiểu chuyện lắm”
Người phụ nữ trung niên kia nói: “Thực sự hết sức xin lỗi chuyện vừa rồi trong làng, cả làng chúng tôi, mọi người đều thờ ơ với khách từ phương xa đến quá. Nếu mọi người không ngại, xin mời đến nhà tôi”
Lời mời này khiến mọi người đều mừng ra mặt, dù sao thì nước vẫn chưa đun sôi, sau mấy câu khách sáo, cả nhóm Trác Mộc Cường Ba liền thu dọn đồ đạc, dọn vào nhà Trác Mã. Phòng ốc rất rộng rãi, thừa đủ chỗ cho tắm người nghỉ ngơi. Chồng Trác Mã vào núi săn bắn, phải muộn hơn nữa mới về. Mọi người trò chuyện được đôi ba câu, khay trà sữa nóng hôi hổi đã được bưng lên bàn.
Trương Lập ăn uống nhồm nhoàm, rồi rối rít khen: “Bánh xốp của chị Trác Mã ngon thật đấy. Đây mới là điểm tâm kiều Tạng chính gốc chứ lại”
Trác Mã cười cười: “Ngon thì ăn nhiều một chút đi, nhà chúng tôi cũng lâu lắm rồi không có nhiều khách thế này”
Lữ Cánh Nam hỏi: “Phải rồi chị Trác Mã, vừa nãy trong làng xảy ra chuyện gì vậy? Sao mọi người đều lạnh lùng như vậy?”
Trác Mã ngượng ngùng đáp: “Chuyện này…đã là tập tục từ rất nhiều năm trước rồi, tất cả đều là quy củ tổ tiên truyền lại. Chúng tôi sống trong chốn rừng sâu núi thẳm này, cũng ít khi gặp được người nơi khác đến, nên không biết đạo đãi khách, có chỗ nào không phải, mong các vị bỏ quá cho”
Lạt ma Á La hỏi: “Vậy người ở đây thuộc bộ tộc nào thế?”
Trac Mã nói: “Chúng tôi à, chúng tôi là người Công Bố Ba”
Lạt ma Á La chau mày : ‘Công Bố Ba ? Trước nay hình như chưa nghe nói có một dân tộc nào như vậy cả’
Trác Mã đứng lên nói : ‘Chúng tôi sinh sống mãi sâu trong núi, người biết đến không nhiều lắm đâu. Xin lỗi, tôi phải ra ngoài một chút, các vị cứ tự nhiên’
Sau khi Trác Mã đi khỏi, tám người vừa thưởng thức đồ ăn thức uống, rồi sôi nổi bàn luận, cho rằng mình vẫn số đã chuyển. Lạt ma Á La đột nhiên cảm thấy vùng bụng có gì đó không ổn, đầu óc nặng nề như đã uống rất nhiều rượu, ông nhổm đứng lên : ‘Không ổn, những thứ này không ổn’ Vừa mới đứng lên, lập tức cảm thấy trời xoay đất chuyển, ngã huỵch xuống đất. Mọi người thảy đều kinh hãi, nhưng quá muộn, người nào người nấy đều đổ nghiêng đổ ngã, chẳng mấy đã ngủ thiếp đi.
Trác Mộc Cường Ba tỉnh lại, phát hiện mình đang nằm trên một chiếc giường lớn, đầu giường đặt một chiếc hộp Bát Bảo, bên trên khắc đại bàng và mây lành, màn trướng buông rũ, nệm giường vừa mềm mại vừa dễ chịu, toàn bộ đều làm bằng tơ lụa thượng hạng, vách tường bên trái có am thờ Phật, đèn lửa sáng rõ, khói xanh vấn vít tỏa bay. Trác Mộc Cường Ba lắc lắc cái đầu nặng như đá, thầm nhủ : ‘Mình đang ở đâu đây ? Trong mơ chăng ?’
Trác Mộc Cường Ba nhổm người xuống giường, quần áo vẫn còn nguyện vẹn, ba lô đặt trên bàn, đồ đạc không thiếu thứ nào, chỉ là không biết những người khác đã đi đâu mất. Đầu óc gã lúc này mê man, không cẩn thận chạm tay vào làm đổ chiếc ghế, bên ngoài liền có người bước vào, cung kính nói : ‘Ngài tỉnh rồi ạ. Thánh sứ đại nhân’
Trác Mộc Cường Ba luống ca luống cuống, hoang mang hỏi : ‘Cái gì ...cái gì sứ?’
Người kia quỳ một chân xuống, nói : ‘Thánh sứ đại nhân, ngài là Thánh sứ đại nhân của bộ tộc Công Bố chúng tôi’
Thị lực Trác Mộc Cường Ba đã dần dần khôi phục, thấy trước mắt mình có một thanh niên cao lớn khỏe mạnh đang quỳ một chân, sắc da hơi ngăm đen, trán rộng mũi cao, đôi mắt sáng rỡ. Gã lẩm bẩm nói : ‘Các người, các người có nhầm lẫn gì không ?’ Gã sống bằng này tuổi đầu, đây là lần đầu tiên nghe thấy tộc Tạng có một nhánh gọi là Công Bố, làm sao gã có thể trở thành cái gì sứ của bộ tộc này cho được ?
Thanh niên kia nói : ‘Không thể lầm được, ba vị trưởng lão xưa nay chưa bao giờ nói sai. Ngài chính là Thánh sứ đại nhân của chúng tôi, đây là sự thật đã được Thần khâm định từ mấy ngàn năm trước rồi’
Trác Mộc Cường Ba lại hỏi : ‘Cậu tên gì ?’
Thanh niên cúi đầu đáp : ‘Tiểu nhân là Na Thâm’
Trác Mộc Cường Ba liền dịu giọng nói tiếp : ‘Na Thâm, Na Thâm, những người bạn của tôi đâu rồi ?’
Na Thâm cung kính đáp : ‘Bạn của Thánh sứ đại nhân đều đang ngủ ở một căn phòng khác’
Trác Mộc Cường Ba nói : ‘Tại sao Trác Mã lại đánh thuốc mê chúng tôi ?’
Na Thâm đáp : ‘Là để xác đinh thân phận của Thánh sứ đại nhân’
Trác Mộc Cường Ba hoang mang đáp : ‘Trưởng lão xác định thân phận của tôi bằng cách nào ? Bọn họ dựa vào cái gì mà nói tôi là Thánh sứ ? Cậu dẫn tôi đi gặp trưởng lão xem ?’
Na Thâm sợ hãi nói : ‘Chỉ có người trưởng lão muốn gặp mới có thể gặp mặt trưởng lão, bây giờ thánh sứ đại nhân ngài không thể đi gặp trưởng lão được’
Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, cầm ly nước lạnh trên bàn uống ừng ực cho bản thân tỉnh táo thêm chút nữa rồi hỏi tiếp : ‘Vậy Thánh sứ đại nhân này có thể làm những gì ?’
Na Thâm đáp : ‘Ba bị trưởng lão nói, Thánh sứ đại nhân xũng phải tới Cánh cửa sinh mệnh, chúng tôi sẽ dốc hết sức giúp Thánh sứ đại nhân và các bạn của ngài đến Nạp Bạc Thác’
Trác Mộc Cường Ba ngẩn người : ‘Cánh cửa sinh mệnh ?’ Gã dường như hiểu ra gì đó , lại như mù mờ không hiểu, hoàn toàn bỏ sót mất chữ ‘cũng’kia.
Trong bóng tối mù mịt, những ngọn đuốc như ánh đom đóm lập lòe, ghép thành một đường dài ngoằn ngoèo khúc khuỷu. Mỗi người đều ở trong trạng thái cảnh giác cao độ. Trong ánh sáng của ngọn đuốc trên tay, bên phải là vách đá, bên trái trống không mờ mịt, thi thoảng lại có đá vụn rơi xuống, song lại không có bất cứ tiếng vọng nào. Thì ra, con đượng bọn họ đi không ngờ lại giống hệt như con đường nhỏ tiến vào Mặc Thoát bên sông Nhã Lỗ Tạng Bố, trên dưới là bầu không thăm thẳm, con đường ở giữa nhô ra rộng chưa đến một mét, mà lúc này còn tối om như mực, trên không thấy trời, dưới không thấy đất. Soares ngoảnh đầu nói : ‘Đáng lẽ phải mang thằng oắt kia đến, có khi bây giờ đã qua chỗ này rồi ấy chứ’
Merkin nói : ‘Mang hắn đi cũng vô dụng, thằng oắt ấy cả đời cũng chưa ra khỏi Mặc Thoát, hắn chỉ nghe theo những gì tổ tiên hắn truyền lại mà thôi, còn chúng ta mới có bản đồ. Thật không ngờ địa hình ở đây lại phức tạp thế này, cái chỗ quỷ này làm sao mà hình thành được nhỉ ?’
Soares nói : ‘Chắc là cao nguyên đá vôi, nhưng chất đá ở đây và nham thạch trên mặt đất hoàn toàn không giống nhau. Để tôi nghĩ lại xem no, tàừ đầu đến giờ vẫn đi xuống dốc. Từ trên mặt đất xuống đây chắc khoảng một ngàn mét, đã đi qua tầng nham thạch trầm tích rồi. Vách đá ở chỗ này dường nhự đều do nham thạch cứng cấu thành, hơi giống đá rhyolite, có lẽ là một khe ngầm hoàn toàn bít kín hình thành từ những vân động tạo sơn ban đầu của địa cầu’
Merkin nói : ‘Bây giờ bốn phía đều tối đen như mực, chẳng nhìn thấy gì cả, làm sao mà tìm kiếm đây ?’
Soares đáp : ‘Cứ men theo con đường này tiếp tục đi đi. Tôi nghĩ thằng oắt ấy nói cái gì mà như dây thừng nhà trời sẽ nối tới cánh tay của Thủ la, chắc là phải có cầu mới đúng’
Merkin lẩm bẩm : ‘Bao nhiêu năm như vậy, có trời mới biết còn hay không’
Hai người vừa nói vừa tiếp tục tiến lên, đột nhiên Soares dừng bước, Merkin cũng dừng lại theo, đám người phía sau cũng đều đứng lại, người thứ năm không kịp dừng bước, bất cẩn đụng vào người đứng trước. Người thứ tư đi trên con đường nguy hiềm này suốt một quãng thời gian dài, vốn đã mỏi gối chùn chân, bị chạm vào một cái, liền ‘loạt soạt’ nghiêng đầu sang bên không có vách đá. Merkin vươn tay ra, không cần quay đầu lai đã kéo người thứ tư về, đồng thời nói : ‘Rơi xuống là chết chắc đấy, tự chú ý đi’
Soares nói : ‘Xem ra đã tới rồi’
Merkin ngoảnh đầu : ‘Lần này thì đúng là thê thảm’
Chỉ thấy phía trước cái khe khổng lồ tăm tối, hai cây trụ sắt cắm sâu vào vách đá, nhưng xích sắt bên trên đứt từ đời nào, không biết đã rơi đi đâu mất. Soares sờ soạng cây trụ sắt nói : ‘Những đồ sắt này chắc là đã phết lên một lớp vật liệu chồng gỉ nhân tạo, một ngàn năm ròi mà vẫn không thay đổi gì cả, ừm, vết cắt phẳng lắm, xem ra sợi dây xích duy nhất nối liền đại hiệp cốc này đã bị người ta phá hoại rồi. Nhìn dấu vết chỗ đứt đoạn, có lẽ là cổ nhân từ ngàn năm trước gây ra, khi ấy rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy ?’ Merkin nói với người đứng sau lưng : ‘Max, bắn một quả pháo tín hiệu đi, xem tình thế xung quanh thế nào’
Pháo sáng lập lòe bay lên, chiếu rọi đại hiệp cốc tối tăm rõ như ban ngày, nhưng phạm vi chiếu sáng cũng rất có hạn, nên đại hiệp cốc không rõ sâu rộng thế nào này vẫn ẩn dung mạo của mình trong bức màn đen tối. Merkin không nén nổi kinh ngạc thốt lên : ‘Khe nứt rộng quá, không ngờ lại chẳng nhìn được bờ đối diện nữa’
Soares đề nghị : ‘Bắn thêm mấy phát nữa xem, hình như tôi vừa thấy cái gì đó’
Lại có mấy quả pháo sáng nữa được bắn ra, Merkin lắc đầu : ‘Vẫn chẳng thấy gì cả mà’
Soares cố giữ bình tĩnh, nói : ‘Tôi thấy rồi’
Merkin vội hỏi : ‘Anh trông thấy gì ?’ Y hiểu rõ, Soares có đôi mắt cảu loài cú vọ, thị lực trong bóng tối tốt hơn người bình thường rất nhiều. Giọng Soares như thể chính y cũng không tin vào những điều mình nói : ‘Đối diện, phía chính diện có nhà’
‘Nhà !’ Merkin kinh ngạc thốt lên thành tiếng, trên vách đá cao ngất, dốc đứng này không ngờ lại có một ngôi nhà, cứ nghe như truyện cổ tích ngàn lẻ một đêm vậy. Soares khẳng định chắc chắn : ‘Đúng, nói một cách chính xác, phải nói là chùa hay miếu mới đúng. Tôi thấy rồi, có chùa chiền miếu mạo, không chỉ một ngôi đâu, chúng bám dính trên vách đá đối diện, Đảo Huyền Không, không sai, chính là ở đây, Đảo Huyền Không tự !’
Merkin kích động kêu lên : ‘Nhanh, dùng tia laze đo khoảng cách xem bao xa’
Max lấy máy đo ra, loay hoay một lúc rồi nói : ‘Ông... ông chủ, hai,hai trăm linh bảy mét’
Soares nói : ‘Xa vậy làm sao qua được ?’ Giờ đây cầu dây sắt đã đứt, cho dù có một sợi dây thừng dài đến thế, cũng không thể nào ném qua bờ đối diện được.
Merkin trầm ngâm giây lát rồi nói ngay : ‘Đo thử bên dưới...’
Soares nói : ‘Anh muốn trèo xuống vách đá, sau đó lại bò từ dưới lên à ?’ Merkin khẽ gật đầu.
Max giở máy đo ra, rồi còn kinh ngạc gấp bội : ‘Ông... ông chủ, không...không đo được’
‘Hả ?’ Merkin giật lấy cái máy đo, đích thân thao tác lại một lượt, quả nhiên không có con số nào hiển thị lên màn hình, liền bực tức chửi một tiếng : ‘Làm thế chó nào vậy ?’
Soares lắc đầu : ‘Không có gì là lạ, bên dưới chỗ này quá nửa là có hệ thống nước ngầm, giống như sông Nhã Lỗ Tạng Bố ấy, cũng chỉ có một dòng sông như thế ngày đem xối xả, mới có thể mài được một khe ngầm sâu thế này thôi’
Merkin phản đối : ‘Cho dù có hệ thống nước ngầm thì tia laze vẫn xuyên qua được chứ’
Soares gật đầu : ‘Đúng vậy, nhưng có nước thì sẽ có bụi nước, chỉ cần tầng bụi nước đủ dày thì sẽ có thể hấp thu và chiết xạ tia laze giống như tầng khí quyển, tín hiệu truyền về quá yếu, không thể làm vật liệu mẫn cảm với ánh sáng trong thiết bị này phản ứng. Tốt nhất cứ dùng mắt trực tiếp quan sát còn hơn, bắn pháo sáng đi’
Lại một quả pháo sáng nữa bắn thẳng xuống dưới, chỉ thấy luồng sáng chói lòa biến thành một điểm sáng nhỏ trong màn đêm, sau đó chìm dần chìm dần ....cuối cùng thì biến mất không còn tăm tích. Soares hít một hơi khí lạnh thốt lên : ‘Khá lắm, ít nhất cũng phải trên một ngàn mét, hơn nữa dù có xuống được bên dưới, chúng ta cũng không qua được con sông đó đâu, xem ra cách này của anh không thực hiện được rồi’
Merkin vẫn không cam tâm nói: ‘Đo bên trên cho tao xem nào’
Soares lắc đầu : ‘Vô dụng thôi, vừa nãy không phải đã nói rồi sai, ở đây cách lối vào khe nứt ít nhất cũng hơn một ngàn mét, bên trên quá nửa không phải là đỉnh vòm như quy tắc thông thường, cấu tạo như vậy căn bản là không trèo lên được đâu’
Max đo kết quả rồi nói : ‘Một ngàn hai trăm ba lăm mét, ông chủ, chúng ta không lên nổi đâu’
Soares nói : ‘Bây giờ chỉ có thể nghĩ cách trực tiếp nối liền hai bờ vực lại thôi, có khả năng này không nhỉ ?’
Rõ ràng biết đích đến đã ở ngay trước mắt, vậy mà lại bị vực sâu hiểm yếu ngăn cách, quả thực khiến người ta phải nôn nóng bựa bội. Merkin cũng không giữ nổi trầm tĩnh, cứ gãi đầu liên tục, cuối cùng bật ra một tiếng : ‘Có cách rồi, có thể dùng ống phóng hỏa tiễn bắn dây thừng móc câu hoặc dây thép sang bờ đối diện’
Soares tức khắc phản đối : ‘Không được. Chúng ta đi xuống ở chỗ cách di chỉ Cổ Cách chừng 20km, sau đó là đi thẳng một mạch theo hướng Đông bắc, bầy giờ e là đang ở độ sâu 1000m bên dưới di chỉ Cổ Cách rồi, gây tiếng động quá lớn, chỉ sợ kinh động người ở bên trên’
Merkin nói : ‘Vậy thì có thể sử dụng thiết bị phát xạ lực từ’
Soares nói : ‘Nhưng theo tôi được biết, những thiết bị ấy đều rất lớn, làm sao mang xuống tận dưới này được’
Merkin đáp : ‘Tôi có thể kiếm được thiết bị bắn dây thừng xách tay, ở Mỹ, những người làm địa chất thường xuyên sử dụng thứ này, giờ Trung Quốc cũng đã có sản phẩm cùng loại. Lập tức trở ra đi, tôi gọi điện liên hệ với đám người ấy, muộn nhất là ngày mai là có thể cho máy bay ném đồ xuống khu vực gần đây rồi’
Soares bổ sung thêm : ‘Còn dây thừng dài nữa’ Y thoáng nghĩ ngợi giây lát rồi lại nói : ‘Còn mấy món đồ thí nghiệm kia nữa’
Merkin hơi nhếch mép cười : ‘Có thể dùng được rồi sao ? Vậy thì...’
Thánh hồ Nạp Bạc Thác
Ngày hôm sau, mọi người lại tụ tập ở phía Đông thôn làng, lần này có khác biệt là, ba lô hành lý đều do người trong bộ tộc Công Bố gánh thay. Mỗi người trong nhóm có một con ngựa để cưỡi, song cho đến giờ, ai nấy vẫn lờ mờ không hiểu nỏi tối qua rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chăng hiểu sao mới ngủ qua một đêm, Trác Mộc Cường Ba đã thành Thánh sứ đại nhân của người Công Bố rồi. Có điều có một chuyện đã làm rõ được, nơi họ muốn đến lần này, cũng chính là Cánh cửa sinh mệnh dược ghi chú trên bản đồ, là nơi người bộ tộc Công Bố hết sức quen thuộc, bởi vì cánh cửa ấy là thánh địa mà bọn họ đời đời canh giữ bảo vệ. Tương truyền, Cánh cửa sinh mệnh ấy nằm ở trung tâm một cái hồ, họi là Hồ Nạp Bạc Thác, ngoài Thánh sứ đại nhân ra, những người khác đều không thể tiến vào. Người bộ tộc Công Bố bào đời nay đều nghiêm cẩn tuân thủ quy tắc đó, đợi chờ Thánh sứ đại nhân xuất hiện.
Sự phân biệt đẳng cấp nghiêm ngặt ở đây khiến tấc cả đều cảm thấy không quen mắt. Bọn họ không thể cưỡi trên ngựa, rồi hò hét với đám người Công Bố đang giúp mình vác balo như quát nô lệ được. Cuối cùng đành thõa hiệp, để ba lô đồ đạc trên lưng ngựa, chỉ c ân một mình Na Thâm dẫn đường, cả đoàn bắt đầu tiến vể phía Cánh cửa sinh mệnh . Trên đường, mọi người đều rôm rả hỏi han Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Thế này thì đúng là đã làm khó cho gã, đừng nói là bản thân gã không hiểu gì, đến cả Na Thâm cũng không hiểu rõ ngọn ngành, chỉ biết là ba vị trưởng lão đã tuyên bố với cả làng rằng, Trác Mộc Cường Ba chính là Thánh sứ đại nhân mà bộ tộc Công Bố bọn họ đợi chờ đã mấy ngàn năm nay, vậy là Trác Mộc Cường Ba liền trở thành Thánh sứ đại nhân. Mọi người không hỏi được nguyên nhân đều lấy làm thất vọng, song chỉ thoáng sau đó lại nhao nhao hỏi những vấn đề khác, Trương Lập láu táu hỏi : ‘Nạp Bạc thác sao lại ở chỗ này nhỉ ? Tôi còn nhớ....’
Câu trả lời của Na Thâm là : ‘Nạp Bạc Thác xưa nay vẫn ở chỗ này, mấy vạn năm trước, nữ thần Nila xinh đẹp từ trên thiên giới...’
Trương Lập vội xua tay nói : ‘Được rồi, được rồi, tôi không phải muốn hỏi chuyện này’
Lạt ma Á La lên tiếng : ‘Tôi biết cậu muốn hỏi gì rồi, có phải muốn hỏi một cái hồ khác cũng có tên này phải không. Thực ra Nạp Bạc Thác vốn có nghĩa là cái hồ ở phía sau khu rừng, phàm là hồ hay biển ở sau rừng rậm, bất kể lớn nhỏ ra sao, chúng ta đều có thể gọi là Nạp Bạc Thác. Những hồ cùng tên như vậy, ở khu vực A lý cũng có, Thanh hải cũng có, Vân Nam cũng có’
Lữ Cánh Nam hỏi : ‘Phải rồi, người trong làng bị sao vậy ? Lúc nào họ cũng lạnh lùng với người nơi khác đến như vậy à ?’ Tối hôm trước, Trác Mã chỉ đáp cho qua chuyện, Lữ Cánh Nam vẫn thấy đáp án đó không được thõa mãn cho lắm.
Na Thâm nói : ‘Đó là quy củ trong thôn, đối với người nơi khac đến nhất định phải hững hờ lạnh lùng, không được tùy tiện ngênh đón những kẻ ngoại lai’
Đường Mẫn tò mò hỏi : ‘Vậy ư ? Tại sao vậy ?’
Na Thâm đáp : ‘Thực ra chuyện này đã phai nhạt đi trong ký ức nhiều người rồi, vì vậy mọi người cũng không biết tai sao như vậy đâu. Tôi từng được nghe các bị trưởng lão kể về nguyên nhân của sự việc này. Tương truyền, hơn trăm năm về trước, thôn làng của chúng tôi cũng giống những nơi khác, người trong làng đều hết sức nhiệt tình hiếu khách. Cũng tại làng ở nơi xa xôi cách trở, hiếm hoi lắm mới có một vị khách từ nơi khác đến, khi ấy có lẽ chúng tôi còn nhiệt tình hơn những làng khác nữa cũng nên. Rồi đến một ngày, có một quái nhân tóc vàng mắt xanh xuất hiện. Điều khiến người ta kinh ngạc là hắn nói tiếng Tạng rất lưu loát, hoàn toàn có thể trao đổi voeis người trong thôn. Mọi người đều chiêu đãi hắn rất nhiệt tình, coi hắn như anh em ruột thịt của mình vậy, còn quái nhân ấy cũng kể cho dân làng nge rất nhiều chuyện ở thế giới bên ngoài. Về sau, hắn lân la dò hỏi về Cánh cửa sinh mệnh ...’
Sợi cương ngựa Trác Mộc Cường Ba đang kéo bỗng rung lên, con ngựa tức khắc dừng lại, tìm gã dường như cũng giật đánh thót một cái. Chỉ nghe Na Thâm chậm rãi kể tiếp : ‘Chúng tôi cũng không biết hắn ta nghe ở đâu tin tức này, nhưng thời đó dân phong thuần phác, mọi người đều sẵn lòng chia sẻ bị mật sâu thẳm nhất trong lòng mình với hắn, nên đã nói cho hắn biết...’
Na Thâm ngưng lại một chút để lấy hơi. Nhạc Dương và Trác Mộc Cường Ba đều không nén được buột miệng thốt lên : ‘Về sau đó thì như thế nào ?’
Sắc mặc Na Thâm đượm vẻ bi thương, buồn bã nói : ‘Về sau, sau khi kẻ ấy từ biệt dân làng, không ngờ đã tự tìm đến Nạp Bạc Thác, lại còn thuê rất nhiều công nhân gánh đồ, đến khi người làng phát hiện được thì bọn cũng đã vào trong Cánh cửa sinh mệnh rồi’
Trác Mộc Cường Ba lạnh toát cả người, thầm nhủ : ‘Vậy là những chỗ có thể đi được, đều đã bị người khác đi mất rồi. Hơn 100 năm trước, Stanley ! Nhất định là ông ta !’ Gã nhớ lại cảnh tượng ở đại cung ** Puch, chỉ có tượng đá, cơ quan, các bức bích họa khổng lồ, còn đâu mọi thứ đáng tiền đã bị cướp phá sạch, lẽ nào lần này đi Cánh cửa sinh mệnh cũng lại gặp phải kết cục như thế sao ? Trong đầu Trác Mộc Cường Ba vang lên những lời Lữ Cánh Nam từng nói : ‘Châu báu của cải nhiều như lông trâu, được ào ạt vận chuyển về nước Anh’ trong lòng lại không khỏi ngấm ngầm run rẩy.
Lạt ma Á La điềm đạm hỏi : ‘Vậy người làng không ngăn ông ta lại à ?’
Na Thâm cúi đầu ói : ‘Cánh cửa sinh mệnh là cánh cửa cấm của người Công Bố chúng tôi, toàn bộ dân làng đều không được phép bước vào’
Lạt ma Á La giận dữ gắt lên : ‘Ngu xuẩn, vậy các người cứ mở mắt trân trân ra nhìn đám trộm cướp đó đi vào thánh địa tổ tiên để lại, giao cho các người nhiệm vụ đời đời canh giữ ấy hay sao ?, ’ So với Trác Mộc Cường Ba , trong lòng ông lúc này còn lo âu gấp bội.
Na Thâm cúi đầu không đáp. Giáo sư Phương Tân khẽ thở dài nói : ‘Xem ra nơi chúng ta tới quá nửa lại là một cái hang không rồi’
Lữ Cánh Nam nói : ‘Để xem rồi hãy nói’
Đột nhiên ngựa không chịu đi tiếp nữa, cứ thấp giọng hí lên khe khẽ. Rừng phong dường như đã hết, xa xa vọng lại tiếng gầm rú của loài động vật nào đó. Na Thâm giải thích : ‘Phía trước có mãnh thú, lũ ngựa đã cảm giác thấy nguy hiểm’
Lữ Cánh Nam liền phân chia : ‘Trương Lập, đại sư, giáo sư và Mẫn Mẫn, mấy người ở lại trông ngựa, chúng tôi đi lên trước xem thế nào’
Năm người tiến về phía trước được chừng trăm mét, thấy ở bìa khu rừng có một hang động đi vào lòng núi. Trên bãi cỏ phẳng rộng chừng năm chục mét vuông ngoài cửa hang, có một người đàn ông dân tộc Tạng, tay cầm chiếc xiên hai lưỡi, đang quần nhau với một con báo lớn. Na Thâm vừa thấy vội nói : ‘Na Nhật đấy, tôi qua giúp chú ấy mộ tay đã’ Dứt lời liền vẫy tay chào Na Nhật, cứ thế tay không lao thẳng vào trận chiến.
Nhạc Dương kêu lên : ‘Chà, có phải báo hoa không nhỉ ?’
Na Thâm xông vào con báo hoa. Con báo đã quần nhau với Na Nhật hồi lâu, giằng co dền dứ không phân cao thấp, đột nhiên lại thấy kẻ lạ mặt xuất hiện, liền gầm lên một tiếng với Na Thâm , rồi lao bổ tới. Na Thâm không buồn tránh né, đấm thẳng vào giữa trán con báo hoa đang nhào tới một cú mạnh như búa bổ, khôn ngờ hất ngược cả con vật về phía sau. Con báo lăn tròn dưới đất mấy vòng, biết kẻ mới đến này rất lợi hại, liền xoay người định chạy vào hang động, song lại thấy Na Nhật cầm xiên sắt chặn trước cửa hang như một pho tượng Kim Cương giữ cửa. Na Nhật nói : ‘Con báo này giảo quyệt lắm, lần trước suýt chút nữa thì bắt được nó rồi, kết quả vẫn để nó chạt mất. Tối qua chú ở đây canh trước cửa hang tròn một đêm mới đợi được nó ra ngoài kiếm mồi đấy’
Na Thâm cười nới : ‘Chú Na Nhật’, thân thủ hình như hơi chậm thì phải, đối phó với một con báo này cần gì tốn thời gian thế.
Na Nhật tỏ vẻ không phục : ‘Nếu không phải sợ làm hỏng mất bộ da thì chú giết nó từ lâu rồi, cần gì phải lâu la mất thời giờ’
Na Thâm nói : ‘Nhìn cháu đây này, đảm bảo không làm rụng cả một sợi lông’ Dứt lời liền lao bổ tới chỗ con báo hoa.
Nhạc Dương hỏi : ‘Động vật được nhà nước xếp hạng bảo vệ cấp hai đấy, chúng ta có nên ngăn họ lại không nhỉ ?’
....
Na Thâm đáp : ‘À, phải rồi, nói ra mới nhớ, bốn hôm trước Đa Cát dẫn một vị Thánh sứ khác đến Cánh cửa sinh mệnh rồi, từ hôm đấy đã về đâu’
‘Hả ?’ Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình kinh ngạc, vội hỏi : ‘Cậu nói cái gì ? Một vị...thánh sứ đại nhân khác ?’
Na Thâm gật đầu : ‘Vâng, tôi không thích cái vị thánh sứ đại nhân đó, vì ông ta giống hệt cái kẻ mà các vị trưởng lão vẫn kể, tóc vàng , mắt xanh, mũi lõ’
Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ hoảng sợ ngước nhìn ra phía sau, mọi người đều có cảm xúc tương tự. Ben, đối thủ lớn nhất của họ đã đến Cánh cửa sinh mệnh trước đó những bốn ngà, nhóm của họ lại một lần nữa bị bỏ lại phía sau. Na Thâm thấy thần sắc mấy người có vẻ không ổn vội vàng giải thích : ‘Tôi không có ý nghĩ gì bất kính với thánh sứ đại nhân cả, chỉ là....chỉ là...’
Trác Mộc Cường Ba vội hỏi : ‘Bọn họ có bao nhiêu người ? Đã đi được bốn hom trước hả ?’
Na Thâm đáp : ‘Người và trang bị của bọn họ nhiều hơn các ngài nhiều, chắc khoảng hai ba chục người gì đấy, xuất phát từ giờ Chuột bốn hôm trước. Sao vậy hả, thánh sứ đại nhân cũng không biết có một vị thánh sứ khác cũng đến ư ?’
Trác Mộc Cường Ba thấy da đầu ngưa ran, nếu nói một trăm năm trước người kia chưa phát hiện, cũng chưa lấy được thứ gì, nhưng nhóm của Ben cũng đã tới đó rồi, hai ba chục người và các trang thiết bị hiện đại nhất, vậy thì còn lại thứ gì nữa đây ? Giờ đây điều mà gã kỳ vọng nhất, ngược lại chính là bọn người của Ben cũng như gã, không phát hiện được điều gì trong Cánh cửa sinh mệnh kia.
‘Còn...con đu nữa không ? Chúng ta có cần đi tới đó nữa không ? Giáo quan ?’ Nhạc Dương cất tiếng hỏi. Tất cả những người còn lại đều tập trung vào Lữ Cánh Nam với ánh mắt dò hỏi. Cô liền hỏi Na Thâm xem đường còn bao xa. Na Thâm chỉ về phía xa đáp : ‘Qua ngọn núi này là tới rồi’
Lữ Cánh Nam nghiến răng đáp : ‘Đi, dù thế nào cũng phải qua xem sao. Hi vọng có thể tìm đươc chút đầu mối gì đó. Bọn chúng không dám mang theo vũ khí, công nhiên ngồi các phương tiện giao thông trên không, không thể đi nhanh quá được, chúng ta vẫn có thể đuổi được’
Cứ nghĩ đến lần này lại đến một nơi bị càn quét hai lần, không còn thứ gì, mọi người lại bắt đầu mồm năm miệng mười bàn luận xôn xao.
Mọi người đang trò chuyện, Na Thâm đã dừng bước nói : ‘Đến nơi rồi’
Nhóm Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn khắp núi xanh ngắt màu cây lá, không hiều Na Thâm nói đến đâu rồi, chỉ thấy anh ta sải bước chân lên đỉnh dốc, đoạn nói : ‘Nạp Bạc Thác, Cánh cửa sinh mệnh, chính là ở chỗ này đây’
Trác Mộc Cường Ba liền theo Na Thâm trèo lên đỉnh dốc, vạch tán cây và bụi cỏ ra, phía trước liền hiện lên một quầng xanh biếc, làn nước trong vắt lăn tăn gợn sóng, cơn gió hồ thổi tới mát rượi. Hai mạt núi hai bên tựa như một chiếc thuyền đong đầy nước sạch, Nạp Bạc Thác, hồ nước nhỏ ẩn sau rừng cây này hình dáng tựa như một con mắt, hoặc có thể coi là hình thoi cũng được, nước hồ xanh ngắt như ngọc phỉ thúy. Giữa hồ có hai hòn đảo một lớn, một nhỏ, cây cối chằng chịt, tựa như hai tròng mắt vậy, bên trên lũ chim ríu rít chao liệng, lại càng khiến vẻ đẹp của hồ nước xanh ngăn ngắt thêm mấy phần.
‘A, đẹp quá !’ Đường Mẫn ngạc nhiên thốt lên.
Khi gió dừng sóng lặng, toàn bộ mặt hồ tựa như một chiếc gương làm từ ngọc bích, sắc xanh mơn mởn, khiến người ta không sao nén nổi tiếng thở dài cảm thán trước vẻ đẹp của sắc màu ấy. Chẳng rõ nước hồ sâu bao nhiêu, nhưng thoạt nhìn đã thấy tận đáy, đếm được cả lũ cá đang lững lờ bơi, lúc đúng lúc tĩnh, lúc giương vây lên hoan vũ, giôgns một thiếu nữ đang hất vạt áo xanh biếc lên nhảy múa, bước chân nhẹ nhàng lướt trên mặt sóng, khói mù tỏa lan, vấn vít quanh hồ nước và núi non, làm khung cảnh trở nên như ảo mộng. Nhóm người của Trác Mộc Cường Ba đa phần đều đã đi Cửu Trại Câu, cũng biết nước ở đó như th ếnào, cũng biết đến thứ màu sắc lung linh đến độ khó thể hình dung ở nơi ấy, màu ngọc bích của cái hồ này cũng giống như nước ở Cửu Trại câu vậy, nhưng hồ ở Cửu Trại câu không lớn bằng, không có hồn bằng, không có cái vẻ linh động và thánh khiết như nơi đây. Bước lại gần hồ, mọi người gần như nín thở, phảng phất như thể thông qua mặt hồ mà nhìn thấy tiền thế kim sinh, Cánh cửa sinh mệnh, có thể cho con người ta một cuộc sống mới.
Lạt ma Á La tuyên niệm Phật hiệu, ngồi xuống nhập định. Mọi người khác đều chìm đắm trong khung cảnh tuyệt mỹ, quên hết mọi vinh nhục ở đời. Bầu không xanh màu ngọc bích ở trên, hồ nước như phỉ thúy bên dưới, thi thoảng lại có bầy chim bay vụt qua, hình bóng phản chiếu xuống mặt nước, hoàn với làn mây tím trên trời cao, tất cả đều thật tự nhiên, trong lòng mỗi người đều không khỏi dâng trào lên dòng cảm xúc ‘đúng là phải như thế’ Mây nước mênh mang biến hoá phức tạp, nhìn ngắm sao cũng không thấy đủ, chẳng những đôi mắt, mà cả thân thể mỗi người cũng đều được hân thưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, linh hồn như tắm trong sự yên bình tĩnh lặng.
Nhạc Dương khẽ hỏi Na Thâm : ‘Cánh cửa sinh mệnh ở đâu thế ?’
Na Thâm chỉ vào hòn đải lớn hơn ở giữa hồ : ‘Ở đó chính là cánh cửa sinh mệnh’
Trương Lập nói : ‘Hòn đảo ấy nhìn không lớn lắm thì phải, đúng không ? Tại sao lại gọi là Cánh cửa sinh mệnh ’
Na Thâm đáp : ‘Chuyện này...nghe các vị trưởng lão nói, chỗ chúng tôi ở là hoác thân của Thắng Phật Mẫu, dòng Bố Tạng Bố chính là một chân của Thắng Phật Mẫu, chúng ta men theo đùi đi dọc lên, vì thế, ở đây chính là Cánh cửa sinh mệnh ’
Giáo sư Phương Tân nói : ‘Thắng Phật Mẫu ? Lạ thật, cái tên này nghe quen quá, cậu có biết không ?’
Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, nhưng những chuyện trong Phật điển gã biết rất ít. Lạt ma Á La mở mắt ra, chậm rãi nói : ‘Thắng Phật Mẫu , chính là Minh phi của Thắng Lạc Phật, còn gọi là Đa Cát Cát Bạc Mẫu cũng chính là Kim Cương Hạch Mẫu. Kim Cương Hạch Mẫu, đầu đội mũ Ngũ Khô Lâu, có ba mắt, biểu thị người có thể quan sát được tam thế, quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngoài chính diện, bên cạnh còn có thêm một đầu hình đầu lợn nữa, đại biểu trí tuệ song thành. Trên cổ Phật mẫu đeo chuỗi niệm châu làm từ năm mươi cái đầu lâu người, đại biều cho toàn bộ kinh điển của Phật giáo. Tu luyện Hạch Mẫu pháp có thể tương ứng với Thượng Sư, đoạn tuyệt phiền não, sở tri, khởi phát trí tuệ, tu đến đẳng cấp Chuyết Hỏa, sẽ luyện được thân bất tử, giáng yêu phục ma, uy chấn Thập Pháp giới, hiều được Pháp môn độc nhất vô nhị, thắng sinh thoát tử’
Giáo sư Phương Tân vỗ tay lên trán nói : ‘Tôi nhớ ra rồi, có một chuyện thế này. Trong truyền thuyết, toàn cảnh Mặc thoát thời cổ đại, nếu dựa theo thế núi thì vừa hay tạo thành một bức ngọa đồ (tranh nằm) của nữ thần Đa Cát Cát Bạc Mẫu. Nói như vậy, vị trí của chúng ta lúc này chính là ở giữa đùi của nữ thần. Cánh cửa sinh mệnh , chà, đây quả nhiên là Cánh cửa sinh mệnh còn gì ! ’
Giữa hai đùi nữ thần ? Đến giờ Trác Mộc Cường Ba mới hiểu, nhìn lại hồ Nạp Bạc Thác, quả nhiên, bề ngoài hình thoi và hai hòn đảo một lớn, một nhỏ giữa hồ, vừa hay hình thành nên một cái ngoại sinh thực khí khổng lồ của phụ nữ, Cánh cửa sinh mệnh, thì ra là nơi sinh mệnh được sinh ra.
Lữ Cánh Nam thoáng đỏ mặt, thấp giọng lẩm bẩm : ‘Không ngờ lại liên tưởng đến chuyện ấy, những người này thật là….’
Lạt ma Á La bình tĩnh thong dong nói : ‘Từ khi ý thức của nhân loại manh nha xuất hiện đã có sự sùng bái rất mạnh đối với sinh thực rồi, sinh mệnh từ khi thai nghén, tới lúc sinh ra không nghi ngờ gì nữa, đây là sự việc thần bí nhất và cũng thần thánh nhất. Sinh sôi nảy nở, có nghĩa là chủng tộc có thể tiếp diễn kéo dài, trong mắt cổ nhân, không còn gì quan trọng hơn việc này cả. Hơn nữa, hợp thể giao hoan, nam nữ giao cấu, chẳng những mang đến niềm sung sướng về mặt cảm quan, mà đồng thời còn thăng hoa tinh túy, khiến con người hướng đến thần Phật, tâm trí linh đài giữ được thư thái. Đây chẳng phải chuyện cấm kỵ gì mà không thể bàn luận tới, mà nơi sinh mệnh được sinh ra, cũng chẳng phải chỗ ô uế gì hết, từ cổ tới kim vẫn có vô số tao nhân mặc khách viết thơ, vẽ tranh tán tụng, gọi nó là Cánh cửa sinh mệnh ... ’
Hoang phế
Na Thâm nói : ‘Được rồi, tôi chỉ có thể đưa các vị tới đây, con đường tiếp sau đây, phải dựa vào Thánh sứ đại nhân tự tìm kiếm rồi’
Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba chặt cây đóng bè, ngồi thuyền đi tới Cánh cửa sinh mệnh. Chèo bè trên sóng biếc lăn tăn, tự nhiên là cảm giác rất đặc biệt.
Na Thâm từ chối lời mời nhiệt tình của bọn Trác Mộc Cường Ba, kiên quyết không đặt một bước vào Cánh cửa sinh mệnh . Anh ta nói với Trác Mộc Cường Ba : ‘Từ rất lâu trước đây Đa Cát đã lên đảo xem một lần. Lần này quá nửa là anh ta đã đi theo vị thánh sứ đại nhân kia lên đảo rồi. Nếu các vị gặp anh ta, xin hãy bảo anh ta về làng nhanh lên, hãy nói là Ca Ca rất nhớ anh ta’
Trên bè, nhìn bóng Na Thâm xa dần, xa dần, Trương Lập nói : ‘Tên của Công Bố tộc này sao tôi cứ cảm thấy quen nhỉ’
Lạt ma Á La nói : ‘Công Bố là một trong những nơi phát nguyên của Bản giáo, không hiểu bên trong có quan hệ gì không’
‘Đến nơi rồi’ Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đưa đầy chiếc mái chèo đơn giản, cho thuyền đi một vòng quanh hòn đảo có Cánh cửa sinh mệnh , song cũng không phát hiện ra nơi nào có thể cập bờ, cách duy nhất là bám vào vách đá mà trèo lên. Mọi người thả neo bè lại, rồi lần lượt trèo vách đá, giờ đây những vách đá dốc đứng chín mươi độ này đối với họ mà nói chẳng khác gì mặt đất bằng phẳng cả, chỉ thoáng cái cả nhóm người đã lên trên đỉnh vách đá của hòn đảo nhỏ.
Trèo lên vách đá, phóng mắt nhìn quanh bốn phía, chỉ thẩy cổ thụ chọc trời, chim hót líu lo, hương hoa thơm ngát, vừa nãy là đứng ngoài xem tranh, giờ đây đã ở trong tranh nhìn ra phía ngoài, lại là một phong cảnh khác khiến người ta phải chìm đắm say mê. Sóng hồ lăn tăn, chim bay cá lội tự nhiên là không cần nhắc đến, khi ở trên đỉnh vách đá, phóng tầm mắt nhìn ra xa, chỉ thấy bốn phía núi non trùng trùng điệp điệp trải dài, xanh biếc âm u, kéo ra vô tận. Càng khiến người ta phải xúc động hơn nữa là, đỉnh núi phủ tuyết phía xa xa nhô lên nhọn hoắt, non cao đâm thẳng lên bầu trời, làm ai nấy đều sinh lòng kính phục. Thật đúng là : núi xa xanh ngắt liền một dải, đỉnh tuyết trắng xóa ánh dương hồng. Trương Lập kích động thốt lên : ‘Đó... đó có phải là núi Nam Ca Ba Ngõa không ? Chúng ta có thể trông thấy núi Nam Ca Ba Ngõa không nhỉ ?’
Lạt ma Á La nheo nheo mắt nhìn : ‘Ừm, không chắc lắm, cũng có thể là núi tuyết Lạp Gia Bạch Lũy, có điều nhìn từ phía này, hình như giống đỉnh Nam Ca Ba Ngõa hơn’
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên chỉ tay về phía đỉnh núi tuyết xa tít tắp kêu lên : ‘Mây cờ ! Mây cờ kìa !’
Lạt ma Á La lập tức chắp tay tụng niệm, lầm bẩm cầu phúc trước cảnh tượng thiên nhiêm hiếm thấy này. Chỉ thấy một đóa mây trắng mềm mại như nhúm bông bay qua đỉnh núi tuyết, bị đỉnh núi chặn lại, nhưng vẫn kiên cường tiếp tục hành trình của mình, đã bị núi tuyết kéo thành một lá cờ trắng muốt khổng lồ, lại tựa hồ như một vị nữ thần thánh khiết đang giơ cao tấm vải sa màu trắng phấp phới trong gió, cảnh tượng hình tráng phi thường. Ở đất Tạng có một truyền thuyết thế này, thấy cờ mây cũng như thấy hào quang của Phật, hai Hải thị thần lâu, đều là điềm đại cát, đại phúc, trong đó nổi tiếng nhất là cờ mây trên đỉnh Chomolungma, khí thế vời vợi, quả là tác phẩm tuyệt thế của đấng tạo hóa vậy.
Nhạc Dương nói : ‘Hay lắm, xem ra ông trời cũng chúc chúng ta kỳ khai đắc thắng đó’
Lữ Cánh Nam cũng nhoẻn miệng cười, phát lệnh : ‘Lên đường thôi’
Đeo trên lưng những chiếc balo to tướng, đoàn người đi một vòng quanh đảo. Đảo này không lớn lắm, đứng trên vách đá là có thể quan sát được toàn cảnh, khắp nơi đâu đau cũng thấy cổ thụ um tùm, song cũng chưa phát hiện được điểm gì đặc biệt, cũng không có công trình kiến trúc nhân tạo nào lớn cả. Giáo sư Phương Tân và Lạt ma Á La đều cho rắng có lẽ có các kiến trúc kiều như hang động ngầm, ẩn khuất dưới tán cây, cực khó phát hiện. Lữ Cánh Nam lệnh cho mọi người tản ra tìm kiếm, chỉ một lát sau, Nhạc Dương và Trương Lập đã phát hiện lối vào hang động.
Lúc Trác Mộc Cường Ba chạy tới, chỉ thấy dưới gốc cây có một vật thể bằng đá được mài nhẵn, dài ba mét rộng hai mét, mặc dù bị phá hoại, song vẫn lờ mờ nhận ra được đường rãnh hình vòm có mái cong. Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi không khí, nói: ‘Huyết trì’
Lạt ma Á La gật đầu nói : ‘Ừm, chỉ là đã không dùng được nữa rồi’
Ở ngay bên cạnh huyết trì, mặt đất như tấm vải bị chuột gặm, toác ra một hố lớn, bên trong tối đen như mực không thấy gì hết. Giáo sư Phương Tân quan sát cửa hang, nói : ‘Miệng hố này bung ra ngoài, chắc do thuốc nổ gây ra’
Lữ Cánh Nam mở ba lo lấy ra các thứ dụng cụ, đồng thời nói : ‘Chúng ta xuống dưới đó xem sao’
Mũ phát sáng đã bật, máy bộ đàm của mọi người đều mở, vũ khí giắt ở thắt lưng, dụng cụ cầm trên tay. Sau khi Trác Mộc Cường Ba nhảy xuống hố, đại khái cũng nhìn rõ được cấu tạo của hang động này. Đây là một đường hầm dốc xuống dưới, vách tường đều ốp những phiến đá dài chừng một mét, dốc chừng ba mươi độ, sâu không thấy đáy. Đi được chừng trăm bước, phía trước liền ngoặt chín mươi độ, xem ra cả đường hầm này có lẽ chạy xuống lòng đất theo hình xoáy ốc. Cứ vậy càng đi càng xuống sâu hơn, sau khoảng bảy tám lần rẽ ngoặt, cuối cùng cũng đi hết đường hầm, thế nhưng cảnh tượng trước mắt, lại khiến tất cả đều sôi trào phẫn nộ.
Đường hầm đã trở nên bằng phẳng , hơn nữa còn đột ngột rộng lớn hơn nhiều, có lẽ là do khoét lòng núi tạp thành, cao chừng bốn năm mét, rộng bốn mét, nhìn đường hầm dốc dài như vậy và hang ngầm lớn bên trong lòng núi này, là có thể tưởng tượng được công trình khi ấy quy mô đến nhường nào, sau khi hoàn thành, căn hầm ngầm này ắt hẳn phải mỹ lệ đường hoàng, hùng vĩ rực rỡ. Thế nhưng, giờ đây, những gì đập vào mắt bọn Trác Mộc Cường Ba , lại là vô số những vết đục khoét chằng chịt, lôi thôi nhếch nhác, dưới đất toàn là những mảnh sứ vỡ vụn, cả bốn bức tường đều bong tróc như da người dán thuốc cao bị mưng mủ, đâu đâu cũng thấy vết khói đen kịt do lửa hun.
Mấy người Trác Mộc Cường Ba rờ tay lên bốn bức vách, trên tường còn để lại những vết cắt thẳng thớm gọn gàng, lớp đá vôi gần những vết cắt này dày chừng ba xentimet, có thể tưởng tượng được, trước đây bốn bức tường này đều được quét vôi trát vữa, rồi vẽ lên những bức bích họa tuyệt mỹ. Sau khi bọn trộm phát hiện ra, liền vạch lên những đường phân cách trên bích họa, sau đó dùng dao cắt thành từng mảng một, rồi áp giấy da trâu lên, dán keo siêu dính, bóc cả mảng tường có bích họa xuống mang đi.
Mấy người Trác Mộc Cường Ba giẫm chân lên nền sàn như đá cuội của căn hầm, nhặt những mảnh sứ vụn, phủi đi bụi đất và muội than bám lên trên, mảnh sứ liền lộ ra những hoa văn rực rỡ, từ độ cong của mãnh vỡ có thể suy đoán, lúc còn hoàn chỉnh, những đồ sứ này chắc là rất lớn. Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn quanh khắp chốn, giờ đây, chỗ này chẳng khác gì một căn nhà cũ sau cơn hỏa hoạn, gã bỗng nhớ đến trường hợp của vườn Viên Minh, thứ gì mang đi được thì bị mang đi, không mang đi được thì đập phá xong lại cho thêm mồi lửa, ngoài muội than ra, không còn gì để lại cho những người đời đời canh giữ những thứ đó nữa cả. Từ vết tích của những mảnh vỡ còn sót lại để suy đoán, nơi này ít nhất cũng đã bị phá hủy gần một trăm năm rồi, giờ chỉ còn lại vài mảnh vun và bốn bức tường trống không, đang âm thầm kể lại câu chuyện của chúng mà thôi.
‘Châu báu nhiều như lông trâu ùn ùn vận chuyển về Anh quốc…’ Ngón tay Trác Mộc Cường Ba run lên bần bật, chỉ muốn tìm thứ gì đó đấm cho xả cơn tức trong lòng. Nhà thám hiềm lớn, xem ra nhà thám hiểm lơn cũng chẳng hề đáng cho người ta tôn kính chút nào.
‘Bốp bốp’ chỉ nghe Lữ Cánh Nam vỗ tay hai tiếng, thu hút sự chú ý của mọi người về phía mình, đoạn nói : ‘Đi thôi, tiếp tục tiến về phía trước, chúng ta không có thời gian ở đây tưởng nhớ quá khứ đâu, phải xem xem có nơi nào người khác chưa phát hiện hay không’
Nhạc Dương thấp giọng lẩm bẩm : ‘Thành ra thế này rồi, thì còn lại gì được nữa chứ’
Đại điện đã không còn nữa, khắp nơi đổ nát tan hoang, bước đi giữa đống hoang phế này, tâm trạng mọi người càng thêm trĩu xuống. Rất nhiều nơi có xương người rải rác, những người chết này đều là lao công người Trung Quốc, vì bị cưỡng ép xông vào cơ quan mà mất mạng, đồng thời bên cạnh quá nửa là có một đống đá vụn, mấy lưỡi dao hình trăng khuyết hoặc đinh sắt. Chắc là sau khi những lao công Trung Quốc đi trước dò đường bị cơ quan giết chết, bọn trộm đã dùng thuốc nổ phá cơ quan nên mới gây ra những tổn hại như vậy, một số cánh cửa lớn bằng đá cũng bị nổ thành đống đá vụn, càng đi vào trong lại c àng có nhiều xương người chết.
Nhạc Dương nói : ‘Tôi nghĩ, chỗ này đã bị hủy hoại tan hoang thế này rồi, mà đám người của tên Ben kia cũng đã đi qua, chắc là không còn cơ quan gì nữa đâu nhỉ ?’
Trương Lập than van : ‘Đúng là không sao chịu nổi, lần nào cũng bị người ta bỏ lại sau lưng’
Nhạc Dương thở dài : ‘Đám người Công Bố đó cũng thật là, chẳng hiểu có phải họ gặp ai ở nơi khác đến cũng cho là thánh sứ cái gì không nữa’
Trương Lập nói : ‘Không phải đâu, nếu thế tại sao cậu không được làm thánh sứ hả ?’
Lạt ma Á La nói : ‘Chắc là có nguyên nhân gì đó, nhưng bọn họ dựa vào điều kiện gì để đoán đinh thánh sứ thì chúng ta cũng không thể nào biết được’
Giáo sư Phương Tân lắc đầu : ‘Giờ không phải lúc thảo luận vấn đề này. Chỗ này đã biến thành một đống đổ nát, nhưng các sảnh các điện đã gần như tan hoang này vẫn có quy mô, nhánh rẽ lại nhiều, e là một chốc một nhát cũng khó mà đi hết được, chúng ta có cần kiểm tra tiếp không nhỉ ?’
Lữ Cánh Nam khẽ nghiến răng, nói : ‘Nếu đã thế, vậy thì hai người một tổ, chia nhau kiểm tra đống tan hoang dưới lòng đất này đi, bật máy bộ đàm lên, chỉnh tần số 16.135, lúc n ào cũng phải giữ liên lạc’
Trương Lập và Nhạc Dương lập tức thốt lên : ‘Chúng tôi là một tổ’
Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân nhìn nhau mỉm cười, nói : ‘Vậy thì hai chúng tôi một tổ’
Trác Mộc Cường Ba giành nói trước : ‘Tôi...tôi muốn chung tổ với Mẫn Mẫn’
Lữ Cánh Nam gật đầu: ‘Được rồi, tôi và Ba Tang một tổ, mọi người chia nhau hành động đi’
Trên đường đi, Trác Mộc Cường Ba càng nhìn lại càng thấy phẫn nộ. Đây mà là nhà thám hiểm lớn cái nỗi gì chứ ? Còn chẳng bằng cả hành vi của lũ trộm cướp, còn những gì ở trước mắt gã đây, gần như dã là bi thảm nhất trần gian này rồi. Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, tựa hồ như đã thấy vương triều phong kiến đang lung lay muốn sụp đổ giữa cơn mưa bão kia, các cường quốc thi nhau tranh bá, dân chúng khổ sở lầm than, đã bao người vì một bát cơm ăn, mà phải bán vợ bán con, sinh ra giữa thời loạn thế, mạng người không bằng cỏ rác, kẻ đến đây đào bới báu vật năm ấy, chỉ e cũng chẳng bỏ bao nhiêu tiền để thuê cả đám người này đâu. Phải trả giá bằng chính mạng sống của mình, mang những thứ tổ tiên để lại tặng cho kẻ khác bị sai khiến như nô lệ, chỉ vì một chút tiền nhỏ nhoi mà khom lưng cúi đầu, đây là nỗi xót xa ở tận sâu thẳm linh hồn. Trác Mộc Cường Ba nắm chặt hai bàn tay lại, thầm thề với bản thân mình : ‘Bất kể là thế nào, không thể đê chuyện tương tự thế này xảy ra nữa ! Ben ! Cho dù các ngươi muốn gì, chỉ cần là thứ mà tổ tiên người Trung Quốc để lại trên lãnh thổ Trung Quốc, cho dù một cây kim, ta cũng không cho phép các ngươi mang đi’
Hai người đi chừng ba tiếng đồng hồ trong đống đổ nát dưới lòng đất. Vẫn không ngừng đi sâu xuống dưới, vẻ huy hoàng năm xưa của kiến trúc ngầm càng lúc càng khiến người ta ngưỡng mộ say mê, còn những gì trước mắt, cũng càng lúc càng khiến người ta thấy xót xa tiếc nuối. Dọc đường có một chỗ vương vãi đầy những lá thép vụn quăn queo, xung quanh có gần ma mươi bộ xương người. Có thể thấy khi đi qua đao trận ở đây, nhà thám hiểm kia đã dùng máu thịt của đám lao công mở ra một con đường tiến tới. Còn có một chỗ dốc, dưới nền rải rác xương vỡ, đều là xương của kẻ bị xấu số bị đá đè, không ngờ đã ohur lên thành một tấng dày trên con dốc.
Trác Mộc Cường Ba không ngừng lắc đầu, tâm trạng hết sức kích động,phẫn nộ. Đến cả Đường Mẫn cũng không sao nén nổi, cất tiếng mắng chửi : ‘Thật đúng là, quá đáng quá, đúng là vô nhân tính’
Cuối cùng hai người dừng lại trong một gian đại sảnh, thoạt nhìn như có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Xét về số lượng xương cốt, thì ở đây là nhiều nhất, tám chín mươi bộ xương cốt chất ngồn ngộn một đống lên nhau, tư thế mỗi bộ một khác, có những bộ xương tay còn mắc vào nhau, tư thế mỗi bộ một khác,
, tựa như là ẩu đả đến chết vậy. Ở góc Đông bắc gian đại sảnh, chồng chất một đống vại sành vại sứ vỡ nát. Hiếm có nhất là, trong đống đổ nát ấy vẫn còn một hai chiếc vại giữ được hoàn chỉnh, miệng vại như vừa mới mở chưa lâu, có một chiếc lăn sang bên cạnh, dịch thể không mai không mùi bên trong chảy ra lan thành một mảng dưới sàn. Bức tường phía trước đống xương cốt và đại sảnh khác biệt rõ rệt, hình như vẫn chưa bị động tới. Đường Mẫn nói : ‘Có lẽ chỗ này có cơ quan gì đó ghê gớm lắm, kiểm tra kỹ một chút rồi hãy đi tiếp’
Dựa vào trực giác, Trác Mộc Cường Ba đi thẳng tới đống vại. Đường Mẫn cũng muốn đi theo gã xem thử thế nào, song lại thấy hơi sờ sợ, bèn dứt khoát dừng lại tìm kiếm ở khu vực giữa đại sảnh.
Trác Mộc Cường Ba đi tới góc chất đầy vại sành vại sứ phía đông bắc gian đại sảnh, chỉ thấy đám vại gốm sứ vỡ nát ít nhất cũng phải tới vài trăm chiếc, hầu hết đã bị đập cho vỡ tan tành, chỉ còn lại một hai cái nguyên vẹn. Dịch thể trong chiếc vại gốm cổ dưới đất kia vẫn chưa chảy hết, rõ ràng là vừa mới bị mở ra không lâu. Trác Mộc Cường Ba đoán chắc là do nhóm người của Ben mở. Bên cạnh chiếc vại có một vật như cục thịt màu trắng, đã bắt đầu bốc mùi tanh tanh, Trác Mộc Cường Ba bước lại gần nhìn kỹ hơn, cục thịt trắng toát ấy chẳng ra hình thù gì cả, nhưng có lẽ còn nguyên vẹn, hơi giống con chó sơ sinh, to bằng nắm tay. Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát rồi ôm một vại sứ còn nguyên vẹn lắc thử bên trong vang lên tiếng ục ục, gã nhìn chỗ niêm phong trên miệng vại, người xưa đã dùng nắp gốm úp ngược lên trên miệng vại, sau đó lại bịt kín bằng một thứ tương tự như vôi, chẳng trách đã bao nhiêu năm như thế mà vẫn giữ được dịch thể bên trong. Trác Mộc Cường Ba lấy một dụng cụ hơi giống cái vòng số tám kê vào, dùng sức nạy khẽ, ‘cách’ một tiếng, cái nắp đã nứt ra một đường, sau đó nhấc ra, không ngờ bên trong lạic òn có một nắp đá bịt kín miệng. Trác Mộc Cường Ba lại làm theo cách cũ, bật cái nắp đá đó ra, chỉ thấy bên trong cnò hơn nửa vại chất lỏng, tỏa ra một thứ mùi kỳ quái. Bảo là thơm, thì vị cay cay, chua chua lại hơi gắt, bảo là khó ngửi thì lúc xộc vào mũi lại để lại vị ngọt ngào khó tả.
Lúc này Đường Mẫn gần đó kêu lên : ‘Anh lại đây mà xem’
Trác Mộc Cường Ba lập tức đặt cái vại xuống, đi về phía Đường Mẫn
Cô chỉ tay vào một cọc gỗ dưới đất nói : ‘Anh thấy chưa, đây là dấu hiệu của các nhà thám hiểm thời kỳ đâu của thế kỷ trước rất thích sử dụng. Khi họ phát hiện ra điều gì đó hoặc đi tới chỗ nào không thể đi tiếp về phía trước được nữa, đều để lại một dấu hiệu như thế này’
Trác Mộc Cường Ba bước tới : ‘Nói như vậy nghĩa là kẻ vào đây hơn một trăm năm về trước đã không thể qua được cơ quan ở đâ, và đành phải bỏ cuộc để lần sau đến tiếp’
Đường Mẫn chỉ tay vào đầu kia của thông đạo : ‘Nhưng bọn người Ben chắc chắn đã đi qua rồi. Bên kia có ánh lửa, chúng ta cũng tới xem đi’
‘Đừng, đừng vội’ Trác Mộc Cường Ba nói ‘không biết sau khi chúng đi qua có khôi phục lại cơ quan không nữa’ Lần trước ở địa cung ** Puch, bọn gã đã phát hiện rất nhiều cơ quan mà trong cuốn sổ tay ghi là đã bị phá hoại, lại được người nào đó khôi phục công năng ban đầu, đã mấy lần suýt mất mạng.
Đường Mẫn nói : ‘Đường đi rất hẹp, chỉ cho một người qua thôi, bất kể là có cơ quan ở phía trước hay hai bên cũng đều khó để tránh né. Mà chốt lẫy để cơ quan phát động, thông thường đều lợi dụng trọng lực để bật lên, cũng chính là mặt sàn mà chúng ta đặt chân lên ấy’
Trác Mộc Cường Ba nhìn sàn nhà dưới chân, ước chừng một mét vuông ghép lại. Kết cấu sàn nhà thế này khá phổ biến trong địa cung ** Puch, là loại kết cấu dễ đặt cơ quan bẫy rập nhất. Có điều Trác Mộc Cường Ba bây giờ đã không còn là gã Trác Mộc Cường Ba ở địa cung ** Puch nữa rồi. Gã mỉm cười, tràn đầy tự tin nói : ‘Đã đến lúc kiểm tra hiệu quả huấn luyện của chúng ta rồi. Anh lên thử trước xem sao, em đừng đi theo đấy nhé’
Đường Mẫn gật đầu : ‘Anh cẩn thận đấy’
Trác Mộc Cường Ba giẫm lên phiến đá đầu tiên, cảm thấy hơi lún xuống, gã liền nhanh chóng giật ngược lại, chỉ nghe ‘đinh’ một tiếng, một vật thể đã bắn trúng bức tường đối diện lối đi. Trác Mộc Cường Ba lại gần nhìn kỹ , hóa ra là một cây đinh ba màu xanh lam. Đường Mẫn tái mặt thốt lên : ‘Tầm thuốc độc rồi, đinh độc đấy’
Trác Mộc Cường Ba nói : ‘Ừm, có điều chắc là không bắn ra liên tiếp được, anh thử lần nữa xem nào’ Gã lại giẫm chân lên phiến đá, quả nhiên không thấy điều dị thường nữa. Trác Mộc Cường Ba giờ mới cẩn thận giẫm lên phiến đá thứ hai, đột nhiên cả người thụt xuống. Gã liền lộn ngược một vòng, lăn tròn sang bên, lại trở về bên cạnh Đường Mẫn. Chỉ nghe tiếng sột soạt vang liên liên tiếp, không có thứ gì bắn ra. Nhìn lại phía lỗi đi, mới thấy hai bên vách tường lóe lên những tia sáng lành lạnh rồi biến mất, thoắt sau lại lóe lên. Trac lẩm bẩm nói : ‘Đao trận, đây là lần đầu tiên anh tận mắt thấy đao trận do cổ nhân thiết kế đấy’ Đặc điểm của loại cơ quan truyền thống này chính là giấu lưỡi đao sắc bén bên trong vách tường, lợi dụng khe hở trên tường che giấu, một khi phát động, sẽ như xoay chuyển như cưa máy, vị trí trên dưới khác nhau, người bình thường khó mà tránh nổi.
Trác Mộc Cường Ba lại bước tới trước lối đi đó, quan sát vị trí cụ thể của đao trận. Chỉ thấy ở hai phiến đá thứ năm, thứ sáu đao trần đều sắp đặt ở khoảng dưới đầu gối sau đó độ cao bắt đầu lên đến đùi non, rồi đỉnh đầu đan xen lẫn nhau, người bình thường tuyệt đối khó có thể vượt qua nổi. Trác Mộc Cường Ba ngấm ngầm tính toán, chỉ cần nắm chắc thời gian, nhảy qua chỗ đao thấp, sau đó trượt người sát mặt đất, vậy là có thể tránh được toàn bộ đao trận. Gã suy tính xong xuôi, liền bắt đầu chạy đà, song lại quên mất tác dụng của hai phiến đá thứ ba và thứ tư. Vừa giẫm lên phiến đá thứ tư, Trác Mộc Cường Ba liền lập tức cảm thấy không ổn.
Chương 16
CÁNH CỬA ĐỊA NGỤC
Cánh
cửa Địa ngục, Hương Ba La, khi những từ ngữ quen thuộc ấy một lần nữa
vang lên bên tai nhóm người ngày, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn
lên. Đây mới là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba nghe nhắc đến Cánh cửa Địa
ngục, song theo những gì đã biết, hình nhưng cánh cửa này mở ra con
đường xuyên dãy Himalaya. Thật không ngờ, ở nơi xa xăm hẻo lánh như Mặc
Thoát này lại được nghe truyền thuyết về Cánh cửa Địa ngục. Trác Mộc
Cường Ba hỏi: “Cậu biết Cánh cửa Địa ngục ở đâu không?”Chư Phật Mật giáo
Trác Mộc Cường Ba bước hụt một bước, thân thể mất thăng bằng, ngã xuống hố sâu. Ánh sang lóe lên, gã đã trông thấy trông thấy lưỡi đao sáng lấp lánh trong hố. Trong khoảng khắc sinh tử ấy, Trác Mộc Cường Ba bỗng nhiên vươn cả hai tay ra, hai chân đạp mạnh, cả người kẹt lại giữa hai bức tường đá, thân thể lúc này gần như song song với mặt đất, đầu mũi chỉ còn kém chút xíu là chạm phải lưỡi đao. Thì ra, hai phiến đá lát nền thứ ba và thứ tư vốn chỉ là một phiến đá hình chữ nhật hài hai mét rộng một mét, đục lỗ ở giữa, xuyên gậy sắt qua là thành một cái cửa xoay đơn giản, bất kể là giẫm lên phiến đá thứ ba hay thứ tư, cả phiến đá cũng đều lập tức xoay chuyển. Loại cơ quan này, trong cơ quan học gọi là “hoạt bản”, vừa đơn giản lại dễ thực hiện, đặc biệt là những nơi nền sàn được lát bằng những phiến đá quy chuẩn mà sắp đặt một vài cơ quan như vậy, bên dưới lại đào hố sâu hai mét, bố trí cọc nhọn hoặc lưỡi đao, thì tỷ lệ sát nhân thành công sẽ cực lớn.
Hai tay hai chân Trác Mộc Cường Ba chống vào hai bên bức tường, chầm chậm leo lên trên, đồng thời dịch chuyển lên phía trên đao trận, tránh khỏi hai lưỡi đao xoáy đầu tiên, sau đó mới từ từ nhích xuống dưới, rồi dùng ba lô ném sang đầu bên kia lối đi, sau khi xác định an toàn, gã mới áp người sát đất trượt qua.
Đường Mẫn đã quan sát từ đầu đến cuối toàn bộ quá trình này, vậy nên lúc cô đi qua thì nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
“Lạ thật!” Đường Mẫn nghi hoặc nói, “Những cơ quan này mặc dù có tổ hợp hoàn chỉnh, nhưng kẻ đến trước chúng ta có thuốc nổ, hoàn toàn có thể phá hủy được chúng, tại sao hắn lại quay trở ra nhỉ?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Những bộ xương ngoài kia rải rác khắp đại sảnh, nhưng không có bộ xương nào chết bên cạnh lối đi, cũng có nghĩa là bọn họ còn chưa tiếp xúc với lối đi này thì đã rút lui rồi. Có lẽ là đã chạm phải cơ quan nào khác, một loại cơ quan không thể giải quyết bằng thuốc nổ, chẳng hạn như khí độc, sương độc gì đó. Xem ra chỗ này đích thực là chưa bị phá hoại, phải báo cho những người khác mới được.”
Trác Mộc Cường Ba ấn nút chiếc đồng hồ nguyên tử đeo trên tay, bắt đầu gọi những người khác trong nhóm. Trong vòng ba phút, đại khái đã nói rõ vị trí của mình, để những thành viên chưa có phát hiện gì đặc biệt nhanh chóng tới đây.
Trác Mộc Cường Ba giơ cổ tay lên nói: “Vậy nhé, chúng tôi đã qua trước rồi. Mọi người nhớ cẩn thận, lối đi hẹp này là một tổ hợp cơ quan, mặc dù cơ quan tổng đã bị phá hoại, song các cơ quan phân tổ thì vẫn vận hành. Phiến đá đầu tiên là đinh độc bắn vào chính diện, phiến đá thứ hai khởi động đao trận, phiến đá thứ ba và thứ tư là cửa lật, bên dưới sắp đặt cọc nhọn, từ phiến thứ năm đến phiến thứ mười lăm là đao xoáy, mọi người phải cẩn thận.”
Giáo sư Phương Tân nhắn qua máy liên lạc: “Chúng tôi biết rồi, đến ngay đây, hai người cũng nhớ cẩn thận đấy.”
Đi qua lối hẹp ấy, cảnh tượng trước mắt liền mở rộng sáng bừng. Tận cùng của lối đi tựa như một bàn đạp nhô ra khỏi vách đá dựng đứng, đưa hai người bọn Trác Mộc Cường Ba vào vị trí trung tâm của một gian đại sảnh màu vàng. Đứng trên bàn đạp lơ lửng giữa không trung, cách trên, dưới, trái, phải mỗi phía chừng hai chục mét, bốn vách là những bó đuốc như những chẻ cây, chiếu sáng rực rỡ cả gian đại sảnh. Trác Mộc Cường Ba nhận ra những bó đuốc phun lửa lớn bằng ngón tay cái, dài khoảng ba mươi centimet, chính là những ống ankyl lỏng. Mỗi ống như vậy, cho dù ở môi trường không có dưỡng khí cũng vẫn cháy được một trăm giờ đồng hồ, hơn nữa còn vừa nhỏ vừa nhẹ, một người mang theo một trăm ống cũng không vấn đề gì. Loại ống ankyl lỏng này các nhà thám hiểm hiện đại chuyên dùng để chiếu sáng và đánh dấu đường, xem ra chắc là nhóm người của Ben để lại.
Đối diện với bọn họ, là một pho tượng ngồi của Nộ Mục Kim Cương, có sáu cánh tay, treo lơ lửng giữa không trung bằng tám sợi dây sắt to cỡ cánh tay người thả từ trần nhà xuống. Pho tượng này cao khoảng ba mét, toàn thân đen thui, dường như là đúc bằng thép ròng, sáu cánh tay đều cầm pháp khí, mắt trợn lên giận dữ, răng nhe ra ngoài, tướng mạo hung tợn, thoạt nhìn trông như Kim Cương của Phật giáo, nhưng lại có chút không giống với những pho Kim Cương mà Trác Mộc Cường Ba thường ngày vẫn thấy. Nét mặt như cười mà chẳng phải cười ấy, kết hợp với ánh mắt phẫn nộ kia, toát lên mấy phần kỳ dị, mấy phần tà ác, Trác Mộc Cường Ba chỉ có thể tạm gọi đó là tượng Kim Cương chứ cũng không dám chắc. Chỗ rốn của Kim Cương có lỗ thủng, trên đỉnh đầu có mối buộc, xem ra đinh độc bắn ra lúc giẫm lên phiến đá đầu tiên là bắn ra từ cái lỗ này. Lối thông này dính sát vào tượng Kim Cương, xem ra cổ nhân đã đặc biệt thiết kế như vậy để tiện cho việc lau chùi tượng Phật và lắp ráp các cơ quan.
Đường Mẫn nhìn độ cao hai chục mét, băn khoăn hỏi: “Cao như vậy, chúng ta xuống bằng cách nào bây giờ?”
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn quanh, đích xác là không có đường nào đi xuống, nhưng các ống ankyl lỏng cắm trên bốn vách tường đã chứng tỏ đám người của Ben đã xuống bên dưới rồi. Gã cẩn thận quan sát một lần nữa, phát hiện ra trên đùi tượng Kim Cương còn một mẩu thừng nhỏ, bèn nói: “Bọn chúng buộc dây thừng vào đùi Kim Cương leo xuống, nào, lấy dây thừng an toàn ra đây, chúng ta cùng xuống từ chỗ này thôi.”
Trác Mộc Cường Ba buộc chắc dây thừng, rồi bảo Đường Mẫn: “Anh xuống trước, tới nơi sẽ gọi em, không được làm bừa đâu đấy.” Đường Mẫn khẽ gật đầu.
Trác Mộc Cường Ba quấn một vòng dây vào cổ tay trái, rồi lại quấn một vòng vào hông, tay phải kéo đầu kia sợi dây, tung mình nhảy lên, tính thuận theo sợi dây mà trượt xuống. Nào ngờ vừa mới nhảy lên, gã đã nghe thấy tiếng hô kinh hãi của Đường Mẫn. Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy thân thể rơi xuống, căn bản không hề có cảm giác bị lực tác động nào, kế đó nghe thấy tiếng “rầm rầm rầm” vang lên. Cũng may Trác Mộc Cường Ba lâm nguy bất loạn, không hề do dự, đã dứt khoát cởi ngay sợi dây thừng ra, hai tay dang rộng, mở chiếc áo cánh dơi ra, sau khi giữ được thăng bằng liền vung tay, bắn dây thép, “kích” một tiếng, đầu dây đã xuyên vào vách đá, Trác Mộc Cường Ba cũng lập tức đu người qua. Vừa mới áp sát bức tường, đã nghe thấy “uỳnh” một tiếng, ngoảnh đầu nhìn lại, cả pho tượng Kim Cương đã như một quả chùy sắt khổng lồ dận mạnh vào vị trí vỗ gã định leo xuống. Kế đó, một tràng những tiếng “cạch cạch cạch” vang lên, cơ quan vận hành lại kéo pho tượng nặng mấy tấn trở về vị trí ban đầu. Trác Mộc Cường Ba nhìn mà toát hết mồ hôi lạnh. Không ngờ đó cũng là cơ quan, sợi thừng đứt còn sót lại ấy hóa ra là vật để dụ người ta mắc bẫy. Đường Mẫn ở bên trên lớn tiếng gọi vọng xuống: “Không sao chứ? Anh Cường Ba?”
Trác Mộc Cường Ba đưa tay rờ mó, bốn vách tường đều trơn tuột, muốn bò từ đây xuống là không thể. Gã liền hét lên trả lời: “Không sao, giờ em nèm cho anh một sợi thừng khác, rồi em xuống theo hướng kia, Mẫn Mẫn, em có nghe thấy không?” Kế đó, gã lại khởi động máy liên lạc trên đồng hồ, nói cho giáo sư Phương Tân và mấy người khác chuyện pho tượng Phật bằng sắt. Cả mấy người kia đều dặn dò Trác Mộc Cường Ba phải hết sức cẩn thận.
Đường Mẫn buộc một đầu dây thừng vào một vật thể tương đối nặng có hình dạng như cây đèn pin rồi nèm cho Trác Mộc Cường Ba vươn tay bắt lấy, sau đó quấn sợi dây quanh người hai vòng, vẫy tay nói: “Được rồi.” Đường Mẫn liền tung mình nhảy từ phía bên kia chỗ con đường nhô ra, trượt xuống bên dưới, sau đó lại kéo căng sợi dây. Trác Mộc Cường Ba khi ấy mới thu sợi thép lại, đu người xuống mặt đất. Hai người nhìn cái hố khổng lồ trước mũi chân, và những đốm đỏ lấm chấm bên trong, không hiểu pho tượng Phật sắt rốt cuộc đã giết chết bao nhiêu kẻ lỡ bước đến chốn này rồi nữa.
Trác Mộc Cường Ba thu dây thừng lại, trong lòng vẫn còn chưa hết kinh hãi: “Đi thôi, xem xem dưới đây còn có đường nào nữa không?”
Đứng bên dưới nhìn lên đỉnh, cả gian đại sảnh màu vàng kim này trông huếch trống hoác, bốn vách tường cũng không có những bức tranh cầu kỳ đẹp đẽ, chỉ có pho tượng Phật sắt hung ác kia treo lơ lửng giữa không trung. Từ góc này nhìn lên, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn mới phát hiện, thì ra tượng Phật sắt này có ba đầu sáu tay, bất kể là nhìn từ hướng nào, trông cũng như thể hung thần ác sát đang nhìn chòng chọc vào người ta, hình dáng sáu cánh tay thì mười phần quái dị, cho dù chuyển sang hướng nào chăng nữa, người xem cũng có cảm giác như sáu cánh tay cầm vũ khí kia đang hướng vào phía mình vậy.
Đường Mẫn không nén nổi buột miệng hỏi: “Đây là Phật gì vậy? Nhìn đáng sợ quá đi mất.”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Anh cũng không biết, pho tượng này không hề giống tượng phật nào mà anh từng thấy trước đây cả.”
Gian đại sảnh này có bốn cửa lớn ở bốn phía trước sau trái phải. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba lấy la bàn ra kiểm tra, thấy ở bốn hướng Đông Tây Nam Bắc lại có bốn cửa ngách tương đối nhỏ. Giữa đại sảnh có một miệng hố hình tròn, đường kính khoảng ba mét, bên trên bịt kín bằng những phiến đá hình dạng như cánh hoa, nhìn khác hẳn với những phiến đá lát sàn khác ở xung quanh, ở chính giữa đều có một thứ vật chất màu đỏ, chạm vào thấy mềm mềm. Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người ra, cửa hầm này giống hệt như cánh cửa đá ở địa cung Ah Puch – cánh cửa phải dùng đến huyết trì mới mở ra được! Nhưng vật chất màu đỏ này không phải dạng sợi như lạt ma Á La đã hình dung, mà giống hệ như tổ chức mô cơ vẫn còn đang sống. Trác Mộc Cường Ba dịch chuyển dần ánh mắt khỏi cửa hầm, chỉ thấy bốn đường rãnh thông thẳng đến bốn cửa ngách, khéo léo đan xem nào những khe hở giữa các phiến đá lát sàn, khiến người ta khó mà phát hiện ra được. Trác Mộc Cường Ba gõ gõ tay lên phiến đá, tiếng động trầm đục, xem ra là rất dày và nặng, nhất thời không thể tìm được cách mở cửa hầm. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn liền đi vòng vòng xung quanh một lượt.
Đường Mẫn nói: “Gian đại sảnh này thật kỳ lạ, tại sao không hướng đúng theo bốn phía Đông Tây Nam Bắc mà lại kẹt giữa bốn phương vị này làm gì chứ.”
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên sực nhớ ra cha gã từng nói rằng Tứ Phương miếu “không phải ở bốn phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc mà ở chỗ ngoặt nét của chữ Vạn luân hồi”. Gã lại nghĩ đến thân phận Thánh sứ của mình, không khỏi ngấm ngầm hoài nghi: “Có lẽ nào, nơi này thật sự có liên quan rất lớn tới mình và gia tộc của mình hay sao? Nhưng xưa nay có nghe cha mình nhắc tới bao giờ đâu, đây rốt cuộc là chuyện gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba âm thầm quyết định, sau khi hành động này kết thúc, nhất định phải trở về tìm gặp cha gã hỏi cho rõ ngọn ngành.
Nghĩ vậy, gã không trả lời ngay câu hỏi của Đường Mẫn, mà dẫn cô tới trước cánh cửa ngách ở hướng chính Bắc, chỉ thấy một dải bậc thang đá lớn trải dài xuống dưới, ánh sáng vàng vọt của các ống lửa cắm bên vách tường tựa hồ như đang chiêu dẫn vong hồn trở về chốn hoàng tuyền. Trác Mộc Cường Ba nói: “Xuống dưới xem sao đi.”
Cuối cầu thang là một gian phòng nhỏ, rộng chừng năm sáu chục mét vuông, chính giữa là một bệ đá hình vuông, bốn phía có các giá cũng bằng đá. Trên nền đá và giá treo bằng đá đều không tránh nổi lưu lại những vết nâu sậm, khiến hai người vừa bước vào phòng đã cảm thấy một trận gió âm thổi tới, tựa hồ có vô số oan hồn chưa tan vẫn đang đảo lượn giữa không trung. Xung quanh bệ đá còn sắp đặt vài món đồ bày biện đã mục nát, có lẽ là các thứ pháp khí, bàn thờ, lò lửa ngày xưa vẫn dùng để tế bái cầu khẩn, có điều tất cả giờ đã không còn hình dạng ban đầu nữa rồi. Hai người đi xung quanh một vòng, không có phát hiện gì đặc biệt, nghĩ rằng mấy gian phòng sau những cánh cửa mé còn lại cũng đều như vậy cả, Trác Mộc Cường Ba quyết định vào thử cửa chính xem thế nào.
Cửa chính cao lớn hơn cửa mé bên rất nhiều, bậc thang rộng rãi, hai người bước xuống cầu thang, liền tới một gian đại sảnh khác. Chính giữa sảnh là bệ tam cấp dùng để cúng tế, bên trên là một tượng Phật đá tạo hình nữ giới, cao năm mét, chân trái quấn quanh chân phải, sau lưng dựa vào một cái bệ trông như vỏ sò. Phật có ba mắt, khóe miệng cười gằn, từ ngực tới bụng có sáu bầu vú, hai tay vòng trước ngực ôm một đứa trẻ sơ sinh, đầu đã đứt lìa, chỉ còn lại một cánh tay. Tượng Phật đang há rộng cái miệng to như chậu máu, răng nhuộm đỏ rực, phảng phất như máu vẫn cô đặc trên đó, từng giọt từng giọt nhểu xuống. Tà dị hơn nữa là, trong miệng tượng Phật có một cánh tay trẻ sơ sinh trắng muốt như tuyết thò ra, tựa hồ như vẫn còn muốn nắm lấy thứ gì đó. Đường Mẫn chỉ nhìn lướt qua đã vội ngoảnh mặt sang hướng khác, không dám nhìn tiếp. Đây cũng là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba thấy thứ gì tà ác như vậy. Phía trước tượng Phật có một chiếc đỉnh bằng kim loại, rõ ràng là để đốt hương cúng tế, bốn phía xung quanh còn có các cột gỗ, chắc là dùng để treo phướn rủ màn che, giờ màn phướn đều đã hóa thành tro bụi, chỉ còn lại những chiếc cột gỗ này mà thôi.
Đường Mẫn nói: “Đi thôi, ở đây không còn thứ gì nữa rồi, em nhìn thấy khó chịu lắm.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Đợi chút đã Mẫn Mẫn, em xem kìa, vết chân dưới đất tán loạn, còn nữa, lớp bụi đất ở hai bên tượng Phật rất dày, e là chỗ giữa kia có bí mật gì đó. Để anh lại xem thế nào đã.” Trác Mộc Cường Ba lấy hết can đảm, dấn từng bước lại gần tượng Phật nữ, càng lại gần càng cảm thấy lạnh lẽo rùng mình. Cái miệng há rộng như chậu máu kia, tựa hồ như sẵn sàng cúi xuống cắn xé người ta, ba con mắt xếp trên trán thành hình cánh quạt, đều toát lên vẻ đói khát, thèm muốn giành giật lấy thức ăn.
Trác Mộc Cường Ba điều chỉnh lại hơi thở, cuối cùng nhích lại dưới chân pho tượng Phật, chỉ thấy bức tượng đá khổng lồ từ trên cao nhòm xuống, ba con mắt trợn trừng không rời, ánh mắt nửa mừng vui lại mang theo nỗi thèm khát ấy được người xưa điêu khắc hết sức có hồn. Trác Mộc Cường Ba càng nhìn lại càng thấy kinh hãi trong lòng. Gương mặt cười cười nhe hàm răng nhỏ máu ấy, thật khiến người ta phải rởn hết cả gai ốc. Trác Mộc Cường Ba thu ánh mắt lại, nhìn thẳng về phía trước, liền phát hiện ra, chân phải cong xuống của tượng Phật có khắc một thứ như giáp bảo vệ đầu gối, vừa hay hình thành nên một cái bậc, bề mặt bằng phẳng, có lẽ để cho người ta leo lên. Gã nghĩ ngợi trong thoáng chốc, rồi cận thận leo lên chỗ khớp gối tượng Phật. Đường Mẫn ở bên dưới run giọng nói: “Anh Cường Ba, anh làm gì thế?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Đừng lo, anh lên trên xem sao thôi.” Từ hướng này nhìn ra, chỉ thấy đứa trẻ đứt đầu kia, dường như là một bức tượng rỗng, bên trong hẳn là phải có thứ gì đó. Trác Mộc Cường Ba men theo đùi tượng Phật một bước, vừa hay lại giẫm lên điểm đặt chân tiếp theo, tự nhủ thầm trong bụng: “Trong lòng không có ma quỷ thì sẽ không sợ gì hết,” kế đó liền táo gan thọc tay vào trong cổ bức tượng trẻ sơ sinh lần mò.
Trong bụng bức tượng dường như có một tay nắm. Trác Mộc Cường Ba quan sát kỹ lưỡng xung quanh, sau khi xác thực đây không phải là cơ quan phát động công kích, mới kéo tay nắm đó một cái. Chỉ nghe “rầm” một tiếng, Trác Mộc Cường Ba vội tung người nhảy xuống khỏi tượng Phật, lộn nhào trên không một vòng, rồi bình ổn hạ xuống. Giờ mới nhìn rõ tượng Phật đã tách ra làm đôi, trong bụng là một cái đài sen có rắn quấn quanh. Đường Mẫn giơ hai tay lên bụm miệng, suýt chút nữa thì kêu rú lên.
Trác Mộc Cường Ba lại bước lên bệ thờ, quan sát đài sen: “Quả nhiên!” Chỉ thấy chính giữa đài sen lộ ra một lỗ nhỏ, bên trong chắc là từng có thứ gì đó cắm vào, nhìn dấu vết trên lỗ nhỏ ấy, thứ đó chắc là có một mẩu hình thoi nhô lên, ngoài ra còn có tay nắm, Trác Mộc Cường Ba nhét sợi dây thừng vào lỗ dò thử, thấy bên trong dài chừng ba mươi centimet. Trác Mộc Cường Ba kiểm tra xong xuôi, bước xuống bậc thang, đúng lúc bước xuống bậc thang cuối cùng, tượng Phật liền như cái bẫy chuột, chập đánh “rầm” một cái vào nhau, tiếng vang rất lớn, bụi đá rơi xuống lả tả như mưa. Đường Mẫn lại run bắn mình lên một chặp, mặt hoa thất sắc. Trác Mộc Cường Ba bước tới ôm lấy cô, cảm nhận được đôi vai cô đang rung lên nhè nhẹ như một chú thỏ nhỏ đang run sợ, liền thì thầm an ủi: “Đi thôi, chúng ta tới những gian sảnh khác xem sao.”
Bên trái là một quái thú ba mắt, trên vai mọc sáu cánh tay, bụng to như trống, đầu người mình rắn, có điều con mắt thứ ba của nó lại tròn vành vạnh chứu không phải hình thoi dựng lên như tượng Phật nữ. Bên phải là một đôi đầu voi mình người đang hợp thể giao hoan, có đực có cái, nhưng ở đây, tượng giống cái đang ngồi to hơn rõ rệt, tượng giống đực ngược lại tương đối nhỏ, tựa như một đứa trẻ bổ vào lòng bức tượng giống cái, không thấy mặt mũi thế nào, chỉ lộ ra cặp ngà dài và cái vòi voi. Gian đại sảnh sau cánh cửa lớn cuối cùng là một bức tượng nữ Phật có bốn cánh tay, cũng có ba mắt, tướng mạo hung ác, cơ thể đen đúa, ngực đeo vòng xâu chuỗi đầu lâu, eo hông đeo tay người làm vật trang trí; hai cánh tay bên trái chia ra cầm búa và câu liêm, tay phải thì cầm đồ đựng bằng đầu lâu người và một trái tim đang nhỏ máu ròng ròng. Những bước tượng hung Phật này tạo hình hết sức đặc thù, nét mặt đáng sợ, không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại chẳng nhận ra được pho tượng nào.
Các bức tượng trong bốn gian sảnh đều có cơ quan, Trác Mộc Cường Ba đã lần lượt mở ra, bên trong đều trống không. Đường Mẫn hỏi: “Nếu chưa có ai tới chỗ này, vậy tại sao ngoài tượng Phật ra thì chẳng còn thứ gì nữa vậy?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Làm sao anh biết được chứ? Có lẽ đã bị người nào đó tinh thông cơ quan học lấy đi mất rồi, hoặc là đã có biến cố gì đó, nên toàn bộ đồ đạc đã được chuyển đi, hoặc cũng có thể… ở đây căn bản không có pháp khí hay tế vật gì, để những kẻ tìm kiếm báu vật bỏ qua những gian phòng này hòng bảo vệ bí mật cuối cùng giấu bên trong tượng Phật.”
Cùng lúc ấy, Trương Lập và Nhạc Dương đã tới căn phòng chất đầy vại sành vại sứ. Trương Lập nhìn lối đi nhỏ hẹp nói: “Ở đây rồi.”
Nhạc Dương mắt tinh, vừa liếc cái đã thấy cục bầy nhầy giống thịt nằm dưới đất, nói: “Xem kìa, cái gì thế?”
Trương Lập lắc đầu: “Không biết nữa.”
Nhạc Dương chặc lưỡi: “Đây có lẽ nào là thái tuế trong truyền thuyết không nhỉ?”
Trương Lập liền hỏi: “Thái tuế là cái gì?”
Nhạc Dương đáp: “Một thứ nghe đồn là ăn vào sẽ kéo dài tuổi thọ, cường thân kiện thể. Thoạt nhìn giống thịt, nhưng thực ra là một loại nấm, ngoài ra, khi cắt một phần đi, nó sẽ tự mọc lại được, chỉ cần ngâm trong nước là sẽ giữ được không bị thối rữa. Hồi ở Thanh Hải tôi có nghe người ta kể về thứ này rồi.” Nói đoạn, anh chàng liền nhấc cái vại Trác Mộc Cường Ba đã mở ra lên, lắc lắc mấy cái rồi bảo Trương Lập, “Anh xem đi, trong này cũng ngâm đây này.”
Trương Lập ghé mắt vào nhìn kỹ hơn, “Không phải đấy chứ, chỉ là một cục thịt trắng to bằng con chó con mới đẻ thôi mà, trong vại cũng đang ngâm một cục như thế.” Nhạc Dương nói: “Chẳng lẽ ở đây lại có nhiều thái tuế thế cơ à?”
Trương Lập trầm trồ: “Chà, ăn vào có thể trường sinh bất lão, vậy thì chúng ta phát to rồi!”
Nhạc Dương thò tay vào trong vại vớt cục thịt trăng trắng ấy lên, gí sát miệng Trương Lập nói: “Anh nếm thử xem mùi vị thế nào?”
Trương Lập vội vàng lắc đầu quầy quậy, cái thứ này nghe thì có vẻ rất hay, nhưng khi đặt ở trước mặt, chỉ nhìn thôi cũng thấy buồn nôn lắm rồi, hơn nữa lại còn có một thứ mùi hết sức quái đản, ngửi còn chẳng muốn ngửi nói gì đến ăn. Nhạc Dương cười hì hì chế giễu: “Đúng là chẳng biết gì hết, đồ tốt thế mà lại.” Nhưng lúc anh chàng đưa lên miệng, bị khí vị quái dị ấy xộc vào mũi thì cũng không sao há miệng ra nổi. Trương Lập lo lắng hỏi: “Được không đấy, cái thứ này có lẽ đã ngâm cả ngàn năm rồi đó, cho dù có là đồ tốt thật thì cũng bị ngâm rữa ra rồi, chúng ta mau mau qua kiếm Cường Ba thiếu gia thì hơn.”
Trác Mộc Cường Ba vừa bước xuống khỏi bệ thờ, bức tượng Phật bốn tay liền khôi phục lại hình dáng ban đầu, chỉ nghe bên ngoài đại sảnh có tiếng “cạch cạch” khe khẽ. Trác Mộc Cường Ba chợt nghĩ: “Chẳng lẽ cánh cửa trong dưới đất đã mở ra rồi? Đi, đi xem sao.” Nghĩ đoạn, gã liền dắt tay Đường Mẫn nhanh nhanh chạy vù về gian đại sảnh sắc vàng. Đường Mẫn lẩm bẩm nói: “Không phải là huyết trì à, sao lại dễ mở ra như thế nhỉ?”
Quả nhiên, các phiến đá giống như cánh hoa trong đại sảnh đã xoay cả về phía gần tường đá, để lộ ra một cửa hầm trơn nhẵn hình tròn, đường hầm hình xoáy tròn xuống dưới, bên trong trơn như gương, rất giống một cái vỏ ốc biển khổng lồ. Đường Mẫn lo lắng nói: “Bên trong này trơn như thế, xuống rồi là không lên được đâu.” Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi lấy dụng cụ ra, đóng đinh sắt vào mặt đá, rồi lại dùng ba cái chốt an toàn chặn mấy cánh hoa lại, thắt dây an toàn vào đinh sắt, cài móc thả xuống đường hầm. Xong xuôi đâu đó, gã nói với Đường Mẫn: “Để anh xuống trước, em ở trên này đừng để cửa đóng lại đấy.”
Trác Mộc Cường Ba đội mũ phát sáng lên, một tay bám dây thừng, ngồi trong rãnh trượt xuống, giống hệt như trẻ con ngồi cầu trượt vậy, vừa trượt gã vừa không khỏi nghĩ thầm trong bụng: “Sao trơn vậy, rốt cuộc là đã dùng công nghệ gì nhỉ?” Gã rờ tay lên vách, thấy lạnh buốt xương, gõ gõ lên, thì thấy không phải tiếng trầm đục của đá, Trác Mộc Cường Ba liền điều chỉnh cho mũ sáng hẳn lên, liền thấy vách tường đen sì sì như làm từ thép ròng, thầm nhủ: “Chẳng lẽ tường bên trong lối đi này toàn bộ đều ghép từ vật liệu kim loại chắc? Bọn họ dùng cách gì mà giữ được kim loại cả ngàn năm cũng không gỉ sét nhỉ?”
Đang suy nghĩ, dưới chân gã hình như đạp rơi thứ gì đó, thân thể hơi chùng lại, đoạn liền nghe thấy tiếng “cục cục cục” bên dưới vọng lên. Trác Mộc Cường Ba không kịp nhìn cho kỹ, nhưng đã càng thêm cẩn trọng, bám chặt dây thừng chầm chậm trượt xuống, quả nhiên không ngoài suy đoán của gã, cách đó chưa đầy ba mét, ở phía trước bỗng nhiên nhô ra một lưỡi đao sắc, mũi đao hướng thẳng về phía Trác Mộc Cường Ba, nếu gã mà không bám vào dây an toàn, nói không chừng lưỡi đao ấy đã xẻ người gã ra làm hai mảnh rồi. Trác Mộc Cường Ba còn chưa kịp thở phào nhẹ nhõm, đã nghe “soạt soạt soạt” mấy tiếng nữa vang lên, trong đường hầm trơn tuột ấy lại xẹt ra mấy lưỡi đao nữa. Những lưỡi đao này rõ là vô cùng sắc bén, sợi thừng chắc đến mức có thể treo cả con voi lên, bị lưỡi đao cọ vào hai ba lượt đã không chịu nổi trọng lượng của Trác Mộc Cường Ba, “bưng” một tiếng rồi đứt lìa. Trác Mộc Cường Ba chỉ kịp hét vọng lên phía cửa đường hầm một tiếng: “Không được xuống đây,” thân thể đã trượt vù xuống dưới.
Đường hầm
Trương Lập và Nhạc Dương ung dung đi qua lối đi hẹp. Nhạc Dương không khỏi dương dương đắc ý nói: “Vượt qua mấy cái cơ quan này dễ quá đi.”
Trương Lập liền châm chọc: “Không có Cường Ba thiếu gia nhắc nhở, cậu qua được dễ dàng thế không hả? Phải rồi, bây giờ đi tiếp sao đây? Mấy người đám Cường Ba thiếu gia đâu rồi nhỉ?”
Đi thêm mấy bước nữa, Nhạc Dương nhìn pho tượng Phật sáu tay, kinh ngạc thốt lên: “Oa, đây là Phật gì thế, nhìn cứ như hung thần ác sát ấy.”
Trương Lập nói: “Dạ xoa phải không? Hay chẳng lẽ là tượng Diêm vương?”
Hai anh chàng đi tới phía trước tượng Phật sắt, liền nhìn thấy gian đại sảnh màu vàng và Đường Mẫn ở bên dưới.
Trương Lập vẫy chào, rồi cùng Nhạc Dương mỗi người giữ một đầu dây, gá lên phần nhô ra của lối đi, cùng lúc trượt xuống. Hai người chạy tới bên cạnh Đường Mẫn, trông thấy cửa hầm hình tròn dưới đất, Trương Lập bèn hỏi: “Sao cô không xuống đó luôn?”
Đường Mẫn đáp: “Anh Cường Ba vừa mới xuống. Anh ấy nói để thăm dò xem có nguy hiểm gì không…” Cô vừa nói tới đây, chợt nghe trong đường hầm vọng tới giọng Trác Mộc Cường Ba: “Không được xuống đây!” kế đó sợi dây thừng buộc vào đinh sắt bên trên giật nảy lên. Cả ba người đang đứng trong đại sảnh đều ý thức được một điều, dây thừng đã đứt!
Đường Mẫn cuống hết cả lên, thò đầu quan sát rồi định trượt xuống đường hầm, nhưng đã bị Trương Lập kéo lại. Nhạc Dương nói: “Mấy công chuyện nặng nhọc này để đàn ông chúng tôi làm cho.” Nói xong liền cầm sợi thừng lên thắt bốn cái nút liền nhau, rồi bám dây xuống luôn đường hầm. Trương Lập cũng nói: “Yên tâm, công chúa, chúng tôi nhất định trả lại cho cô một Cường Ba thiếu gia hoàn chỉnh nguyên vẹn.” Dứt lời cũng trượt xuống theo luôn.
Trác Mộc Cường Ba gào lên cảnh báo, đồng thời hay tay vươn ra, ấn vào hai núm xoay ở cạnh đế giày. Đôi giày leo núi đặc chế liền tự động bơm khí xuống đế, hình thành nên những giác hút và các sợi lông cong lớn nhỏ khác nhau, Trác Mộc Cường Ba lợi dụng chút lực hút này mà áp chặt người vào vách đường hầm trơn tuột, từ từ giảm tốc độ, cuối cùng cũng coi như dừng lại được. Một thanh đao sắc lẻm kê ngay dưới nách gã, lưỡi đao gần như đã cắt rách lớp áo bên ngoài. Trác Mộc Cường Ba cẩn thận vòng tay qua tránh lưỡi đao, rồi dùng sức phần hông, từ từ trườn xuống dưới, trông hệt như một con sâu đang uốn éo bò đi.
Lại vòng thêm ba vòng nữa, phía trước hình như đã xuất hiện mặt đất bằng phẳng, nhưng ở ngay chính diện lại xuất hiện một thanh đao dựng đứng. Từ góc độ của Trác Mộc Cường Ba, thoạt nhìn nó như một sợi tơ bạc, phía sau sợi tơ đột nhiên phình to ra như quản bút. Gã thầm nhủ, xung quanh chắc chắn phải có chốt lẫy nào để đóng cái cơ quan bật lưỡi đao này mới phải, vừa nãy trượt từ trên xuống dưới, những lưỡi đao này đều dựng đứng ở ngay phía dưới lối thông, nếu thả cho trượt tự do xuống thì người sẽ áp sát vào một bên vách do quan tính, thành ra lại không hề nguy hiểm, chỉ có điều khi trượt tới đoạn dốc cuối cùng này, chắc chắn sẽ bị lưỡi đao sắc phía trước xẻ ra làm đôi.
Khi sắp lại gần lưỡi đao, Trác Mộc Cường Ba liền phát hiện ra ở mé bên đường hầm hình tròn này có một kết cấu mộng ghép nhô ra, lẽ nào đây chính là chốt để đóng mở cơ quan?
Đang suy nghĩ, đột nhiên nghe “kịch” một tiếng, lưỡi đao kia bỗng rụt trở lại, kế đó nghe “phăng” một tiếng nữa, lưỡi đao lại bật trở ra. Trác Mộc Cường Ba còn chưa hiểu ra chuyện gì, đã nghe bên trên có người hét lớn: “Cường Ba thiếu gia, anh ở đâu? Tôi xuống đây!” Tiếng Nhạc Dương từ xa thành gần, đến thật là nhanh!
Trác Mộc Cường Ba thầm than không xong, hai chân ấn chặt vào đường hầm. Chỉ thấy hai vai trầm xuống, cả hai người cùng lúc bị một xung lực mạnh mẽ kéo trượt xuống. Lưỡi đao kia cách tầm mắt Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng gần, càng lúc càng gần. Trác Mộc Cường Ba định thay đổi phương hướng, nhưng muốn trụ vững được thân hình ở chỗ này một mình đã không phải chuyện dễ rồi, làm sao gã được như ý. Thành ra hai người cùng lúc cứ thế trượt thẳng về phía lưỡi đao sắc bén.
Cuối cùng coi như nhờ đôi giày leo núi đặc chế chất lượng cao, không ngờ cũng giữ ổn được thân hình của cả hai người. Song lưỡi đao kia đã kề vào giữa hai đùi Trác Mộc Cường Ba, cọ xát vào đũng quần. Gã lần này đúng là được một phen toát mồ hôi lạnh, không ngờ còn chưa kịp định thần, bên trên đã có tiếng vọng xuống: “Tôi cũng đến rồi đấy!”
Trác Mộc Cường Ba cả kinh thất sắc. May là trong lúc loạn cũng không mất đi sự bình tĩnh, vào khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc đó gã đã vươn tay phải ra ấn xuống kết cấu hình mộng kia, còn kế đó thế nào thì đành nghe theo mệnh trời thôi vậy. Trác Mộc Cường Ba vừa mới làm xong, trọng lượng trên vai đột nhiên tăng lên gấp mấy lần, ba người như một đoàn xe lửa, trượt ngồi xuống tận cùng của đường hầm.
“Khốn kiếp! Rõ ràng đã nghe thấy tôi bảo đừng có xuống, thế tức là chắc chắn có cơ quan rồi, vậy mà vẫn còn mạo hiểm như vậy nữa!” Trác Mộc Cường Ba có tốt tính đến mấy cũng không thể nhịn nổi, lớn tiếng trách móc các thành viên trong nhóm.
Nhạc Dương trừng mắt lên nhìn Trương Lập, giọng đầy trách móc: “Đều tại cậu cả, suýt chút nữa là làm Cường Ba thiếu gia tuyệt đường con cháu rồi.” Hai người áp vào vách tường trượt xuống, thành ra không chạm phải lưỡi đao nào hết.
Trương Lập vội biện bạch: “Sao lại trách tôi, rõ ràng là cậu xuống trước cơ mà, cậu không đạp phải cái cơ quan ấy, những lưỡi đao đó liệu có bật ra làm đứt dây thừng hay không chứ?”
Trác Mộc Cường Ba ôm đầy một bụng tức, có điều cũng không muốn lằng nhằn mãi với hai anh chàng lắm điều này, liền lấy thiết bị ra liên lạc với Đường Mẫn, báo cho cô biết tạm thời họ chưa gặp nguy hiểm gì, nhưng trong thông đạo có cơ quan, tốt nhất là đừng có xuống vội, cứ ở trên đó đợi mấy người nhóm lạt ma Á La tới đã. Kế đó, gã lại liên lạc với giáo sư Phương Tân, từ vị trí của giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La, rõ ràng là đã sắp tới gian đại sảnh màu vàng kim kia rồi. Chỉ có Lữ Cánh Nam và Ba Tang là đã phát hiện ra một lối đi lạ, giờ đang thăm dò. Hơn nữa lối đi mà họ phát hiện ra đó, hình như cả nhóm người của Ben cũng chưa phát hiện ra, bên trong vẫn còn giữ được nguyên vẹn trạng thái mấy trăm năm không hề có người lai vãng.
Thông đạo bí mật mà Lữ Cánh Nam và Ba Tang đi nghe nói còn nguy hiểm kỳ bí gấp bội, nói chuyện qua thiết bị liên lạc nhất thời cũng khó có thể nói rõ ràng được, Lữ Cánh Nam chỉ dặn dò bọn Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng điều tra rõ lối đi bọn gã phát hiện, sau đó xem xem có thể liên hệ và giúp đỡ gì nhau không.
Trác Mộc Cường Ba ấn nút trên đồng hồ, chấm dứt cuộc tranh luận từ nãy vẫn chưa hề ngừng lại của Trương Lập và Nhạc Dương, đoạn nói: “Tôi còn chưa nói cái gì, hai cậu tranh cãi gì mà tranh cãi? Bây giờ chúng ta hãy kiểm tra rõ tình hình dưới này trước, rồi sau đó tìm cách leo lên trên kia.”
Con đường này nối liền với ống trượt hình xoáy ốc mà mấy người vừa trượt xuống, độ võng dưới mặt đất tương đối nhỏ, cao hơn hai mét một chút, Trác Mộc Cường Ba chỉ cần vươn tay lên là đã chạm tới đỉnh vòm rồi, chiều rộng đâu chừng hai ba mét, đi bên trong cảm tưởng như đang bước trong một đường hầm thời không cổ kính vậy. Gã cảm thấy con đường này hơi giống lối đi hình ống xương ở địa cung Ah Puch, nơi ra ra vào vào của bọn chuột khổng lồ, không khỏi thầm nhủ: “Ở đây chắc không có cái thứ ấy chứ nhỉ.”
Đi được chừng mười bước, phía trước liền xuất hiện lối rẽ, ba người đứng lại nhìn quanh ngó quất, chỉ thấy cả hai lối đều có phân nhánh. Trương Lập không ghìm nổi buột miệng thốt lên: “Không phải chứ, mê cung hả?” Nhạc Dương “Ô” lên một tiếng. Trong ngành cơ quan học, hai vị nhân huynh này sợ nhất chính là môn mê cung, cái gì mà mê cung vòng, mê cung vuông, mê cung pháp trận, mê cung lập thể… dù là loại mê cung gì cũng khiến cả hai đầu váng mắt hoa. Thế nhưng cổ nhân lại cứ xếp mê cung vào loại dễ xây dựng mà hiệu quả lại cao nhất trong cơ quan thuật. Các loại mê cung, chẳng hạn như Kỳ môn độn giáp, Bát trận đồ, Mê hồn trận… đều từng nổi tiếng hiển hách một thời, lập công lớn trên chiến trường và còn nhiều nơi khác. Trong cơ quan học, riêng kiến thức về mê cung lập nên hẳn một ngành chuyên biệt. Những gì bọn Trác Mộc Cường Ba đã học và nắm bắt, có thể nói đều là những kiến thức đơn giản và tinh yếu nhất về mê cung.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không giống, làm gì có mê cung nào cứ đi bốn năm bước đã thấy rẽ nhánh rồi, hơn nữa tường ở đây đều trơn nhẵn thế này, chẳng giống như có bố trí cơ quan lớn gì cả.”
Nhạc Dương lẩm bẩm: “Cũng cần gì cơ quan cỡ lớn chứ, chỉ như cái vừa nãy…” Trương Lập vội nhéo mạnh lên lưng anh chàng một cái, ý bảo Nhạc Dương đừng có nhắc chuyện vừa nãy làm gì nữa.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng ta đi thêm mấy bước nữa xem thế nào, dù sao cũng còn hơn đứng mãi ở đây.”
Không có máy tính của giáo sư Phương Tân, đi trong đường hầm phân nhánh chằng chịt thế này đúng là tương đối khó khăn. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đánh dấu điểm đang đứng lại, sau đó bắt đầu đi về phía trước. Trong mê cung mà không có bản đồ, thì nên tuân theo nguyên tắc dựa phía trái. Đây là một nguyên tắc rất cơ bản, chính là đi thế nào cũng được, nhưng bao giờ cũng phải bám sát vào bức tường bên trái, như vậy thì từ đầu chí cuối vẫn luôn tiến lên phía trước. Nếu như mê cung có dạng thức một vòng tuần hoàn, thì họ đã đánh dấu ở điểm khởi đầu, khi nào quay lại đây sẽ phát hiện ra được ngay.
Lúc này, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đã tới gian phòng chất đầy vại sành sứ và xương người chết, cũng nhìn thấy cả lối đi chật hẹp kia. Giáo sư Phương Tân nói: “Đến nơi rồi,” đoạn liền cởi ba lô xuống chuẩn bị đi qua. Lạt ma Á La liền ngăn lại: “Đợi đã, để tôi xem mấy cái vại này một chút.”
Giống như Nhạc Dương lúc nãy, lạt ma Á La nhấc chiếc vại lên, nhìn cục thịt và chất lỏng bên trong, ánh mắt hấp háy bất định. Giáo sư Phương Tân thấy thế liền hỏi: “Bên trong có gì thế?”
Lạt ma Á La như người bừng tỉnh cơn mộng, giật mình đáp: “À, gì hả? Ồ, không biết nữa, đúng là kỳ quái thật, nhiều vại như vậy, bên trong này rốt cuộc là ngầm thứ gì đây nhỉ? Chụp ảnh lại đã, rồi chúng ta nhanh qua xem bọn Cường Ba thiếu gia thế nào.” Miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng ông lại thầm kinh hãi: “Trời đất, lẽ nào đây lại chính là Thánh đàn năm đó?”
Từ sau khi máy tính của giáo sư Phương Tân ghi lại được rất nhiều thông tin trong địa cung Ah Puch, lãnh đạo của tổ huấn luyện đặc biệt tỏ ra rất hứng thú với phương thức ghi hình này. Sau khi được nhóm nghiên cứu cải tiến, máy quay của giáo sư Phương Tân đã đổi thành loại ống kính có độ phân giải cao, gắn trực tiếp vào mắt kính của ông, chỉ cần kéo sợi dây truyền số liệu trong ba lô ra gắn vào là có thể dùng được luôn, lại có chức năng quay chụp dưới nước, còn máy tính xách tay được giữ trong ba lô, giải phóng cho đôi tay tự do hoạt động.
Mới được khoảng ba phút mà mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đã đi qua vô số đường rẽ nhánh, nếu phải gượng ép đi theo trí nhớ, lúc này họ khẳng định là đã lạc đường. Đột nhiên, chiếc đồng hồ trên cổ tay Nhạc Dương sáng đỏ lên, báo có tín hiệu liên lạc. Thì ra giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đã tới nơi, sau khi nghe Đường Mẫn kể lại mọi chuyện liền liên lạc với ba người bên dưới. Nhạc Dương trả lời rằng trước mắt coi như vẫn an toàn, cả bọn đang ở trong mê cung, bên dưới này ngoài đường hầm ra thì chẳng phát hiện được gì khác nữa, nếu tìm thấy gì sẽ liên lạc với bên trên sau. Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La dặn dò ba người cẩn thận, bọn họ cũng phải ở trên này quan sát mấy tượng Phật kia một chút.
Đường Mẫn dẫn đường cho hai ông già tham quan hết cả mấy gian sảnh sau bốn cánh cửa chính và bốn cánh cửa ngách, cũng xem cả những cơ quan bên trong, rồi giáo sư Phương Tân sắp xếp lại các tư liệu trong máy tính, cùng Đường Mẫn thảo luận những gì hai người trông thấy trong đống hoang tàn đổ nát. Lạt ma Á La thì nhìn chằm chằm vào pho tượng Phật đen treo lơ lửng giữa không trung, tâm trạng nặng nề mà phức tạp, nhủ thầm trong bụng: “Đại Hộ Pháp thần Ma Kha Ca La, Trì Thiên Hộ Pháp thần Kha Lợi Đế Mẫu, Địa Linh tôn Na Ca, Đại thánh Tỳ Na Dạ Ca, Địa Mẫu thần Ca Lợi… thần Phật cõi trời đều tụ tập cả về đây, không thể sai được, thứ chúng ta vừa trông thấy… đó là rượu tế! Chỗ này đúng là Thánh đàn rồi! Đức Ma Hê Thủ La tôn kính vạn năng, xin hãy thứ tha cho kẻ tội đồ thành kính này, chúng con đến muộn mất rồi, nhưng chúng con không bỏ cuộc, không bao giờ ngừng nỗ lực để Tự Tại Mạn Đà La trùng hiện quang minh.”
Giáo sư Phương Tân nhìn màn hình máy tính rồi nói với Đường Mẫn: “Thứ giáo lý cổ xưa hoặc có lẽ đã biến mất này, bọn họ toàn sùng bái tà Phật và ác ma. Chẳng hạn pho tượng Phật sắt trên đầu chúng ta đây, nếu tôi không lầm, đó chắc là Đại Hắc Thiên (Mahakala). Đại Hắc Thiên là một trong những vị thần bảo hộ được nhiều người biết đến nhất ở Tây Tạng. Tương truyền Đại Hắc Thiên đã bị Quan Âm thu phục, có lúc còn được coi là hóa thân Phẫn Oán của Bồ Tát. Còn bức tượng hai con voi ôm lấy nhau đó chắc là Đại Thánh Hoan Hỉ Thiên, ngài thường xuất hiện dưới hình tượng chiến thần, còn gọi là Đại Thánh Thiên, Thánh Thiên. Hình tượng hai vợ chồng đầu voi mình người ôm nhau hợp thể này chính là bản tôn (hình tượng thật) của ngài. Nam Thiên là con trai trưởng của Đại Tự Thiên, là Đại Hoang thần tàn hại thế giới; Nữ Thiên là Quan Âm hóa ra, ôm chặt lấy nhau như vậy là để Nam Thiên hoan tâm, dồn nén cơn hung bạo xuống, vậy nên mới gọi là Hoan Hỉ Thiên. Còn bức tượng Phật nữ mà cháu cho là đáng sợ nhất ấy có lẽ chính là Quỷ Tử Mẫu trong truyền thuyết. Quỷ Tử Mẫu trong truyền thuyết. Quỷ Tử Mẫu còn gọi là Hoan Hỉ Mẫu, tiếng Phạn là Kha Lợi Đế Mẫu. Quỷ Tử Mẫu vồn là một vị ác thần trong Bà La Môn giáo, chuyên ăn lũ trẻ con ở chốn nhân gian, gọi là Mẫu Dạ Xoa. Sau khi được Phật pháp giáo hóa, liền trở thành thần hộ pháp chuyên trách bảo vệ trẻ con. Hai bức tượng còn lại thì tôi không nhận ra, nhưng quá nữa cũng là loại tượng Phật này. Những vị thần Phật này sau khi quy hồi Phật giáo thì đều là Đại Hộ Pháp, Đại Kim Cương, là các thần Phật chính nghĩa chuyên trách tiêu diệt tà ma ác đạo, nhưng những bức tượng được khắc tạc ở đây, rất rõ ràng đều thể hiện hình tượng trước khi quy y Phật giáo của họ, đều là đại hung thần, đại sát tinh, thần Phật bình thường đều không thể làm gì nổi họ. Những thần Phật mà giáo phái này thờ phụng chính là những vị tà Phật này đó. Tôi nghĩ, lạt ma Á La chắc biết về việc này nhiều hơn chúng tôi đúng không, Á La đại sư?”
Lạt ma Á La giật mình: “Gì hả?”
Đường Mẫn nói: “Ông kể cho chúng cháu nghe về lai lịch những tượng Phật này đi, đại sư.”
Lạt ma Á La nói: “Những tượng Phật này hả? Chậc, những tượng Phật này hả? Những bức tượng này đều xuất hiện dưới dạng tướng mạo bản tôn, chắc là thuộc về một chi bên lề của Mật tông Tây Tạng. Nói đến Mật tông Tây Tạng, chỉ e sẽ dài đấy, nhất thời ta cũng không biết nên nói từ đâu nữa.”
Đường Mẫn nghĩ ngợi một thoáng rồi đáp: “Vậy đại sư đừng nói chuyện này vội, nói chuyện huyết trì đi, tại sao không đổ máu vào mà cửa cũng mở ra được vậy? Có phải mấy ngày trước đã có người sử dụng huyết trì, nên nó vẫn giữ được trạng thái đó không?”
Lạt ma Á La lắc đầu: “À, huyết trì cũng có nhiều loại khác nhau, trường hợp này không thể gọi là huyết trì, nó là bạch trì.”
Đường Mẫn nhắc lại: “Bạch trì?”
Lạt ma Á La nói: “Ừm, bạch trì không cần máu, chỉ cần dùng nước sạch bình thường là có thể tác động mở cửa được rồi. Sau đó đúng như cháu nói đấy, chỉ cần lượng nước đầy đủ thì có thể dùng mấy ngày liền.”
Đường Mẫn chỉ vào một cánh cửa mé, nói: “Nhưng mà, những cái chúng ta thấy bên trong các căn phòng kia, không phải là giống hệt như huyết trì hay sao ạ?”
Lạt ma Á La mỉm cười đáp: “Đó chỉ là hình thức mô phỏng thôi. Dựa vào ý đồ của cánh cửa đá này mà suy đoán, bên dưới có lẽ là hệ thống nước thải ngầm, cơ quan mà mấy người Cường Ba thiếu gia nhắc tới, ta nghĩ có lẽ là đao cắt.”
“Đây hình như là một hệ thống thoát nước ngầm.” Trác Mộc Cường Ba cũng đưa ra một kết luận tương tự. Gã nói: “Đường hầm ở đây rộng rãi chằng chịt như mạng nhện, bốn vách lại trơn nhẵn thế này, dùng để xử lý nước thải rất hợp, chắc chắn không phải mê cung đâu.”
Nhạc Dương nói: “Tôi cũng thấy không giống mê cung lắm. Chỗ này một là không có cơ quan, hai là không có trang trí gì cả.”
Trác Mộc Cường Ba càng thêm chắc chắn hơn về suy luận của mình, gật đầu nói: “Ừm, khi mưa lớn nước dâng lên, có lẽ hòn đảo này sẽ bị nhấn chìm, đợi khi nước rút đi, sẽ nhờ vào hệ thống thoát bớt nước. Trí tuệ của cổ nhân đúng là vô cùng vô tận.”
Trương Lập nói: “Vậy những lối thông này thông đi đâu chứ?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ra bên ngoài đảo, hoặc là… đáy hồ.”
Nhạc Dương đề nghị: “Chúng ta lại trở về chỗ ban đầu xem, được không? Ủa, chỗ đánh dấu đâu rồi? Sao chẳng thấy đâu nữa nhỉ?”
Trác Mộc Cường Ba xem thử, quả nhiên chỗ này nối liền với một đường hầm hướng thẳng lên trên, nhưng thông đạo hình như lại hơi khác với đường bọn họ đi xuống. Trác Mộc Cường Ba nói: “Không phải lối chúng ta đi xuống, đây là lối thông từ chỗ khác xuống, các cậu xem, đây là một đường dốc thẳng, không có rẽ ngoặt. Ừm? Bên trên có ánh sáng kìa, chác là cửa mở đấy, chúng ta lên trên xem sao nhỉ!”
Trương Lập băn khoăn: “Trơn thế này thì làm sao mà lên?”
Trác Mộc Cường Ba giẫm giẫm chân nói: “Leo lên chứ còn sao.” Lúc này lòng tin của gã đối với giày hấp lực đã khôi phục phần nào. Vừa nãy trọng lực ba người còn chịu nổi, huống hồ giờ chỉ có một người.
Nhạc Dương gật đầu: “Ồ, bình thường ít khi dùng tới, không ngờ đã quên béng mất cái công năng này rồi. Leo lên trên xem một chút cũng được.”
Trương Lập cảnh giác nói: “Cẩn thận lại có lưỡi đao bật ra như vừa nãy đấy.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi tính toán rồi, loại lưỡi đao đó dài không quá ba mươi centimet, vừa nãy là trượt xuống, giờ nếu chúng ta đi thẳng lên, không giẫm vào khe ở giữa thì lưỡi đao đó không gây nguy hại gì đâu.”
Ba người cẩn trọng dè dặt leo lên đường hầm trơn tuồn tuột, phía trước có ánh lửa thấp thoáng, chỉ chốc lát đã ở trong một động đá. Chỗ này và đại sảnh ban nãy hoàn toàn khác biệt, dường như chỉ là một hang đá được đục đẽo thô sơ, không có bất cứ trang trí gì, bốn bức tường và trần vẫn còn lởm chởm, chính giữa có một pho tượng đá, miệng hang ba người leo lên ở ngay sau lưng tượng. Trương Lập và Nhạc Dương vòng qua phía trước tượng Phật, rồi hét toáng lên: “Ối chà, yêu nữ lông dài!”
Trác Mộc Cường Ba đi tới phía trước tượng đá, cũng phải thầm ngạc nhiên. Bức tượng đá này không hiểu là chưa hoàn thành hay là cố ý tạc như vậy, chỉ thấy toàn thân trần truồng, mang đặc điểm của nữ giới, song lại có lông dài phủ khắp người, mặt mũi bị lông che kín, đến trước ngực tượng cũng có lông dài, bảo là một con tinh tinh lớn thì không phải, ngược lại có lẽ giống với một cái rễ cây hình người hơn. Trác Mộc Cường Ba lờ mờ nhớ lại câu chuyện về Mao yêu nữ vương mà cha gã từng kể cho nghe hồi nhỏ, nhưng trước giờ gã cũng chưa bao giờ trông thấy bức tượng nào tương tự như thế này, không rõ đây có phải là Mao yêu nữ vương hay không nữa. Trên bàn tế trước mặt bức tượng Phật là một tượng xác người, dưới chân có ba ác quỷ, bên cạnh có một ác quỷ nữa, đều giơ tay, chân, thân thể của xác chết lên há miệng định cắn, còn tay phải tượng đá giơ trái tim người lên quá miệng như muốn ăn, tay trái cầm một thứ giống như hòn đá cuội đặt vào lồng ngực người nằm trên bàn.
Ba người đi một vòng quanh hang đá, không tìm thấy cơ quan gì, cũng không thấy lối đi nào khác, cảm thấy hết sức kỳ quái. Tại sao lại là một cái động đá hoàn toàn bít kín, chỉ thông với lối thoát nước ngầm chứ? Song tìm kiếm khắp cả hang, cuối cùng cũng không thu hoạch được gì, ba người đành chuẩn bị theo đường cũ trở lại. Đến cửa đường hầm, Trác Mộc Cường Ba bỗng dừng phắt lại, nói: “Bên trong có người.”
Đa Cát Điệt Bất
Trương Lập vừa mới nhìn qua tượng hung Phật, tim đã đập thình thịch không thôi, Trác Mộc Cường Ba lại còn đột nhiên buông ra một câu bên trong có người, lập tức làm anh chàng giật thót cả mình, vội hỏi: “Cái gì? Ở đâu có người cơ?”
Trác Mộc Cường Ba ra hiệu cho mọi người không lên tiếng, nghiêng tai lắng nghe, chỉ thấy bên trong hang đá kín mít trống huếch hoác này quả nhiên có những âm thanh kỳ dị vang lên, tự như tiếng gì gõ đập, đều đặn mà có tiết tấu, chậm nhanh mạnh nhẹ liên tục thay đổi, hơi xa xăm và yếu ớt, không chú ý lắng nghe thì hoàn toàn không thể phát hiện ra được, có vẻ như phát ra từ một góc hang đá, nhưng lại không thể phân biệt được chính xác ở đâu, cứ như cả bốn vách hang đều đang phát ra tiếng động. Trác Mộc Cường Ba lạnh giọng thì thầm: “Âm thanh vừa nãy tôi nghe thấy không phải thế này, hình như là có người đang kêu cứu, mà còn bằng tiếng Tạng cổ nữa.”
Trương Lập và Nhạc Dương làm bộ khoa trương ôm lấy nhau, đồng thanh thốt lên: “Cường Ba thiếu gia, anh đừng có mà dọa chúng tôi đấy, chẳng lẽ ở đây có mà?”
Trác Mộc Cường Ba vung tay lên, nói: “Tìm lại xem, nói không chừng ở đâu đó có cơ quan đã bị chúng ta sơ ý bỏ qua. Cái hang này không thể nào không có lối ra vào được.”
“Đao cắt là gì ạ?” Đường Mẫn vẫn chưa hiểu.
Lạt ma Á La giải thích: “Hòn đảo này nằm ở giữa hồ, nếu nước hồ dâng lên nhấn chìm, toàn bộ kiến trúc ngầm dưới lòng đất sẽ bị ngâm trong nước, vì vậy ở tầng dưới này mới có một loại Bạch trì hễ gặp nước là mở ra. Nhưng nếu nước xối ra cuốn theo những vật thể lớn, chẳng hạn như màn che, phướn trong đại điện, bàn thờ và một số tạp vật khác, làm tắc lối thoát nước thì sao? Lúc đó, lối thông hình loa kèn và đao cắt bên trong liền phát huy tác dụng, cắt những vật thể lớn thành miếng nhỏ, khơi thông hệ thống thoát nước thải ngầm. Các lưỡi đao thình lình bật ra như có lò xo, sau một khoảng thời gian lại đột nhiên rụt về, rồi bật ra, liên tục băm cắt.”
Đường Mẫn ngạc nhiên thốt lên: “Thật là khéo léo, không thể nào tin nổi.”
Lạt ma Á La điềm đạm nói: “Đây chính là trí tuệ tích lũy từ thực tiễn lao động và đời sống của cổ nhân đó.”
Ba người lại nói chuyện phím một lúc, lạt ma Á La kể một số chuyện liên quan tới các thần Phật của Mật giáo, rồi nói: “À, không hiểu mấy người Cường Ba thiếu gia giờ ra sao rồi, thử liên lạc với họ xem.”
Giáo sư Phương Tân lại liên lạc với nhóm của Trác Mộc Cường Ba. Ba người bọn họ lúc này đang bới tung hang đá kín kia lên để tìm cơ quan hay đường ngầm chỉ vì Trác Mộc Cường Ba cho rằng bên trong có người. Trác Mộc Cường Ba tả lại bức tượng yêu nữ lông dài mà bọn gã thấy ở đây cho giáo sư Phương Tân nghe. Lạt ma Á La lại thêm một phen chấn động trong lòng, thầm nhủ: “Đà Chi Ni Độ Hóa Thần Mẫu, trời ơi, ở đây rốt cuộc còn bao nhiêu bí mật nữa? Không ngờ chúng ta lại hoàn toàn không hay biết gì về sự tồn tại của Thánh đàn nơi đây, đúng là không thể tưởng tượng nổi, đúng là không thể tưởng tượng nổi!”
Nghĩ đoạn, ông liền nói: “Xuống đó đi, ở đây còn rất nhiều thứ chúng ta chưa hề hay biết.”
Đường Mẫn lộ vẻ do dự: “Nhưng mà, đao cắt trong lối thông này không phải rất nguy hiểm hay sao?”
Lạt ma Á La mỉm cười: “Cứ đi theo ta, không có vấn đề gì đâu.”
Giáo sư Phương Tân cũng muốn xuống thăm dò từ đầu, liền vui vẻ đồng ý. Vậy là ba người liền cùng nhau trượt xuống hệ thống nước thải bên dưới.
Trác Mộc Cường Ba và hai người Trương Lập, Nhạc Dương lại tìm kiếm khắp hang đá thêm một lượt nữa, song vẫn không phát hiện ra cơ quan hay đường ngầm nào, mồ hôi đầm đìa ướt đẫm người. Âm thanh yếu ớt kia thật giống như đang có người kêu lên: “Cứu mạng!” hơn nữa còn là tiếng Tạng cổ. Nhạc Dương lại còn nghe ra được, đó là tiếng của một người đàn ông, sắc mặt lập tức tái dại đi. Hang đá vốn trống hoác trống hơ, âm thanh vang lên quá bất ngờ. Ánh mắt ba người dần tập trung cả vào bức tượng Phật cao năm mét ở giữa. Có phải bức tượng này vừa hét lên? Hay là người đàn ông nằm trên bàn kia? Hay là bốn con quỷ? Trương Lập, Nhạc Dương càng thêm nghi hoặc, không hiểu có phải đã đụng phải yêu tinh ngàn năm gì đó rồi hay không? Không thì tại sao lại nói tiếng Tạng cổ cơ chứ?”
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên vỗ đùi đánh đét một tiếng: “Ôi cha, chúng ta ngu thật!” Trương Lập, Nhạc Dương lại giật thót mình, nhảy ngược về phía sau một bước.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tượng đá! Là tượng đá chứ còn gì nữa! Chúng ta tìm cơ quan khắp nơi, mà sao lại bỏ qua cái ở lù lù trước mắt thế này!” Gã bước lên cái bệ tròn hình áng mây, đến bên dưới chỗ ngồi của nữ Phật lông dài, chỉ vào khe hở nhỏ nói: “Bức tượng đá này chắc chắn là có thể di động, đây này, vừa rõ ràng lại vừa đơn giản, vậy mà chúng ta đều không nghĩ tới.”
Ba người liền hợp sức lại đẩy tượng Phật ra, không ngờ nó nhẹ hơn hẳn so với họ tưởng, xem ra bên trong chưa chắc đã đặc ruột. Quả nhiên, bên dưới bệ ngồi của bức tượng lộ ra một vách ngăn vuông vắn mỗi bề khoảng một mét, mở vách ngăn ra, bên dưới hóa ra là một hồ nước, đầy nước trong vắt, ở giữa có một thứ trông như cái bệ đá nhô cao lên khỏi mặt nước, nhưng bên trên không có người. Trương Lập thò đầu quan sát, dưới nước cũng thấy có bóng người nào đâu, anh chàng đang nghi thần nghi quỷ, đột nhiên từ trong làn nước nhô lên một cái đầu tóc tai bù xù, mặt mày bợt bạt, Trương Lập lập tức giật nảy người ngã ngửa ra đằng sau. Cái đầu đó vung vẩy mạnh, bọt nước bắn tung tóe, một gương mặt vuông vắn, mắt to mày rậm, mũi vuông môi dày xuất hiện trước mặt mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, phun ra một búng nước, nhanh nhẹn leo lên bờ, nói: “Coi như được cứu rồi.”
Vừa nghe anh ta cất tiếng, cả ba liền tức khắc hiểu ra ngay, đây là người ở thôn Công Bố, tiếng cứu mạng ban nãy phát âm giống như tiếng Tạng cổ, nhưng câu sau lại là thứ ngữ âm kỳ quái nằm ở giữa tiếng Tạng cổ và tiếng Tạng hiện đại thời kỳ đầu. Người này nhỏ bé lạ thường, chiều cao chưa được mét rưỡi, tứ chi nhỏ, da ngăm đen, còn cái đầu lại to tướng ra, đứng trước mặt Trác Mộc Cường Ba, trông cứ như một đứa nhỏ châu Phi suy dinh dưỡng vậy, chắc tại ngâm nước quá lâu, nên thân thể ánh lên một thứ sắc trắng không tự nhiên của thịt nữa. Người này mặc áo Phổ Lỗ, đi ủng ống cao, hông buộc dây lưng Phổ Lỗ, giắt một con dao đi rừng, cổ tay đeo chuỗi hạt Bồ đề, trước ngực có một chuỗi Phật châu bằng mã não, chính giữa là một viên mã não hình thoi có hoa văn đen trắng. Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn đã nhận ra ngay là Thất Nhãn Thạch.
Người kia vung vẩy lắc nước trên đầu văng ra, tự giới thiệu bằng giọng kiêu ngạo và tự hào: “Tôi là Đa Cát, cảm ơn các vị đã cứu mạng.”
“Đa Cát? Anh là Đa Cát Điệt Bất?” Trác Mộc Cường Ba hỏi như vậy, làm Nhạc Dương và Trương Lập đều giật mình ngạc nhiên. Trước đó hai người và Trác Mộc Cường Ba đều nghĩ giống nhau, đã là thợ săn giỏi nhất thôn Công Bố, chắc chắn là phải cao lớn khôi vĩ, lực lưỡng như bò mộng, làm sao anh chàng nhỏ con loắt choắt này lại là Đa Cát Điệt Bất được?
Không ngờ anh chàng nhỏ con kia lại hiên ngang ngẩng đầu lên đáp lời: “Đúng vậy, sao anh biết tên tôi thế? Tôi rất cảm ơn các anh đã cứu mạng, nhưng… các anh là ai? Tại sao lại đến chỗ này? Còn nữa, sao các anh biết nói ngôn ngữ này?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Na Thâm đưa chúng tôi tới đây.” Kế đó gã lại nói với Đa Cát những lời Na Thâm nhờ chuyển giúp.
Đa Cát há hốc miệng, hai mắt sáng ngời lên, như thể nước mắt sắp trào ra đến nơi, hồi lâu sau mới cất tiếng: “Na Thâm, ôi, trời xanh ơi! Đức Phật vạn năng ơi! Cảm tạ Người đã ban cho con hạnh phúc này! Trong đời Đa Cát Điệt Bất, không ngờ có thể cùng lúc gặp được hai vị Thánh sứ đại nhân.” Anh ta lại hoan hỉ chạy tới quỳ lạy trước bức tượng Phật nữ lông dài, miệng lẩm bẩm: “Không Hành Mẫu đại nhân từ bi, con xin được cảm tạ các thần Phật chốn Thiên giới đã chiếu cố, con muốn cảm tạ, muốn dùng linh hồn trong sạch nhất của mình tiếp nhận sự độ hóa của Người.”
Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương, Trương Lập lấy làm kinh ngạc, Không Hành Mẫu thì bọn họ đều biết, đó là một trong những vị Phật từ bi có tiếng ở Tây Tạng, cứu khổ cứu nạn giống như Quan Thế Âm bồ tát vậy, tượng Không Hành Mẫu ở đây sao lại tạc ra hình dạng thế này cho được?
Thấy Đa Cát đứng lên, Trương Lập liền hỏi: “Cái này, sao các anh lại gọi là Không Hành Mẫu đại nhân?”
Đa Cát ngạc nhiên hỏi: “Đây chính là Không Hành Mẫu đại nhân mà, sao vậy? Thánh sứ đại nhân có pháp danh khác để gọi Người ạ?”
“Thánh sứ?” Trác Mộc Cường Ba bản thân cũng không tinh thông Phật học cho lắm, vội nói “Ừm… không có.”
Đa Cát nói: “Thánh sứ đại nhân, ngài đúng là Thánh sứ đại nhân thật rồi.” Nói đoạn, liền quỳ xuống trước mặt Trác Mộc Cường Ba. Nhạc Dương đứng cạnh nói: “Lại còn không phải nữa à, ba vị trưởng lão của các anh đã nói rồi, đây chính là Thánh sứ đại nhân. Nhưng làm sao anh biết anh ấy chính là Thánh sứ thế?”
Đa Cát đáp: “Không có người Công Bố chúng tôi dẫn đường, muốn đến được đây không dễ dàng chút nào đâu, gò đỉa, khe bọ cạp, núi rắn, thung lũng người chết, thung lũng chướng khí, đầm đen, đó đều là những nơi người thường không thể vượt qua được. Muốn tìm Cánh cửa Sinh mệnh lại khó càng thêm khó, có Na Thâm dẫn đường, lại vào được Cánh cửa Sinh mệnh, vậy thì chỉ có Thánh sứ đại nhân và thôi.”
Đa Cát quỳ dưới đất, đột nhiên lấy tay lần khắp người tìm kiếm thứ gì đó, cuối cùng cũng móc trong lần áo ướt sũng ra một vật màu đỏ to bằng cái cúc áo, hai tay dâng lên quá đầu cung kính nói: “Đa Cát tôi đã thề rằng, ai cứu tôi ra khỏi Hôi Hà địa ngục thì sẽ tặng viên Trích Huyết hồng thạch này cho người ấy; không ngờ lại chính là Thánh sứ đại nhân ngài giải cứu Đa Cát ra khỏi địa ngục, xem ra đúng là trời cao có pháp nhãn, thần thông quảng đại, xin Thánh sứ đại nhân tiếp nhận.”
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười nói: “Sao tôi lại lấy đồ của anh được?”
Đa Cát liền cuống cuồng nói: “Viên Trích Huyết hồng thạch này vốn là thánh vật cuối cùng ở đây, Đa Cát liều chết trong Thụ Kiếm địa ngục mới lấy được để dâng lên cho Thánh sứ đại nhân. Đa Cát giữ vật này bên người, tức là đã đại bất kính với Trời đó!” Nói dứt lời, không ngờ anh ta còn đập đầu “bốp bốp” xuống đất nữa.
Trác Mộc Cường Ba thấy Đa Cát kiên quyết như vậy, đầu đập xuống nền đá mà phát ra tiếng như thế, nếu còn đập tiếp e sẽ chảy máu mất, đành miễn cưỡng nhận lấy, cầm lên quan sát, không ngờ lại là một viên hồng ngọc không chút tì vết, tròn như cái khuy áo. Trác Mộc Cường Ba áp viên ngọc sát người, tỏ ý tôn kính, bấy giờ Đa Cát mới mừng rỡ đứng lên. Trương Lập, Nhạc Dương cầm viên hồng ngọc quan sát kỹ lưỡng, chỉ thấy long lanh trong suốt, đỏ như giọt máu, biết chắc chắn là đồ tốt, song rốt cuộc là tốt thế nào thì hai người đều không nói ra được.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Viên ngọc này anh tìm được ở đâu vậy?”
Đa Cát đáp: “Thụ Kiếm địa ngục, lá cây như kiếm, gió thổi lá rụng, kiếm đâm khắp người, chạm tay tay gãy, chạm chân chân lìa, thân thể đầu mặt, không sao thoát nạn.”
Trác Mộc Cường Ba nghe chỉ hiều lờ mờ, nhưng gã biết, Thụ Kiếm địa ngục mà Đa Cát nói chắc chắn là cơ quan, xem ra bên trong vẫn còn những nơi bọn gã chưa phát hiện ra, nghĩ đoạn liền nói: “Đưa chúng tôi tới đó xem xem.”
Đa Cát nói: “Xin tuân lệnh.” Anh ta không xuống lối thoát nước, mà quay người lại đi ra chỗ cái hồ.
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt quan sát hồ nước, nói ra cũng thật kỳ lạ, sau khi tượng Không Hành Mẫu được dời đi, mực nước trong hồ không ngờ lại chầm chậm rút xuống, để lộ ra những bậc thang. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Sao anh lại bị nhốt trong hồ nước này?”
Đa Cát đã nhảy xuống dưới, nước lúc này đã rút đi gần hết, không ướt cả giày, anh ta do dự một lát rồi mới trả lời: “Chuyện này, có lẽ là tại tôi chưa hoàn thành chức trách của mình, hoặc có lẽ vì tôi đã làm trái lời răn của tổ tiên, một mình đi vào Cánh cửa Sinh mệnh, nên Thánh sứ đã phạt tôi tịnh thân tẩy trừ mọi lỗi lầm trong Át Ca trì cũng nên. Tôi vốn đã lấy được Trích Huyết hồng thạch chuẩn bị dâng lên cho Thánh sứ, nhưng họ lại bảo tôi đợi ở đây…”
Trác Mộc Cường Ba nhảy xuống theo Đa Cát, thấy bốn vách đều ẩm ướt, nhưng trên nóc vẫn khô ráo, đoán rằng lúc trước ở đây cũng không có nước, đồng thời hỏi: “Thánh sứ mà anh nói, có phải người anh dẫn tới đây phải không?”
Đa Cát Điệt Bất bước xuống cầu thang: “Vâng, Thánh sứ ngài ấy…”
Trương Lập và Nhạc Dương trước sau nhảy xuống. Nhạc Dương phì phì nói: “Thánh với chẳng sứ cái gì, bọn chúng muốn giết anh đấy! Bọn chúng đến lúc nào? Đã lấy gì ở đây đi rồi? Giờ chúng ở đâu?” Anh đưa mắt liếc sang phía Trác Mộc Cường Ba một cái, hai người đều hiểu rõ trong lòng, đám người của Merkin vì sợ Đa Cát tiết lộ hướng đi của chúng, nên đã nảy ý muốn giết người diệt khẩu.
Nước ngập không quá đầu gối, Đa Cát ở bậc thang phía dưới nói lên: “Tôi đợi trong Át Ca trì không biết bao nhiêu lâu nữa, Thánh sứ kia đã lấy đi bộ Tứ pháp trượng để khai mở Thiên thủ Phật, giờ chắc đã đến lãnh địa của Tượng Hùng vương rồi.”
“Tượng Hùng vương?” Trác Mộc Cường Ba, Trương Lập và Nhạc Dương đưa mắt nhìn nhau, cùng đồng thanh thốt lên: “Cổ Cách?”
Đa Cát gật đầu: “Vị Thánh sứ đại nhân kia cũng nói y như vậy. Thực ra, như các vị trưởng lão nói, Cổ Cách vương vốn là người đến sau…”
Trương Lập gật đầu: “Sao bọn chúng lại đi Cổ Cách? Phải chăng bọn chúng biết điều gì mà chúng ta chưa biết?”
Đa Cát lại nói: “Vì người Công Bố chúng tôi đời đời bảo vệ ba nơi thánh địa – Cánh cửa Sinh mệnh, mở ra con đường tìm đến Hy vọng; Đảo Huyền Không tự, tìm thấy Pháp môn chỉ lối vào; cuối cùng sẽ đến được miền cực lạc Hương Ba La, tất cả mọi phiền não sẽ tan biến, chúng sinh chuyên tâm tu hành, dễ được vãng sinh. Cổ Cách vương phát hiện ra Đảo Huyền Không tự của chúng tôi, ngỡ là thần tích, vì vậy đã dời đô đến đó, xây cung điện bên trên, cho là bí bảo.”
Nhạc Dương nghe mà như người đi giữa đám sương mù, hỏi: “Thế là ý gì?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Có nghĩa là, ở Cổ Cách có một ngôi chùa gọi là Đảo Huyền Không tự, cũng là thánh địa giống như Cánh cửa Sinh mệnh này, nơi đó có Pháp môn dẫn đến Hương Ba La; Pháp môn, chính là chỉ…”
“Bản đồ!” Trương Lập reo lên.
“Vậy thì Hương Ba La chính là nơi có Bạc Ba La thần miếu rồi, lẽ nào nơi chúng ta vẫn tìm kiếm chính là Hương Ba La? Hương Ba La trong truyền thuyết?” Cả Nhạc Dương cũng kinh ngạc thốt lên.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Mau liên lạc với đại sư và thầy giáo, xem bọn họ có thể đến hội hợp với chúng ta không, bảo là có phát hiện lớn.”
Nhạc Dương liền liên lạc với mầy người nhóm của giáo sư Phương Tân. Đa Cát chỉ tấm vách ngăn trên đầu nói: “Bên trên cũng có vật nặng, nhưng cảm giác không nặng lắm, vừa nãy một mình Đa Cát cũng dịch chuyển được, chỉ thiếu chút nữa là mở ra rồi.”
Trác Mộc Cường Ba giơ tay đẩy lên, biết bên ngoài có vật nặng đè xuống, liền gọi Trương Lập lại giúp. Ba người cùng vận sức đẩy, lật nhào thứ ở bên trên, chỉ nghe tiếng lục cục không ngớt, cuối cùng tấm vách ngăn cũng được mở ra. Mấy người bước vào gian đại sảnh phía trên, ở đây cũng có một pho tượng Phật, trông khá giống với tượng Bát Tí Kim Cương đang ngồi, tay trái cầm một thanh kiếm hai lưỡi, tay phải cầm một thứ giống như dây thừng, ba con mắt trợn lên, răng nhanh nhe ra, tướng mạo phẫn nộ, sau lưng là vầng Phật quang hình ngọn lửa, bên cạnh có hai đồng tử đang đứng, thứ chặn lên tấm vách ngăn là ba cái đôn bằng đá, giờ đã lăn lông lốc ra xa. Gian sảnh này có bốn cánh cửa mở, làm theo hình tượng của Phật, bên ngoài cửa lại có cửa nữa, không hiểu là bao nhiêu tầng lớp.
Đa Cát quỳ xuống bái lạy: “Thánh sứ niệm thập tứ căn bản ấn, chân ngôn chú, tiến về vãng sinh, dẹp mọi tai chướng…” niệm dứt, liền quay đầu lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, băn khoăn không hiểu sao vị Thánh sứ này lại không quỳ bái bản tôn(1). Thấy vẻ hoang mang trên mặt gã, anh ta bèn thầm nhủ không hiểu có phải vì bản tôn ở đây khác, nên Thánh sứ không nhận ra hay không, liền vội giải thích: “Đây là Bất Động bản tôn, Thánh sứ đại nhân.”
Trác Mộc Cường Ba “ừm” một tiếng, thầm nhủ: “Mặc kệ bất động hay di động, tóm lại là binh pháp đã viết, địch bất động, ta bất động.”
Đa Cát thoáng lộ vẻ thương tâm, vị Bất Động bản tôn này chính là đại bản tôn được sùng bái nhất, Trung Ương Minh Vương trong Ngũ Phương Đại Minh Vương, vậy mà Thánh sứ đại nhân này dường như lại không biết đến vậy. Trương Lập thấy thế liền nói bằng tiếng phổ thông: “Vị thần này cũng ra hình ra dáng đấy, đẹp trai hơn mấy cái lúc nãy nhiều, nào, bái thì bái.”
Trác Mộc Cường Ba giờ mới có phản ứng, vội nói: “Ừm, đúng, bái thì bái.” Nói rồi liền mô phỏng theo tư thế của Đa Cát, quỳ bái Bất Động Minh Vương, Đa Cát thấy thể nở một nụ cười, vui vẻ tựa như đứa trẻ được người lớn cho kẹo vậy. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Đa Cát, nơi anh định đưa chúng tôi đến còn xa nữa không?”
Đa Cát đi trước nói: “Thỉnh xong Ngũ Đại Minh Vương, Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ Tát là đến.”
Có người dẫn đường, tự nhiên là không cần phải vào từng gian Phật điện một. Bọn họ còn thấy mấy pho tượng khác nữa, có pho toàn thân xanh đen, tướng mạo giận dữ, sáu mặt sáu tay sáu chân, ngồi trên một con trâu, lưng đeo bao cung, roi, kiếm, tên, gậy, Đa Cát gọi là Uy Đức Tôn Giả; có pho màu xanh, đầu đội mũ ngọc, tóc dựng đứng như ngọn lửa, có ba mắt, tướng mạo giận dữ, răng nanh chìa ra ngoài, tay phải cầm một mũi kích ba lưỡi, cánh tay cong lại, tay trái cầm ba cái chùy, xung quanh mình có lửa cháy, ngồi trên hòn đá, Đa Cát gọi đấy là Giáng Tam Thế Tôn Giả; có tượng Phật cưỡi chim công, thân màu đỏ, bàn tay phải dựng lên, ngón trỏ gấp lại, ngón giữa giữ một chiếc phất trần trắng, tay trái lật ngửa đặt trên bụng, cầm đóa hoa sen đỏ, trên hoa sen có hạt châu màu xanh, Đa Cát gọi là Hồng Liên Hư Không Bồ Tát; còn có một tượng Phật trắng, đầu đội ba lớp mũ, sau gáy có khay bạch ngọc hình tròn, tay trái cầm móc câu, tay phải cầm hộp báu đậy nắp hoa năm cánh, Đa Cát gọi là Pháp Hư Không Bồ Tát.
Các tượng Phật ở đây đều có ba mắt, hoặc một mặt, hoặc ba mặt sáu tay, hoặc bốn mặt tám tay, bốn mặt bốn tay, tướng mạo phẫn nộ, chân đạo thi thể yêu ma, phục quái sát nhân, ba người càng nhìn lại càng kinh ngạc, đồng thời cũng đều ý thức được những gì tôn giáo cổ xưa này sùng bái không phải là thứ họ có thể lý giải được.
Bước đến gian điện cuối cùng, Đa Cát dừng lại, cánh cửa bên trái bức tượng Phật, cúi đầu không nói gì, dường như đang do dự.
Đại điện cao lớn rộng rãi, ánh lửa bập bùng, bốn bề trống không, ngoài tiếng bước chân lạo xạo của bốn người ra, đều tĩnh mịch như tờ, chính giữa gian có một bức tượng giận dữ. Tượng Phật này màu thịt, đầu đội mũ có bảy con rắn, tay cầm kiếm như đang chực nuốt vào, thân kiếm có một con rắn cuộn tròn, phía trên con mắt thứ ba ở chính giữa có góc cạnh, sau lưng có quầng lửa, trên mình đeo bảy chiếc mặt quỷ, ngực một chiếc, ngoài hai mặt quỷ ở vai hóa thành hình đầu rắn le lưỡi, năm mặt quỷ còn lại đều vặn vẹo xoắn xuýt như sáp chảy, hình dạng quái đản ghê rợn. Trương Lập và Nhạc Dương nhủ thầm trong bụng: “Đây là thần Phật gì đây? Sao mà tà ác thế?”
1. Bản tôn ở đây là dụng ngữ của Mật giáo, chỉ các vị thần Phật, chẳng hạn như Quan Thế Âm Bồ Tát, Văn Thủ Bồ Tát…
Cơ quan của Mật giáo (1)
Đa Cát nói: “Phía trước chính là Kiếm Thụ địa ngục rồi, nơi này cực kỳ nguy hiểm, Đa Cát phải thập tử nhất sinh mới xông qua được đấy, nhưng thực sự là Đa Cát không biết phải làm thế nào mới đưa được Thánh sứ đại nhân qua đâu.”
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười nói: “Chuyện này không cần phải lo lắng. Qua đây là đến phải không? Vậy anh hãy kể lại tình hình lúc đó cho tôi xem, sau đó chúng tôi sẽ tự khắc có cách.”
Đa Cát nói: “Vừa bước vào là gặp ngay tên bay loạn xạ, tôi chỉ biết né tránh, nào có kịp nhìn rõ thứ gì đâu, dọc đường vừa lăn vừa chạy, bên trong có hình chiếc hồ lô, trên tường có rất nhiều mũi đinh nhô lên, còn có cả chữ nữa, chính giữa có đài hoa báu, trên đài có mõ, viên Trích Huyết hồng thạch này chính là lấy ở bên trong mõ ấy ra, lúc đi ra thì không có tên bắn nữa.”
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Trương Lập, Nhạc Dương, rồi lại nhìn về phía bọn họ sắp phải đi qua. Đó là một gian sảnh hình chữ nhật, ở giữa là lối đi, hai bên đều là bệ để đồ cúng cao hơn mặt đất chừng một mét, bên trên đáng lẽ phải có tượng Phật, chuông, bình bát, mõ gỗ…, nhưng giờ cũng đều trống hoác cả, còn ở chính diện chỉ có một cánh cửa nhỏ cao ba mét, chỗ tường phía trên cánh cửa khắc một chữ Vạn, sàn nhà thì lát bằng đá phiến, trên mỗi viên đều khắc một ký hiệu.
Trương Lập nói: “Chốt bẫy ở dưới sàn nhà, giẫm lên là khởi động cơ quan. Những ký hiệu này đều là Phạn văn, chỉ tiếc là chúng ta không đọc được.”
Nhạc Dương nói: “Ừm, hai bên tường có rất nhiều rãnh, chắc là tên bắn từ tường đá mfa không trúng ai sẽ rơi ngược vào vách tường bên kia.”
Trương Lập lại ngẩng đầu nói: “Trần nhà cao thế này, chắc là không có thứ gì rơi từ bên trên xuống đâu nhỉ.”
Nhạc Dương nói: “Gian phòng này nhiều lắm cũng chẳng hơn được hai chục mét, có cơ quan thì xông qua cũng được mà.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy được, chúng ta thử xem sao.” Trác Mộc Cường Ba đứng phía trước tấm đá lát sàn, xem những chữ Phạn béo gầy bất nhất, trông giống những con sâu vặn vẹo, tức thời cũng không biết nên giẫm vào viên nào, thứ đưa một chân lên trước dò, thấy không có gì khác biệt, mới giậm hẳn xuống, sau đó bước đi như bình thường. Trương Lập, Nhạc Dương thì bước theo sau gã, cũng giẫm lên những viên đá gã đã giẫm. Đa Cát chẳng hiểu mô tê gì, cũng bị yêu cầu làm như vậy.
Bốn người dò dẫm từng bước một, đến cánh cửa ở phía bên kia lối đi, chỉ thấy hình dạng những viên đá lát sàn trong căn phòng hình tròn này không theo một quy tắc nào cả, hoàn toàn khác với hình cành cây ở phía bên này, song từng viên vẫn đều có khắc Phạn văn.
Trác Mộc Cường Ba bước qua cánh cửa chữ Vạn, thở phào nhẹ nhõm nói: “Không hiểu tại may mắn hay vì cơ quan đã mất tác dụng rồi nữa.”
Trương Lập lên tiếng: “Ừm, cơ quan cần động lực, xem ra Đa Cát xông vào lần trước đã làm tiêu hao hết động lực của cơ quan này rồi.”
Vừa đi qua cánh cửa, Đa Cát đã cho là không còn nguy hiểm gì nữa, liền nhảy ra giữa căn phòng hình tròn, chỉ vào cái mõ trên bệ cao: “Chính là ở chỗ này, tôi lấy Trích Huyết hồng thạch ở đây này.” Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba muốn ngăn anh ta lại nhưng đã muộn, cũng may mà anh ta không hề có hành động gì bất thường.
Trác Mộc Cường Ba giẫm giẫm chân, đá lát sàn bên dưới rất chắc chắn, gã lại bước thêm hai bước nữa, gắng sức men theo những nơi Đa Cát vừa nhảy qua mà tiến lên. Trương Lập và Nhạc Dương cũng thầm nghĩ đá lát sàn ở đây hình dáng như thế này, chắc chắn mười mươi là có vấn đề. Mọi người lên trên bệ cao, giờ mới nhìn rõ toàn cảnh gian phòng, quả nhiên là có hình chiếc hồ lô, chính giữa mái vòm có một lỗ nhỏ, bên trên lại xây một hình cầu lên trên, phần đỉnh hình cầu bên trên nhỏ dần, không nhìn rõ là có lỗ hay không. Những chữ Đa Cát nói, chính là khắc trên tường của hình cầu nhỏ ở trên, ánh sáng mờ mịt, cộng với chữ viết trên đó quá nhỏ, khó mà nhìn cho rõ được. Trác Mộc Cường Ba lấy ống nhòm điện tử ra, Nhạc Dương giơ đèn pha lên, ngửa đầu quan sát, lẩm bẩm nói: “Còn đỡ, là tiếng Tạng cổ.”
Trương Lập nói: “Viết gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: “Quỷ… quỷ vu kim… ngưu, hồng… Đại hồng… liên diệu, Văn… Thù… Bồ Tát, cầm… cầm đồng thủy trước ngực… mở… mở ra Vô Lượng Minh? Đây là ý gì? Hai cậu xem thử xem.”
Trương Lập đón lấy chiếc ống nhòm, lẩm bẩm nói: “Dịch theo chữ thì chắc là như vậy đấy, không sai đâu.”
Nhạc Dương đưa đèn pha cho Trác Mộc Cường Ba, nói: “Để tôi xem nào.” Anh chàng nhìn một lúc lâu, cuối cùng cũng chẳng nhìn ra được manh mối nào, các chữ thì đều đều biết hết, nhưng ghép lại thì lại không hiểu là ý gì. Đa Cát hoàn toàn không hay biết gì về thứ sản phẩm công nghệ hiện đại này, nghe nói dùng nó có thể nhìn thấy những nơi xa mà mắt thường không thấy được, liền lấy làm hứng thú. Nhạc Dương bèn chỉ cho anh ta cách sử dụng ống nhòm. Đa Cát mừng rõ như đứa trẻ được món đồ chơi mới vậy.
Trác Mộc Cường Ba thở dài nói: “Chà, xem ra chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa của những dòng này rồi, đành đợi nhóm của giáo sư Phương Tân đến coi sao vậy.”
Lời còn chưa dứt, đã nghe giọng giáo sư Phương Tân vang lên bên ngoài: “Ồ? Đây là Phật gì vậy? Đại sư Á La, đại sư lại đây mà xem này.”
Trác Mộc Cường Ba kêu lên: “Thầy giáo, thầy giáo, chúng tôi ở trong đây, mọi người vào đi, cẩn thận cơ quan dưới nền nhà, chúng tôi bước vào trên phiến đá thứ hai, thứ năm…” Mấy người trong nhóm của giáo sư Phương Tân liền theo lời đi qua gian sảnh mé bên, bước vào gian phòng hình tròn, Trác Mộc Cường Ba nói: “Thầy giáo, thầy xem trên kia viết những gì?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Đợi chút đã, để tôi chụp lại những chữ Phạn trên nền nhà nước. Vừa nãy vội quá, còn bao nhiêu thứ vẫn chưa kịp ghi lại.”
Trương Lập lên tiếng nhắc nhở: “Cô Mẫn Mẫn, đừng giẫm lên đó vừa nãy chúng tôi chưa đi qua chỗ ấy đâu.”
Lạt ma Á La vừa vào đã hỏi ngay: “Đa Cát đâu, Đa Cát ở đâu?”
Đa Cát đứng sau lưng Nhạc Dương lách người bước ra, nhìn lạt ma Á La hỏi: “Ông là?”
Đường Mẫn nói: “Hả, anh ấy chính là Đa Cát?”
Nhạc Dương nói: “Đa Cát, trả tôi cái ống nhòm…”
Nhất thời mỗi người góp một câu, gian phòng nhỏ liền ầm ĩ hét cả lên.
Giáo sư Phương Tân cùng mấy người khác cũng lên bệ hình tròn. Trác Mộc Cường Ba lấy viên hồng ngọc của Đa Cát đưa cho ông xem, đồng thời chỉ lên không gian hình cầu phía trên, cho ông biết là có chữ. Đường Mẫn đón chiếc ống nhòm từ tay Nhạc Dương, bắt đầu quan sát. Lạt ma Á La thì vẫn không ngừng hỏi han Đa Cát về các tượng Phật.
Giáo sư Phương Tân quan sát viên ngọc giây lát, đoạn nói: “Thủ công tương đối tinh xảo, đây là hồng ngọc loại thượng hạng, khẳng định là có tác dụng rất quan trọng trong lễ tế của cổ nhân.” Kế đó, ông lại điều chỉnh tiêu cự của ống kính máy quay, nhìn những chữ Tạng cổ phía trên, đoạn lẩm bẩm: “Tôi chỉ biết Văn Thù Bồ Tát là một vị Bồ Tát tương đối quan trọng trong Phật giáo, còn những thứ khác chỉ e là chỉ có đại sư Á La mới giải thích được.”
Lạt ma Á La đang hỏi: “Vậy các tượng thần Phật ở đây đều do tổ tiên của cậu tạc nên, hay đã có từ trước rồi, tổ tiên của cậu chỉ phụ trách bảo vệ nơi đây thôi?” thì giáo sư Phương Tân đã giơ màn hình máy tính ra, chỉ những chữ bên trên.
Đa Cát nói: “Theo như các trưởng lão nói, thì chúng tôi chỉ phụ trách bảo vệ nơi này thôi.”
Lạt ma Á La gật gật đầu, sau đó ngoảnh sang nhìn màn hình: “Ừm? Cái này, là ý gì đây?”
Giáo sư Phương Tân ngẩng đầu lên nhìn đỉnh vòm, sau đó lại nhìn cái mõ, bảo Đa Cát để viên hồng ngọc về vị trí ban đầu, quan sát một lượt, sau đó nói: “Tôi hiểu rồi, chắc là dựa trên nguyên lý chiết xạ của tia sáng đây.” Ông chỉ lên đỉnh đầu nói, “Miệng hồ lô này chính là nơi để lấy ánh sáng, thực ra tổ tiên người Tạng chúng ta đã nghiên cứu âm thanh, ánh sáng, hình ảnh đạt tới trình độ tương đối cao, trong đó Vô Lượng Phật Bích chính là một ví dụ rất điển hình.”
Vô Lượng Phật Bích thì Trác Mộc Cường Ba đã nghe nói đến, chính là một vách đá lớn trơn nhẵn như gương, nghe nói mỗi khi có sấm chớp sẽ xuất hiện pháp thân của Phật tổ, khiến vô số tín đồ quỳ lạy cúng bái, cho là thánh tích. Nhưng Vô Lượng Phật Bích và viên hồng ngọc ở đây có quan hệ gì chứ? Lại nghe lạt ma Á La nói tiếp: “Thực ra, nội dung khắc trên tường, chắc là một phương pháp để xuất hiện hình ảnh. Quỷ ở đây không phải quỷ quái theo nghĩa truyền thống, mà là một trong Nhị thập bát tú. Kim ngưu là thời gian, ý tức là vào thời gian “kim ngưu”, sao Quỷ sẽ ở chính giữa phá trên Cánh cửa Sinh mệnh; Đại hồng liên diệu, rất rõ ràng chính là ánh sáng sẽ chiết xạ qua viên hồng ngọc này, Đại hồng liên đồng thời cũng chính là thánh vật ở nơi sâu thẳm nhất trong Bát Đại Băng Đông địa ngục, mấy thứ này đều không quan trọng. Ừm… Văn Thù Bồ Tát… phải rồi, mọi người nhìn xuống sàn nhà xem, có mấy nơi hình dáng không theo quy tắc, mà có hình lá sen.”
Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn theo hướng chỉ của lạt ma Á La, quả nhiên, không chỉ một chỗ, dưới đất có tới mấy nơi được cố ý làm thành hình lá sen, đếm thì tổng cộng có tám lá sen, đều đặn vây quanh bệ tròn ở giữa. Lạt ma Á La nói: “Đây là Bát Diệp Lão Sư, lần lượt tượng trưng cho tám phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, còn Văn Thù Bồ Tát thì ở phía Tây Nam…”
Giáo sư Phương Tân chợt ngắt lời: “Đợi chút đã, Bát Diệp Lão Sư mà đại sư nói, là Mạn Đà La đúng không!”
Lạt ma Á La gật đầu: “Không sai.” Giáo sư Phương Tân không lên tiếng hỏi nữa, chỉ thấp giọng lẩm bẩm: “Mạn Đà La, Mạn Đà La, thì ra là Mật giáo, chẳng trách những tượng Phật kia đều có ba mắt, tướng mạo phẫn nộ, nhiều tượng còn không nhận ra được nữa.”
Lạt ma Á La lại nói tiếp: “Đồng và thủy là gì thì tạm thời chưa biết, còn Vô Lượng Minh là tên Phật ở Tây phương Tịnh thổ, cũng là Tây phương Cực lạc Thế giới mà người ta vẫn nói tới. Ghép tất cả lại với nhau, ý nghĩa đại khái chắc là, đến giờ Kim ngưu, sao Quỷ sẽ ở phía trên đỉnh, ánh sáng chiếu vào viên hồng ngọc này chiết xạ đến thánh vật gì đó ở phía Tây Nam, chiếu lên hình ảnh Thế giới Cực lạc. Còn nơi đặt viên ngọc này cũng không phải mõ miếc gì, mà chắc là trung tâm vũ trụ của Mật giáo, Tu Di sơn… Bát Diệp Liên Hoa Tu Di sơn.”
Nghe lạt ma Á La giải thích xong, Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân, Đường Mẫn đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều dâng lên một cảm giác quái lạ, hình như trên thế giới này có rất nhiều thứ liên hệ với nhau một cách vô cùng chặt chẽ. Quá trình mà lạt ma Á La vừa nói, gần như giống hệt với quá trình họ trông thấy trong địa cung Ah Puch, chỉ là chiếc đầu lâu pha lê thay bằng viên hồng ngọc nhỏ hơn, có lẽ nào, thần tích mà chiếc đầu lâu pha lê ấy làm hiển hiện, cũng là truyền đến từ đất Tạng này?
Giáo sư Phương Tân hỏi lạt ma Á La: “Chẳng lẽ nơi này là do Mật giáo xây dựng?”
Lạt ma Á La lắc đầu: “Chưa chắc, thực ra trong cả quá trình từ trước khi Tán thổ đời thứ ba mươi hai chính thức cho du nhập Phật giáo, đến khi Tán thổ thứ bốn mươi hai diệt phật, sau đó Phật giáo tái hưng khởi, các tôn giáo ở Tây Tạng đều ở trong tình trạng ám đấu, có rất nhiều tôn giáo đã diệt vong, đồng thời cũng có rất nhiều giáo phái mới tách ra từ các giáo phái vốn có. Mạn Đà La mà chúng ta trông thây ở đây dường như có liên quan tới Mật giáo. Mật giáo cũng là một nhánh của Phật giáo, nhưng bức tượng Không Hành Mẫu lúc nãy chúng ta thấy lại bắt nguồn từ các truyền thuyết cổ xưa của Tây Tạng, hình như là Cửu Nguyên Tằm Mẫu và Mao Yêu Nữ Vương thì phải. Hai bức tượng sau đó, theo kinh nghiệm của tôi thì có lẽ liên quan tới Bản giáo cổ xưa. Chắc là mọi người còn chưa biết, Bản giáo là tôn giáo nguyên thủy ở Tây Tạng, song thực ra khi mới hình thành, ngoại trừ các giáo lsy cảu bản thân nó, giáo phái này còn hấp thu rất nhiều từ các tôn giáo cổ đại khác, chẳng hạn như Bà La Môn giáo ở Ấn Độ, Vu giáo ở Ba Thục cổ, và các tín ngưỡng sùng bái tự nhiên của những bộ lạc nguyên thủy xung quanh. Vì vậy, thứ chúng ta nhìn thấy đây, rốt cuộc là một giáo phái thế nào, vì thời gian đã qua quá lâu rồi, nên rất khó đưa ra một kết luận chuẩn xác, có lẽ là một giáo phái đã dung hợp nhiều loại giáo lý khác nhau, hình thành trong thời Phật giáo và Bản giáo đang tranh chấp.”
Nói tới đây, giọng lạt ma Á La khàn đi. Mọi người tưởng đó là vì ông nói một mạch dài quá, nhưng không ai để ý khóe mắt vị sư già đã thấp thoáng ánh lệ xúc động, trong lòng ông đang thầm gào hét: “Đức Ma Hê Thủ La chí cao vô thượng vạn năng, ngài có thể cho con biết, rốt cuộc Thánh giáo, Thánh giáo bị nhấn chìm trong dòng thời gian của chúng ta tên là gì? Tại sao cả một cái tên cũng không thể lưu lại? Tại sao!”
Đa Cát giật chiếc ống nhòm trong tay Đường Mẫn, nhìn ngó ngắm nghía một lúc, rồi chỉ tay vào thứ gì đó hỏi Nhạc Dương. Nhạc Dương nhìn thử, liền cất tiếng hỏi lạt ma Á La: “Đại sư, ngài xem đó là cái gì, hình như chính giữa chỗ nhô lên trên tường kia kìa.”
Lạt ma Á La ngước nhìn những chỗ gồ lên khắp tường. Mặc dù vừa vào gian phòng hình tròn này mọi người đều đã phát hiện ra, nhưng không ai để ý đến cả, cho tới khi Nhạc Dương nhắc, giơ ống nhòm lên xem thử mới kinh ngạc nhận thấy chính giữa chỗ gồ lên ấy là một ống đồng. Ông liền hỏi Đa Cát: “Nơi đây là chỗ sâu nhất trong cung điện dưới đất này phải không? Ở đây anh đã đụng phải cơ quan lợi hại nhất, có phải không?”
Thấy Đa Cát gật đầu hai lần liên tiếp, lạt ma Á La vội nói: “Không xong rồi, cơ quan ở đây rất lợi hại, nhân lúc còn chưa khởi động, tất cả mọi người hãy lập tức rút đi, bằng không sẽ nguy đến tính mạng đó. Những chỗ gồ lên kia sẽ phun nước ra, tuyệt đối không thể chạm vào thứ nước ấy.” Ông sợ hãi nhìn những chỗ gồ lên chi chít khắp tường, lòng thầm nhủ: “Không ngờ lại là Ni Thích Bộ Đà, đây… đây là cơ quan chỉ có trong truyền thuyết thôi mà!”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Kỳ quái thật, nhưng lúc vào đây chugns ta có giẫm phải cơ quan đâu nhỉ?”
Mọi người thu dọn đồ đạc, chuẩn bị rút ra. Trương Lập, Nhạc Dương, giáo sư Phương Tân trước sau lần lượt ra khỏi gian phòng hình tròn, đều không xảy ra chuyện gì kỳ lạ. Kế đó là Đa Cát cũng ra tới cửa. Đúng lúc đó, chợt nghe “cách” một tiếng, ống đồng hai bên cửa dường như có gì biến đổi, chỉ thấy hai vật trông như chiếc quản bút nhô lên phần mỏm của núm gồ, lạt ma Á La vội kêu lên: “Mau xông ra, không thể để nó phun nước! Bằng không thì không thoát được đâu.” Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người, lập tức nghĩ đến Đường Mẫn vẫn còn ở sau lưng mình!
Nhưng ống đồng đã bắt đầu phun nước, Đa Cát sững người, Trác Mộc Cường Ba ở sau lưng liền đẩy mạnh một cái, hất anh ta khỏi phòng, hai tay vươn lên nắm lấy ống đồng trên cửa, ngón cái bịt chặt miệng ống. Lạt ma Á La kinh hãi thốt lên: “Cường Ba thiếu gia, cậu…”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Chẳng phải là không thể để nó phun nước sao, đi mau!”
Đường Mẫn thảng thốt kêu lên: “Anh, Cường Ba…” Trác Mộc Cường Ba cao giọng quát: “Đi, đi nhanh lên!” Đường Mẫn và lạt ma Á La vội luồn qua dưới nách Trác Mộc Cường Ba, nhưng vẫn còn trong phạm vi phun nước, Trác Mộc Cường Ba nói: “Đuổi theo bọn họ! Anh theo sau!” Lạt ma Á La ánh mắt đầy vẻ sợ hãi liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba một cái, thầm nhủ: “Cường Ba thiếu gia hoàn toàn không hiểu gì về Bản giáo cổ đại, thứ… này làm sao có thể dùng tay bịt lại chứ…”
Lúc này, gian sảnh phía ngoài cũng chợt có tiếng động lạ, Trương Lập hoảng hốt cúi đầu, liền bị một thứ gì không rõ lướt sát qua đầu, làm rơi cả một nắm tóc. Chỉ nghe Nhạc Dương ở sau kêu lên: “Hả, cái gì thế?” Giáo sư Phương Tân quát lên: “Cúi đầu xuống!” Trương Lập nói: “Chúng ta vẫn đi theo đường cũ cơ mà, có chạm phải gì đâu?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Không lo được nhiều chuyện thế nữa đâu, cứ xông qua rồi hãy tính.” Trương Lập tránh một vật thể bay vù qua từ bên trái, kinh hãi kêu lên: “Ghê thật.” Nhạc Dương kêu lên: “Cẩn thận sau lưng.” Lời vừa dứt, Trương Lập liền “ôi cha” lên một tiếng, phần vai đã trúng thương. Anh ta nhịn đau rút thứ ám khí cắm vào vai ra, không ngờ lại là một chữ Vạn bằng kim loại mỏng dẹt, to như bàn tay, bốn cạnh đều có lưỡi dao, lúc xoay tròn trên không thì như chiếc boomerang, có thể tự bay ngược trở lại.
Sáu người cuống cuồng xông ra khỏi gian sảnh. Trương Lập bị thương nhẹ ở vai. Những người khác đa phần bị quẹt phải mặt hoặc tay. Cả lạt ma Á La cũng không tránh được. Đa Cát vóc người nhỏ bé thành ra lại không bị thương. Lúc ngoảnh đầu nhìn lại, mới thấy cả gian sảnh bên đó giờ toàn là các chữ Vạn bay qua bay lại vù vù, nhất thời mọi người đều kinh hãi không thốt nên lời. Đường Mẫn giờ mới hỏi: “Anh Cường Ba đâu?”
Mọi người đều giật mình hoảng hốt, chỉ có lạt ma Á La và Đa Cát là biết Trác Mộc Cường Ba ở lại bên trong bít hai cái ống đã bắt đầu phun nước, sau đó mọi người đều cuống lên tránh né chữ Vạn bay, thành ra không ai để ý Trác Mộc Cường Ba đã không chạy theo. Đa Cát đột nhiên chỉ tay nói: “Nhìn kìa, Thánh sứ đại nhân ở đó! Chính là ở đó!”
Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba ngã nhào bên cửa. Trong căn phòng mù mù một màn sương nước, không ngừng rơi xuống người gã. Thì ra đúng lúc mọi người xông ra khỏi phòng, Trác Mộc Cường Ba cũng chuẩn bị buông tay lao theo, đột nhiên thấy trên đầu mát rượi, gã liền biết ngay những núm gỗ khác cũng bắt đầu phun nước. Cảm giác man mát qua đi, đỉnh đầu gã đột nhiên ngứa ran lên, vậy còn chưa hết, kế đó cơn ngứa lan đi khắp toàn thân, rồi thêm đau đớn không sao chịu nổi, nhưng cảm giác ngứa vẫn không giảm bớt chút nào, ngứa ran từ ngoài vào đến tận trong, tựa hồ như có vô số con kiến nhỏ li ti đang bò vào xương tủy. Toàn thân gã run lên bần bật, hai bàn tay đang ấn lên ống phun tự nhiên lỏng ra, cánh tay thõng xuống. Mọi ống phun đều đã phun nước, từng đợt sương mù lan khắp gian phòng, bao bọc hết xung quanh Trác Mộc Cường Ba. Gã đau đớn lăn lộn dưới đất kêu lên hai tiếng, song âm thanh đó đã bị những chữ Vạn bay vù vù bên ngoài nhấn chìm đi mất.
Lạt ma Á La nhìn những chữ Vạn bắn qua bắn lại vù vù liên tiếp, nhìn bức tượng đeo bảy chiếc mặt nạ quỷ, bộ dạng như đang nuốt kiếm ở chính giữa đại điện, rồi đưa mắt nhìn những người còn lại, chỉ thấy Đường Mẫn mấy lần định xông trở vào nhưng đều bị Trương Lập, Nhạc Dương giữ rịt, giáo sư Phương Tân ủ rũ nhíu chặt hai hàng lông mày, còn Đa Cát thì đang định nhao vào kéo Trác Mộc Cường Ba ra. Lạt ma Á La vội kéo anh ta lại, nói: “Không thể trở vào, giờ không thể chạm vào người cậu ấy được đâu. Chúng ta phải dùng dây thừng kéo ra vậy.” Nói đoạn, ông vung tay lên, sợi dây thừng liền móc đúng vào ba lô của Trác Mộc Cường Ba, kéo gã qua lối đi chính giữa gian sảnh mé bên. Lúc qua khu vực có chữ Vạn bay đi bay lại, ba lô bị cắm chi chít như lông nhím, Trác Mộc Cường Ba may không bị dính vết thương nào.
Nhưng thân thể Trác Mộc Cường Ba đã dần có biến đổi. Đường Mẫn giơ tay bụm miệng, như muốn thất thanh khóc òa ngay lên vậy. Giáo sư Phương Tân và Trương Lập đều thoáng lạnh người. Trương Lập nói: “Sao lại như vậy chứ?” Khắp người Trác Mộc Cường Ba, cứ hễ chỗ nào bị thứ nước kia dính vào đều đã biến thành màu xanh lục cả. Hơn nữa, trên bề mặt da màu xanh lục ấy chỉ thoáng sau đã nổi lên những vết lở loét lớn nhỏ, y như các vết rộp bỏng.
Cơ quan của Mật giáo (2)
Lạt ma Á La không cho mọi người lại gần, đồng thời chỉ vào bức tượng đeo mặt quỷ nuốt kiếm hỏi Đa Cát: “Vị thần này, vừa nãy có phải cậu gọi là Cụ Lợi Ca La Bất Động Tôn, đúng vậy không?” Đa Cát gật gật đầu nói: “Kiếm có hắc long quấn quanh là bản tôn, Cụ Lợi Ca La đại long, nuốt thanh kiếm sắc.”
Lạt ma Á La nói: “Không, không phải, đây là Đức Xoa Ca Long Vương, nhìn đâu độc đấy. Trong Tạng giáo cổ đại và trong cả dân gian, là hóa thân của Ôn thần. Nhanh lên, tìm nơi nào có nước, vừa nãy không phải chúng ta có đi qua một hồ nước sao, khiêng cậu ấy đến đó, không được chạm vào bất cứ chỗ nào trên cơ thể cậu ấy đấy.”
Bốn người Trương Lập, Nhạc Dương, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đeo găng tay, bỏ ba lô xuống, rồi chia nhau nắm chân tay Trác Mộc Cường Ba, chạy như bay về phía có hồ nước. Đường Mẫn và Đa Cát theo phía sau. Lúc này ở gian phòng Đa Cát bị nhốt nước đã rút gần hết để lộ ra mép hồ. Lạt ma Á La bước lại gần hồ nước, nói: “Cởi hết quần áo trên người cậu ấy ra, không được để lại thứ nào cả.”
Đằng nào Đường Mẫn cũng không phải người ngoài, mấy người liền nhanh nhẹn lột sạch quần áo trên người Trác Mộc Cường Ba. Lạt ma Á La chỉ đạo: “Ném xuống hồ nước, trước tiên bịt mũi miệng ngâm cả đầu cậu ấy xuống, làm mấy lần vào. Sau đó một người nâng đầu cậu ấy lên, đừng để ngập, cứ ngâm trong nước như thế đi.” Thân thể Trác Mộc Cường Ba vừa chìm xuống hồ, trên mặt nước liền nổi lên một tầng váng máu xanh lục, càng lúc càng lan rộng, trở nên dày đặc, nhưng chỉ thoáng sau đã rã ra, rồi trôi theo dòng nước, không biết là chảy đi đâu.
Nhạc Dương nhấc đầu Trác Mộc Cường Ba lên nói: “Đây… đây là cái gì vậy?”
Lạt ma Á La giải thích: “Nói theo quan điểm hiện đại, đây có lẽ là một loại vi sinh vật thuộc họ nấm hoặc tảo, bột phấn phơi khô của chúng gây dị ứng rất mạnh cho da người, hơn nữa hình thức bào tử đặc biệt này khiến chúng luôn ở trạng thái ngủ, gặp nước mới tỉnh lại, nhưng chu kỳ sống rất ngắn, chỉ cần có đủ nước, bọn chúng sẽ chết rất nhanh. Tác động của cái thứ màu xanh này rất ghê gớm, trong nửa tiếng đồng hồ mà không có phương pháp trị liệu hiệu quả, sẽ khiến nạn nhân toàn thân lở loét mà chết. Cường Ba thiếu gia cũng coi như là mạng lớn…”
Giáo sư Phương Tân nói: “Loại cơ quan phun nước này hình như trước nay chúng ta chưa từng thấy bao giờ thì phải.”
Lạt ma Á La gật đầu: “Ừm, thứ cơ quan này có lẽ là bắt nguồn từ Bản giáo.” Nói tới đây, ánh mắt lạt ma Á La quét qua từng người một, một lần nữa hỏi lại câu chính ông từng hỏi Lữ Cánh Nam: “Mọi người hiểu được bao nhiêu về Bản giáo cổ ở khu vực Tây Tạng này?”
Vấn đề này… quả thực không ai trả lời được. Bị ánh mắt lạnh lẽo của lạt ma Á La quét qua, người nào người nấy đều không khỏi run lên.
Lạt ma Á La chậm rãi nói tiếp: “Bản giáo cổ đại là một trong những tôn giáo của loài người sản sinh ra từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên nguyên thủy, sớm hơn rất nhiều sơ với các giáo phái nổi tiếng như Phật giáo, Đạo giáo, Cơ Đốc giáo…, tôn sùng tự nhiên, tôn sùng tất cả các lực lượng không thể kháng cự mà bấy giờ con người còn chưa hiểu biết, mưa gió sấm chớp, chim thú hoa lá, cây cỏ đất đá, không thứ nào không phải là đối tượng tôn sùng. Bản giáo cũng như rất nhiều tôn giáo nguyên thủy khác, cũng có thầy mo cầu phúc, dùng người sống tế trời; đối với tất cả các sự vật chưa biết, cổ nhân đều phải dùng thân thể mình để cảm nhận; tất cả các loại động thực vật, loại nào ăn được, loại nào không ăn được đều phải dùng miệng nếm thử; tất cả các hiện tượng kỳ lạ, chẳng hạn như lửa cháy, nước chảy, gió thổi, sét đánh, đều phải dùng thân thể tiếp xúc; thực vật sinh trưởng, chim chóc bay lượn, cá bơi dưới nước, cổ nhân đều tìm cách mô phỏng, đây là giai đoạn tất yếu mà tất cả mọi nền văn minh đều phải trải qua. Chính trong những thử nghiệm, thí nghiệm không ngừng lặp đi lặp lại ấy, trải qua tích tụ lịch sử, Bản giáo cổ đại đã hình thành cho mình một hệ thống phòng ngự hoàn chỉnh riêng biệt để chống lại kẻ địch bên ngoài. Đó là họ đã phát minh ra… Cổ độc (Sâu độc)!”
“Cổ độc!” Vừa nghe thấy từ này, ngoại trừ Đa Cát, tất cả mọi người đều giật mình đánh thót. Từ ngữ này vốn đã toát lên vẻ âm hiểm vô cùng, thoạt nghe là người ta đã liên tưởng đến những thứ đáng sợ quái đản, kiểu như Ngũ Độc giáo hay đập hình nhân vậy.
Lạt ma Á La nói tiếp: “Đất Tạng thuở xưa, đặc biệt là vùng phía Đông Lâm Chi, nhất là khu vực Mặc Thoát này, môi trường cực kỳ khắc nghiệt, có rất nhiều loại sâu kiến, nhiều nơi còn có chướng khí, xuất hiện độc trùng, gây ra bệnh dịch cho con người, lại không biết phải đề phòng thế nào… Chính những điều này đã tạo ra hoàn cảnh rất thuận lợi cho Cổ độc được sản sinh và phát triển. Sau đó, trong khi giao chiến với Phật giáo, Bản giáo cổ đại dần dịch chuyển, về sau thứ Cổ độc này mới truyền vào vùng Vân Nam, Quý Châu và phát triển rực rỡ ở đó. Trong tiếng Tạng nó vốn không gọi là Cổ độc, đây là tên do người Hán sau này đặt ra. Thực ra Cổ và Độc là hai ý tách rời nhau, vốn cùng thuộc về phạm trù độc. Cổ là dùng các loại sâu kiến cho đánh nhau để chế độc, còn độc là dùng cây, cỏ, thuốc, đất đá chế độc. Chữ Cổ gồm chữ ‘trùng’ và chữ ‘vại’, ý là chỉ việc dùng vại nuôi trùng, sau đó đặt trùng vào bụng cho ăn gan ruột nạn nhân gọi là ‘cổ’. Chữ độc chiết tự ra gồm chữ ‘thanh’ và chữ ‘mẫu’, chỉ việc lấy cỏ cây đất đá trị bệnh, về sau chữ ‘trị’ trong trị liệu bệnh tật biến thành chữ ‘trí’ (đến) trong ‘đạo trí’ (dẫn đến), thành ra nghĩa là ‘dùng cỏ cây đất đá gây bệnh’. Đây chính là ý nghĩa ban đầu của cổ độc. Về sau thì phạm vi của cổ độc trở nên rộng hơn, phàm hễ nuôi sâu nuôi trùng lấy độc, không nhất thiết phải cho lũ sâu trùng ấy vào bụng người khác mới gọi là cổ, còn bất kể là trùng độc hay độc chất từ thực vật, chỉ cần là loại thuốc khiến thân thể người khó chịu, thì đều gọi là độc hết. Thứ mà lần này Cường Ba thiếu gia trúng phải, cũng có thể nói là một loại cổ độc.”
Trương Lập như sực hiểu ra, nói: “Tôi hiểu rồi, cái lối đi hẹp ở ngoài kia có nhiều xác chết như vậy, khẳng định là bị trúng độc mà chết rồi, vì vậy mới không có vết thương, hơn nữa lại còn chết nhiều như thế, chẳng trách kẻ hơn trăm năm trước đã không thể vượt qua đó được.”
Đường Mẫn lo lắng nói: “Vậy, vậy có cách gì giải độc không?”
Lạt ma Á La nói: “Cổ độc vô cùng quái lạ, cách gieo độc lại nhiều không kể xiết, không thể biết cách giải toàn bộ các loại độc được. Loại Ni Thích Bộ Đà này, vốn bắt nguồn từ danh tự nơi địa ngục, cũng may ta từng đọc thấy trong các thư tịch cổ. Nếu như phương pháp không đúng, hậu quả thật không thể nào tưởng tượng được. Được rồi, hơi thở rất bình ổn, các vết lở loét trên người cũng bắt đầu bớt đi, giờ chắc là đã ổn định rồi, một lát nữa Cường Ba thiếu gia sẽ tỉnh lại thôi, nhưng ít nhất phải ngâm thêm nửa tiếng đồng hồ nữa. Theo những gì chép trong sách cổ, chỉ cần rửa sạch chất độc bám trên người, nửa tiếng sau sẽ hồi phục bình thường. Giờ tôi quay lại chỗ Đức Xoa Ca Long Vương xem một chút. Đúng rồi, sau khi Cường Ba thiếu gia tỉnh lại, hãy ngâm quần áo đồ đạc của cậu ấy xuống nước một lúc, đề phòng hậu họa.”
Nhạc Dương nói: “Gì cơ, đại sư còn muốn quay lại đó nữa ư?”
Lạt ma Á La gật đầu: “Ừm, ta phải quay lại xem một chút. Mặc dù chúng ta đã thoát thân, nhưng không ai biết cơ quan khởi động như thế nào cả, nếu lần sau mà gặp phải cơ quan tương tự như vậy, chẳng phải là cả cơ hội giữ mạng cũng không có hay sao. Đa Cát đi cùng với ta.”
Đa Cát nhìn Thánh sứ đại nhân, rồi lại ngước nhìn lạt ma Á La, cuối cùng cũng hoang mang theo ông rời khỏi. Nhìn vị đại sư hiểu biết về tín ngưỡng của mình còn sâu rộng hơn chính mình, trong lòng Đa Cát chợt dâng lên một thứ cảm giác kính sợ như đối với các bậc trưởng lão trong thôn.
Sau khi lạt ma Á La rời khỏi, Trương Lập liền y lời đi dọn lại đống quần áo vứt vung vãi của Trác Mộc Cường Ba, lấy mấy thứ quan trọng ra dồn vào một chỗ, chuẩn bị đợi gã tỉnh lại sẽ ngâm xuống nước.
Đường Mẫn thấy Nhạc Dương đỡ Trác Mộc Cường Ba vất vả, liền đeo găng tay vào xuống nước đòi thay ca. Nhạc Dương không nỡ từ chối, đành nhường lại cho cô. Nhìn người yêu yên bình nằm trong vòng tay mình tựa như đứa trẻ sơ sinh, Đường Mẫn chợt thấy dâng lên một cảm giác kỳ lạ, cô hân hoan thầm nhủ: “Cuối cùng, em cũng có thể làm chút gì đó cho anh rồi, anh Cường Ba, anh phải bình an vô sự tỉnh lại đấy nhé, nếu anh gặp phải chuyện gì, em làm sao…”
Giáo sư Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba gặp đại nạn không chết trong hồ nước, không khỏi thở dài một tiếng. Để cô bé Đường Mẫn và Trác Mộc Cường Ba ở riêng với nhau, ông bèn quay ra sắp xếp lại đồ đạc cho gã. Nhạc Dương cũng tới giúp một tay.
Lúc Trương Lập sắp dọn quần áo cho Trác Mộc Cường Ba, phát hiện ra trong áo có một cái túi ngầm, liền lấy các thứ bên trong ra. Ba người sáu con mắt vừa nhìn đã trợn tròn hết cả lên, Nhạc Dương không nhịn nổi ngoảnh đầu lại liếc Đường Mẫn một cái, chỉ thấy Đường Mẫn vẫn đang tha thiết nhìn Trác Mộc Cường Ba, như không còn biết mình đang ở nơi nào. Trong túi ngầm có bốn món vật nhỏ, thứ đầu tiên là một thanh kiếm chữ thập bằng đồng mạ vàng, to cỡ bàn tay. Đó là tín vật gia truyền Đức Nhân lão gia đưa cho Trác Mộc Cường Ba lúc gã mới tham gia nhóm huấn luyện đặc biệt. Ngoại trừ giáo sư Phương Tân, những người khác đều chưa thấy bao giờ. Món thứ hai là một viên đá hình ovan dài có hoa văn đen trắng. Giáo sư Phương Tân nhận ra thứ này gọi là Thiên châu, tín vật có giá trị cao vô thượng trong lòng người dân tộc Tạng, mức độ trân quý được xác định dựa vào số lượng hoa văn giống như con mắt của nó, nếu có chín mắt thì gọi là Cữu Nhãn thạch, đã là tương đối quý giá rồi, thế mà cái Thiên châu này lại khắc tới mười tám con mắt, chính giữa còn có hình một chiếc bảo bình. Chỉ cần liếc qua số lượng mắt giáo sư Phương Tân cũng biết ngay đây tuyệt đối không phải Thiên châu bình thường, nhưng là loại gì thì ông cũng không biết. Đây có lẽ là một trong những bí mật ít ỏi của Trác Mộc Cường Ba cũng nên. Vật thứ ba là chiếc sáo xương mà ba anh em sói xám ở Khả Khả Tây Lý tặng Trác Mộc Cường Ba. Trương Lập cũng không ngờ Cường Ba thiếu gia lại coi trọng tình bạn với ba anh em nhà sói xám đó đến thế.
Nhưng thứ khiến mọi người tròn mắt chính là món cuối cùng, và cũng chính là cái cớ để Nhạc Dương phải ngoảnh đầu lại nhìn Đường Mẫn. Đó là một tấm ảnh nhỏ bằng lóng tay, đã hơi ngả vàng, chụp một cô bé xinh xắn như thiên sứ đang nhoẻn miệng mỉm cười ngây thơ, đôi lông mày, đôi mắt ấy, rõ ràng chính là một cô Đường Mẫn nhỏ. Trương Lập len lén đưa mắt nhìn Đường Mẫn, hạ giọng thì thầm: “Thật không ngờ Cường Ba thiếu gia yêu Mẫn Mẫn đến tận xương tủy rồi, cả ảnh hồi nhỏ của người ta cũng giấu áp vào ngực. Chà, xem ra Thạch Quan Âm nương nương(1) của chúng ta…”
Nhạc Dương cũng thì thào đáp lại: “Không phải chỉ đơn giản là ăn vào xương tủy thôi đâu, tôi thấy là yêu đến mức tẩu hỏa nhập ma rồi đấy. Người lớn sống sờ sờ ra trước mắt, tại sao lại phải giữ một tấm ảnh hồi nhỏ của người ta làm gì chứ?”
Giáo sư Phương Tân đột nhiên thấp giọng nói: “Không, không phải, đây không phải là ảnh của Mẫn Mẫn.” Trương Lập và Nhạc Dương đều “í” một tiếng. Giáo sư Phương Tân giải thích: “Nhìn công nghệ cắt riềm hoa này mà xem, còn cả mức độ cũ kỹ của bức ảnh này nữa, hai cậu xem, bức ảnh này ít nhất cũng phải chụp từ hai mươi năm trước, lúc ấy Mẫn Mẫn còn chưa ra đời cơ đó.”
Trương Lập kinh ngạc kêu lên khe khẽ: “Chà, vậy là ai nhỉ?”
Tâm tình giáo sư Phương Tân trong thoáng chốc như trĩu xuống, ông thì thào nói: “Tôi biết rồi, đây có lẽ là nỗi đau lớn nhất trong lòng Cường Ba đó. Sự việc này, e cũng là nỗi đau lớn nhất của gia đình họ, xưa nay chưa từng được nói ra với người ngoài bao giờ, tôi cũng chỉ biết được loáng thoáng qua những câu chuyện thường ngày thôi. Cường Ba… cậu ấy vốn còn một em gái nhỏ hơn mình mười mấy tuổi…”
Giáo sư Phương Tân khẽ thở dài. Trương Lập và Nhạc Dương ghé sát đầu lại, chỉ nghe giọng giáo sư Phương Tân vo ve như tiếng muỗi kêu: “Khi em gái cậu ấy còn rất nhỏ, Cường Ba dẫn em gái ra ngoài chơi, không ngờ để người ta bắt cóc mất. Mở mắt trân trân nhìn em gái mình bị người ta cướp đi ngay bên cạnh, vết thương lòng ấy chỉ sợ cả đời này cũng khó mà liền được.”
Nhạc Dương lí nhí nói: “Sao lại thế chứ?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Hình như vì bộ Ninh Mã cổ kinh của gia tộc họ. Đức Nhân lão gia cũng thật kiên quyết, ngày thứ hai sau khi nhận được yêu cầu của bọn bắt cóc đã tuyên bố rằng sẽ hiến tặng bộ kinh cho nhà nước. Hình như kể từ hôm đó trở đi, hai cha con họ mười mấy năm trời không nói với nhau một câu nào thì phải.”
Trương Lập thở dài nói: “Người vốn không có tội, chỉ có tội mang của báu trong mình, hà…”
Giáo sư Phương Tân như sực tỉnh ra, nói: “Lạ thật, tại sao tôi lại nói những chuyện này với hai cậu nhỉ? Nhớ kỹ đấy, chuyện này Cường Ba không muốn nhắc lại, các cậu không được nói với bất cứ ai, đến đây là chấm dứt, coi như chưa từng nghe thấy, OK?”
Trương Lập, Nhạc Dương vội vàng cam đoan, một người nói “hiểu rồi, hiểu rồi”, một người nói “đã hiểu, đã hiểu”. Nhạc Dương ngoảnh đầu lại nhìn Đường Mẫn và Trác Mộc Cường Ba, thầm nhủ: “Thì ra là thế, vậy thì không khó lý giải tình yêu của Cường Ba thiếu gia với cô Mẫn Mẫn nữa rồi, không ngờ trong ấy lại bao hàm ba tầng tình ái, vì cách biệt tuổi tác, nên có tình yêu giữa cha và con gái, vì hấp dẫn lẫn nhau nên nảy sinh tình cảm lứa đôi, đồng thời lại vì ký ức đau thương, lại còn thêm tình yêu của anh trai dành cho em gái nữa. Trời đất, chẳng trách Cường Ba thiếu gia lại yêu cô Mẫn Mẫn đến hồ đồ, lung tung xà bần lên như vậy.”
Đường Mẫn đột nhiên reo lên: “Tỉnh rồi, anh ấy tỉnh rồi!”
Mấy người vội chạy tới bên cạnh Trác Mộc Cường Ba. Gã mở mắt ra nói: “Tôi, tôi vẫn sống à?”
Cùng lúc đó, lạt ma Á La dẫn theo Đa Cát trở lại gian đại điện có bức tượng Đức Xoa Ca Long Vương. Bức tượng nộ tướng uy nghi sừng sững đó khiến gian đại điện trống không trông hơi lạnh lẽo. Đến trước cánh cửa sang gian sảnh ở mé bên, chỉ thấy các chữ Vạn bay mù trời khi nãy đã cắm trở lại vách tường, một vài chiếc do bắn trúng người nên đổi quỹ đạo, rơi tản mát trên hai bên bệ cao trong sảnh. Lạt ma Á La quan sát những tấm đá lát sàn viết chữ Phạn, và cả hai bức tường hai bên, ngẫm nghĩ liệu có phải giẫm lên sàn sẽ làm cơ quan phát động? Nhưng Đa Cát rõ ràng đã cùng mọi người chạy ra một lượt, thứ tự bước chân cũng không có gì sai cơ mà? Xung quanh không có xác chết nào, nghĩa là gian sảnh điện này từ lúc bị bịt kín đến giờ chưa từng có người lai vãng, chi tiết này cũng gợi lên một nghi vấn không nhỏ, loại trừ đi tiền lệ có thể tham khảo. Lạt ma Á La lại hỏi Đa Cát lần nữa: “Lần đầu tiên cậu đến đây, vừa bước qua cánh cửa này lập tức đã có rất nhiều chữ Vạn từ trong bay ra phải không? Sau đó khi vào đến căn phòng bên trong, cơ quan lại tự động ngắt đi, lúc đi ra cũng không phát động nữa?” Đa Cát nghe xong gật đầu lia lịa.
Lạt ma Á La lại nói: “Lần thứ hai vào đây, cơ quan cũng không hề khởi động, lúc ra mới có, rốt cuộc là chuyện gì đây nhỉ? Lần thứ hai cũng là do cậu dẫn đường đi đúng không?”
Đa Cát lắc đầu nói: “Không, là Thánh sứ đại nhân đi trước dẫn đường.”
Lạt ma Á La chau mày lên nói: “Sao lại thế được? Ừm, thử lại lần nữa xem sao.”
“A!” Đa Cát nuốt nước bọt, làm vẻ khó khăn ngước nhìn lạt ma Á La. Ông liền nói: “Không cần lo lắng, ta đi thử trước xem sao.”
Lạt ma Á La giẫm lên sàn nhà, quả nhiên, mấy bước đầu tiên đều hoàn toàn bình thường. Đúng lúc lạt ma Á La cho rằng mình có thể an toàn đi qua gian sảnh mé bên này, thì đến giữa sảnh đột nhiên phiến đá dưới chân thụt xuống. Lạt ma Á La tùy cơ ứng biến, tay phải ấn lên bệ cao bên phải, lúc này các tấm đá lát sàn đã tách hết cả ra, toàn bộ lối đi biến thành một cái hào sâu mười mét, dài hai chục mét, dưới tua tủa chông nhọn cắm đầy xác chết. Lạt ma Á La đang ở giữa gian sảnh, cách hai cánh cửa trước sau đều mười mét, mà lối đi rộng ít nhất cũng khoảng hai tới ba mét, hai tay choãi thẳng cũng không thể giữ thân thể kẹt lại phía trên, nếu không phải ông đã nhanh tay ấn lên bệ cao, e là một chút cơ hội sống sót cũng không có nữa.
Lạt ma Á La còn chưa hết kinh hãi, đã nghe “cạch cạch” mấy tiếng, biết ngay là không xong, lại thêm một cơ quan nữa đã khởi động, đồng thời ngón tay cũng cảm thấy có chấn động nhè nhẹ, vội vận sức ấn mạnh xuống, bật cả người lên cao, thân thể lơ lửng giữa không trung. Bàn tay vừa rời khỏi mép bệ đá, đã thấy bụi đất cuốn lên, hai bên mép bệ cao đâm thẳng lên một hàng đinh nhỏ, nếu tay vẫn còn bám trên mép bệ, lúc này e là đã bị thương rồi. Thế nhưng đó mới chỉ là bắt đầu, đột nhiên hai bên bệ đá dịch chuyển, để lộ ra một hàng lỗ nhỏ, kế đó là vô số lưỡi giáo mang theo xích sắt bắn qua bắn lại vù vù. Cũng may là lực tay của lạt ma Á La mạnh, thân hình vọt lên khá cao, bằng không đã bị bắn treo lơ lửng rồi.
Vậy còn chưa hết, những chữ Vạn trên vách tường cũng bắt đầu bắn vọt ra, đất bụi bên trên lả tả rơi xuống, miếng ghép trần bằng đá mở ra, để lộ vô số ống đồng nhỏ như quản bút. Lạt ma Á La thầm kinh hãi, đây không phải chính là ống phun sương hay sao? Hào sâu bên dưới lại vang lên một tiếng “cạch”, tất cả đầu chông đều thụt xuống một chút, lạt ma Á La lập tức hồn phi phách tán. Tiếng động ấy có nghĩa là tất cả những mũi chông bên dưới sắp bắn vọt lên, lúc này ông dang ở giữa không trung, không có chỗ nào mượn lực, cho dù thân thủ có giỏi đến mấy cũng hỉ là con chim trong lồng mà thôi. Đồng thời lại có tiếng “xạch xạch”, hai cánh cửa phía trước phía sau không ngờ lại có một tấm ván đồng hạ xuống, lạt ma Á La có cảm giác mình như một con hổ bị nhốt trong chuồng, vô số họng súng đang chĩa ra từ các chấn song sắt, song bản thân lại không thể phản kháng được gì.
Đúng vào khoảnh khắc vạn niệm tiêu tán ấy, trong đầu ông đột nhiên lóe lên một tia sáng… Không, giờ vẫn chưa đến lúc tuyệt vọng, vẫn còn Đa Cát, Đa Cát đang ở bên ngoài. Vị sư già nhìn rõ vị trí của Đa Cát, vung tay lên một cái, sợi dây liền bắn vọt ra. Đa Cát cũng không hổ là thợ săn ưu tú nhất của bộ tộc Công Bố, sớm đã trông thấy lạt ma Á La đang vùng vẫy cầu cứu bên trong gian sảnh mé bên ấy, chỉ tiếc lòng như lửa đốt mà không thể giúp gì được. Anh ta đứng yên ở cửa, chính là vì biết nhất định có lúc vị đại sư kia cần đến mình. Giờ thấy vị lạt ma vung tay lên ném ra thứ gì đó, Đa Cát liền biết ngay nhất định là thứ gì đó giống như dây thừng, vội đưa tay bắt lấy, chẳng ngờ sợi dây của lạt ma Á La quá lợi hại, đã dễ dàng xuyên qua bàn tay Đa Cát, cắm thẳng vào mặt sàn bằng đá mấy mét sau lưng. Đa Cát bất chấp đau đớn, quấn một vòng dây quanh cánh tay, xoay người chạy thẳng một mạch, lạt ma Á La ở bên trong liền như con diều trên dây, được anh ta kéo thẳng ra cửa.
“Rầm”, cánh cửa đồng hạ xuống, cả gian sảnh mé bên giờ đã hoàn toàn nằm trong vòng vây của các cơ quan. Lạt ma Á La mình đầy thương tích nằm dưới đất, hai chân vừa sát bên ngoài cánh cửa đồng, một lúc sau vẫn chưa định thần lại được, tựa hồ như vừa từ một thế giới khác trở về, quả vậy, vừa nãy thật chẳng khác gì mới vòng qua cửa địa ngục một chuyến. Lạt ma Á La đi tới giữa gian sảnh, cơ quan phát động, cho tới khi cánh cửa đồng hạ xuống, toàn bộ quá trình diễn ra trong vòng chưa đầy ba mươi giây, nếu không nhờ vào sợi dây thừng được chế tạo theo công nghệ mới nhất, cùng với Đa Cát, lúc này chỉ e lạt ma Á La đã trở thành “lạt ma lông nhím” rồi. Cho dù là vậy, trên người ông vẫn bị các chữ Vạn bay làm bị thương nhiều chỗ, trên vai còn bị hai chiếc Vạn tự luân cắm thẳng vào, vừa nãy lúc Đa Cát kéo ông qua cửa đã bị gờ cửa chặn lại làm rơi mất.
Lạt ma Á La ngẩng mặt lên nhìn trần nhà, thầm nhủ: “Thì ra khi xông ra lần đầu tiên, căn bản chưa phải là toàn bộ các cơ quan đồng loạt phát động, bộ tổ hợp cơ quan này so với các cơ quan ở lối đi hẹp phía trước lợi hại hơn cả trăm lần, nơi này căn bản là không cho phép người nào đi qua cả. Lắp đặt cơ quan bẫy rập ở những nơi người ta không ngờ đến nhất, rồi lại đặt các cơ quan đáng sợ hơn gấp bội ở những nơi đối phương có thể nghĩ đến hòng cầu sinh, càng về sau lại càng hung hiểm, chớp mắt đã đồng loạt phát động, không để lọt một kẽ hở. Thế nhưng, vừa nãy làm sao mọi người lại vào đó được?”
Lạt ma Á La lật người bò dậy, thấy Đa Cát đang cẩn thận kéo sợi dây có mũi dao của ông ra khỏi lòng bàn tay, toàn thân ướt đẫm mồ hôi vì đâu đớn. Ông liền lấy thuốc tê dạng phun sương trong túi ra, vừa giúp Đa Cát rút dây, vừa hỏi: “Trên người cậu có những gì? Trên người cậu có thứ gì quý giá và có ý nghĩa đặc biệt không?”
Phải mất một lúc, Đa Cát mới hiểu được ý lạt ma Á La nói gì, ngẩn ra giây lát, rồi giơ viên Thất Nhãn Thạch nơi ngực lên, lẩm bẩm nói: “Thánh vật.” Lạt ma Á La nắm lấy viên mã não Đa Cát đeo trên cổ, thấp giọng nói: “Thiên châu, chẳng lẽ có liên quan đến nó?” Ông lẩm nhẩm tụng niệm, rồi tháo chuỗi Phật châu trên cổ Đa Cát xuống, để anh ta từ từu sợi dây ra, còn mình cầm chuỗi hạt tới trước cửa, cũng chưa có động tác gì, đột nhiên nghe “cạch” một tiếng, cách cửa đồng đã tự động nâng lên, ẩn vào trong khe trên cửa đá. Những hình chữ Vạn bay chíu chíu qua lại trong phòng cũng không còn nữa, hai bên tường vách trần đều đã trở về nguyên trạng, còn sàn nhà tách ra làm đôi dưới chân cũng đang “lạch cạch” trở về vị trí ban đầu, trông như một chiếc cầu treo vậy, gian sảnh đã trở lại vẻ yên tĩnh ban đầu, không còn nhận ra bất cứ biểu hiện gì khác thường nữa. Nhìn hai miếng kim loại dài chưa đến mười centimet trên cửa, lạt ma Á La lẩm bẩm nói: “Ta hiểu rồi!”
1. Trong truyện Sở Lưu Hương của Cổ Long, Thạch Quan Âm là một người đàn bà rất mạnh mẽ và độc ác.
Cánh cửa Địa ngục
Khi lạt ma Á La và Đa Cát cùng lúc bị thương quay trở lại, Trác Mộc Cường Ba đã tỉnh táo, đang ngâm mình dưới nước trò chuyện với Đường Mẫn. Thứ cổ độc này đến nhanh mà đi cũng nhanh, giờ gã đã như chưa gặp phải chuyện gì vậy, chỉ có mực nước trong hồ đã lại rút đi thêm một chút nữa. Thấy lạt ma Á La khắp người toàn vết thương, Trương Lập và Nhạc Dương đều kinh hoảng thốt lên: “Đại sư, ông bị thương không nhẹ đâu!”
Lạt ma Á La không để ý tới hai người, bảo Đường Mẫn giúp Đa Cát xử lý sát trùng vết thương ở tay, đoạn ngoảnh đầu lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, thấy ở môi ở mũi xuất hiện một vệt xanh lục mờ mờ, không khỏi kinh hãi trong lòng: “Lẽ nào đã trúng phải rồi? Việc này… phải làm sao bây giờ? Hy vọng người trong thôn Công Bố biết cách giải trừ…” Nhưng ông cũng không dám mạo muội hỏi ngay, mà chỉ cầm Thiên châu giơ lên hỏi gã, “Trên người cậu có thứ nào giống món đồ này không?”
Trác Mộc Cường Ba ngây người: “Hả? Viên Thất Nhãn Thiên châu này không phải của Đa Cát à? Tại sao đại sư lại đột nhiên hỏi chuyện này?”
Nhạc Dương đã nhanh miệng đáp lời: “Ồ, Thiên châu của Cường Ba thiếu gia to hơn cái này một chút.”
Giọng Trác Mộc Cường Ba lập tức biến đổi, gắt lên: “Mấy người… mấy người đã xem đồ của tôi hả!”
Nhạc Dương le le đầu lưỡi, không dám nói gì thêm. Lạt ma Á La nói: “Vậy tức là có rồi.”
Trác Mộc Cường Ba đành thừa nhận: “Phải, có một cái, đó là truyền thống của gia tộc chúng tôi, từ nhỏ đã đeo rồi, là con gái thì được truyền cho một viên Thiên châu, còn là con trai thì được một thanh kiếm đồng nhỏ.” Nói tới đây, gã như đột nhiên nhớ ra điều gì đó, im lặng không thốt thêm tiếng nào nữa, thần sắc đượm vẻ bi thương.
Ba người giáo sư Phương Tân, Nhạc Dương, Trương Lập giờ mới hiểu ra mọi chuyện.
Lạt ma Á La nói: “Tôi có thể xem được không?”
Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu nhìn Trương Lập. Gã biết thứ mà Nhạc Dương đã trông thấy thì anh chàng này cũng không thể thiếu phần. Trương Lập vội lấy Thiên châu ra, đồng thời cười gượng gạo giải thích: “Chúng tôi muốn giặt sạch quần áo cho anh nên mới sắp xếp lại những thứ quan trọng trong đó, tuyệt đối không có ý xem trộm đâu.”
“A! Đây là…” Tiếng kêu kinh ngạc ấy đồng thời phát ra từ miệng lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân, kế đó Đa Cát đếm lên thành tiếng: “Mười, mười một, mười hai… mười bảy, mười tám! Thập bát Nhãn thạch, đến cả trưởng lão cũng chưa từng nhìn thấy thánh thạch này bao giờ đâu!”
Trương Lập và Nhạc Dương lại đồng thời ngẫm nghĩ: “Nói không chừng đây chính là nguyên nhân các vị trưởng lão xác nhận Cường Ba thiếu gia là Thánh sứ cũng nên. Nghe nói Thiên châu này ở Tây Tạng chỗ nào cũng có bán, tên Ben kia có khi đã mua một viên nên mới giả mạo làm Thánh sứ được một lần.”
Sau tiếng kêu kinh ngạc, Lạt ma Á La không nói gì, chỉ ngoảnh đầu sang phía khác. Ông không muốn để người khác nhìn thấy những giọt lệ xúc động đang trào lên nơi khóe mắt. Trong lòng vị sư già như có một tiếng nói đang gào thét: “Cường Ba thiếu gia à, cậu có biết đây chính là vật tượng trưng chí cao vô thượng hay không? Thập bát Nhãn Bảo bình Thiên châu, Thập bát chính là Thập bát trùng thiên của đức Ma Hê Thủ La, Bảo bình là vật chứa đựng mọi điều thanh tịnh của đại thiên thế giới, có Bảo bình, ánh sáng chói ngời! Ánh sáng chói ngời đó!”
Lạt ma Á La cố nén cảm giác xúc động, quay đầu lại, bình thản nói: “Cơ quan vừa nãy, chính là do viên Thiên châu này khởi động.”
Mọi người liền hỏi rốt cuộc là thế nào, lạt ma Á La giờ mới giải thích: “Theo suy đoán của ta, trên hai cánh cửa gian sảnh mé bên đó, có một thứ cảm ứng được Thiên châu. Nguyên lý cụ thể ra sao thì ta không được rõ lắm, nhưng khi Đa Cát vào lần đầu tiên, thiết bị cảm ứng nhận ra được Thiên châu, cho là hậu nhân đến lấy đồ của mình, thế nên đã khởi động Vạn tự luân để khảo nghiệm, nếu không qua được khảo nghiệm này, thì không đủ tư cách lấy được viên hồng ngọc. Khi Cường Ba thiếu gia lần thứ hai bước vào bước vào gian sảnh đó, thiết bị cảm ứng ở cánh cửa phía trước đã nhận ra rồi, khi chúng ta rời khỏi đó, thiết bị cảm ứng trên cánh cửa thứ hai lại bắt được tín hiệu Thiên châu trên người Đa Cát. Vì vậy cơ quan chúng ta gặp phải lúc rời khỏi đó, thực ra không phải là cơ quan để dồn chúng ta vào chỗ chết, mà chỉ là một hình phạt nho nhỏ, ý là sau khi lấy viên Trích Huyết hồng thạch kia thì không nên quay lại, chớ tham lam quá đáng. Đây chính là điều mà những người xây dựng nên nơi này muốn nói với chúng ta…”
Mọi người thảy đều xôn xao bàn tán, trong đó Trương Lập và Nhạc Dương là to mồm nhất. Trương Lập nói: “Không phải chứ, trừng phạt cũng không cần bắt người ta phải liều mạng thế chứ!” Nhạc Dương cũng lên tiếng: “Cơ quan ấy rõ là muốn lấy mạng người ta còn gì. Cường Ba thiếu gia ra nông nỗi này, còn không phải dồn chúng ta vào chỗ chết rồi ư?”
Lạt ma Á La để họ nói hết, mới điềm đạm kể lại toàn bộ quá trình thử cơ quan vừa nãy, làm ai nấy đều trợn mắt há hốc miệng ra. Không tin ư, Đa Cát ở bên cạnh vừa gật đầu lại vừa khoa chân múa tay, ánh mắt vẫn còn tràn ngập vẻ kinh khiếp. Cuối cùng, lạt ma Á La nói: “Vì vậy, chuyện này cũng coi như là ý trời, nếu chúng ta không có Thiên châu, căn bản là không thể bước vào gian phòng hình tròn, chứ đừng nói gì đến chuyện có ra khỏi đó được hay không?”
Trác Mộc Cường Ba cử động tay chân, hỏi: “Tôi có thể đứng dậy được chưa?” Nói đoạn lại đưa mắt nhìn Đường Mẫn, làm cô đỏ bừng mặt.
Lạt ma Á La nói: “Được rồi, kiếm cho cậu ấy bộ quần áo, còn đống này thì ném xuống nước ngâm giặt, rồi cất cẩn thận, mang trở về đốt đi.”
Đa Cát đã xử lý xong vết thương, cung kính đến trước mặt Trác Mộc Cường Ba, cúi đầu nói: “Thật không ngờ, Đa Cát Điệt Bất lại được Thánh sứ đại nhân cứu mạng lần nữa. Kể từ hôm nay, tính mạng này của Đa Cát chính là của Thánh sứ đại nhân, Đa Cát sẽ đi theo Thánh sứ đại nhân đi khắp đại thiên thế giới. Cho dù Đa Cát phải xuống địa ngục A Tỳ, chịu đủ mười tám nỗi khổ đau cũng phải bảo vệ đại nhân được bình an.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn anh chàng nhỏ con cao chưa đến ngực mình đang nghiêm túc thề sẽ bảo vệ gã đến cùng, không khỏi thương hại đưa tay vuốt lên đầu Đa Cát. Đa Cát tỏ ra hết sức mừng rỡ, được Thánh sứ đặt tay lên đầu ban phúc là vinh dự cực cao đối với người Công Bố bọn họ.
Thân hình Trác Mộc Cường Ba cao lớn vạm vỡ, muốn tìm một bộ quần áo thích hợp không hề dễ dàng, Đa Cát liền cởi chiếc áo Phổ Lỗ trên người cho gã khoác bên trên, rồi lại dùng tấm phướn sửa lại một chút, quấn quanh hông như cái tạp dề. Trương Lập đang chuẩn bị ném đống quần áo cũ của gã xuống nước, đột nhiên có tiếng động lạ vọng tới, tựa hồ như cả khu hoang phế dưới lòng đất này đang rung lên, đồng thời nước trong hồ cũng đột nhiên biến mất, đá vụn rơi xuống lả tả như mưa.
Trương Lập, Trác Mộc Cường Ba vội hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế!” Đường Mẫn ôm chặt Trác Mộc Cường Ba nói: “Mau rời khỏi đây thôi!”
Giáo sư Phương Tân nói: “Chỗ này sắp sập rồi à?” Lạt ma Á La cũng kêu lên: “Chuyện gì vậy?” Nhạc Dương kêu lên: “Có phải chỗ giáo quan đã xảy ra chuyện gì không?” Kế đó liền thử liên lạc, nhưng không có hồi âm, mãi lâu sau mới có tín hiệu màu da cam nhấp nháy, nghĩa là bên kia đang bận, không có thời gian liên lạc.
Chỉ có Đa Cát không bị cơn chấn động làm kinh hoảng, đang thò tay xuống hồ kiểm tra, phát hiện nước hồ quả nhiên không còn một giọt, cuối cùng mới hướng về phía Tây quỳ bái. Mọi người hỏi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Đa Cát nói: “Át Ca trì xưa nay chưa từng cạn nước. Cửa mở rồi, cửa mở rồi, Nạp Bạc Thác cạn khô rồi, vì vậy nước trong Át Ca trì mới chảy hết. Cửa đã bị mở ra rồi!”
“Rốt cuộc là thế nào? Nói kỹ hơn nữa đi?” Nhưng Đa Cát đã bắt đầu tụng niệm một bài kinh văn của bộ tộc Công Bố, không nói thêm câu nào nữa. Lạt ma Á La biết rõ quy tắc khi niệm chú, ra hiệu cho mọi người không được quấy rầy. Cơn chấn động này không đến nỗi dữ dội lắm, cả quần thể kiến trúc ngầm dưới lòng đất này dường như không có vẻ gì là muốn sụp đổ. Mọi người liền lặng lẽ chờ đợi bên bờ hồ. Chấn động không ngừng, bên ngoài tiếng ầm ầm vang lên không ngớt, mãi nửa tiếng đồng hồ sau mới từ từ tan biến, đồng thời Đa Cát cũng ngưng tụng niệm. Lúc này, những người khác đã thu dọn xong quần áo khí giới, đeo sẵn ba lô, chỉ chờ Đa Cát xong là cùng rời đi.
Trương Lập lại hỏi thêm lần nữa. Đa Cát nói: “Trong làng chúng tôi có truyền thuyết kể rằng, một khi Cánh cửa Sinh mệnh bị đóng, toàn bộ nước trong hồ Nạp Bạc Thác sẽ khô kiệt. Chỉ cần trong hồ Nạp Bạc Thác còn một giọt nước, thì giọt nước ấy nhất định ở trong Át Ca trì, nhưng giờ trong đó không còn một giọt nước nào, đã chảy hết cả rồi.”
Nhạc Dương nói: “Không phải chứ, vừa mới nói là cửa mở rồi, giờ lại bảo cửa đóng rồi, rốt cuộc là cửa đóng hay là cửa mở đây?”
Đa Cát đột nhiên nói: “Theo tôi, mọi người đi theo tôi.” Kế đó liền dẫn mọi người chui xuống đường ống thoát nước bên dưới, loanh quanh trong đó một lúc thì đến một ngõ cụt. Trương Lập nói: “Hết đường rồi.”
Đa Cát nói: “Ở đó có cánh cửa, trước đây thì bất kể thế nào cũng không đẩy ra được, bây giờ, mọi người hãy đẩy cánh cửa đó ra đi.”
Trương Lập đẩy cửa, trong đường ống thoát nước vốn chỉ có ánh sáng lờ mờ từ mũ phát sáng, cánh cửa vừa mở ra, đột nhiên có ánh mặt trời bên ngoài chiếu thẳng vào, nhất thời không ai mở mắt ra được. Đợi khi thị lực khôi phục, Trương Lập mới kêu toáng lên: “A, đúng là khô cạn thật rồi! Nước hồ cạn thật rồi!”
Mọi người đứng dồn lại ở cửa ra, phát hiện hệ thống thoát nước này được thiết kế dưới đáy hồ. Những giọt nước nơi cửa ra rỏ xuống tong tỏng, bên ngoài đáy hồ cạn, vô số cá các loại giãy đành đạch trong đống bùn, vùng vẫy cầu sinh. Trời xanh mây trắng vẫn bình yên che phủ ngọn núi phía xa. Chỉ trong nửa tiếng đồng hồ, một hồ nước lớn như thế không ngờ đã biến thành một đầm bùn cạn, thật biến thái đến mức người ta khó có thể nào chấp nhận được.
Giáo sư Phương Tân nhìn cánh cửa bị đẩy ra nói: “Ồ, cánh cửa này mượn sức nước ép xuống, chỉ có thể đẩy từ bên trong, lúc nước hồ còn đầy, đương nhiên là không thể nào mở được rồi.”
Đa Cát sải chân bước ra, giẫm trong lớp bùn đọng dưới đáy hồ, ngập đến đầu gối, khẽ lẩm bẩm hát: “Cánh cửa Sinh mệnh đã khép lại, Cánh cửa Địa ngục sẽ mở ra, Cánh cửa Địa ngục đã mở ra, các sứ giả dũng cảm phải lên đường. Họ băng qua Minh hà, vượt qua hoang mạc, lội qua đầm lầy có vô số trùng độc, trải qua tất cả gian nan khổ nạn, đến được Thánh điện trên trời, tiên cảnh chốn nhân gian… Hương Ba La!” Đa Cát ngoảnh đầu lại, “Đây chính là bài ca dao người làng chúng tôi hay hát, cả đứa trẻ ba tuổi cũng biết, là do các vị trưởng lão dạy cho đấy.”
Cánh cửa Địa ngục, Hương Ba La, khi những từ ngữ quen thuộc ấy một lần nữa bên tai mọi người, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên. Đây mới là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba nghe nhắc đến Cánh cửa Địa ngục, song theo những gì gã biết, hình như nó mở ra con đường xuyên dãy Himalaya. Thật không ngờ, ở nơi xa xăm hẻo lánh như Mặc Thoát này lại được nghe truyền thuyết về Cánh cửa Địa ngục. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cậu biết Cánh cửa Địa ngục ở đâu không?”
Đa Cát gật đầu: “Đương nhiên.” Anh ta chỉ về ngọn núi phía xa, nói: “Cánh cửa Địa ngục ở phía Tây Cánh cửa Sinh mệnh, vốn cũng là một trong ba thánh địa người Công Bố chúng tôi bảo vệ, nhưng vì ở đó thực sự chẳng có gì cả, nên về sau đã bỏ qua.”
“Hả?” Trương Lập nghi hoặc nói: “Ngọn núi ấy hả, xem ra cũng không xa lắm phải không? Cánh cửa Địa ngục thật sự ở đó chứ?”
Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: “Không có gì cả? Đây là ý gì?”
Đa Cát đáp: “Mọi người nhìn thì biết ngay, đúng là không có gì cả, chỗ ấy chính là Ứng Kháp Bố Tạng Bố.”
Đường Mẫn nói: “Cái tên Ứng gì gì đó này hình như rất quen, trước đây đã nghe nói đến rồi thì phải?”
Lạt ma Á La nói: “Là tên gọi cổ của sông Nhã Lỗ Tạng Bố. Na Thâm đã từng nhắc đến rồi.”
Nhạc Dương chỉ ra phía xa nói: “Nhìn kìa, giáo quan, giáo quan đang ở ngoài kia.”
Chỉ thấy Lữ Cánh Nam và Ba Tang đang bước trên đáy hồ cạn, dường như đang tìm kiếm gì đó. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba liền chạy lại chỗ họ.
Khi tới gần, bọn Trác Mộc Cường Ba đều không khỏi thầm kinh hãi. Mặt mũi chân tay Ba Tang chi chít vết thương, từ trán tới mũi hóa thành xanh đen. Cả Lữ Cánh Nam cũng đầu tóc rối bù, hơi có vẻ tiều tụy. Trương Lập chào một tiếng, nói: “Ồ, giáo quan, anh Ba Tang, chúng tôi ở đây, chúng tôi đến đây.”
Lữ Cánh Nam nói: “Ừm, mọi người cũng phát hiện ra lối ra ngầm bên dưới ư?”
Nhạc Dương nói: “Làm sao mà ra nông nỗi này vậy anh Ba Tang?”
Ba Tang lạnh lùng nói: “Cửu tử nhất sinh.” Đám người Trác Mộc Cường Ba đã quen với tính cách của Ba Tang, biết rằng để anh ta phải thốt ra bốn chữ này, quả là họ đã trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm rồi. Ba Tang lại bổ sung thêm một câu, “Mấy người cũng vậy hả?”
Mọi người nghe hỏi mới sực nhớ ra, bản thân mình cũng chẳng khá hơn được bao nhiêu, đặc biệt là Trác Mộc Cường Ba đang mặc một bộ đồ kỳ quái và lạt ma Á La bị thương khắp mình mẩy. Trương Lập gật đầu nói: “Chậc, cơ quan ở đây lợi hại hơn lúc huấn luyện nhiều, suýt chút nữa là không ra được rồi. À phải, anh Ba Tang, rốt cuộc là chuyện gì vậy? Có phải hai người đã chạm phải cơ quan không? Hồ nước này sao lại đột nhiên cạn kiệt thế?” Ba Tang gật gật đầu.
Lữ Cánh Nam lạnh lùng nói: “Cơ quan chẳng có gì lợi hại, quan trọng là các cậu có nghĩ đến những điều cổ nhân nghĩ hay không. Tất cả đều là người được huấn luyện chuyên môn, một chút cơ quan này mà còn không đối phó nổi hay sao? Hử? Người này là ai?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Đây là Đa Cát, Đa Cát của làng Công Bố, anh ta bị bọn tên Ben kia nhốt trong hồ nước ngầm, được chúng tôi cứu ra. Phải rồi, Đa Cát biết rất nhiều chuyện liên quan đến nơi này, còn cả Cánh cửa Địa ngục nữa, phải không Đa Cát?”
Đa Cát ngẩng cao đầu, hỏi ngược lại Trác Mộc Cường Ba: “Thánh sứ đại nhân, người đàn bà này là ai?”
Trác Mộc Cường Ba lại giới thiệu Lữ Cánh Nam với Đa Cát: “Cô ấy là giáo quan của chúng tôi, cũng là người phụ trách hành động lần này.” Giải thích một lượt, để Đa Cát biết người phụ trách là gì, song anh ta vẫn không thể nào hiểu nổi. Trong thế giới của anh ta, phụ nữ chỉ phụ trách sinh con và lo liệu việc nhà, làm gì có lý nào cả một đám người lại nghe hiệu lệnh của một người đàn bà? Trác Mộc Cường Ba bất đắc dĩ phải dùng thân phận Thánh sứ đại nhân, hỏi lại câu hỏi Lữ Cánh Nam muốn hỏi một lần, Đa Cát mới miễn cưỡng trả lời, song vẫn không ngớt lẩm bẩm: “Ở chỗ chúng tôi, đàn bà như thế chắc chắn chẳng ai thèm đâu. Đàn ông nói chuyện, đàn bà sao có thể chõ miệng vào chứ, lại còn đòi có ý kiến nữa, đúng là không được!” làm Lữ Cánh Nam tức đến lỗ mũi xịt khói, chỉ muốn mổ bụng moi tim anh ta ra ngay tại chỗ.
Trong khi Lữ Cánh Nam hỏi han Đa Cát, mấy người bọn Trương Lập cũng cật vấn Ba Tang rốt cuộc đã chạm phải cơ quan gì, lợi hại thế nào. Ba Tang nói vắn tắt một lượt, chỉ vậy cũng đủ biết mức độ kinh hồn bạt vía không hề thua kém những gì họ đã trải qua. Nghe xong chuyện của Ba Tang, Nhạc Dương nói: “Vậy thì nước hồ rốt cuộc đã chảy đi đâu rồi nhỉ?”
Ba Tang giẫm chân nói: “Ở bên dưới.”
“Vẫn ở bên dưới?” Trương Lập ngạc nhiên thốt lên.
Ba Tang gật gật đầu: “Ừm, giáo quan có nói, hệ thống nước ngầm trên cao nguyên này lúc nào cũng là vấn đề các nhà khoa học muốn nghiên cứu cho tận tường. Kết cấu địa chất vùng này cực kỳ phức tạp, ước chừng có rất nhiều hang đá vôi và sông ngầm. Dải cao nguyên Thanh Tạng này có rất nhiều truyền thuyết nói rằng biển một đêm đã khô cạn, mà lại được chứng thực khá nhiều lần nữa. Tất cả đều do các dòng sông ngầm đột nhiên liên thông, rồi nước hồ theo đó mà chảy đi. Tôi và giáo quan vừa nãy chính là đang tìm xem có lối thông nào bị mở ra hay không.”
Đường Mẫn nói: “Có thấy gì không ạ?”
Ba Tang lắc đầu nói: “Cái hồ này vốn không lớn lắm, chắc chỉ khoảng mười kilomet vuông, chúng tôi đi hết một vòng cũng không có phát hiện gì. Giáo quan nói, có thể sau khi nước hồ rút cạn, đất bùn dưới đáy hồ đã lại bịt miệng lối thông ấy lại rồi, nên chúng tôi mới không tìm được.”
Giáo sư Phương Tân dùng ống kính quay một vòng, chỉ thấy hai hòn đảo nhỏ kia đã thành hai ngọn núi đứng sừng sững, núi non quanh đó cũng cao lớn sừng sững hơn rất nhiều.
Lữ Cánh Nam nghe Đa Cát nói xong, liền dặn dò: “Đi thôi, ở đây không còn thông tin gì chúng ta cần nữa rồi, lên bờ rồi tính sau.”
Bùn lắng dưới đáy hồ chỗ sâu chỗ nông, chỗ nông chưa tới mắt cá chân, chỗ sâu thì ngập lút cả chân, bước đi vô cùng khó khăn, song họ cũng không còn đường nào khác nữa cả. Trác Mộc Cường Ba để ý thấy hai người Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La bước đi trong đầm bùn mà bùn đất không lúc nào ngập quá mu bàn chân, trong lòng lấy làm ngưỡng mộ, thầm nghĩ đây chính là thành quả của Mật tu rồi, có cơ hội, mình nhất định phải luyện tập mới được.
Lên đến bờ, thấy đấy hồ bùn đầy bùn lắng, cá giãy đành đạch khắp nơi, thật khác một trời một vực với khi nãy, trong lòng mọi người đều dâng lên một cảm giác khó tả. Lữ Cánh Nam ngước mắt nhìn bầu trời, nhìn ngọn núi xa xa, sau đó hỏi: “Đi từ đây, cần bao nhiêu lâu mới đến được Cánh cửa Địa ngục?” Đa Cát coi như không nghe thấy, Trác Mộc Cường Ba đành phải lặp lại một lượt, Đa Cát mới nói: “Từ làng của chúng tôi, thời gian cần để đến Cánh cửa Sinh mệnh và Cánh cửa Địa ngục là như nhau, nếu trực tiếp từ Cánh cửa Sinh mệnh đến Cánh cửa Địa ngục… nhìn mọi người đều khỏe mạnh thế này, chắc chỉ cần bốn tiếng đồng hồ là tới được, có điều, nếu mang theo đàn bà, chỉ sợ là…”
Lữ Cánh Nam ngắt lời: “Biết rồi. Giờ trời đã tối muộn, chúng ta trở về thôn Công Bố trước, sáng sớm mai sẽ tới Cánh cửa Địa ngục xem thử, sau đó đi thẳng đến Cổ Cách. Giờ đã biết lộ tuyến của đối phương, chúng ta phải nhanh lên mới được.” Nói đoạn, cô lấy điện thoại di động ra. Quả nhiên không có tín hiệu, vậy là cô lại lấy một bộ máy truyền tin đặc chế và thiết bị tiếp nhận tín hiệu vệ tinh cỡ nhỏ, bắt đầu liên lạc với thế giới bên ngoài.
Trương Lập tò mò hỏi: “Đa Cát, sao anh biết nhiều chuyện thế? Không phải là đang gạt chúng tôi đấy chứ?”
Đa Cát tỏ ý không hài lòng nói: “Sao tôi lại không biết được? Tôi là thợ săn giỏi nhất trong làng, tương lai sẽ kế thừa chức vị trưởng lão, những chuyện này các trưởng lão tự nhiên phải nói cho tôi rồi, tôi còn biết nhiều hơn Na Thâm nữa đấy. Mọi người muốn đi đến chỗ Tượng Hùng vương triều thật đấy à?”
Nhạc Dương nói: “Đương nhiên, không phải một Thánh sứ khác cũng đã đi rồi hay sao, chúng tôi cũng phải đến đó.”
Đa Cát nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt thành khẩn: “Tôi cũng muốn đi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Anh?” Đa Cát gật đầu: “Dù sao chúng tôi cũng là những người đời đời bảo vệ thánh địa, làm sao có thể cả thánh địa như thế nào cũng chưa từng thấy cho được? Tôi cảm thấy hết sức bất mãn trước cách làm của các vị trưởng lão trong làng, nếu một trăm năm trước có Đa Cát này, tuyệt đối sẽ không chấp nhận để người ngoài xông vào thánh địa mà chỉ nhìn thôi không làm gì đâu.”
Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi chỉ Lữ Cánh Nam nói: “Vậy cậu đi hỏi giáo quan, cô ấy nói được là được.”
Đa Cát ngạc nhiên: “Cô ta? Không, tôi chỉ cần Thánh sứ đại nhân đồng ý là được rồi.”
Sự cố của Đa Cát làm Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó xử, nếu để Lữ Cánh Nam nghe thấy Đa Cát nói vậy, thì thật không biết là như thế nào nữa. Đang định giải thích, Lữ Cánh Nam đã nói: “Đi thôi, chúng ta về thôn Công Bố, trực thăng cần thời gian điều phối, ít nhất cũng phải sớm mai mới tới đây được.”
Trương Lập bắt ngay chỗ sơ hở của Lữ Cánh Nam, nói: “Giáo quan? Không phải nói dùng trực thăng rất nguy hiểm à? Tại sao lần này lại sử dụng vậy?”
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)