Translate

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

CHẦU VĂN - PHẦN I




Tín ngưỡng thờ Mẫu – tín ngưỡng Tứ phủ, là tín ngưỡng bản địa đặc thù của người Việt bắt nguồn từ việc tôn thờ các vị thánh tượng trưng cho vũ trụ. Người ta gọi hình thức lễ nhạc trong nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ là CHẦU VĂN. So với kinh phật của Đạo Phật, kinh thánh của Đạo Thiên chúa, kinh Co-ran của Đạo Hồi thì CHẦU VĂN của tín ngưỡng thờ Mẫu tuy chưa được tổng hợp và lưu giữ dưới dạng hệ thống kinh sách nhưng là nền tảng văn ngôn để thực thi tín ngưỡng Tứ phủ. Chầu văn, còn gọi là Hát văn hay Hát bóng là giai điệu tín ngưỡng của người Việt. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Các trung tâm của hát văn là Nam Định và một số vùng quanh Hà Nội. Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Vào thời gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát văn dần dần mai một vì Chính phủ cấm hầu đồng do bị coi là mê tín . Đến đầu những năm 1990, hát Văn lại có cơ hội phát triển khi Nhà nước ta khôi phục lại các giá trị văn hoá tinh thần cổ truyền phi vật thể của dân tộc.

   Hát Chầu văn có ba kiểu là hát thi (văn thi), hát thờ (văn thờ) và hát lên đồng (văn hầu). Hát thi dùng trong các cuộc đua tài thi hát và thường là hát đơn, chỉ một người hát. Hát thờ được hát trước ngày tiệc, ngày sóc vọng đầu rằm, mồng một, ngày tất niên. Tuy nhiên, hát thờ trước khi vào các giá lên đồng là một trong những phần quan trọng nhất của chầu văn. Hát lên đồng hay còn gọi là hát hầu bóng, dùng trong quá trình thực hiện nghi lễ hầu đồng. Đây là ý nghĩa quan trọng nhất của Chầu văn. Hầu đồng là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác ông Đồng, bà Cốt. Trong nghi lễ đó, hát Chầu văn (hát thờ) phục vụ cho quá trình nhập đồng hiển thánh. Sau khi múa, các Thánh thường ngồi nghỉ và nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị Thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác vỗ gối và thưởng tiền cho cung văn. Lúc nầy cũng là lúcThánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu, thuốc lá, trầu nước v.v. thuộc loại tố hảo và đã được làm nghi thức Khai Cuông (khai quang) cho thanh sạch. Phục vụ hát Chầu văn có các thành viên sau: Cung văn – người hát chầu văn và dàn nhạc phụ vụ hát văn. Người ca sĩ được gọi là cung văn, thông thường là người vừa hát giỏi, vừa biết nhiều làn điệu, vừa biết chơi nhạc cụ. Dàn nhạc hầu bóng gồm có một đàn Nguyệt, một đàn Nhị, một trống nhỏ (gọi là trống Con), trống Cái, một Cảnh đôi, một Phách. Người ta có thể thêm bớt nhạc cụ này hoặc nhạc cụ khác tùy theo địa phương hoặc hoàn cảnh hành lễ và yêu cầu của người hành lễ.



   Giá Cô Bơ
  Trong các loại nhạc cụ kể trên, đàn Nguyệt, trống nhỏ và Cảnh đôi đóng vai trò nòng cốt. Đây là những nhạc khí cơ bản, không thể thiếu được vì chúng tạo nên tính cách riêng biệt và đặc thù của dàn nhạc hát văn. Những buổi hát thờ lớn thì thêm một cỗ trống lớn, Chiêng, Sáo và Tiêu.
  Trình tự thực hiện nghi lễ hát chầu văn phục vụ hầu bóng có thể chia thành bốn phần chính:
 1) Mời thánh nhập
 2) Kể sự tích và công đức
 3) Xin thánh phù hộ
 4) Đưa tiễn.
 Bài hát thường chấm dứt với câu: "Thánh giá hồi cung!".
 Lời văn trong hát văn cũng phổ từ thơ ca dân gian, đôi khi vay mượn cả trong các tác phẩm văn thơ bác học và thường là thể lục bát, lục bát biến thể, thất ngôn, bốn chữ. Các bài văn hát thường xắp xếp như một câu chuyện về xuất xứ của Thánh và tôn vinh công đức, kỳ tích của ngài. Câu văn tuy có vần điệu, niêm luật không chặt chẽ như một bài thơ nhưng khi đọc lên mọi người đều cảm nhận được chất thơ của bài văn. Giai điệu của hát văn khi thì mượt mà, hấp dẫn, khi lại dồn dập, khoẻ khoắn vui tươi. Chất thơ của bài văn đó được nâng lên cao tuyệt đỉnh trong không khí tâm linh thành kính, khấn vái xuýt xoa, khói hương nghi ngút, có dàn nhạc, lời ca phụ hoạ, đưa đẩy và các điệu múa thiêng của Thánh thể hiện qua người hầu đồng. Với tính chất này hát văn ngày nay không chỉ bó hẹp trong phạm vi dùng trong nghi lễ mà hát văn cũng được coi như một hình thức ca nhạc dân gian vui tươi lành mạnh và có thể đưa ra công diễn trước đông đảo quần chúng. Hát văn là một hình thức hát trong khi ngồi đồng nên các làn điệu và lối hát cũng như độ dài của câu ca, tiếng nhạc đều phụ thuộc vào diễn biến của cuộc hầu đồng. Nếu như không khí, nhịp điệu trong ca trù thính phòng là êm đềm, réo rắt, trầm bổng thì trong hát văn ngược lại hẳn. Nó mang tính chất sôi nổi, kích động cộng với trống phách, thanh la rộn ràng làm cho buổi hầu đồng luôn trong không khí tưng bừng. Mở đầu buổi lên đồng, cung văn hát điệu văn thờ, điệu này tiết tấu nhanh, gấp; sau đó khi Thánh đã nhập đồng thì hát văn hầu để ca ngợi công tích hay sự tích các thánh, sau đó chuyển hát dọc để kích thích khả năng thăng thoát của người ngồi đồng. Điệu này nhạc dồn dập, tưng bừng. Khi nhân vật đã nhập vai các thánh và “làm việc thánh” thì chuyển điệu còn là điệu thức cao hơn dọc một cung bậc.



  Giá Hoàng Mười
  Tất nhiên khi người ngồi đồng vào vai thánh nào thì người hát phải chuyển giọng theo ngôi thánh đó cho phù hợp. Hát văn không chỉ khó mà còn đòi hỏi người cung văn phải nhanh, linh hoạt để vừa có thể chuyển lời, giọng và nhạc cho ăn khớp mà vẫn hay, vẫn sát vai của người ngồi đồng; thậm chí phải hát lặp lại, luyến láy, kéo dài câu ca, tiếng nhạc trong thời gian chuyển tiếp giữa hai giá hầu. Khi hát, cung văn phải hát sao cho thể hiện tâm lý tình cảm của các nhân vật nên giọng hát phải chuyển đổi luôn luôn. Vì thế mà chỉ trong một thể hát thì cũng có nhiều dạng khác nhau: thể Phú thì có Phú Dựng, Phú Chênh để diễn tả tâm trạng vui, Phú Rầu để diễn tả tâm trạng buồn. Những khi thay đổi như vậy, âm nhạc đều chuyển điệu thức 5 âm để phụ họa theo. Đó là cách người cung văn thể hiện tài năng riêng của mình. Thông thường, cung văn chơi đàn nguyệt đảm nhiệm vai trò hát chính. Nhưng trong các lễ hầu đồng, cả cung văn đánh nhịp (phách, cảnh, trống) cũng phải hát. Tiêu chuẩn tối thiểu của một cung văn là phải vừa đánh nhịp vừa hát, tiêu chuẩn tối đa là phải vừa đàn nguyệt vừa hát. Do lễ thức này thường kéo dài, có khi tới 6 đến 8 tiếng đồng hồ nên cần có thêm vài cung văn khác cùng tham gia tiếp sức, hỗ trợ. Họ có thể hoán đổi vị trí, thay nhau đàn hoặc hát sao cho vẫn đảm bảo sự liền mạch của bài văn và âm nhạc. Nói vậy để thấy được sự đa năng của các nghệ nhân hát văn. Thời lượng diễn xướng của một ban nhạc hát văn là đặc điểm hết sức thú vị. Trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam, nếu nói đến số lượng lớn nhất của một biên chế dàn nhạc thì người ta sẽ nghĩ ngay đến dàn nhạc cung đình. Thế nhưng nếu tính đến một cuộc diễn xướng "dài hơi" nhất thì có lẽ đó chính là dàn nhạc hát văn trong các lễ thức hầu đồng. Cho đến nay, đây vẫn được xem là một năng lực đáng nể của các cung văn trong giới nghệ nhân cổ nhạc. Ở những nhóm cung văn thuộc đẳng cấp “nghệ nhân”, nhiều làn điệu họ có thể hát song ca hay đồng ca. Theo các nghệ nhân lão thành kể lại, trong nhiều trường hợp, 4 cung văn có thể cùng đồng ca thật ăn khớp. Xin độc giả nhớ lại một điều là hát văn là một bộ môn nghệ thuật cổ truyền mang đậm tính ngẫu hứng, luôn tự thích nghi trong mọi trường hợp biến đổi về thời gian do quá trình tổ chức, thay quần áo, đạo cụ trong hầu đồng, không giống như hát theo một bản nhạc đã được ký âm và truyền giữ qua mọi thế hệ.


 Giá Chầu Mười

  Do tính ngẫu hứng về trường độ và cao độ, giai điệu và âm tiết của hát văn nên việc hát đồng ca tập thể là rất khó. Đây chính là một hiện tượng độc đáo trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam nói chung, trong đó, nhiều thể loại vốn luôn tồn tại dưới dạng ngẫu hứng của một nghệ nhân trên cơ sở nguyên bản. Nếu muốn đồng ca, các nghệ sĩ phải có sự tập luyện, phối hợp rất công phu để khi diễn xướng, sao cho tác phẩm chỉ xuất hiện dưới dạng một dị bản duy nhất. Điều đó có nghĩa các cung văn phải lập thành nhịp điệu từng câu, từng từ trong đường tuyến giai điệu thống nhất. Trong một bộ môn nghệ thuật đầy tính ngẫu hứng như hát văn, đây là điều không dễ thực hiện.
   Về tiết tấu, hát văn thường sử dụng nhịp ngoại (đảo phách). Loại nhịp này mang đến một cảm giác không ổn định trong tâm trí người nghe, đưa người nghe vào trạng thái mông lung, huyền ảo. Về kỹ thuật thanh nhạc, nhìn chung, có hai phong cách hát điển hình trong nghệ thuật hát văn. Trước hết, đó là phong cách Hát văn Nam Định - lối hát không sử dụng nhiều hệ thống kỹ thuật nẩy hạt trong thanh nhạc cổ truyền. Hát văn Nam Định thiên về chất giọng thô mộc, giản dị, mang đậm đặc điểm của lối hát dân dã, khá phổ biến trên các miền thôn quê. Thứ hai là phong cách Hát văn Hà Nội, Hải Phòng - lối hát sử dụng nhiều kỹ thuật nảy hạt, đề cao sự hoa mỹ, bay bướm và tinh tế trong việc điều tiết âm lượng, câu chữ. Cách ém hơi ở đây rất giống với Chèo hay Ca trù. Phong cách hát này thường được phổ biến ở chốn phồn hoa đô hội, nơi tập trung giới thức giả sành điệu. Gắn liền với sắc màu tín ngưỡng của người Việt, hát văn đã xây dựng được nhiều kiểu gõ nhịp và một hệ thống làn điệu, bài bản phong phú với những quy ước về cách vận dụng cho từng hàng Thánh và từng loại Phủ. Nhịp điệu và bộ gõ có vai trò đặc biệt quan trọng trong sinh hoạt tín ngưỡng này. Chúng tạo nên một không khí hưng phấn cao, góp phần giúp người ngồi đồng có cảm giác thoát xác để nhập thân với các vị thánh, đồng thời kết hợp với yếu tố tâm linh chúng góp phần tạo nên một trạng thái tinh thần đặc biệt khiến người ta có thể thực hiện những việc mà ở trạng thái bình thường khó có thể làm nổi.

Tài liệu tham khảo
1. Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu ở Việt Nam, NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 1996.
2. Bùi Đình Thảo, Hát Chầu văn, NXB Âm nhạc, Hà Nội, 1996.
3. Ngô Đức Thịnh chủ biên, Hát văn, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1992.
4. Một số bài viết trên diễn đàn Văn hoá Phương Đông, Thế giới vô hình. http://www.vanhoaphuongdong.com/forum/showthread.php?t=5007&page=4

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét