Translate

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

CHÙA, ĐỀN, ĐÌNH, PHỦ, ĐIỆN, MIẾU...PHẦN XII

Ngọc Hoàng Thượng Đế

Khi truyền sang phía đông, Phật giáo của Ấn Độ gặp Đạo giáo của Trung Quốc vốn tôn thờ những hình tượng thần thánh khác. Hai bên đã có sự hòa nhập nhất định với nhau. Sang đến Việt Nam, gặp tín ngưỡng bản địa, thì lại tiếp tục hòa vào dòng của tín ngưỡng đó, tạo thêm những hình tượng mới.

Đời Lê Trung Hưng ở VN là thời mà tư tưởng Tam giáo Đồng nguyên (Ba tôn giáo Phật Lão Nho cùng một gốc) phát triển. Đầu tiên là một số hình tượng Đạo giáo được đưa vào chùa. Tiếp theo là sự hội nhập với Bản địa bằng việc đưa tín ngưỡng thờ Mẫu vào trong chùa. Thậm chí những người có công với triều đình, quốc gia cũng được thờ trong chùa, tạo nên một thế giới tâm linh chung, không còn tách biệt, mà trong đó Phật là trung tâm và cao nhất.

Hình tượng tiêu biểu của Đạo giáo trong chùa là tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế và Nam Tào, Bắc Đẩu. Ngọc Hoàng Thượng đế là vua trời, có vai trò như Thiên chủ Indra (Đế Thích) của Ấn Độ, cai quản bầu trời. Ngọc Hoàng là hậu thân, biến thân của Nguyên Thủy Thiên Tôn, thay cho Tam Thanh tối cao cai trị thế giới thần và người. Bắc Đẩu chuyên ghi sổ sinh, Nam Tào ghi sổ tử.

Như vậy đối với dân gian, Ngọc Hoàng là ông Trời cần tôn kính, nhưng với Phật giáo, Ngọc Hoàng chỉ là đứng đầu bậc Thiên, vẫn có sinh ra (và sẽ có chết đi), chưa thoát Luân hồi. Nhưng Phật giáo cũng chấp nhận hình tượng đó vào chùa, mà không chống đối. Vì thế trong chùa có thể thấy cả tượng Ngọc Hoàng.

Đối với dân gian thì "cầu Trời, khấn Phật", như nhau cả, hầu như tất cả đều coi Phật giống như một bậc thần thánh có quyền phép, cũng như Ngọc Hoàng cả. Thậm chí trong Sài Gòn còn có một cái chùa mang tên : Chùa Ngọc Hoàng.

Tượng của ông Bắc Đẩu trong chùa Cầu Đông. Tay ông cầm cuốn sổ sinh. Bên kia là ông Nam Tào, cầm sổ tử. Có thể thấy thấp thoáng bên trái là Ngọc Hoàng ngồi trên ngai.

Tớ thích pho tượng này, vì nghệ nhân đã chạm hoa văn trên áo cầu kì mà mềm mại sinh động.


 



Trên đây, tôi đã mô tả những pho tượng trên chính điện của một ngôi chùa cổ miền bắc thông thường. Những pho tượng ấy có những đặc trưng riêng của mỗi vùng làng, mỗi thời đại, nhưng cũng không ra ngoài các bộ Tam Tôn và Tượng Pháp. Các pho tượng được bày trong chính điện theo vị trí cao dần lên đến tận nóc chùa, nhìn vào như một thế giới sâu thẳm, tầng tầng lớp lớp chư Phật, chư Thánh, chư Thiên, đem lại một cảm giác uyên nguyên nguồn cội. Đây là đặc trưng riêng có của các ngôi chùa Việt, mà cụ thể hơn là chùa miền bắc, mà không nơi nào có trên thế giới.

Chính điện chùa Phúc Khánh, ngôi tổ đình linh thiêng bậc nhất ở Hà Nội. Lễ chùa Phúc Khánh luôn luôn thu hút đông Phật Tử nhất.
 



Bên cạnh tượng trên chính điện, tại gian bên, tiền đường, hậu điện của chùa còn nhiều pho tượng khác nữa...


Thập điện Diêm Vương
Diêm Vương nguyên là sản phẩm của thần thoại Ấn Độ giáo, chứ chả phải của Trung Quốc. Đó là tên của quỷ thần Yama là vua của các quỷ thần cõi địa ngục, là vị quan tòa xét xử tội những người chết. Yama có nhiều tay cầm nhiều vũ khí, đôi khi đánh nhau với cả các vị thần. Trên bức phù điêu lớn của Angkor Wat có đến 3 lần Yama xuất hiện.

Phật giáo mượn Yama để mô tả địa ngục là một trong Lục đạo luân hồi. Những ác nghiệp nặng tạo ra trong cuộc sống sẽ phải nhận quả báo sa địa ngục, và Yama cũng là chủ của địa ngục đó.

Sang đến Trung Quốc, thì phiên âm Yama thành Diêm Ma, và vì là vua địa ngục nên gọi là Diêm vương. Trung Quốc tăng từ một Diêm Ma lên đến mười vị, gọi là Thập Điện Diêm Vương. Trung Quốc gọi thêm một tên nữa là các vị Minh vương. Ở đây chữ Minh có nghĩa là U tối (giống như rừng U Minh) chứ không phải nghĩa là sáng như quang minh, minh bạch.
  Hiện nay thì chùa miền Nam thường dùng Thập Điện Minh Vương, còn miền Bắc dùng Diêm Vương.

Địa Tạng Bồ tát là của Phật giáo từ Ấn Độ.

Địa Tạng Vương Bồ Tát tên là Mục Kiền Liên, là một trong 10 Đại đệ tử của Phật Thích Ca, nhiều khả năng là một người có thật. Ông được tôn là "thần thông đệ nhất".

Truyền thuyết thần thoại hóa kể rằng sau khi tu hành đắc đạo, ông tìm mẹ là bà Thanh Đề thì thấy mẹ đã sa địa ngục. Trái ngược với con trai tu hành theo Phật, bà này rất ác độc và tạo vô vàn ác nghiệp, nên khi chết luân hồi xuống ngục A Tỳ, là ngục sâu nhất, chịu hình phạt thảm khốc.

Dù rằng rất thần thông, nhưng Mục Kiền Liên cũng không thể cứu mẹ một cách dễ dàng. Ông phải xuống tận địa ngục thuyết pháp cho mẹ, để mẹ hồi tâm chuyển hướng ăn năn sám hối, loại bỏ dần ác nghiệp, đồng thời cầu xin chư Phật gia trì cứu mẹ. Cuối cùng bà Thanh Đề cũng được thoát địa ngục, luân hồi lên làm người.

Nhưng cũng chính vì xuống địa ngục, thấy cảnh vô vàn chúng sinh ở đó đau khổ, nên Mục Kiền Liên phát tâm ở lại Địa ngục để cứu độ cho tất cả chúng sinh đó. Phát nguyện của ông là : "Nếu còn chúng sinh phải sa địa ngục thì không lên Niết Bàn". Do đó dù đã đắc quả nhưng ông không thành Phật, mà chỉ là Bồ tát.

Bởi thế Mục Kiền Liên được mang tên Địa Tạng Vương Bồ tát, là Giáo chủ của cõi U Minh. Vì Phật còn ở trên chư Thiên, nên Địa Tạng cũng ở trên Thập điện Diêm vương.

Ngày nay ở chùa, cầu khấn cho người đã khuất thì tìm đến với Địa Tạng.

(Tác giả đã lầm lẫn - xin đọc : Kinh Địa Tạng - ghi chú của Vườn Lam)


Tượng Thập điện Diêm vương ngồi hai bên, mỗi bên năm vị.

Vào chùa cứ thấy một loạt tượng trông na ná nhau, cùng đội mũ mặc áo thụng, ngồi cầm hốt hai bên tường chùa, mỗi bên 5 vị thì đó là Thập điện Diêm vương.

Có vị thì tóc trắng, tóc đen, râu dài, râu ngắn,... là tùy vào trí tưởng tượng của người tạc tượng, không có chuẩn nào hết.



Địa Tạng Vương Bồ tát được tạc tượng với đặc trưng là đội mũ hoa sen, khoác áo cà sa, tay cầm một cây gậy tích trượng, rất giống hình tượng của Đường Tăng - Huyền Trang đã rất quen thuộc trong Tây Du Ký. Trong truyện Tây Du Ký có viết là sau khi Pháp sư Huyền Trang khoác áo cà sa, cầm gậy tích trượng, đội mũ Tỳ lư, thì trông giống hệt Địa Tạng bồ tát. Do đó có thể nói hình tượng của Đường Tăng là lấy từ Địa Tạng ra.

Trang phục này là trang phục chạy đàn của Pháp sư trong Phật giáo Trung Quốc, dùng để cúng siêu sinh cho người đã mất. Địa Tạng có thể ngồi hoặc đứng, cây gậy vẫn trong tay phải.
 




 Liên quan đến Địa ngục, Âm phủ, Mật Tông có lẽ là phái tìm hiểu sâu về sự Chết nhất.

Một số chùa miền Bắc có chịu ảnh hưởng của Mật Tông còn làm hình tượng của Địa Ngục. Như chùa Trăm Gian có bộ phù điêu gỗ mô tả Thập điện Diêm vương với 10 cảnh khổ hình ở địa ngục như cưa người, bỏ vạc dầu, đốt lửa, bẻ chân tay, núi đao, biển máu... trông rất ghê rợn.

Một số chùa thì tạo "Cảnh thập điện" dưới dạng các hang núi dưới âm phủ. Dưới cùng là các quỷ đầu trâu mặt ngựa với các hình phạt, cảnh leo cầu vồng; trên đó một chút là các phán quan của Địa ngục, các vị thần tướng canh giữ; trên nữa là các Diêm Vương cai quản; trên cùng là các Bồ tát, Phật đang đứng ngồi... Những chiếc hang giả này mô tả sự đối lập giữa địa ngục thảm khốc và cõi Phật an lành. Ngay bên dưới cũng có những hình người chắp tay đứng, mô tả những người dù ở dưới Địa ngục, nhưng có lòng hướng về Phật thì cũng được an lành không phải chịu cảnh khổ sở.

Những cái này mang màu sắc Trung Quốc và Mật Tông nhiều hơn Phật giáo gốc từ Ấn Độ.
Chiếc hang Địa ngục ở chùa Láng, ngôi chùa mang sắc thái Mật Tông nổi tiếng do Từ Đạo Hạnh tạo dựng.

                                                 Còn tiếp...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét