Translate

Thứ Năm, 15 tháng 4, 2021

LA KINH THẤU GIẢI- P1



BÀI TỰA VỀ LA KINH


XÉT VỀ PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO LA KINH :
Trước hết do vua Hiến Đế chế tạo ra, sau ông Chu Công bắt chước và dùng kim chỉ nam,để định phương vị . Tuy nhiên , khi ấy chỉ có 12 địa chi . Đến ông Trương Lương nhà Hán , mới phối hợp với bát can,(tám phương vị về thiên can) , và tứ duy( là 4 phương :kiền ,khôn ,cấn ,đoài vào khoảng giửa 12 chữ hàng chi và đặt tên là Địa bàn .Đến Dương Công và Lại công hai vị thêm hai 2 tầng nữa ,gọi là Thiên bàn và Nhân bàn ,tất cả gộp lại gọi là Thấu bàn tức Tam tài ).Trong đó tất cả hành độ của các tinh tú đều được trình bày đầy đủ , diễn tả được những bí mật và ngũ hành của Hà Đồ, Lạc Thư ; phơi bày những sự hiện, tàng ,kỳ diệu của các quẻ .Đến vua Phục Hy và Văn Vương , những cái kỳ diệu của các quẽ ,biết được tinh vi và thể ,dụng rộng rãi , biến hoá vô cùng ! Bao la vậy thay ! Gồm hết thảy muôn ngàn hiện tượng cả dọc ngang trên trời đất . Trên có thể hiểu thấu được hành độ của các vì sao luân chuyển ;dưới có thể phân biệt được núi, sông , phương hướng tốt xấu ;giửa có thể định được Dương cơ ,Âm phần cho mọi người , về sự phúc hoạ v. v. .dùng làm được muôn việc, thật là quý báu vô cùng !
Từ đời Hán , Tấn , Đường , Tống đến nay , nhiều bậc danh nhân , hiền sĩ nổi tiếng , ngoài 4 vị họ Dương , Tăng , Liêu , Lại ra , cũng không thiếu gì những người làm việc phúc đức để giúp ích cho những người nghèo , rất là linh nghiệm .
Xét về cách trước thư lập ngôn của các vị này , ta thấy căn cứ vào các Tinh thể , Sơn loan , nhưng thực dụng lại phải căn cứ vào La Kinh . Những nhà Địa lý sau này , giảng về Loan Đầu , chọn hình tượng , đặt cách đo hoạch , chia ra nhiều môn , nhiều kiểu , đua nhau ra đời . Tuy nhiên giảng về La Kinh mà không biết yếu điểm của Địa lý : là "lấy Loan Đầu làm Thể , La Kinh làm Dụng " là chưa rõ nghĩa của La Kinh , mà làm sai 1 ly thì sai đi 1 dặm . Nếu La Kinh không rành thì không thể căn cứ vào đâu để phân biệt Long , Huyệt , Sa , Thủy ; thật , giả , tốt , xấu . Như vậy , dẫu có được Loan Đầu thích hợp , cũng luôn luôn lâqnx lộn vị trí giửa tốt và xấu ,khiến cho nước hung , khí sát xung vào hài cốt , làm cho hao người tán của , sự tai hại là vô cùng không thể tránh thoát . Ngưới đời thường nói : Thầy Địa lý không rành làm tai hại cả toàn gia tông tộc ! Lời ngạn ngữ ấy rất đáng tin . Tôi đã học tập nhiều năm về Địa lý , hiểu biết khá rộng về sự tốt xấu của các Tinh , Loan , thế mà , khi chọn lựa Tinh đẩu vẫn còn sợ chưa hiểu thấu rành rẽ về La Kinh , rất khó quyết định được họa , phúc . Sau đó tôi tìm tòi các sách cổ , kim và tìm thầy học đạo , đem hết tâm trí đẻ nghiên cứu La Kinh , lặn lội đi khắp mọi nơi , thăm những ngôi mộ danh tiếng để khảo nghiệm về họa phúc , không 1 chút điểm sai lầm . Như vậy mới hiểu rằng 3 yếu tố quan trọng của Địa lý : trong có thể tự hỏi mình , ngoài có thể chất vấn người khác , và khi chọn 1 ngôi mộ cho ai phải làm sao chọn được chỗ tốt , tránh được nơi xấu , không xảy ra sự suy bại tai hại cho người . Bởi vì khoa Địa lý rất là tinh vi , nào là Xuyên Sơn Thấu Địa , Tiêu Sa , Nạp Thủy , Phân Kim , Tọa Độ , tầng thứ rất phiền phức , lý luận rất sâu xa . Có khi nhiều tầng chia ra để dùng , có khi 2 tầng kiêm dụng chung cả , có khi 1 tầng dùng cho 2 việc , có khi nhiều tầng hợp lại mà thông dụng , đó là những biến hóa vô cùng huyền diệu , ta phải có linh cảm để mà hiểu thấu chi ly , nếu sai 1 chút , sẽ bị ảnh hưởng rất lớn . Nay tôi căn cứ vào La Kinh gồm có 36 tầng của người xưa , viết thành sách để phổ biến ra 4 phương , cho mọi người đời sau cùng biết , có thể căn cứ vào các đồ án để chọn Loan Đầu , cho tận thiện , tận mỹ , để việc tạo phước khỏi bị sai nhầm .

Bài tựa này làm tại : Thái Nguyên Tứ hợp đường âm dương học
Vương Đạo Hanh viết ở Phượng Sơn thư trai
Mùa thu năm Quý Mùi , thời vua Đạo Quang thứ 3 .


                                                        BÀI TỰA II

Ngày xưa bậc Thánh nhân làm ra Kinh Dịch , ngẩng lên có thể xem Thiên Văn , cúi xuống có thể xét Địa Lý . Người ta còn nói : cái Đạo dựng lên Trời là Âm Dương , cái Đạo dựng lên Đất là Cương Nhu ( cứng mềm ) , đó là nguyên nhân của thuyết Địa Lý . Vậy trong Kinh Thi nói : Quan sát về Âm Dương , nhìn xem dòng suối chảy lại càng rõ rệt nghĩa lý hơn nữa .
Từ đời nhà Tần , nhà Hán tới nay , không thiếu những người tinh rành về Địa Lý : Quách Cảnh Thuần đời Tấn , Dương Quân Tùng đời Đường , thông hiểu thấu đáo lẽ huyền diệu của Địa Lý , hiếm có trên đời .
Gần đây đa số các nhà nho không nghiên cứu về Địa Lý , thường chôn hài cốt của thân nhân vào nơi không Long , không Huyệt , Thủy tán , Sa phi , khiến cho nước ngấm , kiến mối phá hoại , làm cho tuyệt tự hậu nhân , thật là đáng thương ! Người đời thường nói : Muốn thành người hay , nên biết làm thuốc và địa lý . Lại có chỗ nói : nếu núi sông mà biết nói thì mặt thầy địa lý sẽ xám như đất chết , phủ tạng của con người mà biết bảo thì thầy thuốc không có chỗ hành nghề ! Như thế nói rõ là Địa Lý rất khó , còn quan trọng hơn làm thuốc ! Cho nên học thấp kém mà ra làm thầy , lừa dối người không biết , thì mang tội vào người không ít !
Đời Tống có hai nhà nho là ông Chu , ông Thái , tinh thông về khoa Địa Lý , có viết những cuốn sách bất hủ truyền cho đời sau . Tại sao người ta không kiếm những sách ấy mà coi ?
Vì vậy , khoa Địa Lý ngoài 4 ông Dương , Tăng , Liêu , Lại , ít có người tinh thông .
Tóm lại , về Địa Lý chỉ có Loan Đầu và Thiên Tinh mà thôi ! Loan Đầu tức là Hình Thể , Thiên Tinh tức là Lý Khí . Hai yếu tố quan trọng như nhau . Hình Thể ở trong Trời Đất , khiến cho người ta có thể nhìn ngang , nhìn dọc , trông xa , trông gần ; người tinh mắt có thể quan sát dễ dàng . Những cuốn sách như : Trầm Tân Chu Địa Học , Toàn Phong Nguyên Bản , Sơn Dương Chỉ Nê , Kham Dư , Nhất Quán ...vv...đã nói rõ ràng và đầy đủ .
Còn về Lý Khí thì chắc chắn phải nghiên cứu La Kinh , tìm hiểu sâu xa về Nhị Khí , Ngũ hành , mặc khải được những huyền bí của Hà Đồ , Lạc Thư . Rộng ra thì có 36 tầng , hẹp lại thì có 15 tầng , rất quảng đại , rất tinh vi . Nếu không có người chỉ dẫn , giảng dạy , thì không có thể căn cứ vào đâu để ý thức được sự huyền diệu . Có người nói rằng : Hình Thể không đẹp , dầu Lý Khí có hợp cục cũng không dùng được ! Lời đó cũng đúng . Nhưng Hình Thể tốt , mà Lý Khí không hợp , thì đất tốt nhưng cách táng xấu cũng không phát phúc được . Phương chi đại địa rất ít , không phải người có đại đức thì không thể được . Còn những núi đồi tầm thường , thì dẫu có Lý Khí không hợp lắm , mà muốn cho con cháu nối truyền , no cơm , lành áo , bình an , cũng phải dùng La Kinh để tìm Địa Lý cho khỏi phạm sát thì mới được . Vì vậy người làm Địa Lý phải tận tâm phân tách tỉ mỉ để phân tim tốt , tránh xấu . Ông Định Ấp Vương Đạo An khi còn nhỏ học nho , lớn lên học Địa Lý , ngấm ngẫm nhiều năm , thường chê người đời chỉ giảng Hình Thể mà không tìm học Lý Khí , nên đã gây tai hại vô cùng ! Vậy sau khi đọc hết các sách nghiên cứu , các ngôi mộ có danh tiếng , tìm hiểu về nguồn gốc của phúc , họa , thực nghiệm nguyên nhân của sự giàu nghèo , ông viết ra cuốn La Kinh Thấu Giải này , và nhờ tôi viết bài tựa , khi đó tôi làm Tri Huyện ở Mậu Châu , nhân có kỳ thi tại tỉnh đọc sách của ông , mới biết là ông lưu tâm giúp đời để mọi người an táng cho thân nhân mình , được hài cốt yên lành , gầy hạnh phúc cho con cháu đời đời thịnh vượng . Còn việc tìm đất thì cần phải hợp với thiên lý , . Người có Đức lớn , thì gặp được đất lớn , đó là tất nhiên , không còn ngờ vực gì nữa . Người đời đừng cho là lời bàn tầm thường của các ông già quê mùa , mà không chịu lưu ý đến những lời chỉ dẫn quan trọng về âm chất thẩm , thiên của cổ nhân .
Bài tựa này làm tại Mậu Châu , viết vào hạ tuần tháng 5 , năm
Quý Mùi , niên hiệu Đạo Quang thứ 3 .
Học Chính Nhiếp Nguyên Chương soạn .



                                                 TÂN ĐÍNH QUYỂN ĐẦU
                                Biên soạn : Thục Đồng Âm dương học , Vương Đạo Hanh
                                 Hiệu chính: Định Ấp Nho trí Vương Thiệu Chí
                                 Tham duyệt: học trò là : Lý Duy Tân,Chu Quốc Hồng,Đặng Quan Vũ,Trần Vạn Bằng.
                                                             -------------------------------
 
Long mạch chia làm 24 vị khí , thuộc về Ngũ Hành , Âm Dương mất hay còn mặc dầu , căn cứ vào Hướng , Long , Huyệt , Sa , Thủy , nhưng then chốt của họa phúc đều căn cứ ở trong một cái huyệt. Chính giửa huyệt mà chiếu đủ Tiêu Sa , Nạp Thủy và Thừa Khí , cần phải rành rẽ cách phân châm , để thực hiện 3 điều trọng yếu :
_ Khi xét về Long , phải coi kỹ chỗ Xuất mạch
_ Coi về Huyệt , phải nhận kỹ chỗ Động khí.
_ Coi về Thủy lai , phải coi kỹ chỗ Thủy triều lại ; ở trước mặt Huyệt coi Thủy khứ , phải coi kỹ chỗ cửa miệng nước chảy ra đi. Coi về thủy phải coi về sự hợp cục và phá cục. Coi về Long lai thì phải coi chỗ Long Nhập Huyệt ( hoặc là phía sau ). Coi về Hướng thì phải coi ở đằng trước. Coi Thủy lai thì phải coi ở chỗ nước chảy tới tới ( Minh Đường). Coi Thủy khứ thì phải coi chỗ nước chảy đi ra ( Ngoại Minh Đường)
Nếu không rõ hình thế mà đặt La Kinh cẩu thả , bậy bạ , thì tai hại vô cùng ! Người đời xưa nay đều nói : Thầy thuốc lầm chỉ hại 1 mạng người , thầy địa lý lầm làm hại cả dòng họ người ta !
Bởi vì , chỉ có Tuyệt Hướng mà không có Tuyệt Long , tức là không sai về Sa , Thủy , mà chỉ bị về Lập Hướng sai vào phương Khắc Sát , mà bị Tuyệt thôi ! Xin các Thầy Địa Lý trong thiên hạ , nên lưu ý để cho những người hiếu tử , hiếu tôn được nhờ ơn Thầy , được ngôi mộ của Tiền nhân an lành , phát phúc cho cháu chắt đời sau , thì không phúc gì bằng !
                                                       Những sách tham khảo :
                        _ Thanh triều khâm định hiệp kỷ : để phân biệt Ngũ Hành , bàn về các sao và ngày tháng.
                        _ Duyên đàn tử : Phân biệt Sa , Thủy và phân chia cung vị.
                        _ Lưu thị gia tàng : Nói về ngày tháng.
                        _ Nhất quán kham dư : Nói về tinh thể và La Kinh.
                        _ Tứ đàn tử : Nói về các Tinh thể và Thủy pháp.
                        _ Tượng cát : Nói về năm tháng.
                        _ Chính kỷ nhất thống : Nói về Xuyên sơn thấu địa.
                        _ Thiên cơ hội nguyên : Nói về Tinh thể địa bàn.
                        _ Ngao đẩu : Nói về năm tháng và quái lệ ( các quẽ )
                        _ Đính hỗn châm : Nói về Ngũ hành , Thiên Văn , Địa lý.
                        _ Bình địa ngũ tinh : Nói về Dương Trạch.
                        _ Nguyên chân : Nói về Thủy khẩu và Tam hợp.
                        _ Địa lý bất cầu nhân : Nói về Tinh thể địa bàn.
                        _ Thanh lang kinh : Nói về Quái lệ ( các quẽ ).
                        _ Tào an phong : Nói về Tinh thể ( hình dạng sơn sa )
                        _ Tuyết tâm phú : Nói về Tinh thể.
                        _ Ngọc tủy kinh : Nói về Tinh thể
                        _ Sơn dương chỉ mê : Nói về Tinh thể.
                        _ Ngũ chủng bí khiếu : Nói về các quẽ và Địa bàn.
                        _ Sùng Chính tịch mậu : Nói về năm tháng và Ngũ Hành.
                        _ trần tân chu : Nói về Tinh thể.
                        _ Địa lý thống nhất toàn thư : Nói về Tinh thể.
                        _ Trần tử tánh : Nói về năm tháng ngày giờ.
                        _ Ngọc xích kinh : Nói về Thiên văn và Địa lý.
                        _ Địa lý đại thành.
Cần phải đọc sách của các bậc danh sư , trong đó có nhiều điều chỉ dạy huyền bí.
 
                                                         -------------------------------
 
                                                 MỤC LỤC CÁC TẦNG CỦA LA KINH
 
Tầng 1   : Là Tiên Thiên bát Quái biến thành Hậu Thiên Bát Quái. Tiên Thiên làm cái bản thể , Hậu Thiên làm cái sử dụng. Dùng Hậu Thiên không được phá Tiên Thiên , chỉ dùng Hậu Thiên chứ không dùng Tiên Thiên , nhưng vẫn có Tiên Thiên ở bên trong.
Tầng 2   : Lạc Thư biến thành Tứ Tượng. Hóa Hậu Thiên thành Cửu Tinh ( 9 sao ) , chia Lục Giáp thành 120 phân kim , ngang dọc 16 cái và 5 số.
Tầng 3   : Bát Quái Hoàng Tuyền , tức là Quan và Quỹ của Tiên Thiên Bát Quái , hòa hợp với Ngũ hành để sử dụng trong việc : Long thời kỵ Thủy lai , Lập Hướng thì kỵ khắc Long.
Tầng 4   : Là tứ lộ và Bát lộ Hoàng Tuyền bạch Hổ ( tức sao sát ) của Địa Chi , quay đi trở lại. Hướng về Bát can thì kỵ Tứ duy Thủy lai , Hướng Tứ duy thì kỵ bát can Thủy lai ; nghĩa là 4 phương Hoàng Tuyền , 8 phương Khắc Sát ,l nước chảy đi thì tốt , nước chảy lại thì xấu. Nếu phạm thì hao người tốn của.
Tầng 5   : Cửu tinh ứng vào cục đất để phân biệt Long tốt xấu , coi sắc đất biến đổi mà tìm Huyệt , tương ứng với thứ vị của 24 vì Thiên tinh mà lấy dùng.
Tầng 6   : Kim chính thức của Địa bàn dùng để xem Long lai , định hướng , thừa khí nhập Huyệt ; Lập Trạch , An Phần chọn âm dương. Tóm lại , cả 36 tầng đều căn cứ ở tầng này vận chuyển mà sử dụng.


 Tầng 7   : Âm và Dương Long của Tiên Thiên Bát Quái , Kiền Nam , Khôn Bắc , Ly Đông , Khảm Tây , ở 4 phương chính là Dương ; Chấn , Tốn , Cấn , Đoài ở 4 phương góc tức là Tứ Duy của Tiên Thiên là Âm. Mỗi quái Nạp Âm đều có Can và Chi là nửa Âm , nửa Dương. Phép biến Thủy không được sai lầm về Âm Dương.
Tầng 8    : Chính Ngũ Hành , tóm hết thảy cả trong địa bàn , nguồn gốc là do Hà Đồ mà ra , phân Đông Tây Nam Bắc , 24 sơn và sự tương khắc của Kim , Mộc , Thủy , Hỏa , Thổ để sử dụng.
Tầng 9     : Là Kiếp sát , lấy Tọa Sơn làm chủ , chỉ kỵ 1 sơn xấu , hoặc nghiêng ngã , vỡ lỡ thôi , còn tốt thì không kỵ.
Tầng 10   : Là 72 Long Xuyên Sơn , ở trong Địa Bàn ghi 60 Giáp Tý , trong 5 cung Tý có 12 chữ chính màu đỏ là để chỉ 4 phương tứ duy và 8 phương bát can , thấu thành 72 Long , lấy lẽ Long Nhập Thủ thừa tiếp với thấu địa khí 1 mạch rót suốt vào Huyệt , và để phù hợp với 72 thời tiết mỗi năm.
Tầng 11  : Xuyên Sơn làm quẽ gốc , sách Chu Dịch gọi là Thiên Thông. Trong Kinh Dịch lấy quẽ Kiền làm đầu , nói : Thiên Địa biến hóa ra quái , hào để bổ trợ cho Lai Long ; Tọa Huyệt là chủ của Thể , Dụng.
Tầng 12   : Là Trung Châm thuộc về Nhân Bàn , tham hợp với Thiên-Địa 2 bàn , là Thiên-Địa-Nhân tam tài. Ông Lại Công lấy để Tiêu Sa và tham hợp với Ai Thiên Tinh và Nhị Thập Bát Tú , để làm biểu lý , bàn về Thái Dương đáo Sơn , và 12 vị Tiến Xá Tinh ; và đến 12 cung phân ranh giới 24 vị Thiên Tinh , Thấu Địa Kỳ Môn , tất cả đều do tầng Trung bàn này thông dụng.
Tầng 13  : Là 60 Long Thấu Địa. gọi là Thiên Kỷ , ở phía sau ngôi mộ hay là ngôi nhà khoảng 8 thước chỗ Loan Đầu phân khí dẫn suốt tới. Có các chữ Vượng , Tướng , Châu Bảo , sát Diệu , Hỏa Khanh , Cô Hư , Sai Thác và Không Vong , để phân biệt lấy quẽ xung hòa 9x6= 54 là Vượng Tướng , không xung hòa là Không Vong.
Tầng 14   : Là Thấu Địa Kỳ Môn , người ta lấy 2 quẽ độn Tử Phụ, Tài Quan , Lộc Mã Quý Nhân , Âm Dương làm gốc để khởi lệ.
Tầng 15   : Là Thấu Địa Quái , lấy Thấu Địa làm nội quái , gọi là quẽ Liên Sơn. Nhà Hạ dùng Nhân Thông , nên Kinh Dịch lấy quẽ Cấn làm đầu , quẽ phối thì lấy Hỗn Thiên Ngũ Hành , phối hợp với quẽ Tử Phụ , Tài Quan , Lộc Mã Quý Nhân là Tứ Cát ( 4 cái tốt ) của Sa , Thuỷ làm đắc dụng.
Tầng 16   : là Thấu Địa 60 Long phối hợp với 28 ngôi sao , ngũ thân ( 5 cái gần ) Sa , Thủy , Cầm Tinh, để quản cục trì thế , một cách tự nhiên mà dùng.
Tầng 17   : Định phương vị của Tứ Cát là : Ngũ Thân , Tam Kỳ , Bát Môn , Cửu Tinh đáo Sơn.
Tầng 18  : Là Phùng Châm Thiên Bàn để biến Thủy Lai và Khứ. Đây là quẽ phiên của Dương Công , gồm có có 9 sao là Thiên Phụ Quái , phiên : Bật , Phụ , Vũ , Phá , Liêm , Tham , Cự , Lộc , Văn làm Cát , Hung thần , để đoán phúc họa do ở luật Tịnh Âm , Tịnh Dương mà ra.







Tầng 19  : Là 240 phân số , do Lạc Thư chia ra 16 cái , 15 số dọc , ngang thành 240 phân số , chia cho 24 sơn , mỗi sơn 10 số. Đây là nguồn gốc của phân kim.
Tầng 20  : tầng Địa bàn phân kim , gia giảm 2 phân , 8 phân ( 2/8 ) : giảm Sa , Thủy , Minh Đường không ngay , Khắc Mệnh , Khắc Long , vì vậy mới có sự gia giảm bên 3 phân , bên 7 phân ( 3/7 ).
Tầng 21  : là tầng Thiên bàn phân kim , gia , giảm tam , thất ( 3/7 ). Mỗi Sơn có 5 chữ phân kim , như Tý Sơn thì có : Giáp Tý , Bính Tý , Mậu Tý , Canh Tý , Nhâm Tý , thì Giáp Ất là Cô ; Nhâm Quý là Hư ; Mậu Kỷ là Sát ; Bính Đinh là Vượng ; Canh Tân là Tướng ; để tránh sự gác giây , sai lầm vào Không Vong...vv..thì tai hại lắm !
Tầng 22  : là phân biệt khoảng Vượng , Tướng , Cô , Hư. Lấy Bính , Đinh , Canh , Tân , chỉ vào khuyên chữ đỏ là Vượng Tướng. Mậu Kỷ chỉ chữ Thoa ( X ) là Sát Diệu. Giáp , Ất , Nhâm , Quý chỉ điểm đen là Cô , Hư , Không , Vong.
Tầng 23  : là phân kim phối với Địa Nguyên , thuộc quẽ Ly tàng , là quẽ ở ngoài. Nhà Ân dùng Địa thống , nên Kinh Dịch lấy quẽ Khôn làm đầu. 60 quẽ phối với 60 phân kim , lấy quẽ Kim lưỡng toàn làm Vượng , Tướng , gọi là Đắc Kim. Ngoại trừ 4 quẽ Khảm , Ly , Chấn , Đoài , là quẽ Tiên Thiên chính thức ứng với 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông , mỗi mùa giữ 1 quẽ , mỗi quẽ 6 hào , mỗi hào gồm 15 ngày ( 4x6=24 ) , 24 hào gồm 24 tiết khí , ngoài 60 quẽ , mỗi tháng 5 quẽ , mỗi quẽ 6 ngày ( 6x60=360 ) , nên mỗi năm có 360 ngày.
Tầng 24  : là Nạp Âm Ngũ Hành , 60 Giáp Tý , Thiên Can , Địa Chi phối hợp , do Tiên Thiên Bát Quái lấy Nạp Giáp phối. Ngoại trừ quẽ Kiền và quẽ Khôn là Đại Phụ Mẫu không kể , nếu Thiên Can gặp Tý , Ngọ , Sửu , Mùi tại Chấn , Tốn , sẽ do 2 quẽ suy luận ; Thiên Can gặp Dần , Mẹo , Thân , Dậu tại Khảm , Ly sẽ do 2 quẽ suy luận ; Thiên Can gặp Tuất , Hợi , Thìn , Tị tại Cấn , Đoài sẽ do 2 quẽ suy luận ; Theo phương pháp Dụng , lấy 9 Mộc , 7 Kim , 5 Thủy , 3 Hỏa , 1 Thổ. Đặt tại cửa đầu kim , phải biết ý nghĩa sâu xa.
Tầng 25   : là phương vị của 12 cung , nếu được Tinh phong đẹp đẽ , Sa -Thủy trong sáng , được chứng ứng ở phương nào , thì cung ấy phát quý , hưởng lộc.
Tầng 26   : là vị trí của 28 ngôi sao , ngôi nào đóng ở độ số nào , thì ứng với tỉnh , châu , thành , huyện ở cung ấy ( ở dưới đất ).
Tầng 27   : là 24 khí tiết của hàng tháng đón Thái Dương đến cung , tránh Hung sát , tìm Tốt lành : tức là cung Trục Nguyệt , lấy 4 cái Đại Cát Thời làm Thần Tàng sát để Tạo , Táng , thì được Thượng Cát ( tốt trên hết ).







Tầng 28   : là vị trí của 12 Tướng Đăng Minh , đón Thái Dương đến cung , nửa tháng tới 1 Sơn , mỗi tháng qua 1 cung , đi ngược lại 24 sơn , tức là cung Đăng Minh.
Tầng 29   : là 12 vị tinh thể Nghinh Thái Dương đáo cung triều xá , mỗi tháng giửa kỳ khí tiết , để rước Quý Nhân lên Thiên môn.
Tầng 30   : là cung xá quán dịch , tức Thần Thái Dương. Đem văn , võ bá quan đến chỗ chân thủ , mỗi tháng cùng Thái Dương qua 1 cung , Tạo Táng gặp ở cung này rất tốt, mọi cái sát tiềm tàng hết.
Tầng 31   : là 24 ngôi Thiên Tinh chiếu vào cục đất , chia ra Tam Cát , Lục Tú , Cửu Tinh ; Sa , Thủy Thôi Quan , phát phúc. Nếu được Sơn quý tất xuất Đại Cát Quý. Tiên Thánh nói : Long lấy xung hòa làm đẹp ; Tinh lấy được phối làm tốt , chính chỗ này vậy.
Tầng 32   : là Hỗn Thiên Ngũ Hành tinh độ , tại 28 vì sao , chia làm Thất Chính ( 7 vị Chủ tinh ) đều có định , sở , thuộc 1 sao ; cũng có ngũ hành ở trên : Kim 12 , Mộc 13 , Thủy 12 , Hỏa 12 , Thổ 12 , cộng có 61 vị. Duy có cung Cấn là nhiều thêm chữ Mộc. Đây là Ngũ Tinh Đăng Viên ( 5 sao đến cục ) , Ngũ hành cùng với Xuyên sơn , Thấu địa , Phân kim , sự Cát , Hung cùng là cái ở trong , cái ở ngoài , lại hợp với 72 khí tiết , 365 độ trong 1 năm.
Tầng 33   : là chia đều 60 Long , tham hợp với 61 Hỗn Thiên ( tức Hỗn Thiên Ngũ Hành ) , mỗi chữ 1 Long , mỗi chữ quản 6 ngày , thành ra 365 ngày 3 giờ , để ứng với 72 thời tiết của độ số trong 1 năm. Địa bàn căn cứ vào đó căng giây , Phân kim , Thấu địa , Toa huyệt mà dùng. Trong sách Ngỏa Vương hợp tượng cát thư , còn có 24 sơn Thấu Địa Long , thừa khí nhập huyệt.
Tầng 34   : là ngang , dọc độ số của 28 sao , hợp với Nhân bàn có 365 vạch. Trong giới hạn độ số của mỗi sao , chia ra Thượng quan , Trung quan , Hạ quan ( quan là cửa ) để dùng làm cung vị Tiêu sa , là phép của Ai tinh.
Tầng 35   : là định sự Sai thác và Không vong , có điểm đỏ , chấm đen để gát dây Phân kim , cùng với Xuyên sơn , Thấu địa làm cái ở trong , cái ở ngoài liên quan nhau. Khi giăng dây Phân kim phải đặt trên điểm đỏ , không được đặt vào điểm đen , nếu lọt vào khoảng của chấm đen một nửa sợi tơ tóc là hỏng.
Tầng 36   : là 28 sao phối hợp với 24 sơn , và Trung châm Tiêu sa của Nhân bàn , gọi là phép Ai tinh. Lấy sao của sơn Tọa Huyệt làm chủ ; lấy sao ở đằng trước làm Hướng ; và tả , hữu làm Khách. Huyệt trường là Ngôi Bắc Thần ( sao Chính chủ ) , Sa , Thủy là Nhị Thập Bát Tú ( sao phụ tá ). Cũng như sao Bắc Đẩu có các sao khác chầu vào. Vậy sách nho có câu " Thí như Bắc Thần cư kỳ sở , nhi chúng Tinh củng chi " chính là bảo về nghĩa thế.

Trên đây là 36 tầng La Kinh , tôi tham khảo các kinh sách của các vị Tiền Hiền , lập ra La Kinh toàn đồ và chỉ dẫn phép sử dụng minh bạch. Phân phối phổ thông ra bốn phương trong thiên hạ , để mọi người cùng biết sử dụng mà tìm lành , tránh dữ cho công việc tạo phúc khỏi bị nghi hoặc và sai nhầm.

 KHÂM ĐỊNH LA KINH THẤU GIẢI
                                                            QUYỂN THƯỢNG.

                                                        ---------------------

Bàn về việc dùng La Kinh không khác gì : Đứng trên bờ suối , lượng bóng cây. đo chiều sâu...
La Kinh đầu tiên là do Hiên Viên Hoàng Đế đi đánh Si Vưu bị lạc đường. Thượng Đế sai bà Cửu Thiên Huyền Nữ hiện xuống , chỉ cho cách mà đặt ra phương hướng , mới phá tan được yêu thuật của Si Vưu. Phép dùng kim -chỉ -nam là có từ khi đó , tuy nhiên , câu chuyện có vẻ hoang đường.
Có người nói do ở vua Thành Vương nhà Chu. Khi ấy nước Việt thường đến triều cống. Khi về sứ giả quên đường cũ , sợ lạc lối , nên vua nhà Chu cho chế ra Chỉ-nam-xa ( xe có kim chỉ nam bắc ) để dẫn đường. Từ đó La Kinh mới dùng kim pháp để định vị trí , quan sát khí thế để thừa khí vào huyệt mà đặt táng Âm phần.
Xét hành độ của các thiên tinh xung hợp , lấy sinh, vượng khí , phân tích rõ rệt tính chất của Tiên Thiên , dùng Hậu Thiên để xem Thủy lộ chảy đi , chảy lại ; xét kỹ càng về họa phúc do hào ly ở nơi sai, đúng , làm cho Trời không đổi được mạng người. Vì vậy người trí thức có tài năng , am hiểu về địa lý , thiên văn , thì có thể đoạt được thần công , cải được Thiên mệnh ! vậy đất có nhiều cái không hoàn toàn mỹ mãn , nên phải thay đổi , thêm bớt ít nhiều để tránh sự hung , tìm cái lành. Vì vậy ý nghĩa của Tam Tài là cần yếu phải xem ở La Kinh , mới rõ ràng được chí lý. Trên xem được Thiên thời , dưới xét được Địa lợi , giửa có thể quyết định được nhân sự. Ngoài ra không còn cái gì khác và phải đạo lý hơn cả.
Luận Thái Cực Hóa Sinh :
1/.  Thái Cực là Hoàng Đạo , Ngũ Hành thiên biến , vạn hóa là do ở đó.
2/.  Tượng ( Lưỡng Nghi ) tức Âm và Dương , là Kiền Khôn ( trời đất )
3/.  Tam Tài ( là Trời , Đất , Người ).
4/.  Tứ Tượng ( là Đông , Tây , Nam , Bắc ).
5/.  Ngũ Hành ( là Kim , Mộc , Thủy , Hỏa , Thổ ).
6/.  Lục Giáp ( là mỗi 60 năm là 1 Nguyên , có Thượng Trung Hạ Nguyên ).
7/.  Thất Chính ( là Nhật cầu , Nguyệt cầu và 5 vì Tinh tú ).
8/.  Bát Quái ( là Kiền , Khảm , Cấn , Chấn , Tốn , Ly , Khôn , Đoài ).
9/.  Cửu Cung ( là Tham , Cự , Lộc , Văn , Liêm , Vũ , Phá , Phụ , Bật ).
10/. Thành số ( theo ở Lạc Thư , thì 1 được thêm 9 thành 10 , gọi là Hợp Thập ).
 
 
 
 
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
 
                                                   KHẢO NGHIỆM LA KINH
                                           ( Khởi lệ , dụng pháp , đối chứng ).
                                                  -------------------------
 
La KInh chế ra tập trung được tất cả mọi tinh hoa của Trời Đất. Nguyên bản Thái Cực là tinh chất của Thiên Địa ngưng đọng lại , là căn bản của vạn vật. Đặt tên là La Kinh , vì chữ La có nghĩa là " bao la vạn vật " ; Kinh có nghĩa là kinh luận " Kinh Thiên Vĩ Địa , là trải khắp cả ngang Trời , dọc Đất ". Sở dĩ lập ra có qui cũ ( khuôn mẫu ) quyền cái , khinh trọng , thành ra vuông , tròn , chẳng cái gì mà không do cái Kim Châm ( kim vàng chỉ nam , bắc ) và cái Thiên Trì ( vòng tròn ). Trước hết để định về Phong Thủy , giả sử cái La Kinh mà không có Thiên Trì , thì không quyết định được phương Tý , Ngọ ; không phân biệt được Âm Dương ; không hoạch định được Bát Quái , Cửu Cung  ; Ngũ Hành lẫn lộn , không sử dụng được 2 đầu mối của Can Chi ; không biết được Long , Hướng , Khí , Mạch hay dỡ thế nào , lấy gì mà làm căn cứ ? Vậy nên phải có Kim Châm ở trong vòng Thiên Trì. Động thì Dương , Tĩnh thì Âm . Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng , phân ra Bát Quái ; định vị Cát Hung , tự nhiên hóa hóa , sinh sinh , vô cùng vô hạn !
Nguyên bản của Trời Đất không phải là ở đầu cực , mà ở 1 điểm chính giửa đỉnh châm làm tổ khí , và cũng là căn bản của vạn vật , vạn hóa.
Phân xét  :  Ngoài Thiên Trì ra thì La Kinh tức là Thái Cực , phải lấy giửa Tý , Ngọ mà phân làm Lưỡng Tượng ; Lưỡng Tượng hợp với Mẹo , Dậu làm Tứ Tượng ; Tứ Tượng hợp với Tứ Duy làm Bát Quái ; Bát Quái định được rồi thì mọi phân vị đều được minh bạch quyền hành phận sự. Tức là Thiên Đạo , Địa Đạo , Nhân Đạo đã thiết lập định hoạch tinh tường.
Có bài thơ   :    Hư , Nguy chi gian châm độ minh.
                      Nam phương Trương độ thượng tam thừa.
                      Khảm Ly chính vị , nhân nan thức.
                      Sai khước hào ly , đoán bất linh.
Nghĩa là  :  trong khoảng sao Hư và sao Nguy đã phân rõ ranh giới ; phương Nam thuộc về độ phận của sao Trương , trên có 3 vị liên tiếp ( Bính , Ngọ , Đinh ) ; Khảm và Ly là ngôi chính khí , đời ít có người biết ! Nếu làm sai 1 li , thì đoán họa , phúc không linh nghiệm
 
La KInh chế ra tập trung được tất cả mọi tinh hoa của Trời Đất. Nguyên bản Thái Cực là tinh chất của Thiên Địa ngưng đọng lại , là căn bản của vạn vật. Đặt tên là La Kinh , vì chữ La có nghĩa là " bao la vạn vật " ; Kinh có nghĩa là kinh luận " Kinh Thiên Vĩ Địa , là trải khắp cả ngang Trời , dọc Đất ". Sở dĩ lập ra có qui cũ ( khuôn mẫu ) quyền cái , khinh trọng , thành ra vuông , tròn , chẳng cái gì mà không do cái Kim Châm ( kim vàng chỉ nam , bắc ) và cái Thiên Trì ( vòng tròn ). Trước hết để định về Phong Thủy , giả sử cái La Kinh mà không có Thiên Trì , thì không quyết định được phương Tý , Ngọ ; không phân biệt được Âm Dương ; không hoạch định được Bát Quái , Cửu Cung  ; Ngũ Hành lẫn lộn , không sử dụng được 2 đầu mối của Can Chi ; không biết được Long , Hướng , Khí , Mạch hay dỡ thế nào , lấy gì mà làm căn cứ ? Vậy nên phải có Kim Châm ở trong vòng Thiên Trì. Động thì Dương , Tĩnh thì Âm . Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng , phân ra Bát Quái ; định vị Cát Hung , tự nhiên hóa hóa , sinh sinh , vô cùng vô hạn !
Nguyên bản của Trời Đất không phải là ở đầu cực , mà ở 1 điểm chính giửa đỉnh châm làm tổ khí , và cũng là căn bản của vạn vật , vạn hóa.
Phân xét  :  Ngoài Thiên Trì ra thì La Kinh tức là Thái Cực , phải lấy giửa Tý , Ngọ mà phân làm Lưỡng Tượng ; Lưỡng Tượng hợp với Mẹo , Dậu làm Tứ Tượng ; Tứ Tượng hợp với Tứ Duy làm Bát Quái ; Bát Quái định được rồi thì mọi phân vị đều được minh bạch quyền hành phận sự. Tức là Thiên Đạo , Địa Đạo , Nhân Đạo đã thiết lập định hoạch tinh tường.
Có bài thơ   :    Hư , Nguy chi gian châm độ minh.
                      Nam phương Trương độ thượng tam thừa.
                      Khảm Ly chính vị , nhân nan thức.
                      Sai khước hào ly , đoán bất linh.
Nghĩa là  :  trong khoảng sao Hư và sao Nguy đã phân rõ ranh giới ; phương Nam thuộc về độ phận của sao Trương , trên có 3 vị liên tiếp ( Bính , Ngọ , Đinh ) ; Khảm và Ly là ngôi chính khí , đời ít có người biết ! Nếu làm sai 1 li , thì đoán họa , phúc không linh nghiệm.



Còn tiếp




Sưu tầm từ: http://vnthuquan.net/diendan/%28S%284uk55k55cidmaz55fywcpl55%29%29/tm.aspx?m=37082