Translate

Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

TRÀ THƯ II

Đặc biệt con đường du nhập trà vào Nhật Bản không phải bằng con đường thương mại. Trà vào Nhật Bản theo dòng truyền bá Thiền học Trung Hoa và ngoại giao. Thư tịch cổ  ghi trà lần đầu tiên vào Nhật Bản bởi thiền sư Tối Trừng (Saicho – 最澄) vào năm 805, rồi đến lượt thiền sư Không Hải (Kukai – 空海) năm 806. Trà phổ biến trong giới hoàng tộc từ khi Thiên Hoàng Tha Nga (Saga tennō – 嵯峨天皇; 786–842) khuyến khích trồng trà. Hạt giống cây trà du nhập từ Trung Hoa về Nhật vào năm 1191 nhờ công của thiền sư Vinh Tây (Eisai – 榮西) . Thiền sư Vinh Tây còn có công với văn hóa trà Nhật Bản với tác phẩm Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký (kissa yōjōki – 喫荼養生記). Một số hạt giống khác do thiền sư Không Dã Thượng Nhân (Myoe Shonin – 空也上人) mang về Nhật và thành loại trà nổi tiếng Uji. Vì văn hóa trà của Nhật là một chủ đề lớn sẽ đề cập ở hai quyển sau thiết tưởng không cần nói quá chi li ở đây. Dữ kiện này cũng cho thấy trà được canh tác tại Trung Hoa không thể sớm hơn thế kỷ thứ 10.
Tương tự như Nhật Bản, trà vào Hàn Quốc cũng bằng con đường các tăng sĩ qua Trung Hoa học đạo, có lẽ cũng vào thế kỷ thứ 6 hay thứ 7. Theo biên niên sử Samkuk-yusa và Samkuk-sagi; năm 661 Hoàng hậu Sondok (trị vì từ năm 632 đến 647) uống trà với vua Munmu trong một lễ cầu kiến. Suốt triều đại Koryo của Hàn Quốc (vào thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 13) trà là chủ đề cho thi ca. Trà được dùng dâng cúng tổ tiên và Phật. Đến thế kỷ 14, Phật giáo ở Hàn Quốc bị đàn áp, chùa chiềng bị đập phá, sư sãi bị buộc phải hoàn tục. Tuy nhiên giới nho sĩ và hoàng thất vẫn dùng trà, trong triều đình vẫn có một vị thượng thư lo về trà. Năm 1590, Nhật xâm lược Hàn Quốc, đốt phá lăng miếu và cướp đi rất nhiều trà cụ và trà khí. Thảm họa này làm nền văn hóa trà của Hàn Quốc suy yếu dần. Một phần sự suy yếu còn do các chủ vườn trà vốn gặp khó khăn lại bị đanh thuế quá nặng, việc trồng trà bị thu hẹp lại.
May sau vào đầu thế kỷ 19, vị đại học sĩ Tasan, tức Chong Yak-yong (1762-1836) hâm mộ việc uống trà theo đúng nghi thức lúc ông bị lưu đày là Kangjin, cực nam Hàn Quốc. Vị đại học sĩ này học cách chế biến và uống trà từ hòa thượng Hyejang, đang trụ trì một ngôi chùa gần Kangjin. Vào những năm đầu thế kỷ 19, một vị tăng trẻ tên là Ch’o Ui (1786-1866) đến thăm Tasan và lưu lại hàng tháng để uống trà cùng ông. Nhờ vậy mà Trà đạo Hàn Quốc được lưu truyền. Tuy nhiên, phải chờ đến nhiều thập kỷ gần đây trà đạo Panyaro mới được khôi phục nhờ nỗ lực to lớn của hòa thượng Hyo Dang, thế danh Ch’oi Pom-sul. Vị hòa thượng này viết một nghiên cứu dài về trà đạo với nhiều góc độ của nền văn hóa này.
Còn trà Việt Nam có nguồn gốc như thế nào? Nhiều cơ sở chứng minh trà là cây bản địa ở miền Bắc Việt Nam và thư tịch Trung Hoa lẫn Việt Nam không có chứng cứ  gì cho thấy các quan lại đô hộ Việt Nam mang trà từ Trung Hoa vào. Các cứ liệu dưới đây chứng minh điều này:
Theo Đỗ Ngọc Quỹ: “Thứ nũa, theo tài liệu khảo cứu của Uỷ ban Khoa học Xã hội thì người ta đã tìm thấy dấu tích của lá và cây chè hóa thạch ở đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ) . Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè có từ thời kỳ đồ đá Sơn Vi (văn hóa Hòa Bình). Cho đến nay, ở vùng Suối Giàng (Văn Chấn-Nghĩa Lộ-Yên Bái), trên độ cao 1.000 mét so với mặt biển, có một vùng chè hoang khoảng 40.000 cây chè dại, trong đó có một cây chè cổ thụ lớn nhất, ba người ôm không xuể.” (Webside Đặc Trưng – download 05/2009). Một chứng cứ tư liệu khác: Thiền Uyển Tập Anh, mục Tăng thống Huệ Sinh (?-1064) có nói đến một địa danh gọi là Núi Trà ở Bắc Ninh, như sau: “Năm 19 tuổi, Sư bỏ đời, cùng Pháp Thông chùa Hạc Lâm thờ Định Huệ chùa Quang Hưng làm thầy. Học thiền mỗi ngày một tiến. Định Huệ vỗ về mến chuộng. Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, hỏi hết thiền chỉ rồi đến đỉnh Bồ Đề núi Trà trác tích. Mỗi lần vào định, trải qua năm ngày mới dậy. Người bấy giờ gọi Sư là Đại sĩ nhục thân”. Tiến sĩ Lê Mạnh Thát chú thêm: Núi Trà “Tức núi Nguyệt Thường hay núi Bạch Sắc ở huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Bắc Ninh, mục Sơn xuyên nói: “Núi Nguyệt Thường, tại phía tây nam huyện Tiên Du ba dặm, một tên là núi Bạch Sắc, cũng gọi là núi Trà. Tương truyền Lý Thánh Tôn đến chơi núi đó và cho tên Nguyệt Thường. Núi hơi cao, đá đất lẫn lộn. Trên núi có liu, dưới núi có đền Cao Sơn. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) triều ta liệt vào hạng danh sơn, chép vào sách cúng. Núi này hiện có đỉnh Bồ Đề không, chưa thể biết được Núi này hiện có đỉnh Bồ Đề không, chưa thể biết được.” Khả năng núi này là núi có cây trà hoang mọc nhiều là điều không phải không thể tin. Lê Quý Đôn dẫn Trà Kinh của Trung Hoa viết: “Trà là một loại cây quý ở phương Nam, cây như cây qua lô, lá như lá chi tử , hoa như hoa tường vi trắng, quả như quả tinh biền lư, nhị như nhị đinh hương, vị rất hàn” (Vân Đài Loại Ngữ – Phẩm Vật). Vậy cây trà lúc đó người Việt gọi là qua lô, giống như cư dân vùng Vân Nam gọi là đồ (sau người Trung Hoa thêm một vạch ngang và đọc là trà). Sách trung Hoa cũng thừa nhận cây trà vốn có trong tự nhiên tại Việt Nam, cuốn Nghiêm Bác Tạp Chí, Đào Hoằng Cảnh, người san định lại Thần Nông bản Thảo, mượn lời Lý Trọng Tân viết: “Trà ở Giao Chỉ như rêu xanh, vị cay gắt gọi là trà đăng”. Như vậy trà là cây bản địa Việt Nam được người Trung Hoa đánh giá cao, nên việc cống trà thời Đinh là điều không phải là khó hiểu.
Còn về khảo cổ người ta tìm thấy nhiều đồ gốm đời Lý-Trần, trong đó có vật dụng uống trà. Bùi Ngọc Tấn trong bài “Đồ gốm đời Lý-Trần, thời thăng hoa”’ có viết về đồ men ngọc: “Ngoài những bát, chén và đĩa men ngọc nhỏ, ta còn thấy có nhiều tước (hay bôi), bình trà, nậm rượu nhỏ. Có những nậm rượu men ngọc chạm nổi hình 2 con cá chép đang bơi. Có những nậm rượu hình quả bầu.” (Nguồn: www.dongtac.net). Di chỉ Nông Giang tại Thanh Hóa, trong nhiều đồ tuẫn táng có tìm thấy được nhiều chén trà, dĩa trà có thời gian tính ngang với các đời Tống, Minh bên Trung Hoa (Phan Hưng Nhơn).
Cây trà là cây bản địa, nhưng có nền văn hóa trà hay không là chuyện khác. Ở đây cần nhấn mạnh Việt Nam đã có tập quán uống trà từ lâu đời và nó chiếm một vai trò nhất định trong đời sống xã hội. Chẳng hạn sử liệu đã nêu ở trên có nói Đinh Liễn cống trà cho nhà Tống. Bước đường từ một thức uống dân giả lấy ở cây bản địa đến sản phẩm triều cống không phải là con đường ngắn vì đồ lễ triều cống phải là thứ quý hiếm. Như vậy chứng tỏ người Việt biết dùng trà có văn hóa ít ra phải trước năm 979. Cũng trong tác phẩm này, Lê Tắc mô tả tục uống trà của người Việt thời đó đã trở thành nghi thức lễ hội: “Ngày 30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan-Củng, các bề tôi đều làm lễ, lễ rồi, xem các con hát múa trăm lối. Tối lại qua cung Động-Nhân, bái yết Tiên-Vương. Đêm ấy đoàn thầy tu vào nội làm lễ “Khu-Na” (nghĩa là đuổi tà ma quỉ mị). Dân-gian thì mở cửa đốt pháo tre, cổ bàn trà rượu cúng tổ.” (Mục Phong tục)
Qua đời Lý-Trần, văn hóa trà của Việt Nam bước một bước dài qua lãnh vực triết lý và tâm linh. Lại cũng trong Thiền Uyển Tập Anh, mục Thiền sư Viên Chiếu (999-1090) thuật chuyện một tăng sĩ đến vấn đạo Viên Chiếu. Trong nhiều câu vấn đạo có đoạn sau: Sư lại hỏi: “Xanh xanh trúc biếc thảy chân như. Thế nào là dụng của chân như?”, Viên Chiếu đáp: “Tặng anh ngàn dặm xa. Cười mang trà một bình.” (Tặng quân thiên lý viễn, Tiên bả nhất bình trà.) Trong các tác phẩm Thiền thời Lý-Trần, chúng ta thấy nhiều thiền thoại dùng điển tích, ví dụ Trần Nhân Tông lấy “Trà Triệu Châu” để giảng pháp trong Cư Trần Lạc Đạo Phú (Trà Triệu lão, bánh Thiều dương, bầy thiền tử hãy còn đói khát; Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu Thất, chúng nạp tăng những để lưu hoang.). Nhiều tư liệu rời rạc khác còn cho thấy thời Lý-Trần người Việt dùng trà phổ biến không kém người Trung Hoa đời Minh; chẳng hạn trong Khóa Hư Lục vua Trần Thái Tông viết: “Như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt. Ban đêm mùa hè chúng ta đốt ngọn đèn dầu, các con bướm ở ngoài thấy đèn liền đáp vào, nên tự thiêu tự đốt. Người đời đuổi theo dục lạc thế gian, tưởng rằng hưởng được dục lạc là hạnh phúc, nhưng nếu ai có nhiều tiền lắm của, ngày đêm đều vào tửu điếm trà đình, lầu xanh thì cũng giống như bướm lao vào đèn. Đó là tự  mình tìm cái chết, tự thiêu tự đốt.” Quán trà thời đầu nhà Trần đã có rồi chăng!?
Lại cũng trong Thiền Uyển Tập Anh, mục Thiền sư Viên Chiếu (999-1090) thuật chuyện một tăng sĩ đến vấn đạo Viên Chiếu. Trong nhiều câu vấn đạo có đoạn sau: Sư lại hỏi: “Xanh xanh trúc biếc thảy chân như. Thế nào là dụng của chân như ?”, Viên Chiếu đáp: “Tặng anh ngàn dặm xa. Cười mang trà một bình.” (Tặng quân thiên lý viễn, Tiên bả nhất bình trà.) Nhiều tư liệu rời rạc khác còn cho thấy thời Lý-Trần người Việt dùng trà phổ biến không kém người Trung Hoa; chẳng hạn trong Khóa Hư Lục vua Trần Thái Tông viết: “Như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt. Ban đêm mùa hè chúng ta đốt ngọn đèn dầu, các con bướm ở ngoài thấy đèn liền đáp vào, nên tự thiêu tự đốt. Người đời đuổi theo dục lạc thế gian, tưởng rằng hưởng được dục lạc là hạnh phúc, nhưng nếu ai có nhiều tiền lắm của, ngày đêm đều vào tửu điếm trà đình, lầu xanh thì cũng giống như bướm lao vào đèn. Đó là tự mình tìm cái chết, tự thiêu tự đốt.” Quán trà thời đầu nhà Trần đã có rồi!?
Đáng tiếc Bắc Thuộc lần thứ 3 của nhà Minh, dù chỉ kéo dài khoảng 10 năm, đã tàn phá nền văn hóa và thư  tịch Việt Nam một cách khủng khiếp. Thư tịch của người Việt bị đốt và một số chuyển về Kim Lăng, nhân tài bị cống nạp về chính quốc như trường hợp Thiền sư Tuệ Tỉnh. Hiện nay chỉ còn lại một số tác phẩm đời Lê nói man mác về văn hóa uống Trà, chẳng hạn cuốn Thượng Kinh Ký Sự của Hải Thượng Lãn Ông. Qua những tài liệu đó biết được đời Lê có chức quan coi về trà và giới thượng lưu quý tộc có thuê người hầu trà gọi là trà đồng.
Sử liệu cho thấy (Đại Việt Thông Sử – lê Quý Đôn) cho thấy thế kỷ 16 (Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 16 – 1548) trà không còn là thứ  sản phẩm quý tộc, mà đã trở thành món hàng dân dã đến tận tay người nghèo, sách này viết: chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên phong Phạm Quỳnh tước Vinh quận công, phong con trai Quỳnh là Dao tước Phú xuyên hầu và viết tiếp “Phạm Quỳnh nguyên quán ở làng ở làng Đặng Xá, huyện Thanh Lâm, đến ngụ cư tại Thôn Bùi Tây xã Thịnh Liệt, nhà nghèo làm nghề bán trà. Khi Kính Điển lên 2 tuổi, thường đau ốm quặt quẹo luôn, muốn tìm người vú nuôi, Lê Bá Ly bèn sai vợ Phạm Quỳnh vào cung làm vú sữa nuôi Kính Điển. Đến đây, Kính Điển giữ chính quyền, nghĩ tới nghĩa bảo dưỡng của vợ Quỳnh, cho nên trọng dụng cả hai cha con Phạm Quỳnh: Sai Phạm Quỳnh giữ quyền tiết chế đông đạo; cho Phạm Dao trấn thủ xứ Sơn Nam, rồi thăng đến tước Văn quận công.” Xứ Đàng Ngoài có Chúa Trịnh Tùng rất mê trà, tự nhận mình là trà nô (nô lệ của trà).
Đến thế kỷ thứ 18 , trà là hàng hóa thông dụng khắp Việt Nam khắp hang cùng ngỏ hẻm ngay trong vùng đất mới như miền Nam. Trong cuốn Sài Gòn Năm Xưa, Vương Hồng Sển viết: “Sau trận giặc 1782, theo Trịnh Hoài Đức thuật lại, thì hàng hóa các tiệm buôn Tàu như trà, vải lụa, thuốc men, hương liệu, giấy má đủ loại bị tuôn ra bỏ bừa bãi lềnh khên ngập đường sá, hèn lâu như vậy mà không ai dám rớ dám mót lượm về xài. Qua năm 1783, giá hàng hóa vụt lên mà ngợp : kim may mỗi cây một lượng bạc, trà Tàu tám quan tiền một cân, …” Và hiện nay trà là món uống phổ thông đến mức chẳng ai cần quan tâm nó hiện hữu hay không, giống như chẳng mấy ai chịu nghĩ đến không khí dù không có nó mình chết vậy.
Do vậy, dù chưa có những chứng minh thuyết phục hơn nhưng chúng ta vẫn tin trà không phải là nền văn hóa hoàn toàn du nhập và lệ thuộc của Trung Hoa, đồng thời cũng không hoàn toàn phủ nhận nền văn hóa trà của Trung Hoa có ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam thông qua 1.000 năm Bắc thuộc. Nhưng xét cho kỹ, văn hóa trà Việt Nam chịu ảnh hưởng của sự “thanh thoát và hướng tự nhiên” ở dân tộc Bách Việt của vùng Hoa Nam nhiều hơn là phong cách “luân thường Khổng gia” của trà pháp Hoa Bắc.
Tôi dành riêng chương 3 “Trà Phong” ở quyển ba để quay lại biện biệt điều này.
Phần chú thích:
1 Thần nông bản thảo: Tác phẩm này ghi chép 365 vị thuốc (252 loại thực vật, 67 loại động vật và 46 loại khoáng vật), trong đó có cây trà. Thực ra cuốn sách này do nhiều người biên chép và truyền khẩu; sau đó Đào Hoằng Cảnh (457 – 536) biên tu lại. Do vậy không thể xuất hiện trước thế kỷ thứ 6.
2 Kinh Lễ là cuốn sách cổ ghi các lễ nghi thời xưa do Đức Khổng Tử tập hợp và san định lại cho rành rẽ, trong đó có các thiên Lễ Vận 禮運, Lễ Khí 禮器, Tế pháp 祭法, Tế nghĩa 祭義, Tế thống 祭統, … nói rất chi tiết về thời gian, cách thức và vật dụng trong cúng tế và nghi lễ
3 Khổng tử ra đời sau đời Chu và thường lấy mẫu mực nhà Chu để dạy học trò. Ngài luôn lấy các hành vi và chế định đời Chu làm mực thước để dạy tam cương, ngũ thường. Khổng Tử là người rất trọng lễ nghi và cúng tế.
4 Kinh Thi thể hiện rất nhiều mặt trong đời sống thời trước Khổng Tử cho đến lúc Ngài san định. Chẳng hạn viết về: chồng nhớ vợ (Quan thư), khen tặng vợ chư hầu lo việc cúng tế (Thái phiên), Đi tị nạn loạn lạc (Bắc phong), tả phong cảnh cây cỏ tươi tốt (Tiêu liêu), Trai gái tụ hội ca hát (Đồng môn chi phần), …
5 Trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, giáo sư Nguyện Lang có viết các bài tụng công phu hai buổi như sau: “Thời khóa buổi sáng: 1. Thần chú Lăng Nghiêm, 2. Thần chú Ðại Bi Tâm, 3. Thần chú Như Ý Bảo Luân Vương, 4. Thần chú Tiêu Tai Cát Tường, 5. Thần chú Công Ðức Bảo Sơn, 6. Thần chú Chuẩn Ðề, 7. Thần chú Dược Sư Quán Ðỉnh, 8. Thần chú Quan Âm Linh Cảm, 9. Thần chú Thất Phật Diệt Tội, 10.Thần chú Vãng Sinh Tịnh Ðộ, 11. Thần chú Ðại Cát Tường Thiên Nữ, 12. Tâm kinh Bát Nhã, 13. Niệm Phật Thích Ca, 14. Ðảnh lễ chư Phật, 15. Hồi Hướng. Thời khóa buổi chiều: 1. Kinh A Di Ðà, 2. Thần chú Vãng Sinh Tịnh Ðộ, 3. Sám Pháp Hồng Danh, 4. Nghi thức Thí Thực Mông Sơn, 5. Tâm kinh Bát Nhã, 6. Niệm Phật A Di Ðà, 7. Ðảnh lễ chư Phật, 8. Hồi hướng Cực Lạc, 9. Tam Quy.”. Các thần chú là dấu ấn của Mật Tông, có uống trà hay không không thấy nhắc đến.
6 Lưu ý là vào thời đó, thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, chưa có vùng duyên hải Trung Hoa nào có trồng trà.
7 Mỵ Nương: danh xưng của con vua Hùng hay con lạc hầu, lạc tướng.
8 Hồ Động Đình là một trong những cái nôi của cây trà, nơi đây có đảo Quân San nối tiếng về trà.
9 Thậm chí Đường Thái Tông phải dùng biện pháp ngoại giao hôn nhân để giữ tạm ổn. Nhiều công chúa được gã cho các nước lân bang, trong đó có công chúa Văn thành gã sang Tây Tạng (lúc đó gọi là Thổ Phồn)
10 Tư liệu lịch sử cũng cho thấy vùng Hoa Nam biết đến trà trước vùng Hoa Bắc và chính các thiền sư vùng Hoa Nam truyền bá trà lên vùng Hoa Bắc.
11 Con đường này bắt đầu từ thế kỷ thứ 2 Tr. Công Nguyên đến thế kỷ 15 Sau Công Nguyên; trong thời gian này có nhiều lần bị suy thoái đến mức gần như không hoạt động.
12 Trước kia một điểm dừng chân của các đoàn thương buôn trên Con Đường Tơ Lụa,
13 Tối Chừng (767- 822): cao tăng Nhật Bản sáng lập thiền viện danh tiếng trên núi Tỉ Duệ (比叡 -: hiei), khai dòng Thiên Thai tông ở Nhật. Năm 822, Sư viên tịch ngay tại núi Tỉ Duệ.
14 Không Hải (774-835): còn gọi là Hoằng Pháp Ðại sư (kōbō daishi); Cao tăng Nhật Bản khai dòng Chân Ngôn tông (shingon)) ở Nhật Sư rất nổi danh trong hội họa, điêu khắc
15 Vinh Tây (1141-1215): đầy đủ tên là Minh Am Vinh Tây (myōan eisai), thiền sư Nhật Bản khai dòng Lâm Tế tại nước này. Rất giỏi y học và thiền học.
16 Không Dã Thượng Nhân (903-972): cao tăng Nhật Bản, còn mệnh danh là Thị Thánh (ông Thánh ở ngoài chợ) góp phần truyền vào Nhật Bản Tịnh Độ Tông, sau Viên Nhân (793-864)).
17 Người ta vừa mới công bố bức ảnh chụp một quả trà hoá thạch được tìm thấy ở Con Moong – Hòa Bình do tiến sĩ khảo cổ Nguyễn Việt tìm thấy. Quả trà ấy có niên đại cách đây khoảng 10.000 ngàn năm.
18 Cần lưu ý: các địa danh có chữ trà từ Thanh Hóa trở vào rất có thể không là cây trà. Ở miền Trung chữ trà có thể phiên âm một từ trong tiếng Chăm và ở miền Nam là tiếng khờ-me
19 Chi tử: trái dành dành
20 Sách An Nam Chí Lược của Lê Tắc
21 Tư liệu này trích trong Tham Đồ Hiển Quyết của thiền sư Viên Chiếu.
22 Trà Triệu Châu: Thiền sư Triệu Châu (778-897), ở Hoa Nam, hỏi một trong hai vị tăng mới đến: “Thầy đã đến đây lần nào chưa?” Trả lời: “Chưa”. Triệu Châu nói: “Uống trà đi”. Lại hỏi vị tăng kia: “Thầy đã đến đây lần nào chưa?” Trả lời: “Rồi”. Triệu Châu nói: Uống trà đi”. Vị Viện Chủ thiền viện hỏi Triệu Châu: “Người chưa từng đến thì dạy “uống trà đi” còn vị đã từng đến cũng dạy “uống trà đi, thế là thế nào?” Triệu Châu gọi: “Viện Chủ!” Viện Chủ đáp: “Dạ!” Triệu Châu nói: “Uống trà đi”. Câu chuyện đó trở thành công án thiền học.
23 Tư liệu này trích trong Tham Đồ Hiển Quyết của thiền sư Viên Chiếu.
24 Vào thời điểm này nhiều nước trên thế giới chỉ mới du nhập trà vào.
Trà thư – Đức Chính biên soạn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét