Translate

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

TỤC THỜ THẦN ĐÁ Ở VIỆT NAM - PHẦN II

1.2.2 Cầu tự
Cầu tự là nghi lễ để mong có được nhiều người, đặc biệt là đối với các gia đình hiếm muộn. Người ta có thể cầu tự tại nhà nhưng phổ biến hơn là ở chùa. Đối với người đi cầu tự, điều quan trọng là họ phải thành tâm, tin tưởng, do đó sự lựa chọn thường là chùa - không gian thiêng. Nơi cầu tự thường là các đình chùa thiêng. Miền Bắc có những địa điểm như chùa Hương, chùa Thầy (Hà Tây), chùa Bổ Đà (Bắc Giang)…
Trong nghi lễ cầu tự, ngoài lễ vật, các hình thức lễ bái, thì người ta còn phải làm những động tác ma thuật. Những động tác đó liên quan đến các vật thiêng, thường là hòn đá thiêng. Những hành động của con người tạo ra sự cảm ứng của thiên nhiên, giúp con người đạt được nguyện vọng.
Ở Chùa Hương có núi Cô, núi Cậu, hòn Sữa Mẹ, hòn Đụn Gạo… để cho người đời cầu xin những thứ mình cần. Những người cầu tự, sau khi lễ xong, ai muốn sinh con trai thì xoa tay vào hòn Núi Cậu, ai muốn sinh con gái thì xoa tay vào hòn Núi Cô. Sau đó, họ phải ngắm nhìn, để ghi vào tâm khảm, thì mới có linh nghiệm (10/301). Đây là hình thức ma thuật tiếp xúc. Dân gian cho rằng, sự tiếp xúc giữa con người với các vật thiêng có thể đem lại sự thay đổi cho con người. Khả năng sinh nở của con người không theo quy luật là do một trở lực nào đó. Cho nên, việc cầu tự chẳng qua là để xoá bỏ những trở lực đó cho con người. Và họ đã cầu viện đến những tảng đá thiêng. Đá có thể truyền đạt lời thỉnh cầu của con người đến Trời, Đất, các vị thần, khiến cho các thế lực đó cảm động và trợ giúp con người. Ngoài ra, con người sẽ nhận được sinh khí của thiên nhiên thông qua hành động tiếp xúc đó. Trong kiến trúc của các ngôi chùa cổ, các bậc đi lên chùa bao giờ cũng bằng đá. Người đi lễ (ngày xưa) thường đi chân đất. Đó là cách tốt nhất để có được sự giao tiếp giữa con người với Trời Đất (thông qua đá). Bởi vì, những bậc đá đó ngày ngày được hấp thu linh khí của Trời Đất.
Những hòn đá trong các hang động thể hiện mối giao hoà Âm – Dương, Trời - Đất. Hang động biểu tượng cho sinh thực khí của người phụ nữ (yoni), biểu hiện khả năng sinh nở; còn những hòn đá biểu trưng cho sinh thực khí nam (linga). Những hòn đá “mọc” lên trong hang động mang ý nghĩa về sự hoà hợp, sinh sôi nảy nở. Sự hoà hợp của thiên nhiên sẽ dẫn đến sự hoà hợp và sinh nở của con người. Hành động xoa tay vào đá có tính chất tiếp xúc, giao cảm giữa con người và thiên nhiên là hiện tượng có tính chất phổ biến toàn thế giới: “Những cặp vợ chồng mới cưới cầu khẩn các tảng đá để có con, những phụ nữ cọ mình vào đá để được thụ thai, có thể bởi tổ tiên - đá tình yêu” (12/270).
Hòn núi Cô, núi Cậu ở chùa Hương, cũng như ở chùa Thầy đều mang ý nghĩa biểu trưng như vậy.
1.2.3. Các hình thức khác liên quan đến nghi lễ nông nghiệp
Ngoài những biểu tượng của nghi lễ phồn thực, các cư dân nông nghiệp cũng có nhiều hình thức tín ngưỡng khác có liên quan đến tục thờ Đá. Bởi vì đá là đặc trưng của núi, cho nên nó có thể truyền sinh lực của Trời - Đất với nhau. Người ta lấy đá là biểu tượng để truyền tải niềm tin không lí giải được và lòng mong muốn cha Trời hoà thuận với mẹ Đất để cho sinh lực khí trời đất hoà thuận với nhau, để muôn vật có thể sinh sôi nảy nở. Để đạt được mục đích đó, dân gian có nhiều cách thức tiến hành như:
+ Tục truyền ngày xưa ở khu vực chùa Hương, đến ngày mồng 3 Tết, nhân dân lại tổ chức lễ "động thổ”, với ý nghĩa đánh thức trời đất sang một năm mới, chuẩn bị bắt tay vào sản xuất. Người ta lên núi, chọn lấy những hòn đá, đem làm lễ cúng tế. Sau đó, họ cầm những hòn đá đó ném ra bốn xung quanh, vào núi, đất, sông... Động tác ném đá đó mang tính chất ma thuật mô phỏng, sự chuyển động của đá tác động vào đất, sẽ đánh động được đất. Hiện tượng này được diễn ra ở chùa Hương, nằm trên một đỉnh núi thiêng, nên sẽ được trời đất thấu hiểu và đáp ứng. Hiện nay, tục này không còn nữa, có lẽ nó đã chuyển hoá thành hình thức cúng lễ thông thường vào dịp năm mới.
+ Tương truyền: đền Thượng trong khu di tích đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và đền Thượng trên núi Tản đều có một tảng đá hình vỏ trấu, chiều dài lên tới 2m. Hiện nay, tảng đá đó không còn nữa. Tảng đá thiêng đó là hình thức thờ cúng Mẹ Lúa của cư dân nông nghiệp. Sự tồn tại của tảng đá hình hạt thóc ở hai nơi (núi thiêng) như thế chứng tỏ sự tồn tại của một quan niệm mang tính phổ biến của dân gian. Đó là sự cầu mong mùa màng tươi tốt dựa vào sự thờ cúng vật thiêng.
+ Đặc biệt đá được sử dụng nhiều trong nghi lễ cúng hồn lúa ở một số dân tộc. Lễ cúng hồn lúa của người Kháng được miêu tả như sau: Người mẹ lúa “mạ lặm” cầm hòn đá thiêng chủ trì buổi lễ. Bà tắm rửa sạch sẽ, ra nương sớm. Bà vơ lấy 9 khóm lúa gần nhau, vít trĩu xuống lòng một chiếc mẹt, chặn hòn đá lên, vừa làm vừa lẩm bẩm: “Hồn lúa nhập vào đây, ở lại đây không được đi đâu”. Bà lại cắt sao cho được 9 cụm để trên mẹt dưới hòn đá thiêng. Lúc về, bà lượm một hòn đá trên nương thay cho “xêng lặm”. Hồn lúa được coi như đã thu vào trong một hòn đá thiêng “xêng lặm”, có tác động làm cho lúa sinh sôi nảy nở, giữ lại được ở trong nương không bay đi và tác dụng đến mùa sau (15/356).
+ Một chức năng vô cùng quan trọng của những hòn đá thiêng với sản xuất nông nghiệp là chúng tham gia vào những hoạt động cầu mưa. Nguyên tắc mô phỏng cũng ngự trị trong ma thuật thời tiết. Ví dụ, muốn tạo ra thời tiết nắng ráo, người ta lấy ít đất đỏ bôi lên viên đá lớn dựng đứng tựa hồ viên đá ấy mang trong nó một ma lực (1/62). Nhiều dân tộc sử dụng những hòn đá có nguồn gốc hoặc hình thù kì lạ để thực hành nghi lễ cầu mưa. Đá thiêng thường là vật bất li thân của các thầy cúng, pháp sư. Người ta tin rằng, những hòn đá đó có thể thấu hiểu những lời cầu cúng của các thầy pháp và mang lời khẩn cầu đó đến với các vị thần. Đồng thời, đá cũng thực hiện chức năng truyền những lời phán dạy của thần linh qua thầy pháp tới con người (ví dụ như “túi khót” của thầy Mo Mường, có chứa các hòn đá đặc biệt khi làm lễ; Hay trong “túi thiêng” của các dân tộc vùng Tây Nguyên. Trong đó người ta thường đựng các hòn đá nhặt được ở những vị trí đặc biệt. Trong lễ đâm trâu, túi thiêng đó được rước ra ngoài sân để làm lễ). Truyền thuyết vùng Dâu kể rằng, muốn cầu mưa được linh nghiệm, thì người ta phải rước tượng Tứ Pháp từ bốn chùa đến cạnh nhau và cuối cùng không thể thiếu Thạch Quang Phật. Nếu như Tứ Pháp tượng trưng cho bốn hiện tượng thiên nhiên, liên quan đến mưa, thì Thạch Quang Phật mang ý nghĩa thông linh giữa trời và đất. Cho nên, tượng Thạch Quang Phật tuy nhỏ nhưng lại hết sức quan trọng trong lễ hội và trong tâm thức dân gian. Hay trong nghi lễ cầu đảo ở đền Kì Thạch phu nhân (ở Huế), chỉ khi nào tượng đá được đưa ra gần bờ sông, thì mới linh ứng. Nghi thức cúng tế này cũng mang tính phổ biến trên thế giới:
Những nghi lễ đó bắt nguồn từ quan niệm, đá có liên quan đến nước (12/271) và “Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới” có giải thích quan niệm đó như sau: “Qua việc phân tích kĩ rất nhiều loại đá cầu mưa luôn luôn thấy nổi lên một lí thuyết giải thích hiện tượng đá có khả năng điều khiển mây trên trời; hoặc do hình thù của đá có một độ “đồng cảm” nào đó với mây và sét, hoặc do nguồn gốc của chúng trên trời, hay gắn bó với tổ tiên xưa kia, hoặc những hòn đá này lấy được ở dưới nước có hình dạng cá, ếch, con rắn hoặc giống một biểu hiện thủy ngư nào đó. Hiệu năng của đá cầu mưa không phải ở bản thân nó mà thuộc về một bản nguyên hay một hoá thân của biểu tượng” (12/271).
1.3. Thờ Đá và tín ngưỡng thờ thành hoàng
Thờ cúng thành hoàng là một hình thức thờ phụng mà chúng ta vay mượn của Trung Hoa (với ý nghĩa là thần bảo trợ thành trì). Nhưng ở Việt Nam, hình thức thờ thành hoàng đã thay đổi. Thành hoàng ở ta mang ý nghĩa là vị thần bảo trợ cho làng xóm, nên còn được gọi là Thành Hoàng làng.
Tín ngưỡng này tuy bó hẹp trong phạm vi địa lí nhất định (“Chuông làng nào làng ấy đánh. Thánh làng nào làng ấy thờ” là câu ca nói về hiện tượng thờ cúng này). Nhưng nó lại có khả năng bao trùm lên mọi tín ngưỡng dân gian khác. Bởi vì, Thành hoàng có thể được phong cho mọi vị thần, từ cao đến thấp, từ cao quý đến dân dã, từ thần đến người… miễn là đối tượng đó có công với làng.
Vì Thành hoàng có ý nghĩa là thần bảo trợ cho một làng, nên nhiều khi thần Đá cũng được phong tặng là Thành hoàng. Bản chất cứng rắn và kiên định của đá là điều kiện để đá trở thành thần bảo trợ cho một làng, một vùng nào đó. Tượng đá Đống Bính là một ví dụ (8/344). Ở vùng Bạch Hạc, “đá Thành hoàng” thể hiện dưới dạng Thạch Khanh và Thổ Lệnh.
Thạch là đá. Khanh là chức quan sớm nhất. Mệnh danh là Thạch Khanh đã tỏ lòng tôn trọng với vị thần Đá bản địa lâu đời. Theo truyền thuyến kể lại, Thạch Khanh và Thổ Lệnh thi tài với nhau. Thổ Lệnh thắng. Thổ Lệnh vốn là thần đất, nhưng ở một số thần tích, người ta lại miêu tả là đá. Hai vị thần này đã được thần tích của nhiều địa phương ghi chép lại (ở An Tịnh - Sơn Tây, An Phú - Thái Bình, Bạch Hạc - Vĩnh Phú…). Mỗi địa phương khi kể lại huyền thoại về Thạch Khanh và Thổ Lệnh, đều thêm chi tiết hai thần kéo nhau đến tận vùng đó để thi tài. Do đó, nhân dân mới lập đền thờ. Các câu chuyện đó đã gán cho hai vị thần một lí lịch trần thế, sự di chuyển của thần linh cũng được huyền thoại hoá. Thần tích này được chép trong “Việt điện u linh”. Quá trình văn bản hoá thần tích đó sớm như vậy, đã “chứng minh hai vị thần này đã tồn tại khá sớm, thuộc truyền thống thờ Đá cổ kính” (8/271). Đồng thời, các bản thần tích còn cho thấy, sự hỗn hợp tôn giáo, tín ngưỡng của tục thờ Đá, thờ Rắn, thờ Núi (liên quan tới Tản Viên ), Phật giáo… ở hiện tượng này.
Cũng có một số truyền thuyết khác thì cho rằng Thạch Khanh ở đây là chức danh phong cho Cao Lỗ, vị tướng tài của An Dương Vương. Cao Lỗ, còn được gọi là Đô Lỗ hay Thạch Thần, xem việc mùa màng và đánh giặc. Triều Trần đã phong ông là “Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ Chính Thần đại vương” (5/346). Truyện về Cao Lỗ có khi đứng riêng thành một nhóm, có khi lại kết hợp vào nhóm truyện về An Dương Vương. Qua “Thiên Nam vân lục liệt truyện” (thế kỉ XVI), chúng ta biết truyện về ông đã ghi lại trong sách “Sử kí” của Đỗ Thiện, và cho biết “Tục thường gọi ông là Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần”. Hầu hết các sách vở đều thống nhất rằng ông là tướng của An Dương Vương, là một đô vật và là một Thạch thần. Trần Quốc Vượng và Nguyễn Từ Chi (trong bài Vua chủ) đã cho rằng Cao Lỗ cầm tinh con rồng đá, và thuộc loại Thạch thần (11/105). Ngay cái tên Cao Lỗ cũng không phải là họ Cao, mà do gắn với đá thạch, núi đá. Có rất nhiều các vị thần thời kì này có nguồn gốc, gắn với đá núi. Sự hoá thân của vị thần Đá (núi) thành một vị tướng quân được hình thành trong quá trình truyền thuyết hoá những thần thoại. Hiện nay, có sáu nơi thờ Cao Lỗ ở Bắc Ninh, tương truyền là quê hương ông (11/99). Điều đó chứng tỏ, Cao Lỗ là một vị thần địa phương – thần Đá oai linh đã được thu phục trong quá trình tiến xuống miền đồng bằng của An Dương Vương, trở thành một vị tướng của nhà vua. Sau này, khi chết, ông còn trở thành thần bảo hộ cho vùng Việt Trì, Bạch Hạc.
+ Một thần Đá khác tương truyền từ thời An Dương Vương cũng được sắc phong là phiến đá ở thôn Thái, xã Cố Đế, huyện Nam Chân, trấn Sơn Nam, nay là Vụ Bản, Nam Hà. Nhân dân tôn hiệu là “Yêu Kiều Thần Nữ”. Đền thờ đá tục gọi là Phủ Bà. Hòn đá thường phát ra ánh sáng và đổi màu.
Ở đây, vị thần hiện lên từ Đá mang tính Nữ, đền thờ cũng được gọi là Phủ Bà. Điều đó cho thấy mối liên quan giữa tục thờ Đá và thờ Mẫu, những hình thức tín ngưỡng nguyên thủy.
Trường hợp này cũng giống như Cao Lỗ ở trên. Nhân vật vốn là một thần địa phương (thần đá), được khoác lên mình một huyền thoại lịch sử. Đó là quá trình lịch sử hoá của tín ngưỡng dân gian, từ đó tục thờ Đá được bảo lưu trong hình thức thờ cúng các thần linh khác, tuy rằng nó không còn dạng nguyên thủy.
+ Ở xã Nam Dương, huyện Nam Ninh, Nam Định, có một ngôi đền thờ ông thần Đá. Ngôi đền xây dựng trên khu đất ba sào, giữa cánh đồng màu thôn Thị Châu, tục gọi là “Đền Đồng”. Trong đền thờ một vị thần Đá. Truyền thuyết kể rằng: Ngày xưa có một hòn đá nổi lên mặt giếng giữa cánh đồng Thị Châu. Nhân dân lấy làm lạ, khiêng lên thờ. Hòn đá ban đêm thường phát ra ánh sáng. Người ta cho là vật thiêng, liền lập một gian miếu thờ hòn đá. Có bức hoành phi đề bốn chữ “Bảo thạch quan phủ”.
Thần Đá có nhiều linh ứng, được các triều đại, sắc phong của vua Cảnh Thịnh nhị niên (1794) như sau: Đại Thánh Đột Ngột, Phổ Hoá, Hoằng Uyên, Tĩnh Hiển đại Vương, vá phương bắc, sánh ngang trời, sức mạnh sáng sủa uy nghi, lấp bể nam, mở rộng đất góp công sâu rộng âm chất… (14/1007). Vị thần ở đây là ông thần Đá, có nguồn gốc dưới nước. Thần Đá đã trở thành thành hoàng làng, bảo trợ cho cuộc sống của nhân dân trong vùng.
+ Làng Địch Vĩ, xã Phương Đình - Đan Phượng – Hà Tây, có thờ nhóm tượng chó đá. Nhóm tượng này gồm nhiều con, làm bằng đá xanh, ước đoán được tạc thế kỉ XVIII. Tục thờ này bắt nguồn từ một truyền thuyết. Nhân dân tôn người em bị chết oan hoá đá làm thành hoàng làng, hiệu là Linh Giang đại vương. Ngày hội, dân làng Địch Vĩ phải mang lễ lên Hát Môn.
Như vậy, tín ngưỡng thờ Đá đã được gắn thêm một lớp văn hoá nữa, là tục thờ thành hoàng. Hai loại hình tín ngưỡng dân gian đó cũng dễ dàng hoà nhập với nhau.. Nhân dân đều thờ những đối tượng đó là những thần “lành”, bảo trợ cho cộng đồng, làng xóm. Trong sự kết hợp đó, nội dung thờ Đá dần dần bị mờ đi, chỉ còn lớp bề mặt, là hình thức thờ thành hoàng hiện diện.....
                                                                                                                       Còn tiếp...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét