Nơi đây còn ghi biết bao dấu tích văn
hiến từ Đại La trở thành thủ đô qua suốt ba triều đại phong kiến thịnh
trị Lý, Trần, Lê cho đến thời kỳ Cộng hòa XHCN Việt Nam ngày nay.
Nguồn gốc Thăng Long
Với tầm nhìn chiến lược, vị vua trẻ Lý Công Uẩn khi lên ngôi đã cảm thấy thành Hoa Lư trong vùng núi non hiểm trở tuy dễ phòng thủ nhưng không thể là kinh đô của một nước cường thịnh cả về quân sự lẫn kinh tế. Người đã tìm được thành Đại La nơi có thể hội tụ những yêu cầu ấy. Trong "Chiếu dời đô", hình ảnh của một thành phố giàu đẹp hiện lên vô cùng sinh động: "Thành Đại La ở giữa bờ cõi đất nước, có thế rồng cuộn, hổ ngồi, bốn phía đông, tây, nam, bắc tiện hình thế núi, sông, sau, trước đất rộng, bằng phẳng, cao ráo, sáng sủa, dân cư không phải khổ vì ngập lụt, muôn vật phồn thịnh. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là nơi then chốt của bốn phương họp lại và cũng là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời...".
Khi thuyền nhà vua đến Đại La, Người nhìn thấy một con rồng bay lên trong đám mây, cho là điềm lành, bèn đặt tên là Thăng Long. Câu chuyện lịch sử pha lẫn huyền thoại này cho thấy thành Thăng Long được xây dựng ở một vị trí theo quan niệm phong thuỷ là lý tưởng cho phát triển đô thành vững mạnh, giàu có.
Sau gần 1000 năm, Hà Nội ngày nay và Thăng Long xưa đã khác
nhau nhiều. Chỉ nói về phạm vi, thành Thăng Long xưa nằm giữa sông Nhĩ
Hà và Tô Lịch; Hà Nội bây giờ bao gồm cả phần đất rộng lớn ở bên ngoài
hai con sông. Trung tâm Thăng Long và trung tâm Hà Nội không trùng nhau.
Nhưng những điểm ưu việt của điều kiện địa lý và tự nhiên của Thăng
Long vẫn tạo ra những thế mạnh cho Hà Nội mà hiếm đâu sánh được.
Thứ nhất, thế đất bằng phẳng, cao ráo, nằm trên đồng bằng mầu mỡ, khí hậu lại ấm áp. Hà Nội là vùng sinh thái tuyệt vời cho con người định cư, phát triển.
Thứ hai, vị thế
trung tâm Bắc Bộ của Hà Nội, lại nằm bên con sông lớn khiến cho giao
thông với các địa phương khác dễ dàng, thuận tiện. Từ xưa, Hà Nội đã nổi
tiếng là một trung tâm thương mại lớn: "Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố
Hiến".
Thêm nữa, với cảnh
sắc tươi đẹp và con người thanh lịch, Hà Nội là đề tài cho thơ ca, nhạc,
hoạ, tạo nên sức thu hút du khách bốn phương.
Và còn rất nhiều thế mạnh nữa do tự nhiên
đem lại mà Hà Nội đã và sẽ khai thác để xứng đáng là "Nơi đô thành bậc
nhất của đế vương muôn đời" như Lý Công Uẩn đã tiên đoán.
Đây là link phim Hà Nội Trong Mắt Ai, một tuyệt phẩm của đạo diễn Trần Văn Thủy nói về Hà Nội.
http://www.youtube.com/watch#!v=RNGNGkkosxo&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=R_v75jt3zKU&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=AeWY3-9H7zw&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=r_dSEpWjOKM&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=eAVsqyFHvAI&feature=related
http://vn.360plus.yahoo.com/vanph_vanpham/article?mid=767
Vị trí
Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa
vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú. Với vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi, Hà
Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học lớn, đầu mối
giao thông quan trọng của Việt Nam.
Vĩ độ bắc: 20o53’ đến 21o23’
Kinh độ đông: 105o44’ đến 106o02’
Giáp với năm tỉnh: Thái Nguyên ở phía
bắc, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía đông và đông nam, Hà Tây và Vĩnh Phúc ở
phía nam và phía tây.
Diện tích tự nhiên 920,97 km2.
Chiều dài nhất từ phía bắc xuống phía nam
là hơn 50 km
Chỗ rộng nhất từ tây sang đông 30 km
Cao nhất là núi Chân Chim: 462 m (huyện
Sóc Sơn)
Thấp nhất thuộc xã Gia Thụy (huyện Gia
Lâm), 12 m so với mặt nước biển.
Địa hình
Dạng
địa hình chủ yếu của Hà Nội là đồng bằng được bồi đắp bởi các dòng sông
với các bãi bồi đại, bãi bồi cao và các bậc thềm. Xen giữa các bãi bồi
đại và các bãi bồi cao còn có các vùng trũng với các hồ, đầm (dấu vết
của các lòng sông cổ) .
Phần
lớn diện tích Hà Nội nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với độ
cao trung bình từ 15m đến 20m so với mặt biển. Còn lại chỉ có khu vực
đồi núi ở phía bắc và phía tây bắc của huyện Sóc Sơn thuộc rìa phía nam
của dãy núi Tam Đảo có độ cao từ 20m đến hơn 400m, đỉnh Chân Chim cao
nhất là 462m.
Hà Nội là thành phố
gắn liền với những dòng sông, trong đó sông Hồng là lớn nhất. Sông Hồng
bắt đầu từ dãy Ngụy Sơn (Trung Quốc), ở độ cao 1776m, chảy theo hướng
tây - bắc - đông - nam vào Việt Nam từ Lào Cai và chảy ra vịnh Bắc Bộ.
Sông Hồng chảy qua Hà Nội dài khoảng 30 km.
Đê sông Hồng được đắp từ năm 1108, đoạn
từ Nghi Tàm đến Thanh Trì, gọi là đê Cơ Xá. Ngày nay sông Hồng ở Việt
Nam có 1267km đê ở cả hai bên tả, hữu ngạn. Độ cao mặt đê tại Hà Nội là
14m so với mặt nước biển.
Sông
Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản
xuất. Lượng phù sa của sông Hồng rất lớn, trung bình 100 triệu tấn/năm.
Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng
vùng châu thổ. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp cá giống đáng kể
cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ.
Ngoài sông Hồng, trong địa phận Hà Nội
còn có sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Nhuệ và sông Cà Lồ.
Khí hậu
Khí hậu Hà Nội là khí hậu nhiệt đới gió
mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, mưa ít.
Nằm trong vùng nhiệt đới, Hà Nội quanh
năm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời dồi dào và có nhiệt độ cao. Do
chịu ảnh hưởng của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn.
Trung bình hằng năm, nhiệt độ không khí
23,6 độ C, độ ẩm 79%, lượng mưa 1245 mm.
Mỗi năm có khoảng 114 ngày mưa. Hà Nội có
đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Sự luân chuyển của các mùa làm cho khí
hậu Hà Nội thêm phong phú, đa dạng và có những nét riêng.
Từ tháng 5 đến tháng 8 là mùa hè: nóng và
thi thoảng có mưa rào.
Từ tháng 9 đến tháng 11 là mùa thu. Thời
tiết khô ráo, trời cao, xanh ngắt, gió mát, nắng vàng.
Từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau là mùa
đông: Thời tiết lạnh, khô ráo.
Từ tháng 2 đến tháng 4 là mùa xuân: Cây
cối xanh tốt với hàng ngàn loài hoa khoe sắc, mùa của những lễ hội
truyền thống độc đáo, mở đầu là Tết nguyên đán, lễ hội lớn và quan trọng
nhất của người Việt Nam.
Nhiệt độ thấp nhất là 2,7 độ C (tháng
1/1955).
Nhiệt độ cao nhất: 42,8 độ C (tháng
5/1926).
Khách du lịch có
thể tới thăm Hà Nội quanh năm. Tuy nhiên, mùa xuân, mùa thu và mùa đông
rất thích hợp với du khách ở những vùng hàn đới.
Thực vật và động vật
Các loại thực vật tự nhiên chỉ còn dạng
thứ sinh, tập trung trong huyện Sóc Sơn. Ở đây còn khoảng hơn 6.700 ha
đất lâm nghiệp đang được gấp rút trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi
trọc để khôi phục thảm thực vật, bảo vệ môi sinh. Do có rừng, gần đây đã
thấy xuất hiện trở lại nhiều loại chim ăn ngũ cốc, các loài gậm nhấm và
thú rừng (lợn rừng, chồn, sóc, trăn, rắn...) vốn trước kia có rất
nhiều.
Tương đối phong phú
là động vật dưới nước như cá, tôm, cua, ốc, kể cả cá trong đồng và
ngoài sông. Hà Nội là vùng đất trù phú, có truyền thống sản xuất nông
nghiệp từ lâu đời, cung cấp nhiều giống cây trồng, vật nuôi quí, có giá
trị kinh tế và nổi tiếng trong cả nước.
Đáng chú ý là các huyện ngoại thành đã hình thành các vành đai
rau xanh, thực phẩm tươi sống (thịt, cá, sữa, trứng) phục vụ nhu cầu đô
thị hoá ngày một cao của thủ đô Hà Nội và dành một phần để xuất khẩu.
Cây xanh Hà Nội
Một trong nhiều lý do để du khách yêu mến
Hà Nội là những tán lá xanh mướt, những con đường rợp bóng cây. Còn vào
mùa hè, cây cối ở đây khoác lên mình một tấm áo rực rỡ sắc màu.
Từ thế kỷ XIX, các giống cây này được đưa
về từ khắp nơi trên thế giới, trồng dọc theo những con phố làm dịu đi
ánh nắng chói chang của mặt trời nhiệt đới. Nhiều cây còn tồn tại cho
đến ngày nay có kích thước khá lớn.
Phía
bờ đông hồ Hoàn Kiếm, cây lộc vừng ngả bóng bên hồ Hoàn Kiếm, đầu mùa
đông có những dây hoa đỏ mảnh mai buông xõa đung đưa trong gió. Cạnh đó
là cây vông hoa vàng rực rỡ trước cổng đền Ngọc Sơn.
Phố Điện Biên Phủ đoạn gần Bộ Ngoại Giao
Phía bờ tây hồ Hoàn Kiếm, những cây me
cũng nở ra những đoá hoa nhỏ li ti màu vàng nhạt. Lá cây nhỏ, có màu
xanh mát. Quả me có vỏ màu nâu bao quanh lớp thịt vừa ngọt vừa chua với
những hạt nhỏ, đen nhánh. Một trong những loài cây trồng nhiều nhất là
phượng vĩ đơm hoa rực đỏ mỗi khi hè về. Trước cửa toà báo "Hà Nội mới"
có một cây phượng lớn, cành cây vươn về phía hồ như những ngón tay thon
đang chơi đùa với đàn cá tung tăng dưới nước. Dọc theo phố Hàng Trống,
bạn sẽ gặp cây gụ có hoa màu vàng xanh, nở thành từng chùm. Những bông
hoa nhỏ hình sao ấy khi rơi xuống tạo cho người ta cái cảm giác như đang
đứng dưới một trời hoa.
Dọc
theo phố Đội Cấn và Thợ Nhuộm là hàng bằng lăng, cuối mùa xuân đến đầu
mùa hè khoác lên mình những đoá hoa tím biếc nổi bật trên nền xanh của
lá. Mùa đông, những cây bằng lăng cũng tự trang điểm cho mình từng chùm
quả lủng lẳng nơi đầu cành.
Trong
khu phố cổ Hà Nội có rất nhiều dâu da xoan với chùm hoa màu sữa. Những
hàng cây nhỏ phù hợp với khung cảnh nơi này đến nỗi các hoạ sỹ luôn luôn
đưa chúng vào trong tranh vẽ phố cổ.
Những
cây bàng có hoa nhỏ li ti màu xanh nhạt, bám dọc thành một cụm nhỏ. Lá
bàng lớn, thuôn dài, có màu xanh đậm, toả bóng mát dịu giữa trưa hè. Đến
tháng chín, lá cây chuyển sang màu vàng và đỏ để cuối cùng rực đỏ vào
mùa thu. Đây là một trong số ít các loài cây ở Hà Nội đổi màu lá theo
mùa vào dịp cuối năm.
Xà cừ
là một trong những cây cao nhất ở Hà Nội, được lấy giống về từ châu Phi
nên rất hợp với khí hậu nóng khô.
Hồ Tròn trong Bách Thảo
Người
Hà Nội khi đi xa luôn gắn liền với những kỷ niệm về hoa sữa. Tháng
mười, những đoá hoa màu trắng xanh toả hương nồng nàn trên các dãy phố
như Quang Trung, Nguyễn Du.
Mỗi
mùa có một niềm vui riêng. Mùa hè ở Hà Nội có thể khá oi ả nhưng vẻ đẹp
của những hàng cây xanh mát cũng đủ làm dịu đi cái nắng gắt gao.
Chụp ảnh cưới ngoại cảnh trong Bách Thảo
Trên đây chỉ là một vài loại cây đặc
trưng cho Hà Nội. Ngoài ra còn có hàng trăm loại cây và hoa khác nhau
góp phần tạo nên một Hà Nội xanh nên thơ trong con mắt khách thăm.
Nguồn gốc dân cư
Hà Nội nếu tính từ thế kỷ thứ V tới nay
là hơn ngàn rưỡi năm. Nhưng hỏi liệu bao nhiêu gia đình có từ ngày đó và
tồn tại đến nay ở Hà Nội thì khó trả lời được.
Những làng ngoại thành và ven đô cũ (nay
phần lớn đã nằm trong nội thành) thuộc những phường nông nghiệp thì dân
cư ít xáo trộn có nhiều gia đình còn giữ được gia phả ngược lên đến tận
các thế kỷ XV, XVI. Chẳng hạn như ở làng Trung Tự, vốn thuộc phường Đông
Tác xưa, nay là phường Trung Tự, quận Đống Đa có họ Nguyễn (của những
học giả Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Kha...) còn giữ gia phả cho biết là
gốc từ Gia Miêu, Thanh Hóa ra cư trú từ thời Lê Thánh Tông (thế kỷ XV)
và đến nay, trẻ nhất là thế hệ họ Phạm ở Đông Ngạc (Vẽ) huyện Từ Liêm,
một gia tộc lớn với những chi Phạm Gia, Phạm Quang có nhiều danh nhân,
bác học, gia phả cũng ghi gốc là làng Đông Biện, Thanh Hóa ra cư trú tại
đây từ cuối thế ký XIV, đầu thế kỷ XV. Hoặc ở làng Vân Điềm (Đông Anh)
có họ Nguyễn đã sản sinh ra các bậc đại nho Nguyễn Án, Nguyễn Tư Giản và
nhà viết tiểu thuyết lịch sử tài danh Nguyễn Triệu Luật thì coi cụ
Nguyễn Thực (1555 - 1637) là tổ thứ nhất và nay trẻ nhất là đời thứ 16.
(Gia phả còn cho biết đây chính là dòng dõi nhà Lý bị nhà Trần đổi ra họ
Nguyễn, có điều là thời gian quá xa nên không rõ tên họ các cụ tổ họ
Lý). Đó là trường hợp ít biến động dân cư.
Còn các khu vực vốn là những phường
thương nghiệp và thủ công ở ven cửa sông Hồng và ven sông Tô (nay là khu
các quận Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng) thì dân cư xáo trộn nhiều.
Người buôn bán và người làm hàng thường ít khi trụ nhiều đời ở một địa
điểm. Ngạn ngữ có câu: "Ai giàu ba họ ai khó ba đời!". Việc hưng thịnh
hay sa sút trong kinh doanh không phải là hiếm. Không kể nhiều trường
hợp con em các gia đình ở khu vực này thi đõ, đi làm quan tỉnh xa rồi cư
ngụ luôn ở đấy, đôi khi kéo theo cả họ hàng. Ngoài ra, luồng nhập cư
vào Thăng Long làm ăn diễn ra thường xuyên. Ngay từ thế kỷ XV, dân các
trấn về Thăng Long đông quá khiến vua Lê Thánh Tông có ý định buộc tất
cả về nguyên quán. Nhưng khi biết rằng chính họ là nguồn cung nạp thuế
quan trọng và làm ra nhiều sản phẩm cần thiết, cuối cùng vua chỉ đuổi
bọn du thủ du thực vô nghề nghiệp khỏi kinh thành. Trong sách Thượng
Kinh phong vật phú thế kỷ XVIII đã ghi: "Khách bốn phương, những người
thực nơi thượng kinh đua nhau đến ở quanh cả kinh đô, không lúc nào
ngớt, đều cố nhanh chân rảo bước mà đến như tranh đến kinh đô nước Yên
xưa".
Có thể nêu một ví
dụ: ở ngõ Phất Lộc thuộc quận Hoàn Kiếm có nhà thờ họ Bùi Huy là một họ
lớn nổi lên ở Thăng Long từ thế kỷ XVll và tới nay vẫn có nhiều thành
viên thành đạt cả trong và ngoài nước. Họ này vốn không phải gốc ở đây.
Và tên Phất Lộc cũng không phải là tên gốc của ngõ đó. Đây vốn là ngõ
Phúc Lộc, thuộc huyện Thọ Xương. Cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVll, có một
ông họ Bùi, quê làng Phất Lộc thuộc huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình lên
Thăng Long ngụ ở ngõ Phúc Lộc. Con cháu ông phát đạt, người làm quan,
người buôn bán giàu có mua phần lớn đất thổ cư trong ngõ. Sau đó, người
làng Phất Lộc, Thái Bình cũng theo gương ấy kéo ra cư ngụ, do vậy hầu
hết đất ngõ thuộc về người Phất Lộc, nên đến một lúc nào đó được gọi là
ngõ Phất Lộc. Nếu tính từ ông cụ họ Bùi lên Thăng Long đến nay thì trẻ
nhất là đời thứ mười (Gia phả còn ghi được tám đời trước đó ở Phất Lộc,
Thái Bình). Hay như họ Đỗ Đức vốn ở phường Thịnh Quang (nay vẫn mang tên
này, thuộc quận Đống Đa, sau có một chi đi vào làng Hạ Đình, thuộc xã
Nhân Mục, nay thuộc quận Thanh Xuân), thì gia phả ghi cụ tổ thứ nhất có
thể là ở Lạc Đạo (Hưng Yên) chuyển sang Thịnh Quang từ cuối thế kỷ XVI,
đầu thế kỷ XVll.
Trong thực tế lịch
sử, lại còn một số nguồn cư dân khác gia nhập vào cộng đồng Thăng Long -
Hà Nội. Đó là những người nước ngoài đến lập nghiệp ở nơi đây. Phần lớn
là người Hoa. Không kể những người Hoa ở lại từ thời Bắc thuộc. Chỉ kể
những người Hoa được phép sinh sống ở Thăng Long trải qua các triều Lý -
Trần - Lê thì sử cũ còn ghi, năm 1274 có 30 thuyền người Hoa xin nhập
tịch nước ta, được phép cư ngụ ở Thăng Long. Trong “Dư Địa Chí” của
Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) có chép là trong số 36 phường họp thành kinh đô
Thăng Long có hẳn một phường người Hoa. Đó là phường Đường Nhân. Thời cổ
có lúc cả thế giới gọi người Hoa là người nhà Đường. Phường đó tương
ứng khu vực phố Hàng Ngang và lân cận. Khoảng thế kỷ XVII người Hoa chỉ
được phép ở phố Hiến (Hưng Yên). Sang thế kỷ XVll họ được lên Thăng
Long. Hẳn là đông đúc nên có lúc họ xin chính quyền thành Thăng Long cho
đứng ra tu bổ xây kè dọc bờ sông Hồng từ bến Hàng Mắm đến tận bến Tây
Long (Nhà Hát Lớn ngày nay). Thuở đó sông Hồng chảy sát chân đê, tức
chân đường Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải bây giờ. Suốt quá trình nhập
cư đó có rất nhiều gia đình người Hoa đã Việt hóa (nhập tịch, trang phục
như người Việt, đàn bà cũng vấn khăn, nhuộm răng, ăn trầu...).
Ngoài người Hoa, còn có người Chăm từ
phương nam ra trong nhiều trường hợp khác nhau. Những người tự nguyện
không ít, như sử đã ghi : Năm 1039, một hoàng tử con vua Chăm đã cùng
năm gia tộc vượt biển ra Thăng Long quy phục nhà Lý; năm 1390, lại có
hai hoàng tử làm như vậy đối với nhà Trần, và năm 1448 có một quý tộc
Chăm là Phan Mỗ đem bà con họ hàng làng xóm tất cả 340 người sang quy
phục nhà Lê. Các làng ở Hà Nội trong tên gọi có chữ Sở phần lớn là các
sở đồn điền dành cho người Chăm như Vĩnh Tuy Sở, Thịnh Quang Sở, Xuân
Tảo Sở, Quán La Sở... Đặc biệt có làng Phú Gia (quận Tây Hồ) có hai họ
Bố và Ông là gốc Chăm (mãi tới đời Tự Đức khoảng 1848 - 1850, một viên
quan huyện hách dịch không muốn dân xưng “bố” và “ông” với quan nên bắt
đổi Bố ra Hi và Ông ra Công). Nay hai họ này vẫn là cư dân chính làng
Phú Gia. Sách “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” có nêu ông Phương Đinh Pháp, một
vị quan can đảm thời vua Lê Cảnh Hưng, đã ngăn không cho Bắc Bình Vương
Nguyễn Huệ đeo gươm đi lên chính điện gặp vua, ông Pháp là người Quán
La Sở và gốc Chăm. Hay bà Phan Ngọc Đô, một phi tần được Lê Thánh Tông
đưa ra Thăng Long, cho ở tại trang Thiên Niên (nay là Trích Sài, phường
Bưởi, quận Tây Hồ). Bà đã dạy cho dân vùng này dệt lĩnh, là một mặt hàng
lụa rất mỏng, mịn, mặc mát, nhuộm thâm.
Luồng nhập cư liên tục và mạnh mẽ vậy nên cư dân tất phải xáo
trộn. Có điều là đã có bao nhiêu thế hệ "tử chiếng" ấy kéo về Thăng Long
sinh cơ lập nghiệp, lập ra các phố phường trải qua chiều dài của hàng
chục thế kỷ. Tất nhiên, bấy nhiêu thế hệ đã đem đến Thăng Long - Hà Nội
những lề thói của địa phương mình, song chung đúc lại, chắt lọc ra, hòa
với người Thăng Long bản địa tạo nên cái chất "kinh kỳ" mà thực chất là
lối sống có văn hóa (nhiều người gọi đó là tính cách thanh lịch Tràng
An). Nói cách khác, các thế hệ nhập cư Thăng Long đã tự điều chỉnh, tự
hoàn chỉnh nhân cách, nâng cao lên cho hợp với điều kiện và môi trường
kinh đô. Họ tồn tại được còn do là kết quả của quá trình hòa hợp, dung
hội lâu dài. Tuy không thuần khiết như làng quê vì là tứ trấn quần cư
nhưng cũng đã hình thành khá nhiều những cộng đồng mới: hàng phố, bạn
phường...
Hà Nội thủ đô hôm nay
Hà Nội - mảnh đất có truyền thống nghìn
năm văn hiến và lừng lẫy chiến công đánh giặc, nơi định đô của các vương
triều phong kiến tự chủ Việt Nam - tự hào là trung tâm đầu não chính
trị của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, nay là Cộng hòa
XHCN Việt Nam.
Ngay từ buổi đầu
cách mạng, Hà Nội đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân
tộc. Ngày 2-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố bản Tuyên
ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình.
Hà
Nội ngày nay gồm chín quận nội thành: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng,
Đống Đa, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai, và năm
huyện ngoại thành: Đông Anh, Gia Lâm, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm. Cộng
lại có 122 phường nội thành, 99 xã và 5 thị trấn ngoại thành.
Số dân của thành phố tính đến ngày 31
tháng 12 năm 2003 có 3.055.300 người trong đó dân số nội thành chiếm
53%, dân số ngoại thành chiếm 47%. Tổng diện tích là 920,97km2 (nội
thành chiếm 19,97% và ngoại thành chiếm 80,03%, bằng 0,28% diện tích của
cả nước).
Dân cư Hà Nội phân
bố không đều giữa các lãnh thổ hành chính và giữa các vùng sinh thái.
Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 2.881 người/km2 (mật độ trung
bình ở nội thành 19.163 người/km2, riêng quận Hoàn Kiếm là 37.265
người/km2, ở ngoại thành 1.721 người/km2). Mật độ này cao gấp gần 12 lần
so với mức trung bình của cả nước, gần gấp đôi mật độ dân số của vùng
đồng bằng sông Hồng và là thành phố có mật độ cao nhất cả nước.
Sưu tầm từ:http://www.lyhocdongphuong.org.vn/
Nguồn gốc Thăng Long
Với tầm nhìn chiến lược, vị vua trẻ Lý Công Uẩn khi lên ngôi đã cảm thấy thành Hoa Lư trong vùng núi non hiểm trở tuy dễ phòng thủ nhưng không thể là kinh đô của một nước cường thịnh cả về quân sự lẫn kinh tế. Người đã tìm được thành Đại La nơi có thể hội tụ những yêu cầu ấy. Trong "Chiếu dời đô", hình ảnh của một thành phố giàu đẹp hiện lên vô cùng sinh động: "Thành Đại La ở giữa bờ cõi đất nước, có thế rồng cuộn, hổ ngồi, bốn phía đông, tây, nam, bắc tiện hình thế núi, sông, sau, trước đất rộng, bằng phẳng, cao ráo, sáng sủa, dân cư không phải khổ vì ngập lụt, muôn vật phồn thịnh. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là nơi then chốt của bốn phương họp lại và cũng là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời...".
Khi thuyền nhà vua đến Đại La, Người nhìn thấy một con rồng bay lên trong đám mây, cho là điềm lành, bèn đặt tên là Thăng Long. Câu chuyện lịch sử pha lẫn huyền thoại này cho thấy thành Thăng Long được xây dựng ở một vị trí theo quan niệm phong thuỷ là lý tưởng cho phát triển đô thành vững mạnh, giàu có.
Thứ nhất, thế đất bằng phẳng, cao ráo, nằm trên đồng bằng mầu mỡ, khí hậu lại ấm áp. Hà Nội là vùng sinh thái tuyệt vời cho con người định cư, phát triển.
Đây là link phim Hà Nội Trong Mắt Ai, một tuyệt phẩm của đạo diễn Trần Văn Thủy nói về Hà Nội.
http://www.youtube.com/watch#!v=RNGNGkkosxo&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=R_v75jt3zKU&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=AeWY3-9H7zw&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=r_dSEpWjOKM&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=eAVsqyFHvAI&feature=related
http://vn.360plus.yahoo.com/vanph_vanpham/article?mid=767
Phố Điện Biên Phủ đoạn gần Bộ Ngoại Giao
Hồ Tròn trong Bách Thảo
Chụp ảnh cưới ngoại cảnh trong Bách Thảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét