B
- NHÀ LÊ
Sử chép rất ít
về Tết đầu thời Lê :
- Năm 1435,
mồng
một, vua (Thái Tông) dẫn các quan làm lễ yết miếu. Khi về
cung mặc áo trắng coi chầu, nổi nhạc, thét đường. Các
quan mặc cát phục dâng biểu yên ủi (Thái Tổ mới băng).
Ban yến trong 5
ngày
cho các quan văn võ trong ngoài, phát tiền cho các quan làm việc
ở ngoài theo thứ bực (8).
- Năm 1449,
tháng
giêng ban yến cho các quan. Múa nhạc Bình
Ngô Phá Trận do vua Thái Tông làm, nhớ lại công
khó nhọc sáng nghiệp của Thái Tổ, dùng vũ công định thiên
hạ. Công thần có người cảm xúc phát khóc (9).
-
CÁC LỀ NGHÊNH XUÂN THỜI TRUNG HƯNG
1
- Lễ Tiến lịch - Lược Phan Huy Chú :
Hàng
năm, Tư-thiên-giám tính trước lịch cho năm sau, đến tháng
6 viết hai bản dự thảo, một bản dâng lên Vua và khải Chúa
xin tiền in. Vua xem xong, giao cho Trung-thư-giám viết lại, Tri-giám
coi việc khắc, khắc rồi Tư-thiên-giám đối chiếu trước
khi đem in. Trong tháng chạp chọn ngày dâng lên Vua chuẩn. Ðến
ngày 24 tháng chạp làm lễ Tiến lịch.
Sáng
hôm ấy, các quan mặc phẩm phục, theo chỉ của Chúa vào triều
làm lễ.
Sáng
sớm, Nghi-chế-ty và các Tự-ban đặt cái án dâng lịch ở
giữa ngự đạo trước sân rồng. Bốn viên Thông-tán, hai
viên đứng ở phía Ðông và phía Tây, hai viên đứng ở bên
Tả và bên Hữu cửa Ðoan-môn.
Ba
hồi trống nghiêm, Tự-ban dẫn hai viên Tiến-lịch quan vào
bên Ðông sân rồng. Vua ngự lên ngai. Tự-ban dẫn quan Tiến-lịch
đến giữa ngự đạo. Xướng : "Cúc cung, bái, hưng (bốn lần),
bình thân". Lễ quan xướng : "Tiến hoàng lịch", Tự-ban dẫn
quan Tiến-lịch đến trước án lịch giấy vàng. Xướng :
"Quỵ, tiến lịch", quan Tiến-lịch để lịch lên án. Xướng
: "Phủ phục, hưng, bình thân, phục vị", Tự-ban dẫn quan
Tiến-lịch từ phía Ðông ngự đạo xuống đến vị bái.Xướng
: "Cúc cung, bái, hưng (bốn lần), bình thân", Tự-ban nhấc
cái án để lịch lui ra. Cáp-môn xướng : "Bài ban, ban tề",
các quan chia thứ bậc đứng vào ban tề chỉnh. Lại xướng
: "Cúc cung, bái, hưng (bốn lần), bình thân".
Quan
Truyền-chế đến giữa ngự đạo quỳ : "Tấu truyền chế"
rồi lạy xuống, vẫn quỳ. Quan Tư-lễ-giám đem tờ chế trao
cho quan Truyền-chế. Viên này đỡ lấy lui ra, đứng phía Ðông,
hô : "Hữu chế". Cáp môn xướng : "Bách quan giai quỵ", các
quan quỳ xuống. Quan Truyền-chế đọc chế xong lui về chỗ
đứng cũ. Xướng : "Phủ phục, hưng, bái (bốn lần), bình
thân". Lại xướng : "Bách quan phân ban thị lập", các quan
phân ban đứng hai bên mà hầu. Nghi-chế-ty đến giữa ngự
đạo quỳ : "Tấu lễ tất". Vua ngự về cung.
Tư-thiên-giám
bưng cái án lịch trước ngự tọa sang tiến ở phủ Chúa.
Quan Lễ khoa đem lịch ban cho các quan. Các quan quỳ xuống nhận,
giơ lịch ngang trán. Xong lễ lui ra(10).
2
- Lễ Khóa ấn
25 tháng chạp
làm
lễ Khóa ấn trong một tháng, hộp đựng ấn úp mặt xuống.
Chỉ những việc trọng đại như sát nhân, phản quốc... mới
được xét ngay, còn trộm cắp lặt vặt, đánh nhau, đòi nợ
vv. thì đình chỉ, đợi ngày khai ấn mới xét xử (11).
3
- Lễ Tiến Xuân Ngưu
Hàng năm đến
tháng
11, Tư-thiên-giám tâu ngày nào, tháng nào là tiết Lập
Xuân và kê cả kiểu mẫu làm Xuân
ngưu (Trâu đất) giao
cho Công bộ sai Thường-ban-cục làm. Tượng trâu to bằng thật,
mỗi năm nhuộm một mầu, ứng với năm đó, tính theo âm dương,
ngũ hành.
Trước tiết Lập
Xuân một ngày, buổi chiều, Thường-ban-cục đem
Trâu đến đàn tế, dựng ở phường Ðông-hà. Lễ tế vào
giờ Tý (nửa đêm), mở đầu ngày Lập
Xuân. Quan Phủ-doãn và hai quan huyện Thọ-xương và
Quảng-đức làm lễ xong thì sai rước đến đàn ở phường
Hà-khẩu. Hôm sau rước đi sớm. Quan Phủ-doãn và các quan
huyện lấy cành dâu đánh con Trâu đất,
rồi đem vào sân điện Vua làm Lễ Tiến
Xuân Ngưu.
Các quan vâng
chỉ
của Chúa, mặc phẩm phục làm lễ. Lễ xong, quan Tư-lễ-giám
bưng cái án để Xuân ngưu trước
ngự tọa sang tiến ở phủ Chúa (12).
-
CÁC NGHI TIẾT THỜI TRUNG HƯNG
1
- Nghi tiết ở điện Kính-thiên (lược Phan Huy Chú)
:
Sáng
sớm mồng một, Tiết-chế-phủ (con cả của Chúa Trịnh) vâng
chỉ Chúa, dẫn trăm quan mặc phẩm phục vào chầu Vua để
chúc mừng năm mới.
Trước
một ngày, Thượng-thiết-ty đặt ngự tọa của Hoàng thượng
ở chính giữa cửa Kính-thiên, đặt bảo án ở phía Ðông,
hương án ở trước ngự tọa. Liễn-giá-ty đặt tàn vàng
ở hai bên tả hữu ngự tọa. Giáo phường đặt Thiều nhạc
(nhạc đời vua Thuấn, chính trị tốt, đức hiện rõ) và
Ðại nhạc (gồm nhiều kèn, trống lớn, thanh la, tù và...)
ở hai bên Ðông và Tây sân rồng. Thủ-vệ-ty dàn cờ xí,
khí giới. Nghi-chế-ty đặt cái án để các tờ biểu của
Thừa-ty các xứ ở công đường Lễ bộ. Quan Lễ bộ và quan
Thừa-ty các xứ trực đêm ở công đường Lễ bộ. Khi canh
đã điểm lần thứ năm, trời sáng, trống và nhạc đi trước,
các quan Thị-dạ (hầu đêm) rước án biểu, Nghi-vệ-ty mang
tàn che. Thừa-dụ-cục khiêng án biểu đến ngoài cửa Ðoan-môn,
tiến vào để ở phía Ðông sân rồng, hơi ngoảnh về Bắc.
Các quan rước án biểu đều đứng.
Trống
nghiêm hồi đầu, các quan văn võ [kể cả Chấp-sự (Ðạo
Lễ) và Triều-yết] đứng sắp ban ở ngoài cửa Ðoan-môn.
Trống
hồi thứ hai, quan Ðạo-lễ dẫn Tiết-chế-phủ vào chỗ điếm
ở Tả, Hữu sân rồng ngồi tạm. Các quan Ðạo-lễ tiến
vào sân điện Vạn-thọ rước Vua lên ngự giá, làm lễ năm
lạy ba vái. Lễ xong lui về chỗ cũ ở hai bên Ðông, Tây sân
rồng.
Ngự
giá đến cửa Kính-thiên thì quan Ðạo-lễ dẫn Tiết-chế-phủ
đứng phía Ðông sân rồng, hơi vềhướng Bắc. Tự-ban dẫn
các quan vào sắp hàng hai bên Ðông, Tây sân rồng. Các quan
Thưà-ty, Triều-yết chia đứng ở ngoài cửa Ðoan-môn. Vua
lên ngai. Giáo phường tấu khúc nhạc Văn-quang. Dứt tiếng
chuông, vút roi (ra lệnh yên lặng khi làm lễ triều bái), nhạc
nghỉ. Tư-thần-lang báo trời sáng. Thông-tán xướng : "Ban
tề". Lại xướng : "Cúc cung, bái, hưng (bốn lần), bình thân".
Quan
Ðiển-nghi xướng : "Tiến biểu". Nhạc lại nổi lên. Hai viên
Khoa quan dẫn bốn Tự-ban rước án biểu có tàn vàng che từ
bên Ðông sân rồng đem đặt giữa ngự đạo. Các Khoa quan,
Tự-ban lui ra chia đứng hai bên Ðông, Tây. Dẫn-tán xướng
: "Tuyên biểu mục", quan Tuyên-biểu vào giữa ngự đạo quỳ
đọc biểu chúc mừng của công hầu và các quan văn võ 12
đạo. Ðọc xong, lạy rồi lui về chỗ đứng trước. (Ðến
lượt đọc biểu phó của các quan triều thần, cũng theo nghi
tiết trên).
Thông-tán
xướng : "Phủ phục, hưng, bình thân, cúc cung tam vũ đạo".
Lại xướng : "Bách quan giai quỵ, tung hô", các quan quỳ xuống,
giơ tay ngang trán hô theo : "Vạn tuế", ba lần như thế. Mỗi
lần hô thì quân sĩ, phường nhạc, đồng thanh hô theo. Lại
xướng : "Phủ phục, hưng, cúc cung, bái (nhạc nổi lên), hưng
(bốn lần), bình thân". Nhạc nghỉ.
Quan
Ðạo-lễ dẫn Tiết-chế-phủ đến bên Ðông, đứng ở vị
trước. Thông-tán xướng : "Bách quan phân ban thị lập". Nghi-chế-ty
đến giữa ngự đạo quỳ tâu : "Tấu lễ tất". Giáo phường
ty cùng các Thự Ðồng văn, Nhã nhạc (nhạc khí nhỏ hơn Ðại
nhạc) tấu khúc Hưu-minh. Vút roi. Vua về cung. Quan Tư-lễ-giám
bưng
tờ biểu để tiến vào nội điện. Nhạc nghỉ. Tiết-chế-phủ
và các quan lui ra (13).
2
- Nghi tiết ở phủ Chúa (lược) :
Sáng mồng một,
hiệu Thiên-hùng bắn súng hiệu,
hiệu Thị-trung đánh trống nghiêm.
Tướng sĩ thuộc các đội thuyền đứng hầu hoặc đi tuần
sát.
Tư-thiên-giám
đã
chọn giờ và phương hướng tốt để Chúa đi lễ. Các quan
rước Chúa đến Thái miếu và
Cungmiếu
hành lễ rồi về phủ.
Chúa ngự long
tọa.
Quan và lính hiệu Thị-hậu đứng
hầu. Binh phiên ban tiền thưởng Xuân theo cấp bậc : nhất
phẩm được 5 quan tiền, nhị phẩm được 4 quan... cửu phẩm
một quan, Tư-thiên-giám được 6 tiền, nhạc công một tiền.
Tư-thiên-giám
chọn
giờ tốt khải Chúa khai ấn.
Tiết-chế-phủ
dẫn các quan từ cửa Cáp-môn tiến vào phủ đường. Bốn
viên Ðiển-giám (dùng Khoa quan), hai đứng ở bên Tả và bên
Hữu trong phủ, hai đứng ở ngoài phủ. Tiết-chế-phủ và
các quan theo thứ tự lạy mừng. Chúa ban yến. Dự yến xong,
các quan làm lễ tạ ơn. Chúa về cung, Tiết-chế-phủ về
phủ.
Các quan lại
đến
phủ Tiết-chế chúc mừng (13).
3
- Tết Ðàng Trong
Lê Quý Ðôn cho
biết ở Thuận-hóa, năm Canh-Dần, Tết Chính Ðán thì 2 viên
Cai cơ công tộc chỉ mừng tiền trầu 2 quan ; Cai đội 11 viên
đều một con lợn thay tiền 10 quan, tiền trầu 1 quan ; chư
tướng Ngoại tả 1 viên, Chưởng dinh 2 viên, Chưởng cơ 4
viên đều lợn một con thay tiền 10 quan, tiền trầu 5 hay 10
quan tùy hạng ; Cai cơ 10 viên chỉ mỗi viên 2 tiền trầu ;
Cai đội 28 viên cũng như lệ Cai đội công tộc ; văn ban 5
viên, mỗi viên 2 tiền trầu vv. (14).
4
- Tết qua ngòi bút của một chứng nhân ở thế kỷ 17
Năm 1659,
Bento Thiện,
một "Thầy giảng" đạo Thiên chúa đã viết về Tết như
sau :
"Thói
nước Annam, đầu năm mùng một tháng giêng, gọi là ngày Tết.
Thiên hạ đi lạy Vua, đoạn lạy Chúa, mới lạy ông bà ông
vải, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy Vua
Chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. Ăn Tết ba ngày, mà một
ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba, ngày nào tốt, thì
Vua Chúa đi đền Giao, gọi là nhà thờ Trời, hiệu Thiên Thượng
Ðế Hoàng Ðịa Kì. Vua Chúa đi lạy mà xin cho thiên hạ được
mùa cùng dân an. Ðến mùng bẩy mùng tám mớì hết, cùng làm
cỗ cho thiên hạ ăn mười ngày. Lại xem ngày nào tốt mới
mở ấn ra cho thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi
kiện mọi việc ; lại làm như trước mới khai quốc, thiên
hạ vào chầu Vua. Từ ấy mới có phiên đi chầu. Nội Ðài,
Ngoại Hiến, Phủ Huyện, quan đảng nha môn, mới có kiện
cáo. Ðến trung tuần mới có Khánh thọ bảo thần cho thiên
hạ mừng tuổi Vua. Ai có nghề nghiệp gì thì làm cho Vua xem.
Ðến hạ tuần tháng giêng, Ðức Chúa lại Tế Kỳ Ðạo dưới
bãi cát, làm đàn thờ. Trước thì thờ Thiên Chúa Thượng
Ðế một đàn, là một đàn từ Vua Lê Thái Tổ cho đến nay,
một đàn thì thờ Thần Kì Ðạo. Ðức Chúa lạy ba đàn này.
Ðoạn đến đàn Thần Kì Ðạo, Ðức Chúa lạy đoạn, liền
chỉ gươm cùng chém, lại bắn cung. Ðoạn lại đánh trống
mà chỉ gươm cho thiên hạ mới đuổi đi, thì gọi là khao
quân. Ðoạn liền về tập voi tập ngựa, gọi rằng đã hết
năm mới (15).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét