Tàu điện Hà Nội tồn tại trên 9 thập kỷ. Nghĩa là cũng chừng ấy thời gian, xẩm tàu điện được “ăn nhờ ở đậu” khá “ấm thân”. Khi tàu điện không còn thì xẩm tàu điện cũng chết. Hiện nay, chỉ một ít người biết và có thể trình diễn được loại hình nghệ thuật này. Năm 1900, Pháp đã cho chạy thử tuyến đường tàu điện đầu tiên Bờ Hồ - Thụy Khuê, sau đó mở rộng ra các tuyến đường Hà Nội - Cầu Giấy; Hà Nội - Hà Đông; Hà Nội - Chợ Mơ... và lúc nào cũng nườm nượp khách khứa. Những người hát xẩm ở các làng quê đã theo chân những người tiểu thương lên Hà Nội hành nghề. Có một số nghệ nhân đã tìm ra một miền đất mới cho nghề hát xẩm. Tàu điện là nơi tập trung rất đông người, họ có một khoảng thời gian rảnh rỗi nhất định- đó là điều kiện tuyệt vời cho những người hát xẩm hành nghề. Tuy nhiên, những thính giả thành thị này có “gu” riêng và tàu điện cũng là một môi trường diễn tấu khác hẳn những chợ quê, nên những nghệ nhân đầu tiên đã sáng tác riêng một làn điệu xẩm riêng. Đó chính là xẩm tàu điện.
Thông thường nhóm xẩm tàu điện chỉ khoảng từ 2-3 người. Trong đó mỗi người đều có thể vừa là nhạc công, vừa là người hát. Nhóm xẩm tàu điện thường có một đứa trẻ. Khi biểu diễn thường là do hai người lớn thực hiện, nhưng mỗi khi lên đến cao trào là có tiếng hát của một em bé chen vào. Tiếng hát lanh lảnh rất “ép phê”. Theo một số tài liệu thì “cha đẻ” của xẩm tàu điện là nghệ nhân Tùng Nguyên và nghệ nhân Thân Đức Chinh. Cả hai người này đều không còn. Đặc trưng của xẩm là ở đâu cũng trở thành môi trường diễn xướng như bến sông, bãi chợ, sân đình và cả trong thính phòng. Vì thế, khi Pháp mở tuyến tàu điện đầu tiên, với lượng khách đông đúc, xẩm tàu điện ngay lập tức có được chỗ đứng. Sau này có rất nhiều người cũng hành nghề xẩm tàu điện.
Xẩm tàu điện có khá nhiều điểm khác so với xẩm truyền thống. Trước hết là về trang phục. Trong khi “ông tổ” của nghề xẩm là xẩm chợ, hàng ngày phải mặc áo tơi, đội nón lá để “chiến đấu” với cảnh dầm mưa dãi nắng thì nghệ nhân xẩm tàu điện lại vô cùng “ăn diện”. Nam thì mặc quần áo nâu, mùa rét thì khoác bên ngoài tấm áo veston, đầu đội mũ cát (giống như mũ cối nhưng màu trắng) nhưng vẫn phải đeo kính đen để thể hiện sự “bơ đời”, tránh cái nhìn không thiện cảm về cái nghiệp “xướng ca vô loài” hè phố. Nữ thì mặc áo tối màu (nâu hoặc xám), có áo yếm sáng màu, váy lưng lửng đầu gối. Sở dĩ có sự khác biệt về trang phục như vậy là bởi môi trường diễn xướng của nó quá tân thời khác hẳn không gian diễn tấu của xẩm truyền thống. Về đạo cụ thì xẩm tàu điện chỉ có nhị hồ với song loan. Còn xẩm chợ thì dùng rất nhiều các nhạc cụ như nhị, đàn bầu. Đặc biệt là gánh xẩm nào cũng phải có trống. Vì họ biểu diễn ở chợ rất ồn ào nên phải có nhiều đạo cụ thì mới thu hút được sự chú ý của mọi người. Chính vì có nhiều nhạc cụ như vậy nên một gánh xẩm truyền thống cũng có nhiều người hơn so với xẩm tàu điện. Thông thường, gánh xẩm chợ toàn là người trong đại gia đình, từ già đến trẻ. Về chủ đề của các bài xẩm cũng có sự khác nhau giữa xẩm tàu điện và xẩm chợ. Trong khi đối tượng diễn xướng của xẩm tàu điện đa phần là dân thị thành, nên những vấn đề được đề cập trong xẩm tàu điện cũng “cao cấp” hơn chứ không dân dã như xẩm ở làng quê, xẩm chợ. Chẳng hạn, ở nông thôn hay hát điệu “thập âm” trong những lễ mừng thọ để báo hiếu với bố mẹ, ông bà hay mỗi khi có người chết. Vì thế, những điệu xẩm cũng dài lê thê, có khi hát cả đêm không hết và giai điệu thì nghe rất buồn. Trong khi đó, Hà Nội là phố buôn bán tấp nập, người ta không có thời gian để nghe hàng tiếng đồng hồ, vì thế, các điệu xẩm cũng ngắn gọn hơn, tiết tấu nhanh hơn và rộn ràng hơn. Cùng là thể loại xẩm nhưng cấu trúc âm nhạc của xẩm tàu điện lại hoàn toàn khác. Về cơ bản thì xẩm tàu điện chỉ có một làn điệu nhưng trong quá trình vận hành, các nghệ nhân đã đưa thêm nhiều làn điệu vào cho phong phú hơn như: một chút xẩm chợ, điệu trống quân, điệu huê tình nhưng được “chuyển hệ” một cách rất tài tình.
Những nhà thơ thường được những người hát xẩm “mượn” thơ là Nguyễn Bính, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải... Chẳng hạn bài mà nghệ sĩ Thanh Ngoan hay hát là “Lửng lơ con cá vàng” (thơ Tản Đà). Hay “Giăng sáng vườn chè” (thơ Nguyễn Bính). Nhưng đặc biệt, thơ Nguyễn Bính tỏ ra phù hợp và “đắt sô” hơn cả. Những bài như: “Lỡ bước sang ngang”, “Chân quê”... được các nghệ nhân xẩm tàu điện sử dụng rất nhiều. Xẩm tàu điện rất hợp với thanh âm của tiếng Việt, đặc biệt là thơ lục - bát. Vì thế, khi vận dụng thơ Nguyễn Bính đã tạo nên sự ăn nhập rất tài tình giữa cấu trúc văn học và âm nhạc. Khi biểu diễn có thể nói là “mưa tiền” vì khách rất thích. “Chả thế mà những nghệ nhân như cụ Tùng Nguyên - người đưa xẩm lên tàu điện có tới mười mấy bà vợ mà bà nào cũng cơ ngơi tử tế. Hay như cụ Hà Thị Cầu cũng là vợ thứ 7, thứ 8 của cụ Trùng Chương. Tức là những cụ “trùm xẩm” đều rất giàu có”.
Dù không còn tàu điện nữa nhưng từ năm 2005 đến nay, cứ mỗi tối thứ 7 hàng tuần, trên phố Hàng Đào - Đồng Xuân sầm uất, các nghệ nhân của Trung tâm Phát triển nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam đã cùng chung sức sưu tầm và phổ biến nghệ thuật hát xẩm đến với công chúng trong và ngoài nước. Mỗi khi ngậm ngùi nhớ về tàu điện, những người Hà Nội lại bồi hồi về những điệu hát xẩm tha thiết, trữ tình xen lẫn tiếng leng keng sớm tối thủa trước. Với sự mở rộng địa giới hành chính của Hà Nội, năm 2010, Hà Nội sẽ lại có tàu điện nhưng không phải chạy “lộ thiên” mà chạy ngầm bắt đầu từ ga Hà Nội đến Nhổn, dài 12km có lộ trình Nhổn - Cầu Diễn - Mai Dịch - Cầu Giấy - Kim Mã - Núi Trúc - Giảng Võ - Cát Linh - Quốc Tử Giám - Ga Hà Nội (điểm cuối trên đường Trần Hưng Đạo). Tàu điện sẽ đi nổi từ đầu tuyến đến Kim Mã rồi đi ngầm trong lộ trình còn lại. Tàu chạy một vòng mất 49 phút, vận tốc trung bình đạt 33km/h. Không biết khi đó, xẩm tàu điện có lại tìm về chốn cũ?
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét