Translate

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

MẬT TÔNG - PHẦN II

PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
Cũng như các tông phái khác trong Phật giáo, sự tu hành của Mật tông gồm có hai phương diện: Sự và lý hay nói theo danh từ của Mật tông là giáo tướngsự tướng.
"Sự tướng" là tất cả những thực hành như tụng chú, kết ấn, cúng dàng, lập đàn v.v. .. tất cả những thực hành ấy phải theo đúng khuôn phép nhất định, chứ không thể dùng ý riêng mà làm càn được.
"Giáo tướng" là tất cả những nghĩa lý sâu xa màu nhiệm mà chư Phật và Bồ tát đã rút ra trong sự tướng để chỉ dạy chúng ta.
Người tu hành phải học tập và thực hành cả hai phương diện ấy, không được thiên bỏ bên nào. Không học giáo tướng thời không lãnh hội được ý nghĩa của sự tướng để làm cho đúng. Không học sự tướng thì tất cả chỉ là nói suông. Giáo tướng thì có thể nương theo kinh điển mà học hỏi. Còn sự tướng thì phải có các bậc A-xà-lê, tức các vị truyền đạo của Mật tông truyền cho mới biết được.
Ngoài sự tu hành thường ngày, phương pháp tu hành trọng yếu của Mật tông là Tam mật.
Tam mật là phương pháp tu hành mầu nhiệm dựa trên thân, ngữ, ý. Tam mật gồm có: Thân mật, ngữ mật (khẩu mật) và ý mật.
Như trên đã nói, chúng sinh và đức Như Lai đều do sáu đại làm thể, bốn pháp Mạn-đà-la làm tướng, không sai khác. Vậy Như Lai và chúng sinh thì thể tướng mật. Như đức Đại Nhật Như Lai đều có Tam pháp giới là Thân mật, hết thảy tiếng tăm là Ngữ mật, cái thức lớn bao khắp hết cả là Ý mật. Còn chúng sinh thì tay bắt ấn là thân mật, miệng niệm chân ngôn là ngữ mật, tâm chuyên vào Tam-ma-địa (Thiền định) là Ý mật.
Nhưng Phật và chúng sinh khác nhau ở tịnh và nhiễm, ngộ và mê, giải thoát và ràng buộc. Vậy chúng sinh muốn được như Phật phải tu hành theo pháp Tam mật. Nhờ tay bắt ấn mà tịnh được thân - nghiệp, miệng niệm chân ngôn mà tịnh được khẩu - nghiệp, Trí quán tưởng đức Đại Nhật Như Lai mà dẹp được vọng tưởng, ý - nghiệp được thanh tịnh. Sự tu hành tam mật có thể chia làm hai giai đoạn lớn.
Giai đoạn đầu là Tam mật gia trì: Trong giai đoạn này, sau khi hành giả đã làm chủ được thân, ngữ, ý rồi thì tâm thuỷ (tâm vắng lặng như nước đứng yên) của mình được ánh sáng mầu nhiệm của Đại Nhật Như Lai chói rọi vào, tức là "Gia" và tâm thuỷ mình cùng cảm chịu, thu nhận được ánh sáng mầu nhiệm ấy tức là "Trì". Một bên thì "Gia", một bên thì "Trì", hai bên thừa tiếp nhau nên gọi là Tam mật gia trì.
Giai đoạn thứ hai gọi là Tam mật du-già. Khi giai đoạn Tam mật gia trì đã thuần thục, thì ánh sáng của đức Đại Nhật Như Lai là ánh sáng trong tâm thuỷ của hành giả hiệp nhau (Du-già) không sai khác, thì gọi là Tam mật Du-già. Đến đây tức là công phu tu hành hữu tướng tam mật đã thành tựu.
QUẢ VI TU CHỨNG:
Hành giả sau khi đã thành tựu Tam mật hữu tướng thông suốt được ý nghĩa nhiệm mầu của Bốn Mạn-đà-la thì nhất cử, nhất động đều khuôn rập đúng theo uy nghi của Phật, làm lợi lạc cho chúng sinh một cách tự nhiên, có làm tất cả mọi việc lợi ích mà như không làm. Đó tức là Vô tướng tam mật.
Đến độ Vô tướng tam mật thì mọi hành vi cử động đều toàn là ấn cả, hết thảy lời nói đều là chú và chân ngôn, hết thảy ý nghĩ đều là diệu quán cả. Do đó, nên trong kinh nói: "Mở miệng ra tiếng chân ngôn diệt tội, giơ tay động chân đều thành mật ấn. Theo việc khởi niệm diệu quán tự hành", đó là ý nghĩa tức thân thành Phật.
Sự lợi ích về việc tu Mật tông, đến khi kết quả cùng tột thì cùng một mục đích như các pháp khác. Nghĩa là ba nghiệp được thanh tịnh, do thân ngồi trì chú, tay bắt ấn, miệng đọc chân ngôn, tâm quán tưởng tự luân thần chú nên được Tam mật, khế hợp với tâm của Bản Tôn.
Trì chú có rất nhiều lợi ích như được tiêu trừ gốc rễ nghiệp chướng, đoạn trừ các ma chướng oan gia, phúc tuệ tăng long, tuỳ tâm hành giả cầu nguyện đều được thành tựu.
TRUYỀN THỪA:
Pháp môn của tông Chân Ngôn này là do Pháp thân của Phật tức là đức Tỳ-lô-giá-na ở cung Kim Cương Pháp Giới, thuộc cõi Ma-hê-thủ-la thiên nói ra, cũng như ở cõi này Ứng thân của Phật là đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Khi mới thành đạo bảy ngày đầu lúc đang tự thụ phác lạc, vì ngài Kim-cương Tát-đoả và các Bồ tát mà nói ra chân ngôn. Đây là nguồn gốc của Tông Chân Ngôn.
Ngài Kim-cương Tát-đoả sau khi thụ pháp bèn kết tập thành kinh Đại Nhật và kinh Kim Cương Đỉnh, mỗi kinh có mười vạn bài tụng rồi để vào Tháp sắt ở Nam Thiên Trúc. Sau Phật nhập diệt khoảng hơn 600 năm Bồ tát Long Thọ, đến Tháp sắt ở Nam Thiên Trúc yết kiến ngài Kim-cương Tát-đoả mở Tháp sắt nhận đại pháp và hai bộ kinh. Sau ngài Long Thọ truyền pháp cho ngài Long Trí, ngài Long Trí truyền cho ngài Thiện Vô Uý (637-735) và ngài Kim Cương Trí (671-741).
Vào đầu thời Đường hai ngài Vô Uý và Kim Cương sang Trung Hoa rộng truyền bí pháp Mật tông. Ngài Vô Uý truyền cho ngài Nhất Hạnh A-xà-lê. Ngài Nhất Hạnh chú sớ kinh Đại Nhật làm cho Mật tông ở Trung Hoa được rực rỡ.
Còn ngài Kim Cương Trí thì truyền giáo pháp cho ngài Bất Không Tam Tạng. Ngài Bất Không truyền cho ngài Huệ Quả A-xà-lê. Ngài Huệ Quả truyền cho ngài Không Hải (tức Hoằng Pháp Đại Sư) người Nhật Bản.
Ngài Không Hải trở về truyền bá và trở thành Sơ tổ Mật tông ở Nhật Bản. Phái này gọi là Đông Mật (Tương truyền: Ngài Thiện Vô Uý và Nhất Hạnh truyền Thai Tạng Giới; ngài Kim Cương Trí và Bất Không truyền Kim Cương Giới nên Mật tông có hai giới là: Thai Tạng Kim Cương).
Dòng thứ hai được truyền vào Tây Tạng vào khoảng thế kỷ thứ III do ngài Liên Hoa Sinh Đại sĩ đem Mật tông từ Ấn Độ truyền vào. Phái này gọi là Tạng Mật. Hiện nay trên thế giới có hai khu vực Mật tông là Đông mật Tạng mật.

(Lược sử các tông phái Phật giáo, T.T Thích Viên Thành, 1999)
                                       Sưu tầm từ:http://conduonghuongthuong.info/Home/index.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét