D. NGHI THỨC HÀNH LỄ
1. Nghi thức xin phép tổ tiên tại gia
Trước
khi hành hương đi lễ tại các đền phủ, nhất là các nơi xa , các hương tử
thường thắp hương khấn vái tại ban thờ tổ tiên tại gia. Thành tâm với
nén hương chén nước, hương tử xin phép thổ công, thổ địa , (táo quân),
cùng gia tiên tiền tổ được hành hương lễ thánh, sau là khấn xin tổ tiên
gia hộ độ trì để xuất hành được thuận lợi , đắc lễ đắc bái, cúi xin các
vị đoái thương con cháu mà tấu đối Phật Thánh nguyện cầu cho nội tộc
bình an, âm siêu dương thái, phúc lộc lai đồng.
Sau đây, Phúc Yên xin giới thiệu một bản văn khấn thường dùng để quý vị tham khảo:
Nam mô a di đà Phật (3 lần)
Con lạy chín phương trời mười phương phật
Con lạy Táo phủ thần quân, bản gia thổ địa, bản xứ tôn thần
Con lạy chư vị liệt tổ liệt tông công đồng nội ngoại
( Con lạy bà Cô, ông Mãnh, Cô bé đỏ, Cậu bé đỏ họ…)
Ngày hôm nay là ngày………………..
Con có nén hương chén nước kính cẩn thưa trình xin phép gia tiên tiền tổ cho con được xuất hành lễ thánh tại ………………………………………………
Cúi
xin tiên tổ phù hộ độ trì cho con đi đến nơi về đến chốn, được thuận
buồm xuôi gió. Cúi xin tổ tiên linh thiêng có tiếng có lời, kêu thay
lạy đỡ trên tấu dưới trình cho con cháu chúng con được ơn nhờ công đức
:đắc lễ, đắc bái, đắc kêu, đắc cầu .
Nam mô a di đà Phật (3 lần)
Lưu ý:
Khi lễ thánh tại đền phủ có nhiều người kêu cầu tổ tiên, bà cô, ông
mãnh …để được ơn nhờ các vị kêu thay lạy đỡ giúp cho việc lễ thánh được
mãn ý mãn tâm. Nhưng cũng có nhiều người cho rằng đền phủ là nơi thờ
Phật Thánh nên các vong linh tổ tiên bà cô ông mãnh không được phép đến,
và cũng không được kêu khấn như vậy trước ban thờ Phật Thánh mà chỉ nên
khấn vái tại ban thờ tổ tiên tại gia mà thôi. Trước khi hành hương lễ
Thánh tại đền, phủ người ta thường chuẩn bị các đồ lễ chu đáo, ăn mặc
gọn gàng, tránh mặc những đồ ngắn , ăn những thứ có mùi vị khó chịu như
hành ( cách thông), hẹ ( từ thông), tỏi (đại toán), kiệu ( lan
thông)…Sau khi đã chuẩn bị xong, xin phép tổ tiên tại gia thì hương tử
bắt đầu xuất hành đi lễ Thánh tại các đền phủ.
2. Thứ tự thực hiện nghi lễ tại các ban thờ trong đền:
Khi
đi lễ tại các đền phủ, đầu tiên người ta lễ trình tại ban tiền bái (
hay còn gọi là ban lễ trình, ban đại bái ) .Đó là ban thờ thường được
đặt ở vị trí trước gian thờ chính . Sau đó hương tử dâng lễ vật lên các
ban thờ trong đền và tiến hành nghi lễ. Thông thường, người ta lễ từ
ngoài vào trong, lễ hết trung cung ( hàng giữa ), vào đến hậu cung rồi
mới lễ sang hai bên. Sau đó trở ra ngoài lễ ban Mẫu Cửu và cuối cùng là
ban thờ Cô, thờ Cậu
Sơ đồ bố trí của một đền thường gặp như sau:
Ban tiền bái
thường đặt một án thờ, một bát hương lớn . Nhiều đền hiện nay khuyến
mọi người không thắp hương trong đền mà thắp hương ở ban tiền bái. Trong
những cụm di tích gồm nhiều đền chùa, ở nhiều nơi thường có bố trí đền
trình. Đó là nơi đầu tiên để người hành hương đến lễ trình tế cáo xin
phép đuợc hành lễ tại nội khu bản đền .
Trung cung
có thể chia làm nhiều lớp, lớp ngoài cùng thường bố trí ban thờ Công
Đồng Tứ Phủ. Ban thờ này thường bài trí tượng Vua Cha Ngọc Hoàng cùng
Quan Nam
Tào và Quan Bắc Đẩu phía trên, tiếp dưới là tượng ngũ vị tôn quan, quan
lớn bản đền, tượng các ông Hoàng, các cô các cậu hầu cận….Phía dưới
thường bố trí ban thờ ngũ hổ, ban thờ này thường gọi là hạ ban. Hạ ban
còn là nơi cúng lễ thanh xà bạch xà ( các ông lốt). Các lớp trong của
trung cung có thể bố trí các ban thờ khác như: ban Thánh thủ đền, ban
Ngọc Hoàng ( trường hợp này ban công đồng không bố trí tượng Ngọc Hoàng
nữa)…..
Hậu cung
( cung cấm) là nơi thâm nghiêm, thường bài trí tôn tượng Tam Tòa Thánh
Mẫu, Các vị thần chủ thờ tại đền….Cung cấm thường không mở cửa rộng rãi
để mọi người lễ bái, mà để tôn nghiêm các đền phủ thường “ cửa khóa then
cài”. Các hương tử khi đó sẽ khấn vái ở phía ngoài, trước cửa cung.
Tả biên, hữu biên:
Tả biên (bên trái) thờ Bà Chúa Sơn Trang và thập nhị tiên nàng, hữu
biên ( bên phải ) thờ Đức Thánh Vương Trần Triều ( Hưng Đạo Đại Vương) .
Cũng có nhiều đền thờ bên tả là Đức Trần Triều bên hữu là Chúa Sơn
Trang, những trường hợp này cũng it gặp hơn.
Ban thờ Mẫu Cửu, lầu cô , lầu cậu :
Ban Mẫu Cửu ( Mẫu Bán Thiên…) thường được bài trí ở ngoài trời. Lầu cô
lầu cậu có thể bố trí ở trong đền chính hoặc ở phía sân đền ( như hình
vẽ)
Trên đây là phần giới thiệu các ban thờ đặc trưng, điển hình và thường
gặp. Mỗi đền mỗi phủ lại có một cách bài trí sắp xếp khác nhau. Trước
khi vào lễ thánh theo thường lệ, hương tử nên hỏi thăm người trông coi
đền ( thủ nhang, đồng đền, ban quản lý di tích…) và xin phép được vào lễ
thánh. Khi vào lễ nên đi từ cửa bên, không đi cửa chính . Cửa chính
được coi là cửa để Chư Phật Thánh, quốc vương, hay các vị đức cao trọng
vọng bước vào. Những dịp đại lễ cửa chính cũng thường để các vị hương tế
bước qua để thực hiện nghi lễ. Các ngày thường các đền phủ thường không
mở cửa chính. Khi vào đền cần cung kính, không nói to, cười đùa , gây
ồn ào, náo loạn chính điện ảnh hưởng đến sự trang nghiêm nơi thờ tự.
3. Thực hiện nghi lễ (cách hành lễ) :
- Dâng lễ: sắp lễ và dâng lên các ban thờ
- Dâng hương:
Nén hương từ lâu đã được coi là cầu nối tâm linh giữa cõi trần thế và
cõi linh thiêng nơi thiên tào địa phủ. Người ta thường thắp một nén, ba
nén, năm nén… với những số lẻ đầy ý nghĩa theo quan điểm của người
phương Đông. Điều đặc biệt với tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ phủ đó là hương
tử có thể thắp ba nén hay bốn nén hương tương ứng với kính lễ tam phủ ,
tứ phủ. Nén hương khi đốt lên còn có tác dụng khai quang, xua đuổi tà
quỷ . Nhiều người khi sắp lễ thường cắm thêm một nén nhang vào mâm lễ
với ý nghĩa làm trong sạch, thanh tịnh phẩm vật dâng lễ. Khi dâng hương
có thể cầm nén hương nguyện cầu khấn vái rồi mới cắm vào bát hương hoặc
cầm nén hương vái ba vái sau đó cắm vào bát hương rồi mới khấn lễ. Số
lần vái cũng như số nén hương có thể là một lần, ba lần, năm lần ( số
lẻ)… hay ba lần , bốn lần ( tương ứng với vái tam phủ, tứ phủ).
- Đánh chuông và khấn lễ: Tùy
duyên, hương tử có thể quỳ hoặc đứng để hành lễ. Tại các ban thờ ở
trung cung ( như ban công đồng) thường bố trí sập thờ, chiếu thờ để thực
hiện nghi thức quỳ bái. Sau khi quỳ trước ban thờ, người ta đánh ba hồi
chuông chắp tay và khấn vái . Nội dung khấn vái chính là các bài văn
khấn như đã trình bày ở trên. Sớ văn có thể đọc trước ban thờ (tuyên sớ)
hoặc chỉ cần đặt trên đĩa dâng lên ban thờ cũng được. Trường hợp văn
khấn in , viết ra giấy và dâng lên ban thờ cũng có ý nghĩa như việc dâng
sớ văn. Khi khấn vái xong , hương tử có thể gieo đồng đài âm dương xem
lời kêu cầu của mình đã được chư Thánh chấp thuận hay chưa. Nếu chưa
được thì kêu cầu xin các ngài đại xá và gieo lại lần nữa. Thường người
ta chỉ gieo đến ba lần. Cũng có khi những việc quan trọng để an tâm
người ta thường gieo ba lần và cả ba lần chư thánh đều chấp thuận thì
mới coi là đạt.
Linh vật dùng để xin đài thường là một đôi tiền đài và một chiếc đĩa
sứ. Tiền đài là loại tiền xu có hai mặt, một mặt có ghi chữ hán ( mặt
ngửa) và một mặt có in hình hoa văn ( long phụng, lưỡng long…) hoặc để
trơn ( mặt sấp). Theo phong tục dân gian đồng tiền đài muốn có “ linh”
thì sau khi mua về phải làm lễ khai quang, trì chú hoặc dùng đồng tiền
đài đã sẵn có “ linh” rồi (thường là đồng tiền đài ở đền phủ) để gieo
đài xin chư thánh “giáng linh” xuống đồng tiền đài mới. Đồng tiền đài
không được để nơi uế tạp và phải nâng niu như một “ linh vật”. Hình vẽ
dưới giới thiệu các mẫu tiền xu thường sử dụng làm tiền đài:
Khi gieo đài quy ước :
- Một đồng sấp , một đồng ngửa ( nhất âm, nhất dương) là đài thuận tức là những lời kêu khấn được chư thánh chấp thuận
- Hai đồng cùng ngửa là đài cười. “Cười là tươi là tốt “ tuy chư thánh chưa chấp thuận nhưng ngài vẫn thương
- Hai đồng cùng sấp là đài quở. Trường hợp này được coi là thất lễ khiến chư thánh ra điều quở trách.
Hai đồng tiền đài còn được tương ứng với quan niệm về âm và dương.
- Quan niệm thứ nhất
cho rằng đồng sấp tượng trưng cho dương và đồng ngửa tượng trưng cho âm
, giống như quan niệm dương thượng âm hạ dương nằm trên âm nằm dưới,
dương sấp còn âm ngửa.
- Quan niệm thứ hai
cho rằng đồng ngửa là tượng trưng cho dương và đồng sấp tượng trưng cho
âm. Đồng ngửa là đồng thấy rõ chữ ghi trên đó, không còn chướng ngại,
thấy rõ ràng , minh bạch ứng với dương . Đồng sấp là đồng còn mờ mịt
chưa biết rõ ràng nên tượng trưng cho âm
Hai
quan điểm tuy khác nhau nhưng đều có điểm chung là sự thuận hòa âm
dương, đó là điều ta luôn hướng tới. Âm dương tưởng chừng hai mặt trái
ngược giữa tốt và xấu, chất lượng và giá cả, nóng và lạnh, tự tin và tự
ti………Nhưng thiếu một trong hai mặt thì cũng không được. Có trời có đất,
có tối có sáng, làm sao để âm hòa dương thuận , âu đó cũng là lẽ sống ở
đời. Việc gieo tiền đài là một nghi lễ tâm linh. Đứng trước ban thờ chư
thánh, hương tử nguyện cầu xin được các ngài soi đường chỉ lối, để tâm
được an, để lòng được tịnh. Việc gieo đài âm dương cho kết quả có đúng
hay không, thời mong quý vị cùng chiêm nghiệm. Có tâm thời ắt có linh –
tâm tại lòng ta- linh tại ngã - bất linh tại ngã.
Sưu tầm từ:http://hatvan.tk/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét