Thưa chư
vị,
.
.
Nhân
dịp hội thảo về Phong thủy, xin chép hầu chư vị một ít tài liệu về những
bí ẩn của phong thủy để mua vui cho quý vị. Chuyện phong thủy từ xưa
đến nay luôn là một câu chuyện đầy bí ẩn. Cổ ngữ vẫn có câu: "Được về mồ
về mả, chứ ai được về cả bát cơm". Lại khi có ai đó dốt nát mà trên vẫn
cho được làm quan, dân gian lại bảo: "Mả nhà nó táng hàm rồng". Nước ta
làm sao mà lắm chỗ hàm rồng thế!
.
Bí ẩn
của phong thủy gồm 3 bài: 1. Tả Ao tiên sinh; 2. Bí ẩn của phong thủy;
và 3. Các sách về phong thủy có trong thư viện Viện Hán Nôm (nơi chúng
tôi làm việc).
.
Hầu
chuyện chư vị, ai cho là chuyện mê tín dị đoan, xin sang trang website
khác không mê tín dị đoan mà đọc. Ai có dạy dỗ gì, tôi cũng không dám
nhận, vì tôi không nghiên cứu về phong thủy. Chỉ mua vui cho mấy chỗ
bằng hữu mà thôi! (Lâm Khang chủ nhân cẩn bút).
.
Bức chạm Mả táng hàm rồng. Đình Chu
Quyến, Ba Vì, Hà Tây (cũ).
Ảnh: Trang Thanh Hiền
TẢ AO TIÊN SINH
TẢ AO TIÊN SINH
Thầy địa lý Tả Ao là ông Mỗ (không xác định
được danh tính). Thuở nhỏ, mồ côi cha, nhà nghèo, mẹ mắt lòa, ông theo
một khách buôn ở phố Phù Thạch (gần rú Thành ở Nghệ An) về Tàu để lấy
thuốc chữa bệnh cho thân mẫu. Thầy thuốc khen Tả Ao có hiếu nên hết lòng
dạy cho.
Khi
nghề đã thành, sắp về nước, chợt có thày địa lý chính tông đau mắt đã
lâu không khỏi, đến mời thày thuốc này đến chữa, do già yếu nên ông thày
sai Tả Ao đi chữa thay. Khi Tả Ao chữa khỏi mù loà, ông thày địa lý
nhìn thấy Tả Ao nghĩ bụng: Người này có thể truyền nghề cho được đây. Tả
Ao cũng có ý muốn học, vả lại thấy Tả Ao thông minh, hiếu học, để trả
ơn chữa bệnh nên thày địa lý nọ đã truyền hết nghề, hơn một năm đã giỏi.
Để thử
tay nghề của học trò, ông thày bèn đổ cát thành hình núi sông và vùi
một trăm đồng tiền ở các huyệt đạo, rồi bảo Tả Ao tìm thấy huyệt thì
xuyên kim xuống. Tả Ao đã cắm được 99 kim đúng lỗ đồng tiền (chính
huyệt), chỉ sai có một. Xong ông thày nói:
- Nghề của ta đã sang nước Nam mất rồi. Rồi cho
Tả Ao cái tróc long và thần chú. Tả Ao về nước Nam chữa khỏi bệnh cho
thân mẫu.
Trước
khi từ biệt, ông thày địa lý bên Tàu dặn: Khi về Nam, nếu qua núi Hồng
Lĩnh thì đừng lên. Nhưng một lần đi qua Hồng Lĩnh, không hiểu duyên cớ
gì Tả Ao lại lên núi và thấy kiểu đất Cửu long tranh châu (chín rồng
tranh ngọc), mừng mà nói rằng: - Huyệt đế vương đây rồi, thày dặn không
lên là vì thế. Bèn đưa mộ cha về táng ở đấy. Ít lâu, vợ Tả Ao sinh hạ
được một con trai.
Khi ấy, nhà Minh bên Trung Quốc, các thày thiên
văn phát hiện các vì tinh tú đều chầu về nước Nam nên tâu với nhà Vua, ý
là nước Nam được đất sẽ sinh ra người tài, sẽ hại cho nhà Minh. Nhà Vua
bèn truyền các thày địa lý là nếu ai đặt đất hoặc dạy cho người Nam thì
phải sang tìm mà phá đi, nếu không sẽ bị tru di tam tộc. Ông thày của
Tả Ao biết là chỉ có học trò của mình mới làm được việc này nên cho con
trai tìm đường xuống nước Nam mà hỏi:
- Từ khi đại huynh về đã cất được mộ phần gia tiên nào chưa. Tả Ao cũng thực tâm thuật lại việc đặt mộ cha mình. Con thày Tàu dùng mẹo cất lấy ngôi mộ, bắt con trai của Tả Ao đem về Tàu. Rồi thân mẫu của Tả Ao mất, Tả Ao tìm được đất Hàm rồng ở ngoài nơi hải đảo để táng. Đến ngày giờ định táng thì trời gió to sóng lớn, không mang ra được. Lát sau trời yên, biển lặng ở đó nổi lên một bãi bồi, Tả Ao bèn than rằng: Đây là hàm rồng, năm trăm năm rồng mới há miệng một lần trong một khắc. Trời đã không cho thì đúng là số rồi. Rồi Tả Ao chán nản gia cảnh, bỏ quê hương chu du khắp bốn phương để chữa bệnh, tìm đất giúp người.
- Từ khi đại huynh về đã cất được mộ phần gia tiên nào chưa. Tả Ao cũng thực tâm thuật lại việc đặt mộ cha mình. Con thày Tàu dùng mẹo cất lấy ngôi mộ, bắt con trai của Tả Ao đem về Tàu. Rồi thân mẫu của Tả Ao mất, Tả Ao tìm được đất Hàm rồng ở ngoài nơi hải đảo để táng. Đến ngày giờ định táng thì trời gió to sóng lớn, không mang ra được. Lát sau trời yên, biển lặng ở đó nổi lên một bãi bồi, Tả Ao bèn than rằng: Đây là hàm rồng, năm trăm năm rồng mới há miệng một lần trong một khắc. Trời đã không cho thì đúng là số rồi. Rồi Tả Ao chán nản gia cảnh, bỏ quê hương chu du khắp bốn phương để chữa bệnh, tìm đất giúp người.
Khi già yếu, Tả Ao cũng đã chọn cho mình chỗ an
táng kiểu đất Nhất khuyển trục quần dương (chó đuổi đàn dê) ở xứ Đồng
Khoai. Nếu táng được ở đây thì chỉ ba ngày sau là thành Địa Tiên. Tả Ao
có hai người con trai nhưng do Tả Ao chu du thiên hạ, không màng dang
vọng, bổng lộc nên gia cảnh, con cái thì bần hàn. Lúc sáu lăm tuổi, biết
mình sắp về chầu tiên tổ nên bảo hai con khiêng đến chỗ ấy, để nằm dưới
mộ và sẽ tự phân kim (chôn lúc chưa chết hẳn), dặn con cứ thế mà làm.
Mới được nửa đường, biết là sẽ chết trước khi đến nơi nên Tả Ao bèn chỉ
đại một gò bên đường mà dặn con rằng: Chỗ kia là ngôi Huyết thực, bất
đắc dĩ thì cứ táng ở đó, sẽ được người ta cúng tế.
Ông xuống cáng, chỉ hướng cho người nhà đào.
Hai con bèn táng luôn ở đó. Sau quả nhiên làm Phúc thần.
***
Tả Ao tiên sinh là người Việt Nam. Một người
nổi tiếng như vậy mà không biết thực họ tên là gì. Sách Tang thương ngẫu
lục đã phải than rằng: “Chao ôi! Phương thuật của ông kể cũng rất lạ,
vậy mà họ tên không truyền lại, tiếc thay!. (Có thuyết bảo ông họ Hoàng,
tên Chỉ”.
Cái tên Tả Ao
không phải là tên thật của nhân vật này, mà là tên làng quê của ông,
được ông lấy làm tên hiệu và gắn với tác phẩm của mình. Cũng tương
truyền, tên ông được người xưa lấy tên làng, nơi ông sinh ra để gọi, mà
không gọi tên thật. Tên thật của ông thì không rõ ràng. Bách khoa
toàn thư Việt Nam viết rằng: Tả Ao, trong sách Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú, có tên là Hoàng Chiêm hay Hoàng
Chỉ. Còn trong dân gian, xuất phát từ quê hương ông, lưu truyền tên gọi
thật là Vũ Đức Huyền. Cũng có nguồn nói rằng ông có tên là Nguyễn Đức
Huyền. Tả Ao sinh vào khoảng năm Nhâm Tuất (1442), sống thời Lê sơ (Lê
Thánh Tông , Lê Hiến Tông và Lê Uy Mục, tức là khoảng những năm
1442-1509). Có tài liệu cho rằng Tả Ao sinh sống trong khoảng đời vua Lê
Hy Tông (1676-1704).
.
Một hàm rồng chưa mở huyệt.
Địa điểm vẫn còn nằm trong bí mật.
Ảnh: Nguyễn
Xuân Diện
Các sử gia thời Lê Nguyễn đều
không chép về ông nên cuộc đời ông chỉ được chép tản mát trong một số
truyện, sách đại lý phong thủy thời nhà Nguyễn và sau này. Sách Hán Nôm
được cho là do Tả Ao truyền lại gồm: Tả Ao chân truyền di thư (左
幼 真 傳 遺 書), Tả Ao chân truyền tập (左 幼 真 傳 集),
Tả Ao chân truyền địa lý (5 tập-左 幼 真 傳 地 理), Tả Ao
tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng (左 幼 先 生 祕 傳 家 寶 珍 藏),
Tả Ao tiên sinh địa lý (左 幼 先 生 地 理), Tả Ao xã tiên sư
thư truyền bí mật các lục (左 幼 社 先 師 書 傳 祕 宓各 局). Các
tác phẩm này hiện lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tuy nhiên Viện Hán
Nôm cũng chú thích rằng: Tả Ao là tên hiệu của Hoàng Chiêm.Ngoài ra, có các sách Địa lý phong thủy Tả Ao và Địa lý Tả Ao chính tông của tác giả Vương Thị Nhị Mười; Nghiên cứu Phong thủy và Phong thủy Việt Nam của Ngô Nguyên Phi...đều nói sơ lược về Tả Ao.
Các sách vở
cũng như truyền thuyết đều coi ông là Thánh Địa lý Tả Ao, trạng Tả Ao,
là thuỷ tổ khai môn, đệ nhất về địa lý phong thuỷ Việt Nam. giỏi địa lý
phong thủy như Cao Biền của Trung Quốc. Người đời xưa còn truyền lại bài
thơ ca ngợi ông.
Ngày nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều truyền thuyết,
giai thoại được sách vở ghi lại, truyền miệng trong dân gian như việc
Tả Ao, Tả Ao và Cao Biền thi thố tài năng (như Tả Ao phá trấn yểm của
Cao Biền trên núi Tản Viên ở Hà Nội, núi Hàm Rồng ở Thanh Hóa,…), các
truyền thuyết, giai thoại Tả Ao tìm nơi đất tốt để đặt đình chùa, đền
miếu, mồ mả, nhà cửa; giúp dân nghèo, trị kẻ gian ác. Tương truyền làng
này có tục nọ, nghề kia là do Tả Ao chọn đất, hướng đình; họ này phát
danh khoa bảng, họ kia phát công hầu khanh tướng là do Tả Ao tìm long
mạch, huyệt đạo đặt mồ mả. Có một truyền thuyết còn lưu truyền đến ngày
nay tại thôn Nam Trì xã Đặng Lễ huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên (nơi có đền
thờ Tả Ao): Truyền tích gắn liền với ngôi đền thờ Tả Ao làng Nam Trì còn
lưu truyền đến ngày nay là thời kỳ Tả Ao ở khu vực Hưng Yên một thời
gian. Tả Ao về huyện Thiên Thi (tên cũ của Ân Thi) đã đã cắm đất, chọn
ngày xây đình chùa, đặt mồ mả để cho hai làng Thổ Hoàng (nay thuộc thị
trấn Ân Thi) và Hới (tức làng Hải Triều, trước thuộc huyện Tiên Lữ, nay
thuộc Hưng Yên) phát về đường khoa cử, giàu có nên lưu truyền trong dân
gian câu ngạn ngữ Nhất Thi nhì Hới.
Tại Nam Trì, Tả Ao đã
giúp dân làng lập lại làng, chuyển đền, chùa và tìm đất đặt mộ phần cho
họ Đinh tại gò Tam Thai vượng về võ tướng. Đến năm Giáp Thìn niên hiệu
Quảng Hòa thứ 4 (1544) đời Mạc Phúc Hải, người họ Đinh làng Nam Trì là
Đinh Tú đỗ Đệ tam giáp Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân và được bổ
nhiệm làm quan Hiến Sát xứ Hải Dương, được phong tước Phù Nham bá. Hậu
duệ của Đinh Tú (lăng mộ tại Nam Trì), chuyển sang sống ở làng Hàm Giang
(Hàn Giang) huyện Cẩm Giàng là Đinh Văn Tả là một danh tướng thời
Lê-Trịnh.
Đền thờ:
Bàn thờ Tả Ao và các vị Thành
hoàng làng Nam Trì. Ảnh: Internet.
Có
rất nhiều truyền thuyết, giai thoại được sách vở ghi lại, nhất là giai
thoại khi Tả Ao mất, táng ở “ngôi Huyết thực” để được một làng cúng tế.
Thực tế, cũng chưa thấy ở đâu (kể cả ở quê hương) có đền thờ Tả Ao và
cũng không thấy Tả Ao được phong thần. Hiện nay, có lẽ là duy nhất ở
thôn Nam Trì xã Đặng Lễ huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên có thờ Tả Ao.
Đền Nam Trì nguyên thờ tam vị Thượng đẳng phúc
Thần: Tể tướng Lữ Gia (Bảo Công), tướng Nguyễn Danh Lang (Lang Công),
Cao Biền (Cao Vương) và Tả Ao gắn với Lễ hội Nam Trì (hay Lễ hội: Bảo,
Lang, Biền). Trong danh sách 7 vị thần thờ ở đền Nam Trì (3 vị trên và 1
vị phu nhân Lữ Gia và 2 vị phu nhân Cao Biền) thì vị thứ 7 là Nguyễn
Lang nhưng thực tế ở Nam Trì thì chỉ biết vị thứ 7 là Tả Ao chứ không
biết Nguyễn Lang là ai.
Theo
lịch sử và thần tích thờ tự đền Nam Trì thì khi Tả Ao giúp dân làng lập
lại làng, chuyển chùa, đền thờ về phía Tây Nam; nhớ công ơn Tả Ao dân
làng Nam Trì đã tôn Tả Ao là vị Bản cảnh Thành hoàng và thờ cùng tam vị
Thượng đẳng phúc Thần từ đó đến nay. Hiện trong đền Nam Trì có câu đối
của Tả Ao tả về địa lý, phong thuỷ làng Nam Trì: “Tây lộ khê lưu kim tại
hậu - Đông giang thuỷ tụ mộc cư tiền” nghĩa là phía tây của đường làng
có dòng nước chảy, phía sau của làng là hướng Tây Bắc (hướng tây bắc
hành kim) - phía đông làng có sông nước tụ làng nhìn về hướng đông nam
(hướng đông nam hành mộc).
Tham khảo
từ các sách: Tang thương ngẫu lục, Nam Hải dị nhân,
Bách khoa
toàn thư mở Wikipedia và một số tài liệu khác
Sưu tầm từ:Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện tổng hợp
http://nguyenxuandien.blogspot.com/
Sưu tầm từ:Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện tổng hợp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét