
Chữ trong tranh Đông Hồ
Phùng Hồng Kổn
Theo
lý thuyết, ngôn ngữ của hội hoạ là đường nét và màu sắc, tuy nhiên, hội
hoạ hiện đại - nhất là tranh trừu tượng, nhiều khi không có đường nét
nào, không có hình thù gì, thậm trí màu sắc cũng chỉ là tối thiểu. Ây là
chưa kể tới nghệ thuật sắp đặt (installation), nghệ thuật trình diến (performance) đang thịnh hành ngày nay.
Hội
hoạ cổ phương đông thì trái lại, ngoài đường nét, màu sắc, còn có cả
chữ - hơn thế nữa còn có loại “tranh” chỉ có chữ, gọi là “tự hoạ”, lối
vẽ tranh này gọi là “thư pháp”. Chữ giúp người xem hiểu ý đồ của tác giả
hơn, chữ bổ sung thêm thông tin cho bức tranh, chữ là những lời bình
luận về bức tranh, những lời chúc tụng cho chủ nhân bức tranh v.v... Chữ
trong tranh có thể là thơ, là câu đối, tục ngữ, phương ngôn, hay có thể
chỉ là một câu nói thường ngày - nhưng ý nghĩa lại rất rộng, rất sâu.
Làng
Đông Hồ (xưa còn gọi là làng Mái) thuộc xã Song Hồ huyện Thuận Thành
tỉnh Bắc Ninh có nghề làm tranh từ lâu đời. Khác hẳn với tranh dân gian ở
nơi khác, tranh cổ Đông Hồ được in trên giấy Dó đã quét điệp. Đầu tiên
các nghệ nhân “ra mẫu” tức là sáng tác mẫu. Tiếp đó mẫu được dán vào tấm
gỗ thị rồi “cắt ván”( khắc ván). Một ván nét (contour) và bốn, năm ván
màu tùy từng tranh. Sau đó là công việc của cả nhà: Quét điệp lên giấy
Dó, phơi khô, in lần lượt các màu, cuối cùng là in ván nét màu đen. Tất
cả các màu đều được chế từ chất liệu dân dã như lá tre, lá chàm, hoa
hòe…(Đến thời kì nước ta bị thực dân Pháp đô hộ thì ở Đông Hồ xuất hiện
loại tranh in nét rồi tô màu bằng phẩm ngoại). “Ra mẫu” là khâu then
chốt trong việc làm tranh. Mỗi thời cả làng chỉ có vài nghệ nhân có thể
ra mẫu. Những nghệ nhân này không chỉ có khả năng vẽ mà còn là những nhà
nho có học hành cẩn thận. Chính vì vậy trên tranh Đông Hồ thường có thơ, câu đối, chữ. Và bản thân tranh cũng thường có đôi gọi là “đôi tranh” (như kiểu đôi câu đối).
Thưởng
ngoạn tranh Đông Hồ với phần họa, bạn đã thấy hồn mình được trở về với
cây đa giếng nước, với mái tranh tỏa khói lam khi chiều buông… Phần chữ
trong tranh sẽ giúp bạn thức dây những cảm xúc mới thú vị.
Chữ trong tranh Đông Hồ chủ yếu là chữ Hán và chữ Nôm.Từ những năm đầu của thế kỉ XX một số nghệ nhân mới
đưa chữ quốc ngữ vào tranh. Chữ Nôm là thứ chữ khó đọc. Những bản khắc
truyền từ đời này sang đời khác, phần dễ bị tổn thương nhất (bị mòn, bị
sứt mẻ) là phần chữ. Đọc được hết chữ trên tranh Đông Hồ là việc không
dễ dàng. Nhờ được hầu chuyện các lão nghệ nhân, tôi xin chia sẻ cùng các
bạn yêu tranh Đông Hồ những điều lí thú từ những dòng chữ trên tranh và
cả những bài thơ xung quanh các bức tranh. Tranh Đông Hồ thì hầu như
đều có chữ, vì khuôn khổ của bài báo nên tôi chỉ xin trích ra một số bức
tranh tiêu biểu. Để tiện cho bạn đọc theo dõi tôi tạm phân thành hai
mảng: Tranh về tín ngưỡng (Có một số tác giả gọi loại tranh này là “Tranh chúc phúc”) và Tranh về cuộc sống đời thường.
Sự phân loại ở đây chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi tranh mô tả cuộc sống
đời thường nhưng nhiều khi cũng được tác giả gửi gắm nhiều ý nghĩa.
Tranh về tín ngưỡng:
Tranh tiến tài, tiến lộc :
Trên mỗi tranh là một vị thần, một tay nâng bức quấn thư - tưọng trưng
cho việc học hành, tay kia nâng biểu tượng thần quyền. tranh tiến tài có
chữ “tài hằng nguyên chí” (của như nước nguồn), tranh tiến lộc có chữ “lộc vị cao thăng”
(lộc ngày càng tăng). Đó chính là mong ước của người nông dân thuở
trước, họ dán hai bức tranh này ở hai cửa buồng (kiểu nhà năm gian hoặc
ba gian hai trái thời xưa) với hy vọng thần tài phù trợ.
Tranh thổ công, táo quân: Phía trên, một bên là hai ông bà thổ công với chữ: “thổ công vị, thổ công hằng trợ, trạch chủ bình an”, bên kia là ba ông bà táo quân với chữ “táo quân vị, nhật hưởng vinh hoa, niên tăng phú quý”. Phía dưới là cảnh thanh bình, no ấm của nhà nông.
Tranh ông tơ, bà nguyệt
: Các cụ kể lại, ngày xưa nhà nào có con 10 tuổi mà chưa dựng vợ, gả
chồng thì tết đến chơi đôi tranh này. Trên tranh có ông tơ cưỡi rồng, bà
nguyệt cưỡi phượng đang xe tơ kết tóc cho đôi trai gái. Bên cạnh có đôi
câu đối: “ông tơ xe chỉ thắm; bà nguyệt kết giải đào”.
Tranh về cuộc sống đời thường:
Gà đại cát nghinh xuân (1) (đón
xuân tốt lành): hai con gà đối xứng nhau, hình thể, lông cánh, lông
đuôi mang tính ước lệ hơn là tả thực. Chữ đại cát được tác giả đưa vào
tranh đã đúc kết mong ước từ ngàn năm và cũng là mong ước hàng ngày của
mọi người nông dân. người nông dân trồng lúa nước chỉ mong mưa thuận
gió hoà; chăn nuôi thì chỉ mong các con vật hay ăn chóng lớn, cuộc đời
chỉ mong khoẻ mạnh, con đàn cháu đống v.v... tất cả đều là những ước mơ
giản dị - điều
lành lớn. Đôi tranh này có bố cục khác hẳn tất cả các tranh còn lại.
trong những tranh khác, chữ - tuy cũng là một phần trong bố cục của
tranh, những chỉ chiếm một phần nhỏ, còn ở đây chữ và các hoa văn trang
trí chiếm nửa bức tranh - tác giả đã nhấn mạnh ước vọng của người nông
dân - đồng thời đó cũng là lời chúc tụng trong dịp xuân mới.
Gà dạ xướng, nhật minh : một chú gà trống đứng co một chân (kim kê độc lập - tư thế giống gà đại cát), mào, cánh, đuôi, lông mã được cách điệu rất đẹp. Trên tranh có chữ “dạ xướng ngũ canh hoà” (đêm gáy năm canh đều đặn). Vế kia của tranh, vẫn chú gà đó quay trở lại, và dòng chữ “nhật minh tam tác thuỵ”
(ngày mang tới ba điều lành). Theo quan niệm xưa, tiếng gà gáy xua tan
tà ma, quỷ quái, mang tới may mắn. (tranh này cùng với tranh gà Đại cát
thường được sử dụng làm “vi nhét” của sách báo).
Kê cúc (gà trống bên
cây cúc): chú gà trống hùng dũng, một chân gân guốc xoạc ra, chân kia
bám vào tảng đá, vươn mình lên như sắp gáy- mà cũng như sắp bước vào một
trận quyết chiến. nói theo cách của hội hoạ hiện đại, bức tranh này sử
dụng bảng màu “tương túc” (tương phản và bổ túc). hai màu tương phản: đỏ
- xanh (tuy đỏ đã ngả nâu) và màu trung gian: vàng. những chiếc lông
cánh, lông đuôi của con gà: xanh - vàng - đỏ, rồi xanh - đỏ - vàng, có
chỗ lại: xanh - đỏ - xanh cùng những mảng vàng
lớn - khiến cho thị giác người xem bị cuốn hút mạnh mẽ, chỉ có ba màu mà
ta cảm thấy màu sắc như trùng trùng điệp - ấn tượng rất mạnh. Theo các
nghệ nhân cao tuổi, hình ảnh gà trống oai phong, hùng dũng tượng trưng
năm đức tính của người đàn ông: văn, võ, dũng nhân, tín.
- Cái mào đỏ tựa như chiếc mũ cánh chuồn - tượng trưng cho văn.
- Chân gà có cựa sắc nhọn như kiếm, dùng để chọi - tượng trưng cho vũ.
- Thấy địch thủ, gà trống dũng cảm xông vào, chiến đấu đến cùng - biểu thị của dũng.
- Kiếm được mồi cùng gọi nhau ăn - biểu thị của nhân.
- Hàng ngày gà gáy sang canh không bao giờ sai, nó đánh thức mọi người dạy đúng giờ - biểu thị của tín.
Trên tranh không
có chữ gì nhưng một bài thơ vịnh chú gà này của nghệ nhân Hiền Năng
(1912-1993, người sáng tác nhiều mẫu tranh về lịch sử) lại được truyền
tụng. Bài thơ có tám câu mà đã sử dụng tới bốn câu phương ngôn về gà:
Gà trống
Xưa vốn cùng chung một mẹ mà
Khôn ngoan đối đáp với người ta
Gáy lên bạn hỡi xem trời sáng
Báo để người nghe tỉnh giấc ra
Rõ vẻ giống tông đầu mỏ thế
Lẽ đâu ăn quẩn cối xay nhà
Mặc ai vờ vịt trông ra quốc
Thực giống Hồ đây chẳng phải pha.
Gà thư hùng :
Các cụ kể lại, năm ấy (khoảng 1915) cụ chánh Hoàn gả con gái cho anh
phán Vinh, cụ Đám Giác (tên thật là Nguyễn Thể Thức 1880-1943) đã mừng
đám cưới bằng một mẫu tranh mới, gà thư hùng: một gia đình gà gồm gà
trống, gà mái và đàn con. trên tranh có dòng chữ nôm “lắm con nhiều cháu, giống cánh giống lông”-
một lời chúc thật sâu sắc! (con nhà tông không giống lông cũng giống
cánh). Gà mái có bố cục theo đường xoắn ốc - tạo nên sự nũng nịu. gà
trống được đặt trong một hình thang, đáy lớn nằm trên - tạo nên tư thế chủ gia đình, che trở cho gà mái và đàn con. Bức tranh gợi không khí hạnh phúc , đầm ấm trong một gia đình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét