Vào giửa thế kỷ thứ 6, nước
Phù nam lại bị người Khmer thôn tính, trở thành Thủy Chân
lạp. Vị vua cuối của Phù Nam được sử Tàu nhắc đến
là khoảng năm 550. Nước Chân lạp (Chen-la hay Zhenla) được
hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 5, mà truyền thuyết thần
thoại theo văn minh Ấn kể rằng thần Shiva kết hợp đạo
sĩ Kambu Svayambhuva ở xứ Kambujadesha (nên mới có chữ Kampuchea
hay Cambodia bây giờ) với tiên nữ của Đại hồ tên là Mera,
từ đó có giống Khmer (do hai chữ Kambu và Mera ghép lại).
Năm 539- 577, dưới triều vua
Rudravarman khu Mỹ sơn lại bị đốt phá, và đã được vua
Sambhuvarman (mất năm 629) trùng tu lại. Đến đời nhà Tùy,
năm 602 vua sai tướng Lưu Phương kéo quân sang Giao Châu dẹp
cuộc nổi dậy của Lý Phật Tử, sau khi bình định xong Lưu
Phương tiến xuống đánh Lâm Ấp để cướp của, vua Lâm
Ấp là Phạm Phạm-Chí (Cambhuvarman) thất trận chạy thoát.
Sau khi Lưu Phương vào kinh đô Trà Kiệu gom góp được vô
số của cải, đã lấy đi 18 tấm miếu chủ đúc bằng vàng.
Lâm Ấp từ đấy lại xin triều cống như cũ.
Đến đời nhà Đường có
ba sự kiện đáng ghi là:
1) Vào đời Thái tông, nước
Lâm Ấp đổi quốc hiệu là Hoàn Vương (?). Cụ Trần trọng
Kim chép trong Việt nam sử lược trang 60: "Đến quãng năm Trinh-quan
đời vua Thái tông nhà Đường, (tức khoảng từ năm 627 đến
630) vua Lâm Ấp là Phạm Đầu Lê mất, con là Phạm Trấn Long
cũng bị người giết, người trong nước lập một người
con của bà cô Phạm Đầu Lê, tên là Chư Cát Địa (? Vikrantavarman
I) lên làm vua. Chư cát Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương
quốc." Họ Chư lại kéo quân sang đánh Giao châu và chiếm
giữ châu Hoan và châu Ái.
Nhưng có tác giả lại viết
là từ năm 758, sử Trung Hoa không còn gọi nước nầy là Lâm
Ấp mà đổi tên gọi là nước Hoàn Vương (Huan Wang). Dựa
vào các bia đá ở Mỹ Sơn thì năm 758 là triều vua Vikrântavarman
II kế vị. Vikrântavarman II là thái tử Prakasadharma, con của
một hoàng thân Chàm tên là Jagadharma đã sang Chân Lạp cưới
công chúa Carvâni (con của vua Icanavarman). Về sau chính vua Chàm
ở phía bắc Vikrantavarman II này (của bộ tộc Dừa - Narikelavamsa)
đã thôn tính vùng Kauthara (Khánh hòa) của các tiểu vương
Chàm ở phía nam (của bộ tộc Cau - Kramukavamsa). Như thế thì
chưa rõ thuyết nào đúng về niên đại của sự đổi tên
Hoàn Vương Quốc.
2) Năm 679 vua Đường Cao tông
(Phụ chú: là ông vua yếu đuối đa tiønh đã tằng tịu với
Võ Tắc Thiên, cung tần của vua cha và đã đưa bà lên ngôi
Hoàng hậu. Vào năm này Cao tông đã ngã bệnh liệt giường,
có lẽ bởi tai biến mạch máu não do chấn động sau cái chết
đột ngột của Thái tử Lý Hoằng. Mọi việc triều chính
đều do Võ hậu quyết định cả, và người ta nghi chính Võ
hậu đã đầu độc con trai trưởng của miønh bởi vì sợ
vai trò của bà bị đe dọa), ra lệnh chia đất Giao chỉ bộ
ra làm 12 châu và đặt chức An nam đô hộ phủ, và từ đó
có tên An nam.
3) Nạn giặc biển từ Java
và Sumatra mà Sử chép là "Năm 767 có quân Côn lôn và quân
Đồ bà từ hải đảo kéo vào cướp phá đất Giao châu. Quan
kinh lược sứ Trương Bá Nghi (Tchang-po Yi) cho đắp La-thành
để chống giữ." Thành Đại la về sau trở nên thành Thăng
Long. Thực ra quân hải đảo là lực lượng hải thuyền của
một vương quốc hùng mạnh Sri-Vijaya ở Sumatra lúc bấy giờ
(đã từng khống chế đường hàng hải huyết mạch ở vùng
Đông Nam Á trong suốt 700 năm (từ thế kỷ thứ 7 đến 13).
Quân này không những đánh phá riêng Giao châu mà liên tục
tàn hại dân Chàm ở ven biển như Eatran (Nhatrang ngày nay) năm
774 và Panra (Phan Rang ngày nay), vào năm 787. Một bia ký ở tháp
Bà còn ghi lại nổi kinh hoàng này của năm 774. Nếu giả thử
quân của đế quốc Sri-Vijaya chiếm đóng thành công vùng duyên
hải Đông dương thì lịch sử khu vực này đã chắc không
như bây giờ.
Vào đầu thế kỷ thứ 9, năm
802 vua Hoàn Vương là Harivarman I lại đem thủy quân lên đánh
phá một số tỉnh Trung Hoa, và liên tiếp các năm 803 và 806,
còn kéo quân xâm lấn Giao Châu. Để trừng phạt, năm 808 quan
đô hộ Giao Châu là Trương Chu đem binh thuyền vào tàn sát
dân quân Chàm làm cho vua Hoàn Vương phải dới kinh đô xuống
vùng Bằng An ngày nay, còn gọi là Vệ thành (thuộc xã Thăng
Bình, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, mà vết tích thành
cũ nay không còn nữa - theo Sách Đại Nam Nhất Thống Chí).
Để tránh áp lực từ phương bắc, các vua Chàm Saktivarman
và Bhadravarman II bành trướng lãnh thổ dần về phía nam và
phía tây, thâu gồm Panduranga (Ninh và Bình thuận) và vùng tây
nguyên thành một vương quốc mới được gọi là Chiêm thành
(Champapura - Champa: hoa sứ; pura: thành, hay quốc gia).
Trong thời kỳ này việc bang
giao giữa Hoàn Vương và Chân Lạp trở nên căng thẳng và
đưa đến cuộc tương tranh tàn phá lẫn nhau trong khoảng hai
thế kỷ. Khởi đầu vào năm 810, không rõ vì lý do gì tướng
Chiêm Senapati Par đem quân tấn công Chân Lạp, mà bia ký ở
tháp Bà Po Nagar còn ghi chiến tích.
Năm 877 dưới đời vua Indravarman
II Chiêm thành lại xin triều cống Trung quốc như xưa. Những
bia đá ở đền Kok Klor trong thung lũng Bla trên miền cao nguyên
gần Kontum đề năm 914 ghi việc một tộc trưởng là Mahindravarman
xây dựng tháp thờ Bồ tát Mahindra-Lokesvara. Thời kỳ này
sự giao hảo giữa Chiêm Thành và đế quốc Sri-Vijaya rất
là mật thiết. Một bia đá ở Nhan Biểu (thuộc tỉnh Quảng
trị) ghi chuyện một vị hoàng thân tên là Rajadvara đã dựng
hai ngôi tháp vào các năm 908 và 911, và đã hai lần đi hành
hương thánh tích Phật ở Yavadvirapura (tức Java ngày nay).
Năm 950, Chân Lạp dưới quyền
vua Rajendravarman sang đánh phá vùng Kauthara (Khánh hòa) của
Chiêm Thành vào thời vua Indravarman III, và đã cướp đi tượng
Bà bằng vàng do nhà vua dựng lên ở Po Nagar vào năm 918. Nhưng
bia ký của Chân Lạp tại Pre Rup lại ghi rõ hơn là thành Kauthara
bị phá hủy san bằng, vua Chiêm bị bắt và sau khi bị hành
hạ đã bị tế sống cho thần Harisvayambhu trên bờ sông Visnupadi.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi
hoàng đế đổi tên nước ta là Đại Cồ Việt, sau khi An
nam dành dược độc lập với Ngô Quyền xưng vương tại Giao
Châu năm 939. Năm 979, Lê Hoàn kế vị xưng là Đại Hành Hoàng
Đế, sai Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ sang Chiêm Thành giao
hảo. Vua Chiêm là Paramesvaravarman I, vốn liên kết với một
trong 12 sứ quân thời hậu Ngô Quyền nhưng bất thành, đang
đóng đô tại Indrapura (Đồng Dương, Quảng Nam) gần thánh
địa Mỹ Sơn, bắt giam sứ giả. Năm 982 sau khi đuổi quân
Tống, Lê Đại Hành bèn thân chinh đem quân đánh trừng phạt
Chiêm, vua Chiêm bị giết ngay trong trận, vua Lê tiến vào kinh
đô, đốt phá đền đài và lấy được rất nhiều của cải
rồi rút về. Từ năm 983 kẻ kế vị ngôi Chiêm là (?) Lưu
Kỳ Tông xin triều cống vua Lê và chịu làm chư hầu.
Để tránh áp lực ngày càng
lớn của nước Đại Cồ Việt mới tự cường, nên năm 1000
vua Chiêm Thành Sriharivamadeva một năm sau khi lên ngôi đã dời
đô từ Indrapura (Đồng Dương, Quảng Nam) xuống Vijaya (có
nghĩa là chiến thắng, mà ta âm là Đồ Bàn hay Chà Bàn) ở
vùng Bình Định ngày nay. Từ đó các bia ký ở Mỹ sơn gọi
các vua mới là vua của Vijaya (hay Vijaya Sri), và vua Sriharivamadeva
sau khi qua đời đã được thần hóa là Yang Pu Ku.
Năm 1068, vua Chiêm là Rudravarman
III (Chế Củ), kế vị vua Harivarman II, đem quân xâm lấn đất
Việt ở phía bắc. Bấy giờ vua Lý Thánh Tông, người đã
dời đô về thành Đại la, cải danh là Thăng Long thành và
đổi quốc hiệu ra Đại Việt khi mới lên ngôi, đã quyết
định thân chinh xuống đánh Đồ Bàn năm 1069, bắt và giải
Chế Củ về Thăng Long. Để đổi lấy tự do, Chế Củ xin
dâng đất ba châu phía bắc Chiêm Thành là Bố Chánh (Hà Tĩnh
và bắc Quảng Bình), Địa Lý (trung và nam Quảng Bình), và
Ma Linh (bắc Quảng Trị).
Đến năm 1074, hoàng thân Than
lên ngôi xưng là Harivarman IV (1074- 1080), nước Chiêm Thành
hưng thịnh trở lại và vua Harivarman IV cho trùng tu khu thánh
địa Mỹ sơn. Sau khi hòa hoãn với Đại Việt, vua Harivarman
IV xua quân đánh Lục Chân Lạp, chiếm Sambor (bắc Phnom Penh
và đông hồ Tonle Sap), giết vua Harshavarman III, tàn phá kinh
thành Somesvara (Angkor), bắt nhiều người Chân Lạp làm tù
binh. Năm 1145, vua Suryavarman II của Chân Lạp phục thù, đánh
Chiêm Thành chiếm Đồ Bàn, tàn phá khu thánh địa Mỹ sơn.
Mãi đến năm 1149 vua Chiêm mới đuổi được quân xâm lược.
Khi tu bổ Mỹ sơn vua Harivarman IV cho dựng bia đá ghi lại cuộc
tàn phá thánh địa này.
Năm 1166, vua Indravarman IV, một
vị vua Chiêm Thành rất anh dũng lại xua đại quân xâm lăng
Chân Lạp cướp được nhiều của cải. Sử Miên còn ghi "Jaya
(vua) Indravarman IV, vua Chàm, có tính tự phụ như Râvana, đã
vận chuyển quân trên những chiến xa, tiến đánh xứ 'Kam
Bu". Mười năm sau, năm 1177, Indravarman IV lại gởi thuỷ quân
xuống phía nam, vào cửa sông Cửu Long, tiến ngược dòng lên
đánh thành Angkor, tàn phá kinh đô, giết vua Tribhuvanadityavarman
và chiếm đóng Chân Lạp. Sau trận này vua Chiêm cũng thu đoạt
được vô số châu báu, viø thế vua Indravarman IV đã dâng
cúng nhiều vàng bạc cho các ngôi tháp ở Mỹ sơn. Mãi đến
năm 1181, Hoàng thái tử Chân Lạp mới đẩy lui được quân
Chiêm Thành, và lên ngôi vua là Jayavarman VII nuôi chí phục
thù.
Năm 1190 vua Chân Lạp Jayavarman
VII sai các tướng đem một hoàng thân Chiêm lưu vong tên là
Vidyanandana về đánh Chiêm thành, chiếm đóng Đồ Bàn và cướp
hết các linh tượng, bắt và giải vua Indravarman về Chân Lạp,
chia nước Chiêm Thành làm hai chư hầu: tiểu quốc Vijaya (Đồ
Bàn) do người em vợ của vua Chân Lạp cai trị với vương
hiệu là Suryavarmadeva, và tiểu quốc Pandaranga (Phan Rang), do
một hoàng thân Chiêm Vidyanandana cai trị, nhưng tùy thuộc vào
Chân Lạp. Không lâu sau, một hoàng thân Chiêm tên là Rasupati
nổi lên đánh đuổi quân Chân Lạp, lên ngôi là Indravarmadeva
ở Vijaya nhưng lại không tồn tại lâu, và bị quân Chân Lạp
quay lại bắt giết vào năm 1192. Vua Suryavarmadeva được tái
lập nhưng lại quay ra không phục tùng Chân Lạp, mà bang giao
với Đại Việt và Trung quốc. Vua Chân Lạp Jayavarman VII liền
tấn công Chiêm Thành trong các năm 1192 và 1193 nhưng đều thất
bại. Mãi đến năm 1203, vua Chân Lạp mới chiếm được Vijaya,
và biến Chiêm Thành thành một lãnh địa của Chân Lạp. Nhưng
sau khi Jayavarman VII chết quân Chân Lạp phải rút quân, và
Chiêm Thành mới giành lại được độc lập năm 1220 dưới
thời vua Paramesvaravarman II, khi Chân Lạp bận rộn đối phó
với những cuộc xâm lăng của Xiêm La. Từ đó chấm dứt
cuộc tương tranh giữa Chiêm Thành và Chân Lạp đã kéo dài
32 năm.
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét