|
CẦN KHẨN TRƯƠNG KHÔI PHỤC VIỆC DẠY CHỮ HÁN TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ
THÔNG VIỆT NAM
1. Chữ Hán là của Trung Hoa,
chữ Hán được du nhập vào Việt Nam cùng với cuộc xâm lăng của nhà Hán
đối với Việt Nam ở thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Con đường đến với
Việt Nam của chữ Hán không quang minh chính đại, nhưng thực tế chữ Hán
cũng đã thành một thứ văn tự từng có vai trò tiên phong khai mở, phát
triển văn hóa Việt Nam nói chung, văn học Việt Nam nói riêng. Thử nghĩ,
trong quá khứ dằng dặc hơn ngàn năm từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ
thứ XIII tính đến khi Việt Nam bắt đầu có chữ Nôm, nếu không có chữ Hán
vào thì văn hóa Việt Nam, văn học viết Việt Nam có gì để con cháu hôm
nay khám phá, biểu dương, tự hào, và không có chữ Hán thì làm gì có chữ
Nôm. ở đây, cần thấy rằng chữ Hán đã đến với Việt Nam theo hai (chứ
không phải một) quan hệ: quan hệ với cuộc xâm lăng nhà Hán và sau đó còn
gắn bó với các cuộc xâm lăng tiếp theo của cả triều đại phong kiến
Trung Hoa trên đất nước ta; nhưng còn có quan hệ thuộc quy luật tự thân
của văn hóa, trong đó có sự lan toả ảnh hưởng, cũng có thể nói là sức
nâng đỡ của một nền văn hóa lớn với các nền văn hóa bé trong phạm vi một
khu vực - mà quan hệ này là điều tất yếu và cần thiết. Chẳng phải vì
thế mà nhiều người đã cho rằng chữ Hán là của Trung Hoa, nhưng chữ Hán
cũng là của khu vực trong đó có Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn
Quốc, …
2. Chữ Hán trong nền văn hóa Việt Nam
đã tồn tại theo quy luật thăng trầm, thịnh suy. ở thời Bắc thuộc, nó đã
phát triển đủ để lưu lại cho ngày nay một số trước tác, dịch phẩm liên
quan đến Phật học, một số thơ văn. Đến thời tự chủ, trải qua các triều
đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, chữ Hán đã đóng vai trò công cụ
hàng đầu của nền văn hóa văn học bác học của Việt Nam. Nó là văn tự
chính trong các lãnh vực văn hóa Việt Nam: hành chính, giáo dục, thi cử,
lễ nghi, văn học. Dù dân tộc ta đã tạo ra chữ Nôm, nhưng chữ Nôm vẫn lệ
thuộc chữ Hán trên phương diện cấu tạo, và văn hóa chữ Nôm vẫn chưa lấn
át được văn hóa chữ Hán dưới thời đại phong kiến. Tuy nhiên, đến cuối
thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, cùng với sự đổi thay của hoàn cảnh xã hội
Việt Nam, chế độ phong kiến bị thay thế bằng chế độ thực dân nửa phong
kiến kéo theo tình trạng văn hóa phong kiến Việt Nam vốn mang tính chất
khu vực bị thay thế bằng văn hóa tư sản, kế nữa là văn hóa vô sản vốn
mang tính chất toàn cầu. Do đó chữ Hán cùng với nền Hán học cổ truyền
không kém hào quang đã lâm vào cảnh tàn cuộc. Năm 1915, ở Bắc Kỳ bỏ thi
chữ Hán sau lần thi cuối cùng. Năm 1918, ở Trung Kỳ cũng là khoa thi
Hương chữ Hán cuối cùng. Khoa thi Hội cuối cùng là năm 1919. ở Nam Kỳ
thì việc bỏ thi chữ Hán đã diễn ra ngay sau ngày bị mất vào tay thực dân
Pháp. Sau khi bỏ thi cử chữ Hán, trong các nhà trường Pháp Việt, từ cấp
học tiểu học bậc hai (lớp đệ nhất, lớp đệ nhị, lớp nhất) đến cấp học
cao tiểu (primaire supérieur), vẫn có dạy chữ Hán (caractères chinois)
mỗi tuần 2 tiết, trong cảnh “chơi đồ cổ” mà cả thầy lẫn trò nói chung
chẳng ai muốn chơi nữa. Mặc dù không phải không có người sau này có một
trình độ Hán học vốn lại nhờ chính những giờ khai tâm chữ Hán từ đó.
Cũng cần nói thêm trước năm 1945, trong một số gia đình có truyền thống
Hán học, các cụ vẫn dạy chữ Hán cho con cháu. Thậm chí, có nơi còn có
trường học chữ Hán được mở trong một số gia đình mà học sinh không chỉ
là con em của gia đình đó, mà còn là con em trong làng xã.
Sau cách mạng Tháng Tám, trong khu vực kháng chiến, ở bậc trung
học cấp II (nay là trung học cơ sở THCS), tại nhiều trường vẫn học chữ
Hán, mỗi tuần 3 tiết, nhưng sau đó thì bỏ. Đặc biệt đến năm 1950, khi có
cải cách giáo dục thì chữ Hán ra rìa hoàn toàn. Sau này, ở phổ thông
trung học (PTTH) có học Trung văn, là chữ Hán nhưng đọc theo âm Trung
Quốc hiện đại, không phải là âm Hán cổ nữa; vả chăng giữa Hán cổ và Hán
hiện đại, ngữ nghĩa, cú pháp cũng có sự khác nhau không ít. Có người
giỏi Trung văn hiện đại mà vẫn hiểu sai văn Hán cổ, chính là vì lẽ đó.
3. Chuyện đã diễn ra
trong quá khứ là vậy, nhưng suy nghĩ của con người, nhất là với các bậc
thức giả, lại không bao giờ dừng một chỗ. Gần đây, trong dư luận xã hội,
kể cả trên sách báo, đã có ý kiến đề xuất là cần dạy lại chữ Hán trong
nhà trường phổ thông Việt Nam. Lý do đề xuất này chính bắt đầu từ chỗ
biết rằng: trong kho từ vựng tiếng Việt, số lượng từ gốc Hán mà từ đó
gọi là Hán Việt, chiếm hơn 70%. Cho nên bỏ học chữ Hán là dẫn đến tình
trạng người Việt Nam hiện nay hiểu sai ngữ nghĩa tiếng Việt rất nhiều.
Không riêng gì dân chúng, mà cả đến các nhà văn, các vị Tiến sĩ, Viện sĩ
cũng không ít người hiểu sai từ Hán Việt. Có nhà thơ đã viết trên báo
giải thích “ý tại ngôn ngoại” là “ý ở trong, lời ở ngoài” (trong khi
nghĩa của nó là: ý nằm ngoài lời). Có Viện sĩ trong buổi nói chuyện tại
Thư viện quốc gia đụng đến hai chữ “chiết tỏa” đã giải thích là “tỏa
rộng ra” (!)… Chúng ta còn có thể kể ra nhiều dẫn chứng cho việc không
biết chữ Hán nên đã hiểu sai, nói sai, viết sai tiếng Việt hiện đại. Và
đó là lý do để đề xuất vấn đề: cần dạy chữ Hán trong nền giáo dục phổ
thông cơ sở và trung học Việt Nam hiện nay. Tất nhiên, điều này cách đây
mươi mười lăm năm, và gần đây, cũng đã có chút khởi động. Cụ thể: ở
chương trình Văn - tiếng Việt bậc PTTH trước cuộc cải cách 1990 đã có 4
tiết học về từ Hán Việt (lớp 12). Riêng với chương trình Ngữ văn PTCS
đang và sắp qua giai đoạn thí điểm thì đã có sự quan tâm về việc dạy từ
Hán Việt ngay từ lớp 6 với hai hình thức: thứ nhất, đối với một số bài
thơ chữ Hán (ví dụ Nam quốc sơn hà…), cùng với việc phiên âm, dịch
nghĩa, có thêm việc giải thích từng từ Hán việt; thứ hai, quy định số
lượng từ Hán Việt cần học một cách chính khóa là 50 cho các lớp 6, 7 và
trên 50 cho các lớp 8, 9. Cuối các sách giáo khoa đều có bảng từ Hán
Việt được học chính thức của từng năm.
4. Với ý thức muốn đưa
chữ Hán và chút ít khởi động như trên, thiết tưởng đã đến lúc cần đặt
vấn đề học chữ Hán trong nền giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay một
cách thấu đáo, có bài bản, có chủ trương kế hoạch hẳn hoi. Nhưng, muốn
làm được điều đó, lại trước hết cần nâng cao nhận thức về ý nghĩa của
việc học chữ Hán là thế nào trong việc xây dựng nên văn hóa Việt Nam
hiện đại và tương lai.
4.1. Hãy trở lại vấn đề bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ. Đúng là
từ lâu rồi, hình như người Việt Nam ta đã thống nhất với quan niệm rằng:
dù chữ Quốc ngữ không phải do người Việt Nam ta sáng tạo ra, mà đó là
sản phẩm của các cố đạo phương Tây nhằm tạo công cụ truyền giáo, nhưng
sau đó, dưới chế độ thực dân, người Việt Nam ta đã vượt qua thời kì
không chấp nhận đi đến chấp nhận và coi đó là chữ viết của nước mình
(Quốc ngữ), bởi nó có lợi ích rất lớn trong việc dân chủ hóa nền văn hóa
Việt Nam so với chữ Hán ngày trước. Đó là quan niệm tưởng như không có
điều gì phải bàn nữa. Tuy nhiên gần đây, nhà ngôn ngữ học có tên tuổi
Cao Xuân Hạo lại có quan niệm gần như trái ngược, khi ông cho rằng việc
nước ta bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ là một điều mất mát lớn. Quan
điểm này đã bị nhà báo Nguyễn Hoàng Sơn công kích khá quyết liệt trên
tạp chí Văn nghệ quân đội (2003). Vậy chúng ta nên hiểu thế nào
cho thỏa đáng trước sự kiện bỏ chữ Hán thay bằng chữ Quốc ngữ ?
Trước hết, phải thấy rằng: việc bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ là
hiện tượng xảy ra trong cuộc đụng độ giữa hai khu vực Đông Tây. Trong
cuộc đụng độ này, có vấn đề liên quan đến chữ viết của khu vực phương
Đông, trong đó có chuyện la tinh hóa hay không? Thực tế tại phương Đông,
ở nước này nước khác, ít nhiều có chuyện la tinh hóa chữ viết, nhưng
rút cục cho đến nay, không một nước nào đi theo con đường la tinh hóa
chữ viết truyền thống của mình. Nhật Bản trước sau vẫn dùng chữ Hán để
viết cả văn Hán lẫn quốc văn với hai cách đọc: Hán âm (Kan - on) và Quốc
âm (Go - on). Ví dụ: với chữ “sơn” 山, cách đọc Kan - on là “san”, còn
Go - on là “yama”. Triều Tiên, Hàn Quốc trước sau vẫn dùng chữ viết của
nước mình là Hangeul do vua Sejong phát minh vào thế kỷ XV, mà trước đó
họ cũng dùng chữ Hán như người Việt Nam (Hán Hàn). Trung Quốc cũng có
lúc muốn la tinh hóa nhưng rút cục đã thôi hẳn. Các nước khác trong khu
vực từng dùng chữ Hán không đâu la tinh hóa. Chỉ một Việt Nam ta làm
thế, để rồi được cái gì và không được cái gì ? ý kiến của ông Cao Xuân
Hạo không phải là không có lý, mà điều này ngay từ năm 1918, ông chủ bút
Nam Phong - Phạm Quỳnh - trong bài Chữ Nho với văn quốc ngữ có
nói: “Chắc ngày nay Nho học đã nhiều phần quá cũ rồi, không hợp thời
nữa. Nhưng cũ là về phần hình thức mà thôi, còn phần cốt cách tinh thần,
còn cái gốc đạo đức của Nho học thì cùng với núi sông mà sống mãi muôn
đời. Ta nên bỏ là bỏ phần hình thức phiền toái, còn phần cốt cách tinh
tuý phải giữ lấy, vì nước ta còn có mặt trên địa cầu là còn phải nhờ cái
tinh thần cố hữu ấy mới sống được. Nhưng muốn giữ tinh thần ấy mà bỏ
hẳn chữ Hán là biểu hiện của tinh thần ấy thì sao được”(1). Ngược thời
gian lên cuối thế kỷ XIX, chúng ta còn thấy nhà duy tân tiên phong và
lỗi lạc Nguyễn Trường Tộ trong Tế cấp bát điều, trong khi chủ
trương xây dựng chữ Quốc ngữ mới cho đất nước, đã không lấy chữ Quốc ngữ
do các cố đạo phương Tây sáng tạo mà sau này cả nước dùng. Ông chủ
trương lấy ngay chữ Hán để đọc âm theo nghĩa Việt. Ví dụ: viết 飲 食 (ẩm
thực) nhưng đọc là “ăn uống”. Đúng là chúng ta cần suy nghĩ trước hiện
tượng Nguyễn Trường Tộ vốn là người theo đạo Thiên chúa lại đã được trực
tiếp tiếp xúc với phương Tây, có tư tưởng duy tân rất mực cấp tiến, mà
vẫn không chấp nhận chữ Quốc ngữ la tinh hóa, kể cả chữ Nôm mà ông cha
ta đã xây dựng từ các thành tố của chữ Hán.
Đúng là chuyện bỏ chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ la tinh hóa là
chuyện không đơn giản khi nghĩ đến cái được cái mất trong sự phát triển
của văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XX trở đi. Điều đã có thể nói và cần nói
là: việc bỏ chữ Hán quả đã ít nhiều cắt đứt với văn hóa truyền thống
ngàn năm trước đó. Có điều kiện so sánh Việt Nam ta với Trung Hoa, Nhật
Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, trên phương diện đối với văn hóa truyền thống
xưa, liên quan đến yêu cầu giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho muôn
đời, hẳn là sẽ rõ vấn đề hơn.
4.2. Để rõ vấn đề hơn, thử so sánh chữ Hán và chữ Quốc ngữ la tinh
hóa xem sao. Từ lâu, hình như tuyệt đại đa số người Việt Nam ta đều
thấy chữ Quốc ngữ la tinh hóa tiện lợi hơn hẳn chữ Hán. Với chữ Hán, chỉ
một thiểu số người Việt Nam chiếm lĩnh được. Học chữ Hán phải “thập
niên đăng hỏa” (mười năm đèn sách). Trong khi với chữ Quốc ngữ, người
sáng dạ chỉ dăm bữa là xong, người tối dạ cũng chỉ ba bốn tháng là được.
Chữ Quốc ngữ đã giúp đất nước ta dân chủ hóa được nền văn hóa văn học.
Mấy điều đó quả thật không thể chối cãi. Tuy nhiên, đã đến lúc phải so
sánh chữ Quốc ngữ với chữ Hán một cách khoa học hơn, cặn kẽ hơn. Cũng
lại nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo trong bài viết Chữ Tây và chữ Hán
thứ chữ nào hơn ? (Bán nguyệt san Kiến thức ngày nay, 1989)
đã cho ta biết: trên thế giới từ những thập niên đầu của thế kỷ XX,
người châu Âu thường yên trí rằng mình dùng chữ viết ABC - thứ chữ ghi
âm - là hợp lý nhất, khoa học nhất. Nhưng từ những năm 30 của thế kỷ XX,
sau những công trình của trường ngữ học Prague nêu rõ những chức năng
và yêu cầu của ngôn ngữ viết khiến cho nó khác với ngôn ngữ nói thì quan
điểm chữ viết ghi âm là “khoa học nhất” đã phải nhường chỗ cho quan
điểm “tổ hợp âm” của chữ viết, nhất là từ thập niên 70 trở lại đây. Để
chứng minh tính ưu việt của lối chữ viết “tổ hợp âm”, năm 1978, một nhóm
ngữ học Mỹ đã làm thí nghiệm, mở một số lớp gồm trẻ em khuyết tật bị
chứng Alexia (chứng bệnh không học chữ được) bằng cách dạy cho chúng học
tiếng Anh nhưng đều được viết bằng chữ Hán. Ví dụ: câu “He came to a
high mountain” được viết bằng chữ Hán là 他 到 及 一 高 山 (tha đáo cập nhất
cao sơn), thì sau 1 năm, các em đọc và viết được 1600 từ đơn và về khả
năng hấp thụ tri thức tỏ ra không đần độn chút nào. Thậm chí, kết quả
học tập của chúng lại có phần trội hơn các em học tiểu học bằng chữ ABC.
Điều này có liên quan đến bộ não, trong đó với loại trẻ khuyết tật,
công năng của bán cầu bên phải (tri giác tổng hợp) trội hơn công năng
của bán cầu bên trái (tri giác phân tích). Để chứng minh tính ưu việt
của hiện tượng này, người ta còn xét đến cơ chế của việc đọc chữ, và
thấy rằng khi đọc, người biết chữ thành thục không hề đánh vần. Họ nhận
ra các từ qua diện mạo chung của chúng không khác gì khi nhận ra một
vật, một người quen không phải bằng cách lần lượt nhận ra từng chi tiết
(mắt rồi mũi, rồi miệng, rồi tai...) mà nhận ra ngay tức khắc toàn thể
diện mạo của vật hay người đó. Tâm lý học hiện đại đã từ hiện tượng đó
mà đưa ra khái niệm “diện mạo tổng quát”, được gọi là Gestalt. Cái
gestalt càng gọn ghẽ (pregrant) thì việc nhận dạng “tức khắc” càng dễ
dàng và tự nhiên. Về phương diện này, chữ Hán hơn hẳn lối chữ ABC. Chính
từ quan điểm trên mà năm 1985, trong cuốn sách nổi tiếng Le nouvean
monde sinisé (Thế giới Hán hóa ngày nay) Léon Vandermeersch đã
khẳng định sở dĩ các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Singapore phát
triển thành những “con rồng” được chính là vì họ vẫn dùng chữ Hán.
Riêng Cao Xuân Hạo lại còn từ kết quả nghiên cứu cấu trúc ngữ âm
mà đi đến những kết luận khoa học có liên quan tới vấn đề đang nói ở
đây. Theo Cao Xuân Hạo: “tiếng Việt có một cấu trúc ngữ âm khác hẳn các
thứ tiếng châu Âu” nên “âm vị học của phương Tây (vốn là nền tảng lý
thuyết của cách viết ABC) không thể đem ứng dụng để nghiên cứu và phân
tích những thứ tiếng đơn lập như tiếng Hán, tiếng Việt, hay những thứ
tiếng chắp dính như tiếng Nhật, hay những thứ tiếng “có sườn phụ âm” như
tiếng Ả rập, tiếng Do Thái… Nó chỉ có giá trị và hiệu lực đối với các
ngôn ngữ biến hình”. “Chữ viết ABC vốn phản ánh cái cấu trúc ấy, khó
lòng thích hợp với tiếng Việt và cách tri giác của người Việt đối với
tiếng mẹ đẻ của họ” vốn thuộc loại hình “ngôn ngữ âm tiết tính, trong đó
âm tiết là một đơn vị có cương vị ngôn ngữ học minh xác, lại không thể
phân tích ra thành những “âm tố” có cương vị tương đương, trong khi các
thứ tiếng châu Âu, chính âm tố mới có cương vị của những đơn vị ngôn ngữ
(âm vị) còn âm tiết lại không có cương vị ngôn ngữ học gì ?”. Từ quan
điểm trên đây, nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo cho rằng: “việc học chữ Hán
không thể không được đưa vào chương trình trung học”. Ông còn cho biết
thêm: “hiện nay, nhiều người trong đó có cả những nhà ngôn ngữ học
phương Tây đã thấy rõ những ưu điểm lớn lao của chữ Hán. Có người còn
tiên đoán chỉ vài ba mươi năm nữa, cả thế giới sẽ nhất loạt dùng chữ Hán
để viết tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc. Theo họ, đến lúc ấy, cái hàng rào
ngôn ngữ (barrières linguistiques) xưa nay vẫn ngăn cách các dân tộc sẽ
bị vô hiệu hóa và đến lúc ấy nhân loại sẽ giao tiếp với nhau dễ dàng
gấp trăm lần so với hiện nay”. Điều dự báo này có thành hiện thực hay
không ? Xin chờ thời gian. Chỉ biết rằng người ta xem ra rất đề cao chức
năng của chữ Hán. Vậy người Việt Nam ta nghĩ gì trước dự báo đó ?
4.3. Chung quanh vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và
chủ trương coi trọng từ thuần Việt, hạn chế từ Hán Việt. Đây cũng là vấn
đề có liên quan tới thái độ đối xử với chữ Hán mà tưởng như đã được
giải quyết xong xuôi, đâu vào đấy, không còn gì phải bàn thêm. Nhưng
thực ra, ở đây vẫn có những điều cần được tường minh hơn, nếu không sẽ
bất lợi cho việc xây dựng phát triển tiếng Việt nói riêng, văn hóa Việt
nói chung. Có hai vấn đề đáng nói:
4.3.1. Thế nào là từ thuần Việt ? và Hán Việt ? Từ thuần Việt theo
quan niệm thông thường là những từ do chính người Việt (dân tộc Việt)
sáng tạo ra từ đầu, chứ không bắt nguồn từ tiếng nói của một dân tộc hay
một tộc người khác. Nếu thế thì cũng khó nói đến từ thuần Việt theo
định nghĩa đó. Bởi lẽ tiền thân của tiếng Việt hiện đại là tiếng Việt
Mường, mà tiếng Việt Mường lại là một chi của tiếng Môn - Khmer. Tất
nhiên ở đây cần phân biệt hai hiện trạng ngôn ngữ (état de langue):
tiếng Việt - Mường khi còn là một chi của tiếng Môn - Khmer và tiếng
Việt - Mường khi đã tách khỏi tiếng Môn - Khmer. Hiện trạng sau là
“thuần Việt Mường”. Với từ gốc Hán thì phức tạp hơn, vì ở đây có liên
quan tới cuộc xâm lăng nhà Hán và giữa Việt Nam với Trung Hoa luôn luôn
vẫn là hai quốc gia khác nhau (trong đó chủ nghĩa Đại Hán lại thường
xuyên lấn át, bắt nạt Việt Nam) do đó mà trong tâm lý người Việt Nam dễ
có mặc cảm xa cách thậm chí đối lập với tiếng Hán. Nhưng về khách quan,
theo quy luật giao lưu ngôn ngữ, thực tế tiếng Hán và cũng là chữ Hán đã
gia nhập kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt với cái tên là Hán Việt. Hán Việt
không phải là Hán hoàn toàn, Hán Việt là của Việt. Nó chiếm hơn 70% vốn
từ tiếng Việt như ta đã biết. Sao lại cứ phải kì thị với nó, thậm chí
là muốn bài trừ nó để sinh ra cái chuyện “phi công” thì nói “người lái”,
“không phận” thì nói là “vùng trời”, “hải phận” thì nói là “vùng biển”,
“nữ du kích” thì gọi là “du kích gái”…, mà thực ra là có thể dùng cả
hai, thậm chí có trường hợp muốn thay nhưng thay không được, hoặc thay
thì chỉ dở hơn thôi.
4.3.2. Vị trí, giá trị của từ Hán Việt trong ngôn ngữ tiếng Việt.
Tâm lý kì thị từ Hán Việt ít nhiều đã bỏ quên, không nhận rõ hết tính
năng, tính trội của từ Hán Việt trên hai phương diện ngữ pháp và tu từ:
- Về ngữ pháp: cũng theo Cao Xuân Hạo, cách kết cấu từ Hán Việt
theo kiểu “trật tự ngược” (phụ chính) hơn hẳn kiểu “trật tự xuôi” (chính
phụ) trong từ thuần Việt. Ví dụ: “xạ thủ nam” thì chỉ có thể hiểu một
nghĩa người bắn là đàn ông, Còn “người bắn nam” thì có thể hiểu 2, 3
cách: người bắn là đàn ông, người bắn tên Nam, người bắn anh Nam. Mối
quan hệ cú pháp giữa các từ Hán Việt chặt chẽ này rất cần cho việc xây
dựng thuật ngữ chuyên môn. Trong vốn thuật ngữ khoa học, kỹ thuật hiện
nay ở nước ta, số lượng thuật ngữ Hán Việt chiếm phần chủ yếu chính là
nhờ tính chặt chẽ đó trong cú pháp từ Hán Việt.
- Về tu từ: các từ Hán Việt thực tế đã tạo ra phong cách, sắc thái
ngữ nghĩa trang trọng, cổ kính, bác học, mà nếu thiếu chúng thì quả
thật vẻ đẹp ngôn ngữ tiếng Việt, văn chương tiếng Việt sẽ sút kém đi một
phần rất đáng kể. Thử tưởng tượng: “Hội phụ nữ Việt Nam” mà chuyển
thành “Hội đàn bà Việt Nam”, “Hội con gái Việt Nam”; “nữ Thủ tướng Ấn
Độ” mà chuyển thành “Thủ tướng gái Ấn Độ”, “nữ đồng chí” mà chuyển thành
“đồng chí gái”, “nữ giáo sư” mà chuyển thành “giáo sư gái”… thì buồn
cười biết bao.
5. Tất cả những gì được trình bày trên đây là nhằm đi đến kiến
nghị “cần khẩn trương khôi phục chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt
Nam”. Nhưng khôi phục như thế nào? Có mấy vấn đề cần bàn:
5.1. Học chữ Hán là chỉ học từ Hán Việt đã được phiên âm, hay học
bằng chính văn tự Hán? Rõ ràng là học bằng chính văn tự Hán thì có lợi
hơn vì tận dụng được chức năng “tổ hợp âm” như trên đã nói. Nhưng thực
tế, với thực trạng giáo dục Việt Nam vốn đã bỏ học chữ Hán từ lâu mà nay
đặt ra yêu cầu đó thì khó thực hiện, nhất là liên quan đến vấn đề đào
tạo giáo viên chữ Hán lại không đơn giản chút nào. Nên chăng là thế này:
sắp tới nếu phân ban làm 2: A (gồm các ngành khoa học tự nhiên) và B
(gồm các ngành khoa học xã hội) thì ở ban A sẽ học từ Hán Việt đã được
phiên âm bằng chữ Quốc ngữ, ở ban B sẽ học từ Hán Việt bằng chữ Hán hẳn
hoi, mà có thể buổi đầu chưa thể làm đại trà, nhưng phải có kế hoạch
từng bước tiến tới đại trà trong ban B này. Nếu tôi không lầm thì trước
1950, tại một số trường chuyên khoa (như chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng
lúc còn ở Hà Tĩnh), với ban cổ điển (tương đương với ban B này) vẫn có
giờ cổ văn, trong đó có học chữ Hán. Và ở miền Nam trước 1975, với một
loại trường phổ thông nào đó, vẫn có giờ chữ Hán. Xin các vị có trách
nhiệm và hiểu biết lịch sử giáo dục kiểm tra, bổ chính cho.
5.2. Học chữ Hán từ bậc học nào? Từ THCS lên PTTH ? Hay chỉ đến
PTTH mới học? Theo tôi nên từ bậc THCS, mỗi tuần 1 tiết, cứ thế cho hết
bậc PTTH. Thời gian của tiết học này sẽ lấy ở quỹ thời gian của phần
tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn, dù chương trình Ngữ văn đã đi
theo hướng tích hợp. Chẳng những thế mà còn phải lợi dụng tính năng của
việc tích hợp. Với yêu cầu tích hợp này, ngay ở phần Văn cũng phải coi
trọng việc dạy nghĩa từ Hán Việt trong các giờ giảng văn, chẳng riêng gì
với văn học cổ mà cả ở văn học hiện đại. Mà việc này cũng cần được
chương trình hóa, có định mức, định lượng hẳn hoi như sách giáo khoa Ngữ
văn THCS thí điểm và sắp chính thức áp dụng đã và đang tiến hành.
5.3. Vừa qua, được cơ quan truyền thông đại chúng cho biết trong
luật sửa đổi về giáo dục mà Quốc hội sẽ thông qua có đặt vấn đề đưa việc
học chữ Hán vào lại nhà trường phổ thông (Nhật Bản, Hàn Quốc đều có dạy
chữ Hán ở trường phổ thông). Tôi cũng mong rằng cả xã hội, đặc biệt là
các bậc thức giả của đất nước cần lên tiếng ủng hộ quan điểm tích cực,
giàu ý nghĩa đó để dự kiến trên đây trở thành chính thức trong luật sửa
đổi về giáo dục được Quốc hội thông qua. Và nếu đã thành luật thì phải
gấp rút xây dựng chương trình và vạch kế hoạch đào tạo giáo viên một
cách khẩn trương, trong đó có việc tăng cường bộ môn chữ Hán tại các
trường Đại học Sư phạm và xây dựng bộ môn chữ Hán tại các trường Cao
đẳng Sư phạm trong cả nước.
N.Đ.C
CHÚ THÍCH:
(1) Phạm Quỳnh: Luận giải văn học và triết học. Nxb. Văn
hóa - Thông tin, 2003, tr.56.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét