Thanh Như dịch và sưu tập hình ảnh
Chùa Hàn San tọa lạc bên bờ sông Cổ Vận thôn Thất Lý, nằm ngoài cổng Tây Xương thành cổ Tô Châu, nay thuộc trấn Phong Kiều, khu Kim Xương, thành phố Tô Châu, tỉnh Giang Tô. Chùa được xây cất vào năm Thiên Giám đời nhà Lương (CN 502-519), cách nay có hơn 1400 năm. Xưa gọi là " Tháp Viện Diệu Lợi Phổ Minh ".
Qua con hẻm nhỏ đường Thạch Bản của cổ
trấn Phong Kiều, hoặc đứng ở đầu cầu Phong Kiều, đưa mắt nhìn sẽ thấy
trên con đường nhỏ quanh co xa tắp, thấp thoáng bóng chùa Hàn San với
tường vàng ngói biếc, sân chùa tùng bách tươi xanh, tọa lạc trong rừng
cây xanh thẳm.
Tấm bia ghi bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của nhà thơ Trương Kế
Trương Kế - Thi nhân đời Đường, khi đi
ngang qua cầu Phong Kiều, nhìn con thuyền trôi lững lờ trên dòng sông
Cổ Vận, nghe tiếng chuông chùa Hàn San đồng vọng ngân nga, ông tức cảnh
sanh tình, làm bài thơ với nhan đề "PHONG KIỀU DẠ BẠC" lưu danh cho đời
sau:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang Phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền
Dịch nghĩa:
Nhạn kêu trăng lặng đêm sương
Bến sông ánh lửa sầu vương thẫn thờ
Hàn San ven ngoại Cô Tô
Tiếng chuông lay tỉnh giấc hồ nữa khuya
(Thích Chiếu Sáng dịch)
Tiếng chuông trong bài thơ thất ngôn tứ
tuyệt này được lưu truyền đến nay đã hơn nghìn năm, ngôi cổ sát Hàn San
nhân đây mà nổi danh trong thiên hạ.
Vào năm Trinh Quán đời nhà Đường
(627-649), theo truyền thuyết, lúc đó có hai vị danh tăng là Hàn San và
Thập Đắc từ núi Thiên Đài đến trụ trì nơi đây, cho nên đổi tên là Hàn
San. Trong hơn 1000 năm qua, chùa Hàn San đã 5 lần bị hỏa hoạn, lần
trùng tu cuối cùng là vào khoảng năm Quang Tự đời Thanh (1875-1908).
Trên lịch sử, chùa Hàn San từng là một trong mười ngôi chùa lớn nổi
tiếng ở Trung Quốc. Trong chùa di tích xưa rất nhiều, có bài văn bia
được khắc trên đá của nhà thơ Trương Kế, có tượng Hàn San Thập Đắc được
khắc bằng đá, những văn bia khắc bị vở của Văn Trưng Minh và Đường
Dần... Trong chùa chủ yếu xây dựng Đại Hùng Bửu Điện, Vũ Điện (kiến
trúc kiểu cung điện), Tàng kinh lâu, Bi Lang, lầu chuông, lầu Giang
Phong v.v...
Bắc Tống Thái Bình Hưng Quốc (tháng 12
năm 976 - tháng 5 năm 978), quan Tiết Độ Sứ là Tôn Thừa Hựu trùng tu
tháp Phật 7 tầng, xưa nơi đây đã từng có tháp, hoặc xem tháp Tổ sư Phổ
Minh là tháp Phật.
Nam Tống Kiến Viêm năm thứ 4 (1130),
quân Kim xâm lăng Nam Tống, những ngôi chùa do nhà nước quản lí và các
nhà dân tại trấn Tây Giao, Tô Châu, trong một đêm bị thiêu sạch. Chùa
Hàn San tuy may mắn thoát khỏi hỏa hoạn, nhưng bị quân binh dày xéo.
"Chư Tăng đều chạy trốn, mái chùa sụp đổ, ngói rơi lả chả trúng vào
người." Nằm ngửa mặt thấy trời, bốn phía vách trống lạnh, sống cảnh như
người chạy nạn. (Theo "Phong Kiều Tự Ký")
Thiệu Hưng năm thứ 4 (1134), có Trưởng
lão Pháp Thiên không rõ từ đâu đến, đích thân thống lãnh đồ chúng,
chỉnh sửa tu bồi, tiết chế y phục uống ăn, chắt chiu từng li từng tí,
nếm đủ mùi gian khổ, gầy dựng vất vả nhọc nhằn, trải qua 12 năm, cuối
cùng khiến cho "ngôi Phạm vũ mới hoàn toàn, có thể duy trì được mấy
ngàn năm". Trong thời gian trùng tu tháp Phật, tiêu phí tài chánh, tiêu
hao nhân lực 3 năm. Xây cất thêm viện Thủy Lục, trang nghiêm u nhã, vì
rường cột Phật pháp mà thấp thỏm không yên. Chùa Hàn San sau khi được
trùng tu, khí thế qui mô đồ sộ, nức tiếng từ xưa đến nay.
Cuối nhà Nguyên (1321-1367) Trương Sĩ
Thành chiếm cứ Tô Châu, chùa Hàn San do Tôn Thừa Hựu trùng kiến, tháp
Phật do trưởng lão Pháp Thiên trùng tu đều bị hủy hoại bởi chiến tranh
binh lửa.
Minh Hồng Võ (1368-1398), có vị tăng là
Xương Sùng trùng tu lại (Bách Thành Yên Thủy). "Cô Tô Chí" nói rằng:
Hồng Võ quy vào tự viện, nhưng liệt vào Tòng lâm. Chùa này (chỉ cho
chùa Hàn San) quy vào ba chùa, bốn am: chùa Tú Phong, chùa Tuệ Khánh,
chùa Nam Phong. Đầu nhà Minh, sau khi pháp sư Xương Sùng trùng hưng thì
chùa Hàn San vẫn còn là Tòng lâm.
Năm thứ ba Vĩnh Lạc, thiền sư Thâm Cốc
Sưởng lại tu sửa. Căn cứ trong "Hàn San Tự Trùng Hưng Ký" của Diêu
Quảng Hiếu ghi: "Thánh Triều Vĩnh Lạc năm thứ 3 (1405), Thiền sư lão
thành Thâm Cốc Sưởng là người đầy đủ giới hạnh đến nhậm chức trụ trì,
từ bàn tay trắng phấn đấu, quyên góp từ đàn việt, cắt đốn gai gốc, thu
dọn gạch vụn, trước hết xây Phật Điện, kế tiếp xây tăng xá, cổng chùa
rồi đến giảng đường, thiền đường, nhà bếp, nhà kho, nhà vệ sinh, rồi
đến những thứ cần thiết trong tự viện Sư đều sắp xếp đầy đủ. Cho đến
đắp các tôn tượng chư Phật, Thích Ca Thế Tôn thờ cúng trong điện đường.
Chánh Thống Kỷ Mùi (1439), Quận hầu Huống Chung trùng tu trở lại (Bách Thành Yên Thủy).
Gia Tĩnh (1522-1566), có vị Tăng là Bổn
Tịch đúc chuông xây lầu, nhưng lại gặp sự cố binh biến của Nhật. Chuông
chưa rõ bị hư hoại lúc nào, về ngày tháng năm của chuông chùa bị hủy có
thể bắt đầu khảo sát ở đây. (Theo: Bách Thành Yên Thủy)
Quang Tự năm thứ 32 (1906), Trần Quỳ
Long trong lúc đi tuần tra Giang Tô, thẩm sát doanh ngũ, ngẫu nhiên đến
Phong Kiều, nhân thấy chùa Hàn San - ngôi cổ sát nghìn năm bị hoang vu,
bèn phát tâm tu sửa: "Chọn ngày lành để chuẩn bị khởi công, mở rộng cửa
để được gần đại lộ. Từ cổng đi vào, rẽ hướng nam, cầu đường gồm 3 dãy,
rồi từ đường tiến vào, có 3 kho dựng đồ riêng biệt. Dãy nhà phía đông
rộng rãi, là nơi nghỉ ngơi của khách. Dãy phía tây thì hơi hẹp, là nơi
đặt để bia cổ của chùa. Những thư sách của Văn Đãi Chiếu (tên của một
chức quan) và thơ của Trương Ý Tôn, đến nay đã bị thất khuyết, nên khắc
lại để bổ sung vào.
Sau cách mạng Tân
Hợi đến năm 1949, trải qua cuộc chiến với bọn quân phiệt, khắp nơi
người dân bị nạn kêu cứu thảm thương. Chùa Hàn San cũng không tránh
khỏi, khói hương lạnh lẽo, ngoài ngõ không người, ra vào đơn độc, chư
tăng tản mát mỗi người một nơi. Mùa thu năm 1941, các ông Cao Quan Ngô
cùng tu sửa Tàng kinh lâu, đổi tên là Sương Chung Các. Lúc lạc thành,
ông Mã Khởi Quyền tặng bức tranh "Hàn Sơn Bôi Độ", có đến 92 người làm
thơ ca ngợi bức tranh này, tất cả 165 bài thơ (Xem: Nghệ Văn). Thời kỳ
quân Nhật xâm chiếm Tô Châu, phòng xá điện đường chùa Hàn San đã trở
thành nơi nhốt ngựa của quân Nhật. Chùa chỉ còn hai ba vị tăng nương
nhau mà sống, nguồn thu nhập chỉ dựa tiền bán cơm và tiền viết liễn,
cuộc sống trôi qua một cách miễn cưỡng
Khoảng năm 1966
đến 1976, tượng Phật, pháp khí, điện các của chùa Hàn San bị tổn hại,
văn vật trong chùa đã bị thanh tra và tịch thu. Pháp sư Tánh Không tìm
mọi biện pháp để bảo hộ, khiến cho các văn bia khắc, tạng kinh, La Hán
... được bảo tồn.
Theo: giacngo.vnhttp://blog.yahoo.com/_3TREK3EMUX6CD2JPJEZNEJFD5I/articles/147204/category/NG%C3%94N+NG%E1%BB%AE
Đọc thêm về bài thơ Phong Kiều dạ bạc ở đây
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét