Tiếng Việt hiện nay khác xa so với thời điểm người Pháp chiếm đóng, lại
càng biến đổi khi ta quay về mốc thời điểm tiếng Việt tách ra khỏi
tiếng Việt -Mường . đó là chưa nói đến việc bỏ chữ Hán ,chữ Nôm mà dùng
chữ Quốc ngữ .
Chính vì vậy chúng ta có thể đọc thông viết thạo
,phổ cập giáo dục nhanh chóng nhưng đồng thời cũng cắt luôn khả năng
hiểu tiếng Việt một cách cặn kẽ do không hiểu hết nghĩa của từ.
Đáng tiếc là người ta không dậy chữ Hán cùng với tiếng Việt song
hành,mới nghe tưởng như cái tay này có khi ấm đầu cũng nên ,ai lại dạy
ngoại ngữ song hành cùng bản ngữ như vậy?Đúng như thế nếu là bất kỳ một
thứ chữ nào khác ngoài chữ Hán.Sở dĩ có ý kiến kỳ quặc trên là vì khi
động đến các văn bản cổ ,thư tịch ,văn thơ chữ Hán ,chữ Nôm hầu hết
chúng ta trừ dân Hán nôm ra còn đâu hầu hết lơ mơ hiểu thậm chí tịt mít
luôn. Điều này cũng dễ hiểu,cùng một chữ HY ,đồng âm đồng tự như thế
này,có tới 19 chữ khác nhau về nghĩa và mặt chữ trong chữ Hán ( Từ điển
Trung -Việt thông dụng của Lạc Thiện Tăng Văn Hỷ ) ,
Do đó ,dù
không thể phổ cập chữ Hán vào nhà trường nhưng ít nhất cũng nên dậy kỹ
âm Hán Việt để tránh tình trạng mất gốc ,người Việt không hiểu tiếng
Việt. Một trong số ít nhà Ngữ học Việt uyên thâm Hán học là Học giả
Phan Ngọc ,tác giả cuốn Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt đã dồn hết tâm sức
nhằm giúp người Việt hiện đại không bị mất gốc trong khi lao về phía
trước theo dòng chẩy toàn cầu.
Để giúp bạn đọc hiểu thêm về âm Hán Việt ,chúng tôi mạn phép học giả Phan Ngọc trích một phần trong tác phẩm của ông ;
ÂM TIẾT HÁN VIỆT LÀ GÌ
Xét về mặt lịch sử ,một từ Hán Việt là một từ viết ra được bằng chữ
khối vuông của Trung Quốc nhưng lại phát âm theo cách phát âm Hán Việt
,người Việt vẫn dùng để đọc mọi văn bản viết bằng chữ Hán dù đó là của
người Hán hay người Việt . Xét về chữ thì chỉ có chữ Hán mà không có chữ
Hán Việt .
Hán Việt chỉ là một cách phát âm riêng của người Việt về chữ Hán .
Khi chữ Hán vào nước ta một cách ồ ạt từ thế kỷ thứ I trước công nguyên
do chỗ ta bị nội thuộc vào nhà Hán ,người Việt và người Mường còn là
một tộc chung. Ngôn ngữ của họ là tiếng Việt- Mường chung mà khoa học đã
phục hồi được .Người Việt Mường chung lúc đó tiếp thu tiếng Hán theo
cách phát âm của người đương thời chẳng khác gì người Việt học tiếng
Pháp theo cách đọc của người Pháp . Nhưng cũng như người Việt nói tiếng
Pháp kiểu Việt thì người Việt -Mường chung cũng đọc văn bản Hán với
những sai lệch riêng. Tình hình vẫn là như vậy suốt giai đoạn từ thế kỷ I
trước công nguyên tới thế kỷ VII. Nó để lại trong cả tiếng Việt lẫn
tiếng Mường một số từ đơn tiết mà ta gọi là từ Hán cổ.
Sang thế
kỷ VII,nhà Đường cai trị Việt Nam và người Việt lại đọc chữ Hán theo âm
Đường có nhiều điểm khác âm Hán.Ngôn ngữ học đã phục hồi lại được ngữ âm
từ đời Hán và đời Đường cho nên đây là chuyện xác thực chứ không còn là
giả thuyết khoa học nữa .
Từ cuối thế kỷ thứ VII ở Việt Nam bắt
đầu thời kỳ tự chủ chỉ có quan hệ giáy tờ với Trung Quốc mà thôi. Rồi
vào thế kỷ thứ X là thời kỳ độc lập hoàn toàn cho đến cuối thế kỷ XIX
trừ một thời gian rất ngắn trên hai mươi năm bị nhà Minh xâm lược vào
đầu thế kỷ XV .
Từ khi nhà nước tự chủ ra đời thì yếu tố văn tự là
công cụ quan trọng nhất để xây dựng nhà nước .Chữ ấy chỉ có thể là chữ
Hán .Do đó ,việc học chữ Hán ngày càng phát triển .Bởi vì chưa có một
nhà nước nào hình thành thực sự mà lại không dựa vào chữ viết . Nhưng
cùng với điều đó ,xuất hiện hai hiện tượng cực kỳ quan trọng ;
Một
là ,sự hình thành của cách phát âm Hán Việt. Trước hết đó là cách phát
âm của âm đời Đường về chữ Hán. Nó khác cách phát âm ở mọi địa phương
Trung Quốc ,dù ở Bắc Kinh ,Hán Khẩu ,Thượng Hải hay Quảng Châu.
Dĩ nhiên ,cách phát âm này thay đổi với thời gian ,bởi vì với thời gian
có gì là không thay đổi đâu ?Nhưng nếu ta đối chiếu các chữ đọc theo âm
Hán Việt với các chữ đọc theo âm Đường mà ngôn ngữ học đã phục hồi thì
sự khác nhau chỉ biểu lộ ở phụ âm đầu ,âm đệm mà không biểu hiện ở
phụ âm cuối âm tiết ,ở thanh điệu ,còn ở vần tuy có khác nhau nhưng
không to lớn.
Kết quả người Việt ngâm thơ Đường gần như Lý Bạch
ngâm thơ mình, và người Việt khi sinh ra đã có sẵn một bộ ( Đường vận )
trong ruột .
Hai là ,do tiếp thu chữ Hán và học chữ Hán ,trong
vốn từ người Việt số từ Hán Việt ngày càng tăng , đồng thời từ vốn từ
này lại tạo nên những từ Việt mới gọi là từ Việt gốc Hán Việt . Kết quả
tiếng Việt tách khỏi tiếng Mường .
Qúa trình Việt tách khỏi Mường
bất đầu vào thế kỷ VIII có thể xem là kết thúc khi nhà Lý dời đô đến
Thăng Long vào đầu thế kỷ XI .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét