Translate

Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2025

GIỚI THIỆU HOÀNH PHI CÂU ĐỐI CHÙA LÁNG (ĐƯỢC SAO CHÉP LẠI NĂM 1869 THỜI TỰ ĐỨC)

GIỚI THIỆU HOÀNH PHI CÂU ĐỐI CHÙA LÁNG

(ĐƯỢC SAO CHÉP LẠI NĂM 1869 THỜI TỰ ĐỨC)

DƯƠNG VĂN HOÀN

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Chùa Láng là một trong những ngôi danh lam cổ tự, đệ nhất tùng lâm của nước ta. Chùa có một quần thể kiến trúc hài hòa, cân xứng trên một khuôn viên thoáng rộng và đẹp đẽ, giữa những lùm cây cổ thụ bốn mùa rợp bóng trên phố Chùa Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội.

Chùa Láng có tên chữ là Chiêu Thiên tự. Ý nghĩa của tên chùa đã được giải thích rõ trong tấm bia do Tiến sĩ Nguyễn Văn Trạc soạn và dựng năm Thịnh Đức thứ 4 (1656) rằng: "Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi là Thiền".

Tương truyền chùa được xây dựng từ thời vua Lý Anh Tông (trị vì từ 1138 đến 1175). Chùa thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Theo thần tích, Từ Đạo Hạnh tên thật là Từ Lộ con của Thiền sư Từ Vinh làm đến chức Tăng quan Đô sát triều Lý và mẹ là Tăng Thị Loan ở hương Yên Lãng (tức làng Láng). Bẩm sinh Đạo Hạnh đã có tiên phong đạo cốt. Thủa nhỏ, sư ham chơi bời, tính tình hào hiệp phóng túng, có chí lớn, hành động cử chỉ người đời không thể lường được. Nhà sư đêm thì miệt mài đọc sách, còn ban ngày thì đá cầu thổi sáo, gá bạc làm vui, song nhà sư là người học giỏi, đi thi đỗ đầu khoa Bạch Liên nhưng không ra làm quan. Vì cha ông là Từ Vinh có hiềm khích với Diên Thành hầu, bị Diên Thành hầu nhờ pháp sư Đại Điên giết chết rồi quăng xác xuống sông Tô Lịch(1). Vì thế Từ Đạo Hạnh tìm đường sang Tây Trúc học đạo và tìm cách trả thù cho cha. Sau khi đắc đạo, và trả thù cho cha xong, Từ Đạo Hạnh đến tu hành ở chùa Thiên Phúc núi Phật Tích (tức chùa Thày trên núi Sài Sơn). Bấy giờ vua Lý Nhân Tông không có con trai bèn xuống chiếu tìm con cháu tôn thất để nối ngôi. Em vua Lý Nhân Tông là Sùng Hiền hầu gặp Từ Đạo Hạnh nói chuyện cầu tự và Thiền sư hứa sẽ giúp đỡ vợ chồng Sùng Hiền hầu, bằng cách như thần tích mô tả là “Khi đó phu nhân đang tắm gội ở nhà sau, bỗng thấy bóng Đạo Hạnh bay vụt qua rồi hiện hình trong chậu nước. Phu nhân sợ hãi đến nói với hầu. Hầu thừa rõ ý của Đạo Hạnh, nói khẽ với phu nhân rằng: “Bóng hiện trong thau nước tức là chân nhân đã nhập vào trong thai cung rồi, cẩn thận chớ có nghi ngờ sợ hãi”. Phu nhân trong lòng cảm thấy mình có mang”. Khi phu nhân của Sùng Hiền hầu sắp sinh thì Từ Đạo Hạnh tắm rửa và vào hang núi hóa thân (hang Thánh Hóa - Cắc Cớ). Sau đó vợ Sùng Hiền hầu sinh con trai đặt tên là Dương Hoán và được lập làm hoàng thái từ nối ngôi hoàng đế tức là Lý Thần Tông (trị vì từ 1128 đến 1138), kiếp sau của Từ Đạo Hạnh. Do sự tích ấy mà con của Lý Thần Tông là Lý Anh Tông đã cho xây cất chùa Chiêu Thiền để thờ vua cha và tiền thân của Người là Thiền sư Từ Đạo Hạnh.

Chùa đã được trùng tu nhiều lần, những lần quan trọng nhất là vào các đợt năm 1656, 1901 và 1986, 1995 và 2010 trùng tu tôn tạo lớn trong dịp đón chào Đại lễ kỷ niệm 1000 Thăng Long - Hà Nội.

Cổng chùa bao gồm bốn cột vuông với ba mái cong không chùm lên cột mà gắn vào sườn cột, mái giữa cao hơn hai mái bên, hơi giống kiến trúc cổng ở cung vua phủ chúa ngày xưa. Qua cổng là một sân gạch Bát Tràng, giữa sân là chiếc sập đá, nơi đặt kiệu trong các ngày lễ hội. Cuối sân có cửa tam quan. Từ đây có con đường lát gạch dẫn đến cổng thứ ba. Qua cổng này ở giữa có ngôi nhà bát giác nơi đặt tượng Từ Đạo Hạnh. Qua nhà bát giác này mới đến các công trình chính trong chùa: bái đường, nhà thiêu hương, thượng điện, các dãy hành lang, nhà tổ và tăng phòng... Động thập điện Diêm Vương ở hai dãy hành lang khá đẹp, miêu tả những hình phạt ở các tầng địa ngục.

Ngoài các tượng Phật ở thượng điện, trong hậu cung còn có tượng nhà sư Từ Đạo Hạnh và tượng vua Lý Thần Tông. Tượng Từ Đạo Hạnh làm bằng mây đan phủ sơn còn tượng Lý Thần Tông làm bằng gỗ mít. Dưới mái hành lang còn có hai dãy thập điện và 18 vị La Hán cùng nhiều tượng thờ có niên đại từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX trải dài từ đời Lê đến triều Nguyễn được bàn tay tài hoa của các nghệ nhân tạo tác rất sinh động mang tính nghệ thuật cao.

Chùa còn lưu giữ được 30 hoành phi, 31 câu đối, 2 quả chuông, 1 khánh lớn, 15 bia đá, 12 đạo sắc phong từ Lê Cảnh Hưng thứ 44 (1783) đến Khải Định thứ 9 (1924).

Chùa đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo quyết định số 313 – VH/VP ngày 28 tháng 4 năm 1962.

Hội chùa Láng được cử hành vào ngày mồng 7 tháng 3 Âm lịch, tương truyền là ngày hóa của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, cứ 15 năm mới mở hội lớn một lần và trở thành một hội lớn của cả vùng với sự tham gia của nhiều làng xung quanh. Việc chọn lựa và huấn luyện các đô tùy và những người tham dự vào cuộc rước chuẩn bị cho mỗi lần lễ hội khá công phu. Trong ngày hội, kiệu của Từ Đạo Hạnh được được 18 đô tùy rước đến cổng Cót, rồi sang chùa Hoa Lăng ở xã Dịch Vọng, nơi thờ bố mẹ ông.

Chùa Thầy ở Sơn Tây cũng thuộc hệ thống chùa thờ Từ Đạo Hạnh nên dân gian có câu rằng:

Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,

Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy.

Hệ thống hoành phi câu đối ở chùa Láng rất đa dạng và có nhiều giá trị. Không chỉ với nét bút tài hoa, chạm khắc tinh tế mang tính thẩm mỹ cao mà nó còn chứa đựng những nội dung sâu sắc, uẩn áo, súc tích, cô đọng, cùng với các di văn khác đã góp phần làm nên linh hồn của di tích. Đặc biệt ở đây có đôi câu đối khảm sành trên cột đồng trụ ngoài cổng nghi môn mỗi vế dài đến 22 chữ đã cho thấy sự điêu luyện, tài hoa của người soạn.

Trong bài viết Chùa Láng và những bức hoành phi câu đối (Tạp chí Hán Nôm, số 6, 2005) tác giả Thế Anh đã giới thiệu nội dung 42 bức hoành phi câu đối tiêu biểu ở chùa Láng (trong đó có 28 bức hoành phi và 14 đôi câu đối).

Song từ trước đấy rất lâu, năm Tự Đức thứ 22 [1869] đã có người sao chép, ghi lại hoành phi câu đối của ngôi chùa nổi tiếng này. Vì cùng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, nên các Hương dịch ở thôn Bình Lương xã Đình Loan huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh(2) đã lên chùa này (bấy giờ thuộc trại Yên Lãng) sao chép các hoành phi câu đối (hoành biển, đối liên) đưa về phụng sự tại chùa Ông(3) ở làng mình. Nội dung các bức hoành phi câu đối này được ghi lại trong bản Thần tích thôn Bình Lương xã Đình Loan, tổng Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, chép trong Hưng Yên tỉnh Văn Lâm huyện Nghĩa Trai tổng các xã thôn thần tích, ký hiệu AEa3/13, Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Có thể nói đây là tài liệu quý, giúp chúng ta biết được cho đến thời điểm bấy giờ (1869) ngôi chùa đã có 39 bức hoành phi câu đối (13 bức hoành phi và 28 đôi câu đối) với những nội dung phong phú. Từ đó, nếu đem đối chiếu với các bức hoành phi câu đối hiện có ở chùa, chúng ta có thể đưa ra những nét phác họa về lịch sử cũng như quá trình xuất nhập của các bức hoành phi câu đối chùa Láng, khi chúng được người dân tạo tác và cung tiến. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu toàn bộ nội dung của các bức hoành phi câu đối này để quý bạn đọc được biết:

a. Hoành biển:

1. Chiêu Thiền tự (Chùa Chiêu Thiền); 2. Hiển đế hóa thần (Khi hiển thì làm vua, khi hóa thì làm thần(4)); 3. Lý triều thánh đế (Vua thánh triều Lý); 4. Thiền thiên khải thánh ( Trời thiền sinh thánh); 5. Tuệ nhật (Ánh tuệ - Mặt trời trí tuệ(5)); 6. Từ vân (Mây lành(6)); 7. Vô dữ đẳng (Không gì sánh kịp); 8. Thất tịnh hoa (Hoa thất tịnh(30)); 9. Bát giải thủy (Nước bát giải(7)); 10. Khai kim thế giới (Thế giới mở hoàng kim); 11. Xuất ngọc lâu đài (Chốn lâu đài sinh ngọc); 12. Hậu thời lâu (Lầu đếm thời gian); 13. Trữ nguyệt đình (Đình chứa trăng).

b. Câu đối:

1. Không không sắc sắc viên tuệ quả ư bát bình, Yên Lãng tự di dung, vạn kỷ linh thanh, chiêm giả kính,

Hóa hóa sinh sinh thoát nạp y nhi cổn miện, Phật Tích sơn cổ động, thiên thu truyền ký, ngưỡng di cao.

Không không sắc sắc(8), viên thành quả tuệ(9) ở bát bình(10), chùa Yên Lãng di tích nơi đây, tiếng thiêng muôn đời, khách ngưỡng chiêm tỏ lòng kính cẩn,

Hóa hóa sinh sinh, cởi áo cà sa dùng cổn miện(11), núi Phật Tích động xưa vẫn đó, lưu truyền ngàn thủa, người xem ngắm phải phục càng cao(12).

2. Thiền gia nhi Nam quốc đế vương ư hồ bất hiển,

Thiệm ngoại diệc Tây thiên thế giới ngung nhược hữu phu.

Nhà sư mà lại là đế vương Nam quốc lẽ màu vi diệu

Cõi ngoài cũng là thế giới Tây thiên to lớn rõ ràng.

3. Bát diệp cơ đồ không hạo kiếp,

Nhất am tùng trúc độc thiên thu.

Cơ nghiệp tám đời(13) còn hoạn lớn,

Một am tùng trúc vẫn ngàn thu.

4. Danh sơn hình thuế hóa cơ huyền siêu phàm nhập thánh,

Cố lý đài cơ linh tích tại lịch cổ nhi kim.

Hình xác chốn danh sơn, cơ hóa huyền vi siêu phàm nhập thánh,

Nền đài nơi cố lý(14), tích thiêng còn đấy hết xưa lại nay.

5. Phạn vương nhi quốc vương đống vũ phỉ kim y tích,

Phụ thánh nhi tử thánh thanh danh diệu hậu quang tiền(15).

Làm phật lại làm vua, lầu điện có phải mới đâu, mà là cũ đấy,

Cha thánh rồi con thánh, tiếng tăm rạng rỡ đời trước, vẻ vang đời sau.

6. Tam miểu bản không hư, sắc tướng chỉ duy khai tục nhãn,

Lục như phi thực hữu, hinh hương liêu dĩ giác trần tâm.

Tam miểu(16) vốn hư không, sắc tướng chỉ thêm mờ mắt tục,

Lục như(17) nào thực hữu, hương thơm còn để giác lòng trần.

7. Đống vũ nguy nguy hiển ứng trường chiêu thần diệu thuật,

Môn quynh đãng đãng ngưỡng chiêm như kiến Phật chân tâm.

Cột mái nguy nga, phép diệu thần thông soi tỏ mãi

Cửa chùa lồng lộng, chân tâm đức Phật hiện nơi này.

8. Khoái lạc hương thôn quân hưởng hà linh chi khánh trạch,

Ưu du thương mại cửu hàm thánh vực chi tân nhai.

Làng xóm mừng vui, ơn phúc tuổi cao đều thụ hưởng,

Bán buôn thuận lợi, bến bờ nhà thánh mãi nương nhờ.

9. Nghĩa đại tiêm cừu, Tô Lịch trường lưu thiên thủy bích,

Cơ thần diệu hóa, Sài nham di tích thạch đài hương.

Nghĩa lớn giết thù, Tô Lịch sông trời xanh vẻ nước,

Cơ thần màu nhiệm, Sài Sơn dấu đá ngát hương rêu.

10. Hoạt phật(18) đan tiên(19), thạch ấn kim thân quang hải nhật(20),

Hóa thần hiển đế, đồng nghi(21) ngọc tướng tự vương xuân.

Tiên, phật nhiệm màu, ấn đá tượng vàng soi hải nhật,

Thần, vua hiển hách, đồ đồng mình ngọc nối trời xuân.

11. Phúc nhạc linh đan sắc sắc không không tiên tức phật,

Thiền môn diệu pháp sinh sinh hóa hóa thánh nhi vương.

Linh đan núi phúc, không không sắc sắc tiên là phật,

Diệu pháp cửa Thiền, hóa hóa sinh sinh thánh lại vương.

12. Ức niên cơ Từ thị tông banh phụ thánh hữu tử thánh,

Bát diệp diễn Lý triều tộ dận cổ sư tác kim sư.

Dòng giống họ Từ vững nền vạn thủa, cha thánh sinh con thánh,

Vận mệnh nhà Lý được phúc tám đời, thày xưa lại thày nay

13. Giác ngạn đăng hữu tam, quán trần thế thị tiên thị phật,

Thiền uyển lục vô nhị, siêu nhân hoàn nhi đế nhi vương.

Lên giác ngạn(22) có ba, khắp trần thế là tiên là phật,

Ghi vườn thiền chỉ một, vượt cõi người làm đế làm vương.

14.Tây phương hoạt phật, đan thanh ngọc điện ngiêm tạp tam thiên đế,

Sài động thần cơ, diệu ứng liên hoa hiển thập bát thánh vương.

Hoạt Phật Tây phương, điện ngọc huy hoàng ba mươi ba vị Thiên Đế uy nghiêm,

Thần cơ Sài động, bông sen linh diệu mười tám vị Thánh Vương hiển ứng.

15. Đế cư Nam quốc sơn hà, thập bát tử phân phương thùy phất thế,

Phật tổ Tây thiên đạo giáo, ức vạn niên chiêm ngưỡng vĩnh vô cùng.

Vua ở sông núi nước Nam, họ Lý ngát hương nghi ngút mãi không thôi,

Phật nguồn đạo giáo trời Tây, muôn vạn năm chiêm ngưỡng đến vô cùng.

16. Thần hóa biểu thiên thu, linh tích trường lưu sơn thạch cổ,

Tôn cư lâm ngũ vị, thiền cơ tham ngộ Phạm lâm gian.

Thần hóa tỏ ngàn thu, tích thiêng mãi còn in dấu trên núi đá cổ,

Ngôi cao vào ngũ vị(23), thiền cơ tham ngộ chốn Phạm lâm(24).

17. Sài sơn uyển trịch thạch ngấn, tiên thiên địa hóa sinh chi lý,

Tô thủy nghịch lưu trượng tích, đoạt quỷ thần huyền diệu chi cơ.

Dấu đá trút xác hang núi Thày, trước cả lẽ hóa sinh của trời đất,

Vết gậy trôi ngược dòng sông Tô, ăn đứt cơ huyền diệu của quỷ thần.

18. Nhi Phật giáo nhi tiên tông, Trúc quốc đồng thư minh bảo quyết,

Vi thế vương vi thiên chủ, Sài sơn thạch tích ấn kim thân.

Nào đạo Phật, nào phép tiên, sách đồng Thiên Trúc khắc ghi bảo quyết,

Làm vua người, làm chúa trời, dấu đá núi Thày in rõ kim thân.

19.Thánh bất khả tri, tự nhĩ nham yêu lưu thạch ấn,

Tôn vô dữ đối, nguy nhiên tử tọa trấn kim thân.

Thánh thiêng không thể biết, lưng núi cheo leo lưu dấu đá,

Ngôi cao nào sánh nổi, tòa tía nguy nga ánh sen vàng.

20. Kim Xỉ thụ kinh thần pháp diệu,

Ngọc Câu di tích hiển danh truyền.

Học kinh xứ Kim Xỉ pháp diệu thần kỳ,

Di tích đất Ngọc Câu tiếng truyền hiển hách.

21. Tâm trai ngịch luyện Tô giang trượng,

Hiếu đức chung thành Lý điện liên.

Lòng thành luyện phép đưa gậy ngược dòng sông Tô Lịch

Đức hiếu hun đúc nên đóa sen trong cung điện Lý triều.

22. Nùng sơn cố quốc lưu thần hóa,

Tô ngạn sùng từ nghiêm đế tôn.

Chốn cũ núi Nùng biến hóa thần thông

Đền cao sông Tô uy nghiêm ngôi đế.

23. Hương sinh quế điện y quan tập,

Xuân mãn quỳnh diên lễ nhạc hoàn.

Hương bay điện quế, mũ áo dập dìu,

Xuân khắp chiếu quỳnh, lễ nhạc du dương.

24. Sài Lĩnh hưởng truyền kim cổ độc,

Tô Giang phái dẫn thủy thiên trường

Tiếng vọng núi Thầy, xưa nay có một

Nước xuôi sông Tô, chảy mãi không cùng.

25. Thiên gia dĩ lôi chấn nhi cổ quần động,

Quân tử thính thạch thanh tắc tư tướng thần.

Nhà trời coi sấm sét(25) như trống khích lệ muôn loài

Quân tử nghe tiếng đá(26) thì muốn thành võ tướng(27).

26. Viện ngoại thanh phong hinh đạo vị,

Môn tiền minh nguyệt diệu thiền đăng.

Ngoài sân gió mát thơm mùi đạo,

Trước cửa trăng trong tỏ đèn thiền.

27. Bát diệp lâu đài xuân hữu mộng,

La thành cổ giác dạ vô thanh.

Lầu đài nhà Lý xuân có mộng,

Trống mõ Đại La bặt tiếng đêm(28).

28. Tô thủy giang đầu lưu nghịch trượng,

Nùng sơn thành ngoại tiết di âm.

Góc sông Tô Lịch gậy trôi ngược dòng,

Ngoài thành núi Nùng vang mãi âm thanh.

Ngoài ra, cũng theo tài liệu trên, các hương dịch còn chép được 6 bức hoành phi câu đối ở lăng Khải Thánh làng Nhân Mục thờ Từ Vinh cha của Từ Đạo Hạnh, nhân đây chúng tôi cũng xin được giới thiệu thêm. Các bức đó là:

Hoành biển:

1. Thông huyền hiển thánh (Vị thánh hiển hách thông hiểu lẽ màu)

2. Đế tỉnh kỳ sơn (Vua thăm núi này)

3. Lưu đồng thượng hạ (Mênh mang khắp trên dưới)

Câu đối:

1. Phương tung truyền Lý sử,

Linh tích hưởng Nhân hương.

Dấu thơm ghi truyền trong sử nhà Lý,

Tích thiêng vang vọng đất làng Nhân Mục.

2. Khai ngọc diệp ư Sài nham, Nhân lý biệt tiêu hoa thạch trụ,

Giáng kim thân vu Long Đỗ, cựu khê uất khởi thụy văn lan.

Sinh lá ngọc ở núi Thày, riêng Nhân Mục sừng sững cột đá chạm hoa,

Giáng kim thân nơi Long Đỗ(29), khắp khe xưa dậy sóng văn vận tươi tốt.

3. Nhạc kì khả tri, trúc vũ tùng sênh tương cổ đãng,

Đạo bất ngoại thị, xuyên ngư vân điểu cạnh du dương.

Nhạc có thể hiểu, trúc múa thông reo cùng réo rắt,

Đạo chẳng ở ngoài, cá nước chim trời đua múa lượn. 


Chú thích:

(1). Trong bản thần tích này phần Từ Đại thánh linh tích dẫn nguyên toàn biên có cho biết nguyên do Từ Vinh bị nhà sư Đại Điên giết chết như sau: “Từ Vinh thủa nhỏ đi học, có chí khoa danh. Đến khi tuổi đã lớn mà nghiệp lớn không thành, bèn vứt bỏ Nho khoa, hướng theo Thiền giáo, tu trì ngày đêm, đã thành chính quả; đạo tam thừa, lục trí không gì không tinh thông, có được rất nhiều phép độn tích tàng hình xuất thần nhập thánh. Ông xuất gia ở chùa Yên Lãng phía tây kinh thành Thăng Long. Sau thi đỗ thứ hai khoa thiền Bạch Liên, và được sắc phong làm Đại giác Hòa thượng Thiền sư, Tăng quan Đô sát, thềm rồng bệ ngọc ra vào không cấm. Nhưng sắc tướng còn mắc, lòng trần chưa thôi. Nhân ra vào cung cấm, thấy các cung phi hầu hạ có vẻ xinh tươi kiều diễm, lộng lẫy đẹp tươi, dục tình trỗi dậy không thể kìm được, bèn làm phép diệu tàng hình, đêm đêm lén vào trong cung tư thông với cung nhân. Ngày thì ở chùa trì tụng, đêm lại lẻn vào cung vui thú…. Bấy giờ, chùa Cảnh Linh có một vị cao tăng họ Lê tên Đại Điên, pháp hiệu là Diệu Pháp Thiền sư rất mực tu theo chính đạo, học thấu suốt cả trời người…. Đến khi mặt trời khuất bóng, cũng vừa là lúc Từ Vinh quen mui thói cũ, lẻn vào trong cung gian díu bỡn cợt. Cung nhân giả làm ân ái, âm thầm lấy tơ ngũ sắc buộc vào lưng Từ Vinh rồi lớn tiếng hô hoán. Bên ngoài Đại Điên làm phép kết giới, Vinh không thể thoát ra, suy đi nghĩ lại cũng không có kế gì [thoát thân], tức thì toàn thân lắc lắc biến thành một con rết trắng chui thụt vào trong khe cột. Bấy giờ trong cung đèn đuốc sáng trưng tựa như ban ngày, còn bên ngoài binh lính lùng khắp, mãi mà không bắt được. Bỗng dưng thấy trên kẽ cột có dải lụa màu thò rủ ra ngoài, Đại Điên biết là Vinh dùng phép thuật ẩn vào trong khe cột, lập tức dùng tay ấn quyết làm phép lôi ra được một con rết trắng rất to, và dùng Thứu trượng[1] đánh vào, chân thân hiện ra thì chính là xác nhục Từ Vinh. Điên liền ra lệnh quăng xác Vinh xuống sông Tô Lịch để tỏ rõ tội tăng đồ mà phạm giới quy. Sau khi Đại Điên đã bắt được và đánh chết Từ Vinh, trở về tâu vua. Nhà vua cả mừng sai lấy vàng lụa trọng thưởng cho Đại Điên. Điên cố chối từ không nhận”.

(2). Nay là thôn Bình Lương, xã Tân Quang huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên.

(3). Chùa Ông có tên chữ là Bản Tịch tự.

(4). Cũng có thể hiểu câu này là “[Ngài là vị] vua hiển hách, [lại là vị] thần biến hóa”.

(5). Trí tuệ Phật có thể chiếu sáng những chỗ tăm tối ở thế gian. Bởi vậy trí tuệ đó như mặt trời.

(6). Lòng từ bi quảng đại của đức Phật như đám mây lành che chở cho chúng sinh.

(7). Tức “bát công đức thủy”, nước có tám công đức. Tám công đức đó là: Trừng tịnh: nước lắng sạch; Thanh lãnh: nước trong mát; Cam mỹ: nước ngon ngọt; Khinh nhuyễn: nước uống vào nhẹ nhàng; Nhuận trạch: nước uống nhuận trơn; An hòa: nước uống rồi vui vẻ hòa nhã; Trừ cơ cẩn: nước uống rồi trừ đói khát, bệnh hoạn; Trưởng dưỡng: nước uống vào thân thể tinh thần, khoan khái định lực tăng trưởng. Bát công đức thủy cũng gọi là Bát công đức trì (ao nước có tám công đức), Bát vị thủy (nước có tám vị). Nước bát giải: tu theo phép quán bát bội xả: 1. Nội hữu sắc tướng ngoại quân sắc: vì muốn diệt trừ lòng tham đắm, người tu hành trước phải quán thân mình là vật nhơ nhớp, nhưng vì còn lòng tham đối với thân người nên cũng phải quán cái thân người khác cũng như thế; 2. Nội vô sắc hướng ngoại quán sắc: mới diệt được sắc tướng trong thân, nhưng lòng tham dục đối với người ở cõi dục khó đoạn hết; 3. Tịnh bội xả thân tác chúng: đến đây không còn tham trước tướng bất tịnh ở ngoài, chỉ ở trong cảnh định luyện tập tâm sắc quang minh trong suốt (tịnh bội xả). Tâm đã sáng suốt thì vui càng tăng trưởng đầy khắp trong thân (thân bội xả); 4. Hư không xứ bội xả: người tu hành diệt được lòng ham muốn sắc thân bất tịnh của mình và của người được nhứt tâm duyên không (cùng với không tương ứng) tức nhập được định (vô biên hư không ứng); 5. Thức xứ bội xả: Do xả nên nói hư không xứ định, nhất tâm duyên thức. Lúc nhập định này tức quán định, nhàm chán không ưa đắm nữa; 6. Vô sở hữu xứ bội xả: Do xả thức xứ, nhất tâm duyên vô sở hữu xứ. Lúc nhập định này tức quán định y nơi năm uẩn đều không thật nên không còn ái trước nữa; 7. Phi hữu tưởng phi vô tưởng xử bội xả: Do xả vô sở hữu xử định, nhất tâm duyên phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Lúc nhập định này y nơi năm uẩn đều không thật nên tâm sinh nhàm chán; 8. Diệt thọ tưởng bội xả: Vì nhàm chán cái tâm tán loạn nên nhập định cho diệt hẳn tâm ấy đi, khi đắc định cả rồi thì thành ra 8 đạo giải thoát nên gọi là bát giải. 

(8). Không, sắc là quan niệm của nhà Phật. Không là cái vô hình, còn sắc là cái hữu hình. Trong Thiền tông thì cho rằng cả không và sắc đều là không cả, cùng một thể mà thôi. Trong Bát Nhã ba la mật đa tâm kinh có câu đức Phật dặn thầy Xá Lợi là: Sắc bất dị không, không bất dị sắc, nghĩa là sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc.

(9). Quả tuệ: chứng được quả Bát Nhã, trí tuệ, tức thành đấng Phật.

(10). Bát bình: bát và bình: bát của nhà sư đi khất thực, thường làm bằng đồng, y bát hay dùng để truyền thừa tâm ấn; bình đựng nước, thường bắng sứ là một phương tiện chính của Bồ tát dùng để giải thoát chúng sinh khỏi khổ ải.

(11). Cổn miện: áo mũ của vua khi thiết triều.

(12). Câu này lấy điển trong sách Luận ngữ, học trò là Nhan Hồi khen đạo của thày Khổng Tử như sau: chiêm tại tiền, hốt nhiên tại hậu, ngưỡng chi di cao, toản chi di kiên, nghĩa là: vừa trông thấy ở đằng trước thoắt cái lại hiện ở đằng sau, ngắm nhìn thì càng thấy cao, dùi vào thì càng thấy cứng.

(13). Tám đời: chỉ các vị vua nhà Lý truyền được 8 đời thì mất.

(14). Cố lý: làng cũ.

(15). Diệu hậu, quang tiền: làm cho rạng rỡ đời sau, vẻ vang đời trước. Bên dưới xin dịch thoát.

(16). Tam miểu: trong tam miểu tam bồ đề, là từ phiên âm tiếng Phạn Samyakasambodhi, chỉ “đẳng chính giác” mà đức Phật chứng ngộ được.

(17). Lục như: Phật giáo coi mộng, ảo, bào, ảnh, lộ, điện (tức giấc mơ, ảo giác, bọt nước, hình ảnh, giọt sương, sấm chớp) là những cái không ảo, vô thường của thế sự.

(18). Hoạt phật: phật sống, chỉ vị tăng cứu người độ thế.

(19). Đan tiên: chỉ phương sĩ luyện đan, tức đạo sĩ.

(20). Hải nhật: mặt trời chiếu trên biển.

(21). Đồng nghi: các đồ nghi trượng làm bằng đồng.

(22). Giác ngạn: bến bờ của sự giác ngộ, đối nghịch với mê tân là bến mê.

(23). Ngũ vị: tức ngôi cửu ngũ, chỉ ngôi vua.

(24). Phạm lâm: rừng thiền, chỉ chùa chiền.

(25). Lôi chấn: chỉ tiếng chuông đồng.

(26). Thạch thanh: chỉ tiếng khánh đá.

(27). Câu này dùng chữ trong chương Nhạc ký, sách Lễ ký, có câu: “Quân tử thính chung thanh tắc tư vũ thần,… quân tử thính khánh thanh tắc tư tử phong cương chi thần,… quân tử thính cổ bề chi thanh tắc tư tướng soái chi thần” (bậc quân tử nghe tiếng chuông thì nhớ đến tướng võ,…bậc quân tử nghe tiếng khánh thì muốn làm tướng thề chết nơi biên cương,… bậc quân tử nghe tiếng trống trận thì muốn trở thành tướng soái cầm quân).

(28). Ca ngợi cảnh thanh bình, không có tiếng trống mõ báo động canh phòng trộm cướp vào ban đêm.

(29). Long Đỗ: rốn rồng. Thần Long Đỗ hay thần Tô Lịch là thành hoàng của kinh thành Thăng Long.

(30). Hoa thất tịnh: 1. Giới tịnh: Động tác của tâm khẩu thanh tịnh; 2. Tâm tịnh: tâm thanh tịnh không còn nhiễm trước; 3. Kiến tịnh: thấy được chơn tánh, các pháp không còn khởi vọng chấp; 4. Độ nghi tịnh: Hiểu biết thấu đáo không còn ngờ vực; 5. Phân biệt đạo tịnh: Phân biệt rõ ràng chánh đạo tà đạo; 6. Hành đạo chi kiến tịnh: Chi kiến thật hành thiện pháp, các pháp ác bị đoạn trừ, được thanh tịnh sáng suốt; 7. Niết bàn tịnh: chứng được Niết bàn, xa lìa các cấu nhiễm. 


Tài liệu tham khảo:

1.Thần tích thôn Bình Lương xã Đình Loan, tổng Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, chép trong Hưng Yên tỉnh Văn Lâm huyện Nghĩa Trai tổng các xã thôn thần tích, ký hiệu AEa3/13, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

2.Chùa Láng và những bức hoành phi câu đối, Thế Anh, Tạp chí Hán Nôm, số 6, 2005.

3.Từ điển di tích văn hóa Việt Nam, Ngô Đức Thọ (Chủ biên), Nxb. Văn học, 2003.

4.Từ điển địa danh văn hóa lịch sử Việt Nam, Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.693-694.

5.Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Nxb. Tổng hợp Tp. HCM, 2006, tr.1296.

6.Thiền sư Từ Đạo Hạnh và ngôi chùa ông ở thôn Bình Lương, Tân Quang, Hưng Yên, Nguyễn Ngọc Nhuận - Nguyễn Đức Toàn, Văn hóa Nghệ An (http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/4771-thien-su-tu-dao-hanh-va-ngoi-chua-ong-o-thon-binh-luong-tan-quang-hung-yen.html)

7.Tuyển tập văn bia Hà Nội. Quyển 1, Nxb. KHXH, H. 1978.

8.Hà Nội danh lam cổ tự, Tập 1, Nxb. VH - TT, 2003.

9.Từ điển Phật học Hán Việt, Nxb. KHXH, 2004.

(Thông báo Hán Nôm học 2012,tr.282-298)

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2025

Thập Điện Diêm Vương

 Thập Điện Diêm Vương

Thập Điện Diêm Vương hay còn gọi là Thập Điện Diêm La Vương (Vua Diêm La của Mười Điện, hay còn gọi là 10 vị vua). Ở cõi Diêm La có mười vị vua cai quản, theo tín ngưỡng Phật giáo Á Đông, trong đó có Việt Nam, là các vị thần linh cai quản cõi chết và phán xét con người ở Địa ngục căn cứ vào công hay tội họ đã tạo ra khi còn sống.

Tượng Thập Điện Diêm Vương thường được bố trí trong Chùa, thường được xếp thành hai hàng, mỗi bên năm vị ngồi quay hướng vào trục giữa. Mười vị vua ở địa ngục có các trách nhiệm phán xét các loại tội ác khác nhau của con người, bao gồm các vị như sau:

    1. Nhất Điện: Tần Quảng Vương - cầm sổ sống chết.
    2. Nhị Điện: Sở Giang Vương - coi Đẳng Hoạt Địa Ngục.
    3. Tam Điện: Tống Đế Vương - coi Hắc Thằng Đại Địa Ngục.
    4. Tứ Điện: Ngũ Quan Vương - coi Chúng Hiệp Đại Địa Ngục.
    5. Ngũ Điện: Diêm La Vương - coi Khiếu Hoán Địa Ngục.
    6. Lục Điện: Biện Thành Vương - coi Đại Khiếu Hoán Địa Ngục.
    7. Thất Điện: Thái Sơn Vương - coi Nhiệt Não Địa Ngục.
    8. Bát Điện: Bình Đẳng Vương - coi Đại Nhiệt Não Địa Ngục.
    9. Cửu Điện: Đô Thị Vương - coi Thiết Võng A Tỳ Địa Ngục.
    10.  Thập Điện: Chuyển Luân Vương - cho đi đầu thai.

Tượng Thập Điện Diêm Vương

Nhất Điện: Tần Quảng Vương. Tần Quảng Vương Tướng chuyên điều khiển việc khỏe mạnh, ốm đau, sinh tử của trần gian và quản lý việc u minh, cát hung. Người thiện sau khi thọ mệnh được tiếp dẫn siêu sinh. Người nửa công nửa tội được đưa đến điện thứ mười xét xử, sau đó được đầu thai làm người trên thế gian: nam thì chuyển thành nữ, nữ thì chuyển thành nam. Người làm điều thiện ít, điều ác nhiều thì được áp giải đến đài cao, phía bên trái điện, gọi là đài gương “nghiệt cảnh đài”, để nhìn vào đó liền thấy rõ mọi việc tốt xấu hồi còn tại thế, sau đó giải đến điện thứ hai để vào ngục chịu khổ.

Nhị Điện: Sở Giang Vương (còn gọi Nhị Vương Vương). Sở Giang Vương trông coi địa ngục Hoạt Đại (có 16 tiểu địa ngục với các hình phạt như: mây đè, phân thối, bị đâm, bỏ đói, bỏ khát, nấu máu, nấu một chảo đồng, nấu nhiều chảo đồng, bỏ vô cối xay sắt, đong lường, gà mổ, ao tro, chặt khúc, gươm lá đâm, chó sói ăn thịt, bỏ vào ao lạnh giá...). Những ai lúc còn sống trên thế gian làm điều tổn thương đến thân thể người khác, gian dâm, sát sinh đều được đưa vào ngục này và các tiểu ngục để chịu khổ. Khi hết kỳ hạn liền được đưa đến ngục thứ ba để định đoạt tiếp hình phạt.

Tam Điện: Tống Đế vương. Tống Đế vương Dư quản Hắc Thằng Đại Địa (có 16 tiểu ngục với các hình phạt: nước mặn, bị gông xiềng, đục sườn, nạo mặt, nạo mỡ, móc gan tim, móc mắt, lột da, căng da, cưa cẳng, rút móng, hút huyết, treo ngược, sả vai, ăn giòi, đập đầu gối, mổ tim). Ai khi sống trên trần gian mà ngỗ ngược, hỗn láo với bề trên, xúi bẩy kiện tụng, gây sự bất hòa... phải vào ngục này và các tiểu ngục chịu khổ, hết kỳ hạn đưa đến điện thứ tư.

Tứ Điện: Ngũ Quan Vương. Ngũ Quan Vương quản địa ngục Hợp Đại (và 16 tiểu ngục với hình phạt: xiên thịt, xối nước sôi, vả sưng mặt, chặt gân xương, khứa vai lột da, khoan da thịt, chim trĩ mổ, mặc áo sắt, cây, đá dằn, khoét mắt, tro lấp miệng, đổ thuốc độc, trượt nhớt té, xâm miệng, chôn trong đá vụn...). Những ai trốn nộp tô, thuế cho nhà nước, mua gian bán lận đều bị đưa vào ngục này và các ngục nhỏ chịu khổ, hết kỳ hạn được đưa qua điện thứ năm.

Ngũ Điện: Diêm La Thiên Tử. Diêm La Thiên Tử vốn ngự ở điện thứ nhất nhưng vì thương người chết oan hay trả hồn về sống lại kêu oan, nên bị giáng xuống quản đại địa ngục Khiếu Hoán (tội phạm ở đây lâm vào cảnh buồn chán, đau khổ không gì bằng) và 16 chu tâm tiểu ngục. Những ai đến điện này đều được dẫn đến đài Vọng Hương để nghe và thấy tất cả những điều, những tai ương mà họ đã gây ra trên trần gian, sau đó được đưa vào địa ngục rồi vào chu tâm tiểu ngục, mổ bụng moi tim, ruột ném cho chó ăn. Hết kỳ hạn lại được đưa xuống điện thứ sáu.

Lục Điện: Biện Thành Vương. Biện Thành Vương quản Khiếu Hoán đại địa ngục và thành Uổng Tử và 16 tiểu địa ngục với hình phạt: quỳ chông, nhốt trong hầm phân, thiến dái, quết thịt, trâu báng, ngựa đạp, bửa sọ... Những ai khi sống trên thế gian oán trời trách đất, cứ khóc lóc, trộm cắp, đầu cơ tích trữ... đưa vào ngục này và tiểu ngục để chịu khổ hơn nữa. Hết kỳ hạn được đưa đến điện thứ bảy.

Thất Điện: Thái Sơn Vương. Thái Sơn Vương quản địa ngục Nhiệt Não (có 16 tiểu ngục; tội phạm được quẳng vào vạc đồng để nấu). Ai khi sống trên trần gian đào mồ, trộm mả, lấy hài cốt để làm thuốc, rời bỏ người thân thích, đưa vào ngục này và các tiểu ngục. Hết kỳ hạn giải đến điện thứ tám.

Bát Điện: Đô thị Vương. Đô thị Vương quản đại địa ngục Đại Nhiệt Não (có 16 tiểu ngục; tội phạm bị thiêu, bị nấu cực hình hơn). Những ai sống trên trần gian bất hiếu khiến cha mẹ đẻ, cha mẹ chồng, cha mẹ vợ phải buồn phiền, bực tức khi chết sẽ bị ném vào ngục này và các tiểu ngục. Kẻ bất hiếu chịu hết mọi hình thức đau khổ, giải đến điện thứ mười, thay đổi hình dạng vĩnh viễn làm loài súc sinh.

Cửu Điện: Bình Đẳng Vương. Bình Đẳng Vương quản Thiết Võng A Tỳ và 16 tiểu ngục ở Thành Phong Đô. Ai sinh sống trên thế gian mà giết người, đốt nhà, bị chém nơi pháp trường đều giải đến điện này, bắt ôm cột đồng trống rỗng và trói chân tay lại, đốt lửa ống đồng cho tim gan thiêu trụi và chịu nhiều cực hình khác, sau đó lần lượt đầu thai vào những nơi kẻ đó đã làm hại, giải đến điện thứ mười.

Thập Điện: Chuyển Luân Vương. Chuyển Luân Vương chuyên nắm các điện mà giải đến nơi quỷ hồn để làm rõ thiện ác, quyết định đẳng cấp, rồi cho lên đầu thai. Nam hay nữ, sống lâu hay chết yểu, giàu sang phú quý hay nghèo hèn, lần lượt được ghi vào danh sách. Những con quỷ mà có nghiệp ác, cái thai bị lạnh đi, khiến cho nó sáng sinh ra chiều đã chết. Hết kỳ hạn trở lại làm người, đầu thai vào nơi sống rất man rợ, bẩn thỉu.

Các tội nhân sau khi chịu đủ các hình thức xử phạt ở các điện, được giải đến điện Thập điện cho đầu thai. Những ai được đầu thai đều được giao cho Thần Mạnh Bà đến Thù Vong Đài cho ăn cháo lú, để quên hết những chuyện của kiếp trước. Nếu ai không chịu uống thì giá đao sẽ hiện lên dưới chân, quấn chặt lấy chân, bên trên dùng ống đồng đút vào trong cổ họng bắt uống một cách đau đớn khổ. Nguồn: Sưu tầm.

Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2025

                                                              MƠ  XÍ  MUỘI

- Mơ ngâm vốn là thức đồ uống quen đến không thể quen hơn đối với dân Hà nội, mà ngâm là cứ phải chọn cho được thứ mơ Thóc Chùa Hương, quả nhỏ mà thơm mát , chỉ mới ngửi thôi mà cái nắng gắt oi ả ngày Hè bỗng tưởng chừng như tan biến. Chọn bỏ quả dập hỏng, cho vào chậu nước rửa sạch bụi bám,  để cho ráo nước hoặc lau khô từng quả bằng khăn sạch, hũ thủy tinh đã chuẩn bị sẵn , xếp nhẹ tay từng lớp Mơ rồi lớp Muối lại lớp Mơ, lớp Đường lại Mơ rồi Muối cho đến khi gần kín miệng hũ thì cho thêm dăm lớp lá Tía tô cho hũ Mơ thêm sắc mầu hương vị.

- Tận vài ba tháng sau khi mà nhừng Đường những Muối đã tan chẩy hòa quyện cùng dịch Mơ thơm ngát thì lấy riêng  Mơ quả ra, dùng dao nhỏ tách phần cùi thịt và hạt. Cùi thịt  xay nhuyễn hiện lên một mầu vàng sậm nền nã, xay mịn xong rồi thì đóng vào hũ cất ngăn mát , để ngoài cũng chẳng hỏng được do đường muối ngấm vào. Lấy 1 cốc nước nóng lạnh tùy ý theo mùa, khẽ múc 1-2 cùi dìa  mứt Mơ cho vào rồi khuấy kỹ, thêm chút đường nếu Bạn ưa ngọt, thả lát Chanh vàng hoặc Cam cho thêm phần tươi mát, nhấp một ngụm nhỏ để thấy vị Mơ ngát lên trong khoang họng, chút chua chút mặn mà lại ngọt dịu đan xen hài hòa khiến cho bao mệt mỏi ưu phiền bỗng như tan biến! Chỉ còn nhè nhẹ hương Mơ thoảng chút Chanh cam dặt dìu ở lại!

- Hạt còn lại sau khi tách chúng mình đem ngâm rượu trắng 3- 40 độ cùng với 1 khoanh vỏ Cam,rượu ngâm năm sau hãy mở, rót ra mầu sánh vàng nhạt , hương Hạnh nhân xen lẫn tinh dầu Cam thoang thoảng , khẽ nhấp môi thôi đã thấy  cay nhẹ , chua dịu xen vị ngọt nơi cánh môi đầu lưỡi, đắng nhẹ một chút rất hợp cho khai vị hoặc để pha Cocktail dùng trong  dạ tiệc thiết tưởng không gì hơn được!

-Bonus: Mơ xí muội dùng bù điện giải khi mất nước hoặc nôn sốt thì cực hợp!

Hà nội ngày Đinh Mão  tháng Nhâm Thân năm Giáp Thìn- 31-08-2024

Thứ Năm, 15 tháng 5, 2025

                                                                  Xi rô Tía Tô

-Tía tô là loài cây thân thuộc đối với người Việt, từ già đến trẻ, từ quán sang đắt tiền tới bình dân bún đậu đều có sự hiện diện của Tía tô trong vai trò là gia vị, thi thoảng được nâng tầm lên hàng dược liệu những khi trái gió trở trời mũi dãi sụt sùi than thân trách phận, người ta lại tìm đến với Tía tô!
-Mặc dù vậy nhưng không cam phận gia vị rẻ rúng, nay Tía tô vươn lên bừng sáng trở thành đồ uống hot hit heo thì , xi rô Tía tô!
- Chọn lá bánh tẻ không sâu không úa, rửa sạch nằm nghiêng cho ráo nước, một nồi nước trong đợi sôi để thả lá vào, sôi qua vài dạo thì tắt bếp, chắt lấy nước thôi còn gạn bã ra 1 cái bát to sạch còn dùng cho công cuộc làm đẹp của bà chủ! Nước lại được đun sôi cùng với đường Phèn nếu ai ưa vị thanh, đường Đỏ nếu muốn thêm sánh. Đun kỹ rồi tắt bếp để nguội hẳn, trong lúc chờ đợi thì vắt Quất hoặc Chanh lấy nước cốt, lọc kỹ rồi pha vào cùng nước Tía tô, nhiều ít ngọt nhạt tùy tay nhưng càng ngọt thì để được lâu không hỏng, ấy là nói vậy chứ làm chả đủ uống nói gì đến để lâu nhất là tiết trời ngày càng oi nóng!Để nguội hẳn đóng vào chai rồi cất ngăn mát tủ lạnh chứ không để ngoài được, Tía tô lên men rất nhanh khi bị nóng.
-Lấy 1 chiếc ly cao chân chuyên để uống vang, cho đá viên gần đầy, thêm chút nước nguội hoặc soda, thả 1 lát Chanh vàng trang trí lên trên, nhẹ nhàng nghiêng chai cho dòng Tía tô khẽ buông xuống thả mình vào ly, mầu đỏ hồng sang trọng lan tỏa khắp nơi khiến cho ta ngỡ đang cầm ly vang đắt tiền lâu năm.
-Cầm ly lên chưa uống đã thấy cả bầu trời hương vị thanh mát ùa vào, nhấp một ngụm, ôi sao ngọt ngào thơm mát, không còn thấy chút nào vị đắng hắc như khi ta dùng làm gia vị. Vị ngọt xen lẫn chút chua dịu của chanh quất đem lại cảm giác thanh tân khỏe khoắn đầy sức sống.

Hà nội ngày Đinh Mão  tháng Nhâm Thân năm Giáp Thìn-31 -80- 2024

Thứ Ba, 15 tháng 4, 2025

 

BIỂU TƯỢNG RẮN

Nguyễn Xuân Quang

Rắn là một biểu tượng thấy hầu hết trong mọi tín ngưỡng, tôn giáo. Biểu tượng rắn được thờ phượng cao điểm nhất vào thời thái cổ khi con người còn theo mẫu hệ hay ở các nền văn hóa theo duy âm coi trọng âm hơn dương hay còn coi nòng nọc, âm dương đề huề.

Rắn và Vũ Trụ Giáo.

 Rắn mang khuôn mặt chinh biểu tượng cho nòng, âm, nước nên liên hệ mật thiết với Vũ Trụ giáo.

 .Hư Vô hay Vô Cực

 Rắn biểu tượng cho hư không thường được diễn tả bằng hình rắn không có trang trí gì cuộn thành hình vòng tròn hay ngậm đuôi tạo ra hình vòng tròn mang hình ảnh số không (zero).  Ví dụ như

-Con rắn uraeus của Ai Cập cổ có dạng cắn đuôi thành hình nòng vòng tròn có một khuôn mặt biểu tượng cho hư vô, vô cực.

-Con rắn Ouroboros của Hy Lạp lấy từ con rắn uraeus của Ai Cập cổ cũng vậy.

clip_image004

Con rắn Ouroboros của Hy Lạp.

Các tác giả Tây phương hiện nay giải thích “Ouroboros (Hy-lạp) hay Oroboros là một biểu hiệu cổ miêu tả một con rắn cắn đuôi của chính nó và tạo thành một vòng tròn. Vòng tròn này tượng trưng cho đời người và tái sinh, dẫn đến bất tử”. Rõ ràng con rắn nòng vòng tròn O được giải thích theo vòng tử sinh của Vũ Trụ Tạo Sinh, của Vũ Trụ giáo mà người Tây phương không nhận ra. Con người sinh ra từ hư vô, chết lại trở về hư vô để được tái sinh hay sống hằng cửu. Rắn Ouroboros có một biểu tượng hư vô.

.Trứng Vũ Trụ hay Thái Cực

Trứng vũ trụ là dạng nòng nọc, âm dương nhất thể, là vũ trụ sinh tạo.

Rắn biểu tượng cho Trứng Vũ Trụ hay thái cực thường diễn tả bằng hình rắn đẻ ra Trứng Vũ Trụ. Nhà khảo cổ học William Niven đã đào tìm được hàng ngàn những thạch bản ở vùng Thung Lũng thành phố Mexico trên có khắc hình, trong đó có những thạch bài khắc hình rắn đẻ ra trứng.

NIVEN 582 NIVEN 328

(Y Học Thường Thức Số 40, Tháng 1 vá 2 2001).

Tộc thổ dân Mỹ châu Đắp Đống (Mound Builders) đã đắp một cái Đống Rắn Thần (Great Serpent Mound) dài 1.300 bộ, ở quận Ross, Ohio. Rắn nhả ra cái trứng.

ran than

Con Rắn Thần này mang hình ảnh liên hệ với trứng vũ trụ, vũ trụ sin htạo

Cũng nên biết đống, mô, tháp nguyên thủy là những mồ mả. Đống có hình vòm mang hình ảnh vòm vũ trụ, trứng vũ trụ. Người chết được chôn trong các đồng này để trở về  vũ trụ hầu được tái sinh hay sống vĩnh hằng. Các ngôi mộ của vua chúa và cả thường dân Đại Hàn ngày nay có hình đống cầu tròn  mang nghĩa này (Ý Nghĩa Tháp Chùa). Việt Nam ngày xưa cũng có những đống này như Đống Anh, Đống Hoa, Đống Lã, Đống Đa.

Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, Lạc Long Quân có cốt nguyên thủy là con rắn nước đội lốt Rắn Nước cõi vũ trụ Thần Nông đẻ ra trứng vũ trụ nên Lạc Long Quân cũng có DNA sinh ra trứng thế gian. Vì thế mà Rắn Lạc Long Quân là cha của Bọc Trứng Thế Gian 100 Lang Hùng do Âu Cơ  sinh ra.

Thái cực là giai kỳ trong Vũ Trụ giáo khi nòng nọc, âm dương còn quyện vào nhau vì thế cũng thấy được biểu tượng bằng hai con rắn mang tính âm dương ngược nhau có đầu đuôi ngược nhau nằm cuộn tròn với nhau. Nhìn dưới dạng nhất thể là thái cực. Ví dụ như .

.Vật tổ của người Ao Naga.

Hình hai con rắn đen trắng có đầu đuôi ngược nhau nằm cuộn tròn với nhau thấy ở một bản khắc gỗ các vật tổ của người Ao Naga, Assam.

AU NAGA

Ao Naga là Âu Rắn, Âu Rồng, Âu Long ruột thịt với Âu Lạc có vật tổ Rắn sinh tạo là chuyện hiển nhiên. Hình trên cũng có chiếc rìu đầu chim Việt mỏ cắt. Ở đây có hai vật tổ Chim-Rắn sau thần thoại hóa thành Tiên Rồng, cốt lõi của văn hóa Việt, Bách Việt.

.Một con rắn có hai mầu nòng nọc, âm dương đen trắng  ngậm đuôi thành vòng tròn như rắn Ourobodos thấy ở châu Phi cũng mang biểu tượng cho thái cực.

.Hình chữ S trong đĩa thái cực cũng có cả tính nòng nọc, âm dương (phía bên trắng dương, phía bên đen âm) cũng mang hình ảnh rắn thái cực.

.Rắn hai đầu mang tính nòng nọc, âm dương khác nhau như một đầu có mào hay sừng mang dương tính. Ví dụ như rắn hai đầu của Maya.

.Trong Ai Cập cổ rắn có hai khuôn mặt nòng nọc, âm dương. Điểm này ăn khớp với sự kiện là trong thiên nhiên cũng có loài rắn mang lưỡng phái vừa đực vừa cái. Loài rắn này có thể dùng làm biểu tượng cho thái cực

.Thái Cực là dạng nòng nọc, âm dương nhất thể là vũ trụ sinh tạo, đấng tạo hóa ở dạng nhất thể. Có rất nhiều truyền thuyết cho rắn là đấng tạo hóa như người Ai Cập cổ có đấng tạo hóa được biểu tượng bằng con rắn; cở thư Ấn-Độ Manava Dharma Sastra ghi rằng rắn là đấng tạo hóa; người Maya Trung Mỹ châu biểu tượng đấng tạo hóa với con rắn bẩy đầu Ahac-chapat; trong thánh thư Popol Vuh của người Quiché Nam Mỹ châu ghi rằng: Thee Creator, the Maker, the Diominator, the Serpent covered with feathers… (Đấng Tạo Hóa, Hóa Công, Đấng Ngự Trị (là) con Rắn Lông Chim); Lạc Long Quân của chúng ta nguyên thủy là con rắn nước có một khuôn mặt là đấng sinh tạo thế gian ngành nòng âm đội lốt đấng sinh tạo vũ trụ, tạo hóa Thần Nông…

.Lưỡng Cực, Lưỡng Nghi 

.Hai con rắn vật tổ của Ao Naga ở trên nếu nhìn dưới diện hai con rắn riêng rẽ có một khuôn mặt biểu tượng cho hai cực nòng nọc, âm dương, lưỡng nghi. Con mầu trắng biểu tượng cho cực dương và con mầu đen biểu tượng cho cực âm.

.Theo Jumsay ở vùng Nam đảo cũng có hình hai con rắn cuộn tròn theo hai chiều ngược nhau (dẫn lại trong Tạ Đức). Nhìn dưới diện hai cực riêng rẽ chúng biểu tượng cho lưỡng nghi.

Xin nhắc lại người Ao Naga liên hệ với  các tộc ở Nam Đảo vì cả hai cùng một chủng Bách Việt. Hình trên cũng có hình vật tổ thằn lằn giống như thằn lằn khổng lổ gọi là rồng Komodo ở đảo Komodo, Nam Dương (Rồng Komodo) thấy khắc trên trống Sangeang Malakamau (Trống Đông Sơn Mang Sắc Thái Nam Dương 1). Người Ao Naga trước đây cũng có tục săn đầu người như một số tộc ở Nam Đảo như Dayak ở Borneo. Dayak được cho là một thứ Bộc Việt. Hiểu Bộc biến âm với Bọc, túi nang tức thuộc phía ngành nòng, âm, rắn thì Dayak rõ ràng liên hệ với tộc rắn rồng Ao Naga.

.Cũng ở vùng Vân Nam lân cận với Assam, trên một chiếc cột đồng của người Điền cũng có hình hai con rắn cuộn vào nhau (Higham). Nhìn dưới diện hai cực riêng rẽ chúng biểu tượng cho lưỡng nghi.

Dĩ nhiên cũng có những hình rắn riêng rẽ biểu tượng cho lưỡng nghi:

-Cực âm

Rắn có một khuôn mặt chính biểu tượng cho nòng, âm, nước nguyên khởi, nước vũ trụ, cực âm, thái âm và bộ phận sinh dục nữ.

Theo truyền thuyết của người Ngaju, Dayak, Borneo, Rắn nước Watersnake Tampon (trong ngôn ngữ Hindu-Javanese gọi là naga) là thần Nước Nguyên khởi hay Âm thế (deity of the Primeval water or Nether world). Dưới thời ảnh hưởng văn hóa Hindu, vị thần này được gọi dưới tên là Bawin Jata Balawang Bulau có nghĩa là “ thần nữ Jata với cửa vàng” (the feminine Jata with the golden door”). Biểu ngữ “cửa vàng” chỉ âm hộ phái nữ (the expression “golden door” is a euphemism for the female pudenda) (Hans Scharer, tr.15).

Mũi các con thuyền ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và các trống cùng nhóm có hình miệng Rắn Nước há rộng biểu hiện bộ phận sinh dục nữ có con chim rìu biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam đâm vào trong (Ý Nghĩa Những Hình Thuyền trong Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).

Người thái cổ thờ phượng rắn là Mẹ Tạo Hóa. Trong cổ thư Ấn-Độ Aytareya Bhramana ghi ‘Sarpa Rajni, Queen of the Serpents, the mother of all that moves’ (Rắn Rajni, Vương Hậu của loài rắn, mẹ của tát cả những gì chuển động) (lưu ý Sarpa, rắn có Sa- ruột thịt với Hán Việt xà).

Những con rắn biểu tượng cho cực âm thường có mang nét âm tính đặc thù như có đuôi cuộn hình móc nước, có mầu đen, rắn nước…

 Theo thái âm, con rắn cắn đuôi tạo thành hình nòng vòng tròn O ở trên có một khuôn mặt biểu tượng cho cực nòng, âm.

Ai Cập cổ có thần Ra lưỡng tính phái nên vương miện có khi diễn tả hình mặt trời (cực dương) và con rắn (cực âm).

Con rắn đi với cây hay gậy cũng có một khuôn mặt biểu tượng cho cực nòng, âm (xem dưới).

-Cực dương

Những con rắn biểu tượng cho cực dương thường có mang nét dương tính đặc thù như có mào, có sừng, có mầu đỏ, rắn lửa (như hổ lửa)…

Thổ dân Úc châu có con Rắn Tổ Đầu Dương Vật (Great Phallic Headed Serpent) trong truyền thuyết sáng thế. Con rắn này có một khuôn mặt biểu tượng cho nọc, dương, cực dương.

Trong các hình vẽ trên đá của Thổ dân Mỹ châu Sống Ở Vách Đá Dựng (Cliff Dwellers) ở Nevada có hình con rắn nằm dưới mái vòm bầu trời trên có ba nọc que nhọn như ánh sáng (hình số 11) diễn tả lửa vũ trụ Càn, có một khuôn mặt biểu tượng cho cực dương.

cliff dwellers

.Tứ Tượng

Tứ Tượng nhìn chung:

Thổ dân Úc châu Thần Tổ Rắn (Great Snake) trong truyền thuyết Rắn Cầu Vồng của vùng Port Keat, Northern Terrirory có bốn con rắn bao quanh trứng vũ trụ biểu tượng cho tứ tượng.

ran cau vong

Một con có trứng có thể mang nghĩa sinh tạo.

-Rắn biểu tượng cho tượng Nước.

Tên rắn có nghĩa là nước thấy trong nhiều ngôn ngữ.

Ấn giáo có con rồng rắn nước naga, Phạn ngữ naga có nag- = Việt ngữ nác, nước; Anh ngữ snake có –nak = nác ruột thịt với Khmer, Lào nak, rắn; Do Thái ngữ nahash, rắn có gốc Việt ngữ na– là nước, có nah- = nác, nước; Lạc Long Quân có Lạc là dạng nam hóa của nác là nước. Rồng Lạc Long Quân có gốc là rắn nướChấn, Anh ngữ dragon có d(r)ag- = Việt ngữ cổ đác là nước [như, Darlac (Đắc Lắc là vùng hồ nước) có Dar- = Đác; Dakto có nghĩa là Nước-vú (sữa); lác đác (mưa lưa thưa liên hệ với nước)].

Tại châu Phi rắn là thần nước; ở Haiti, rắn là thần suối, mây, mưa; Aztec, Maya có rắn là thần mưa…

Theo thái âm, rắn nước, trăn nước (anaconda) không có trang trí biểu tượng cho nước.

Rắn biểu tượng cho nước có thể bằng:

.Con rắn nước cuộn hình vòng tròn

như thấy trong hình Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) Yggdrasill của Bắc Âu (Nordic).

VTG CTTCây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) Yggdrasill của Bắc Âu (Nordic).

Cây Tam Thế có phần vòm cây biểu tượng cho vòm vũ trụ Thượng Thế được biểu tượng bằng con chim ưng, là loài bay được trên trời mang tính lửa. Phần giữa biểu tượng cho Trung Thế tức cõi giữa nhân gian được biểu tượng bằng con hươu sừng là một loài thú bốn chân mang dương tính sống trên mặt đất. Cõi Hạ Thế là phần gốc cây biểu tượng bằng con rắn độc có lưỡi đỏ thè ra ngoài miệng như đang phun ra lửa. Trung Thế lại chia ra ba cõi: cõi trời biểu tượng bằng hình vòm cầu vồng, cõi đất dương thế gian được biểu tượng bằng ngọn núi đá nhọn đỉnh hình tháp (núi dương), hình ảnh của Núi Trụ Thế Gian, Núi Trụ Chống Trời và cõi âm, nước thế gian diễn tả bằng hồ hay biển nước được biểu tượng bằng con rắn nước (không có trang trí gì cả) ngậm đuôi tạo thành một nòng vòng tròn.

Ta thấy rất rõ ở cây Tam Thế Yggdrasill, con rắn nước đơn giản ngậm đuôi thành vòng tròn là biểu tượng cho cõi nước nhân gian trong khi con rắn độc thè lưỡi đỏ như phun ra lửa ở gốc cây biểu tượng cho Hạ Thế, Âm Thế.

.Con rắn hình sóng nước

Rắn có thân hình uốn khúc ngoằn ngoèo như khúc sông nên thường dùng biểu tượng cho nước. Việt ngữ ngoằn ngoèo, ngoắt ngoéo, ngo ngoe, có gốc ngo- liên hệ với Thái ngữ ngo, ngoo là rắn.

Ví dụ như con rắn hình sóng nước trong hình khắc gỗ của người Ao Naga Assam thấy ở hình trên.

.Con rắn hình chữ S

Như con rắn hình số 14 trong các hình khắc trên đá của Những Người ở Vách Đá Dựng, Nevada thấy ở trên.

-Rắn biểu tượng cho tượng Gió.

Phục Hy là người có đuôi rắn anh em với Nữ Oa dòng nước thái âm cũng có đuôi rắn.

VTG PH

Cả hai đều thuộc dòng nòng âm. Nhưng Phục Hy là phái nam nên có một khuôn mặt dương của âm tức thiếu âm khí gió. Tên Phục Hy có Phục biến âm với bọc, bao, túi và Hy biến âm với Hí là tiếng rít, tiếng kêu của khí gió đi qua một khe, một ống nhỏ như tiếng ngựa hí, tiếng gió rít lên.

Phục Hy là chiếc bọc, bao hơi, gió phát ra tiếng rít có mạng là ông Gió, thần gió. Cũng vì thế mà ông còn có tên là Bào Hy (Túi Hí). Rắn Gió Phục Hy thần thoại hóa thành Rồng Xanh Thanh Tinh (Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên).

Rắn có một khuôn mặt thần thoại hóa bay lên trời được thành rống gió.

Rắn Lông Chim Thần Gió của Aztec là nhìn theo diện thiếu âm khí gió (lông him ở đây dùng như một tính từ. Trong khi ở dạng nòng nọc, âm dương nhất thể Chim-Rắn, Tiên Rồng, lông chim dùng diễn tả chim lửa, dương).

Rắn khi thần thoại thành rắn có cánh sẽ trở thành một thứ rồng gió.

Thần Bầu Trới Zeus Hy Lạp có một khuôn mặt rắn.

Phục Hy gốc rắn nên Dịch Phục Hy là Dịch từ sông Lạc với Lạc Đồ, Lạc Thư (lạc biến âm với nác, nước), là Dịch của ngành nòng âm, nước khác với Chu Dịch của người Hán cổ vốn gốc võ biền nghiêng về dương tính trội. Phục Hy cùng bản thế khí, gió sinh tạo, tạo hóa với Hùng Vương (cũng sinh ra từ một cái bọc) nên Dịch Phục Hy ruột thịt với Việt Dịch, Dịch Hùng Vương (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

-Rắn biểu tượng cho tượng Lửa.

Rắn biểu tượng cho tượng lửa thường là rắn mang hùng tính, lửa như có mào, có sừng, rắn lửa, hổ lửa… Cần phân biệt với rắn biểu tượng cho cực dương.

Rồng lửa hỏa long của Trung Hoa thần thoại hóa từ rắn lửa.

-Rắn biểu tượng cho tượng Đất.

Có thể là loài rắn mang tính biểu tượng cho đất thường là đất âm.

Rắn hình trôn ốc quấn quanh một ngọn núi nhìn ở diện tứ tượng có thể mang hình ảnh biểu tượng cho tượng núi đất  ví dụ như núi Meru của Ấn giáo có một khuôn mặt là núi Trụ Thế Gian cũng thấy ở dạng núi có hình rắn xoắn ốc. Thành Loa của An Dương Vương hình núi có hình trôn ốc do Lạc Long Quân có cốt nguyên thủy là Rắn Nước giúp xây cất cũng mang hình ảnh núi trụ thế gian của ngành nòng nước, rắn.

Rắn biểu tượng cho tượng Đất thường được thay thế bằng loài bò sát bốn chân sống trên đất. Ở vùng đất âm có nước như đầm lầy có cá sấu thay cho rắn biểu tượng cho tượng đất. Ở vùng đất dương (khô, cao, núi) thì có thằn lằn.

 Lưu Ý

 Cần phải lưu tâm là đại tộc nước ứng với tượng nước còn chia ra nhiều tộc, chi tộc cũng ứng với  tứ tượng của đại  tộc-tượng nước nên phải phân biệt có thêm các biểu tượng chi, tộc rắn nước-nước, rắn nước-lửa, rắn nước-gió, rắn nước-đất với rắn biểu tượng cho tượng Nước trong  tứ tượng nói chung.

.Rắn biểu tượng cho Tam Thế, Vũ Trụ, Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống).

Tứ tượng nòng nọc, âm dương liên tác sinh ra vũ trụ muôn sinh gồm Tam Thế biểu tượng bằng Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống).

Trong các hình khắc trên đá của tộc thổ dân Mỹ châu, Những Người ở Vách Đá Dựng (Cliff Dwellers) ở Nevada đã nói ở trên, có hình con rắn ở bên một cây (hình 17). Đây là hình rắn và Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống), rắn mang biểu tượng Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống).

Nhìn dưới từng thế riêng rẽ, ta thấy:

.Ở cõi trên Thượng Thế, rắn mang tính sinh tạo, tạo hóa.

Ví dụ như như rắn sinh ra trứng vũ trụ ở trên.

.Ở Cõi Trung Thế, cõi nhân gian

Rắn biểu tượng cho vùng đất âm, vùng nước thế gian cũng biểu tượng bằng hình con rắn nước như thấy trong hình Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) Yggdrasill của Bắc Âu (Nordic) ở trên.

.Ở cõi âm Hạ Thế

Có thể biểu tượng bằng nột con rắn độc như thấy ở cây Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) của người Nordic ở trên.

Như đã nói ở trên người Ngaju Dayak có con Rắn Nước thần kỳ biểu tượng cho cõi nước, cõi âm, nguyên thủy có tên là Tampon (trong ngôn ngữ Hindu-Javanese gọi là naga).

Hình mandala của Diêm Vương Yama Tây Tạng có con trâu và 9 con rắn (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

.Trục Thế Giới

Rắn cũng mang hình ảnh Trục Thế Giới như đã nói ở trên núi Meru của Ấn giáo có một dạng là núi có hình rắn quấn quanh. Như đã biết núi Meru có một khuôn mặt là núi Trụ Thế Gian, Trục Thế Giới. Nhìn dưới diện này, rắn có một khuôn mặt Trục Thế Giới.

 .Sinh, Tử, Tái Sinh

Như đã nói ở trên “Ouroboros (Hy-lạp) hay Oroboros là một biểu hiệu cổ miêu tả một con rắn cắn đuôi của chính nó và tạo thành một vòng tròn. Vòng tròn này tượng trưng cho đời người và tái sinh, dẫn đến bất tử”.

Rắn có một khuôn mặt biểu tượng cho nước mà nước là mẹ đời, sự sống nên rắn có một khuôn mặt biểu tượng cho sự sống.

Tại đền Canaanite ở Bethsham, Cận Đông có đào được một lò đốt hương trên mặt có trang trí hai con rắn nổi biểu tượng cho đời sống và tái sinh vào khoảng thế kỷ 13 Trước Tây Lịch hiện để tại Israel Department of Antiquities, Jesuralem.

 ran sinh tao

Rắn liên hệ với chết, cõi âm.

Trong thần thoại của nhiều nền văn hóa, rắn thường được liên kết với nỗi chết, cõi âm.

Rắn là biểu hiệu cho Satan trong bộ Kinh Tân Ước.

.Con người.

Cây Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) sinh ra con người đầu tiên của nhân loại. Theo duy âm ngành rắn là  Người Nguyên Khởi, Mẹ Đời, Thần Tổ Nữ. Đây chính là hình người đứng giơ hai tay lên đầu trong hình Rắn Cầu Vồng của thổ dân Úc châu ở trên.

Phục Hy và Nữ Oa có đuôi rắn đã nói ở trên là Thần Tổ loài người nói chung.

Có rất nhiều truyền thuyết trứng rắn nở ra người, rắn phủ đàn bà đẻ ra các vị thần nhân, ở Việt Nam có Linh Lang Đại Vương được thờ ở đền Voi Phục Hà Nội giống như trường hợp Hán Cao Tổ Lưu Bang.

RẮN DƯỚI DIỆN LƯỠNG HỢP RẮN CHIM.

Rắn mang âm tính, nước cũng thường đi cặp với chim mang dương tính, lửa dưới dạng lưỡng hợp đại vũ trụ thái âm với thái dương ở cõi tạo hóa.

Đây chính là cốt lõi nòng nọc, âm dương Chim-Rắn, Tiên Rồng của văn hóa Việt nói riêng và của Bách Việt nói chung.

Chúng ta có tộc và địa danh Việt Thường. Nếu hiểu theo nghĩa cốt lõi văn hóa Chim-Rắn, Tiên Rồng thì Việt là rìu, nọc, chim, chim Việt. Thường biến âm với Thuồng, Thằn, Trăn là Rắn. Tên Việt Thường mang một nghĩa Chim-Rắn, Tiên Rồng.

Nhưng bằng chứng cụ thể nhất là trong sử đồng Đông Sơn. Như đã nói ở trên,  trên trống đồng còn ghi khắc lại sự lưỡng hợp này thấy ở đầu mũi thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và các trống cùng nhóm. Trên các trống muộn hơn có dạng lưỡng hợp  Chim-Rắn, Tiên Rồng  đầu thuyền Rắn Nước đuôi thuyền đầu chim Cắt Lửa như ở trống Sông Đà (Ý Nghĩa Hình Thuyền, Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).

Dạng lưỡng hợp này cũng thấy ở các tộc khác của Bách Việt như qua

.Thuyền vong Rắn Nước và thuyền Chim Cắt của người Dayak .

thuyen ran nuoc

thuyen chim cat

. Nhà nọc và nhà nòng của người Dayak

nha nong Nam DuongNhà nòng Rắn nước Dayak. 

Nhà nòng có mái hình rắn nuớc quay đầu về phía tay trái, âm. Có cờ hình túi âm đạo. Bên phải trên có chiếc dù biểu tượng cho khí gió thiều âm và dưới có hình lưới cá biểu tượng cho nước thái âm.  Căn nhà rắn nước này biểu tượng cho nòng âm, nước, cõi âm, cực âm.

nha noc Nam DuongNhà nọc chim Cắt Dayak.

Nhà nọc có mái hình chim cắt lửa quay đầu về phía tay phải dương. Có cờ hình lọng đầu dương vật. Căn nhà chim cắt lửa này biểu tượng cho nọc, dương, lửa, cõi dương, cực dương.

.Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) Tam Thế của Dayak.

cay doi Dayak

Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) Dayak cũng có dạng lưỡng hợp nòng nọc, âm dương rắn nước chim cắt.

Ngoài ra dạng lưỡng hợp Chim-Rắn này cũng thấy trong nhiều nên văn hóa theo hay bị ảnh hưởng của Vũ Trụ giáo như

.Ai Cập cổ

Ai Cập cổ có hai vùng là Ai Cập Thượng ở vùng núi cao phía nguồn sông Nile có biểu tượng là con chim kên kên mang dương tính lửa và Ai Cập Hạ ở vùng châu thổ sông Nile, sát Địa Trung Hải có biểu tượng là con rắn hổ mang.

.Maya Mỹ châu

Maya có con Rắn-Chim tên Kukulcan (Kukulcan là tiếng Việt, Kuku- = chim cúc cu, -can = chăn, trăn) cũng ở dạng ngậm đuôi tạo thành nòng vòng tròn O.

KUCULCAN

 Kukulcan

MAYA BALL GAME

Kukulcan dùng làm vòng “gôn” trong trò chơi bóng của Maya cổ, ở Chichen Itzá (ảnh của tác giả chụp từ một poster).

Họ thuộc dòng nòng, âm Khôn, một thứ Nòng Việt có tiếng nói liên hệ với Nam Đảo (Bình Nguyên Lộc), với tiếng Việt (Đức Chúa Jesus Nói Tiếng Việt của tác giả). Gần đây phân tích DNA cho thấy Maya ruột thịt với dân Việt Nam.

.RẮN DƯỚI DIỆN LƯỠNG HỢP RẮN-CÂY, RẮN- GẬY.

Rắn cũng thường thấy đi với cây dưới hình thức quấn quanh cây.

Cây là nọc, cọc, dương vì thế rắn quấn quanh cây có một khuôn mặt là nòng nọc, âm dương giao phối, lưỡng hợp. Cũng nên biết với nghĩa nọc, đực dương, cây, nọc liên hệ với chim biểu tượng cho dương, nọc. Thái ngữ nok, chim chính là Việt ngữ nọc.

Trong Ấn giáo rắn Ananta nằm cuộn tròn ở chân trục vũ trụ để giữ cho vũ trụ được cân bằng. Nhìn theo nòng nọc, âm dương ta thấy rõ trục vũ trụ là nọc, dương, con rắn là nòng âm. Phải có nòng nọc, âm dương giao hòa thì vũ trụ mới cân bằng được.

Con rắn quấn quanh cây trong vườn địa đàng của Thiên Chúa giáo cũng phải hiểu theo một nghĩa nòng nọc, âm dương giao hòa, lưỡng hợp.

lada

Lưu ý bà Eva có cái lá đa Việt Nam!

Biểu tượng y học Tây phương caduceus là con rắn quấn quanh cây gậy vốn nguyên thủy mang nghĩa nòng nọc, âm dương, trăng trời từ ngàn xưa ở các nền văn hóa cổ xưa Assyria, Hittite và Phoenix. Y học liên hệ với sinh tử nằm trong vũ trụ thuyết của Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo nên cũng dựa trên nguyên lý nòng nọc, âm dương. Tây Y và Đông Y đều dựa trên nguyên lý sống chết nòng nọc, âm dương (xem Biểu Tượng Y Học).

NHỮNG BIỂU TƯỢNG RẮN CHÍNH TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM.

Như đã biết cốt lõi của văn hóa Việt là Chim-Rắn, Tiên Rồng. Vì thế rắn có một khuôn mặt chính yếu trong văn hóa Việt ở phía nòng âm Lạc Việt.

Ở cõi vũ trụ sinh tạo, tạo hóa, rắn có một khuôn mặt tạo hóa phía nòng âm qua khuôn mặt Thần Nông. Theo duy âm Thần Nông có khuôn mặt Rắn Nước vũ trụ Thần (Nông) mang tính chủ lưỡng hợp dưới dạng đại vũ trụ thái âm-thái dương với chim cắi lửa vũ trụ Viêm (Đế)

Ở cõi trời thế gian rắn có một khuôn mặt sinh tạo cõi thế gian qua khuôn mặt rắn thiếu âm khí gió Long Nữ (Thần Long). Long là dạng thần thoại của rắn có thể bay được lên trời (rắn chim). Thiếu âm Rắn Gió Long Nữ hôn phối với thiếu dương Lửa Đất Kì Dương Vương dưới dạng tiểu vũ trụ thiếu âm, thiếu dương.

Ở cõi đất thế gian, Rắn Nước thần thoại hóa thành Rồng Nước Lạc Long. Rắn có một khuôn mặt sinh tạo cõi nước cõi âm qua khuôn mặt Lạc Long Quân. Lạc Long Quân có khuôn mặt là Long Vương cai trị vùng nước, đất âm và cõi âm (có thủy phủ ở vịnh Hạ Long).

Ngoài ra rắn (và các khuôn mặt muộn thần thoại sau này là

Rồng, thuồng luồng, long, giao long) thấy rất nhiều trong truyền thuyết và cổ sử Việt. Chỉ xin nêu ra một vài ví dụ như

. Thờ phượng rắn

Trước đây người Việt thờ rắn.

.Trang phục cổ truyền:

./Khăn

Phần linh thiêng nhất dành cho vật tổ là các trang phục đầu. Phụ nữ Việt Nam ở miền Bắc ngày nay còn vấn tóc, vấn khăn. Vấn tóc của phụ nữ Việt có hai cách: vấn tóc trần, tóc vấn lại rồi quấn trên đầu như con rắn cuộn khúc. Cách thứ hai, rõ hơn, là dùng cái độn khăn. Cái độn khăn chính là hình ảnh con rắn. Những người phụ nữ Việt vấn khăn là hình ảnh của đứa con chính huyết, chính thống của dòng Rắn, dòng Nước.

./Thắt lưng

Phụ nữ Bắc Việt ngày nay còn thắt cái dải thắt lưng (đôi khi gọi là ruột tượng). Trong các lễ rước, đàn ông thường thắt lưng điều, ví dụ như những người bưng thau quả trong đám cưới. Thầy mo Mường ngày nay cũng mặc đồ đen thắt lưng vải điều. Nhiều khảo cổ vật tìm thấy ở Hà Tây, Hải Phòng, Thanh Hóa thấy hình người có thắt lưng to bản thêu vẽ công phu, thả múi dài cả phía trước lẫn phía sau (Lê Văn Lan, Đời sống vật chất và tinh thần thời Hùng Vương, t.III, tr.237). Dải dây lưng có một khuôn mặt là rắn nước. Việt ngữ cổ dải có nghĩa là con rắn nước.

Thắt lưng trơn biểu tượng cho rắn hay trăn của dòng Nòng Trăn nước.

./Xà tích

Thêm vào dải thắt lưng nhiều khi còn đeo theo sợi dây xà tích bằng bạc có gắn nhiều thứ lặt vặt như cái cối giã trầu, ống vôi, cái nhíp… Tại sao gọi là xà tích? Đây chính là bí tích của dòng họ nhà xà, rắn, trăn nước Thần Nông. Đây là sợi dây rắn thiêng liêng của dòng Rắn, trăn nước, từ ngàn xưa lưu truyền lại cho con gái, từ đời này qua đời kia.

Chứng tích dây rắn xà tích này còn thấy rõ trong cổ sử

người Hà Di Ainu. Đây là sợi dây bí mật cột quanh người như dây lưng nhưng dấu kín dưới trang phục. Sợi dây này ngày nay gọi là upshoro hay upsoro kut. Từ kut chính là Việt ngữ cột, tên cổ gọi là a-eshimmukep (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).

Đây chính là dây dòng “xà tích” của chúng ta.

Dĩ nhiên còn nhiều nữa.

Kết Luận

 Rắn là một biểu tượng tín ngưỡng thấy trong mọi nền văn hóa thế giới. Trong Vũ Trụ giáo, rắn là biểu tượng của ngành nòng âm mang trọn vẹn ý nghĩa theo Vũ Trụ Tạo Sinh.

Văn hóa Việt nói riêng và văn hóa Bách Việt nói chung có cốt lõi dựa trên nguyên lý nòng nọc, âm dương, Chim-Rắn, Tiên Rồng nên rắn là một biểu tượng và vật tổ tối quan trọng phía nòng âm. Hình ảnh rắn còn thấy rất rõ và rất nhiều trong sử miệng (truyền thuyết), Việt), sử sách (cổ sử Việt) và sử đồng Đông Sơn. Khuôn mặt Rắn của Thần Nông và Lạc Long Quân mang trọn vẹn ý nghĩa của Vũ Trụ Tạo Sinh của Vũ Trụ giáo.

như đã nói ở trên, Lạc Long Quân có cốt nguyên thủy là con rắn nước đội lốt Rắn Nước cõi vũ trụ Thần Nông đẻ ra trứng vũ trụ nên Lạc Long Quân cũng có DNA sinh ra trứng thế gian. Vì thế mà Rắn Lạc Long Quân là cha của Bọc Trứng Thế Gian 100 Lang Hùng do Âu Cơ  sinh ra.

Theo dòng thời gian, muộn về sau này, rắn thần thoại hóa thành thuồng luồng, naga, rồng, long. Rắn cũng được thay thế bởi cá sấu, thằn lằn.

Rồi vào thời xã hội phụ quyền cực đoan, rắn bị lu mờ, bị coi là quái vật, tà vật.

Nguồn:https://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com/2013/03/01/bieu-tuong-ran/