Translate

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

Ý NGHĨA BIỂU TƯỢNG TRONG HỘI HỌA TRUNG HOA - II




Không chỉ hoa, mà quả cũng mang ý nghĩa biểu tượng nữa. Chẳng hạn quả đào tượng trưng sự trường thọ; thí dụ tranh «Đào hiến thiên xuân» 桃獻千春 (đào dâng nghìn tuổi xuân) vẽ ông lão cầm quả đào. Quả lựu tượng trưng cho sự đông con cái; thí dụ tranh «Lựu khai bách tử» 榴開百子(quả lựu mở sinh trăm con) vẽ ông lão cầm quả lựu bóc dở, cho trông thấy hạt. Quả phật thủ tượng trưng cho phúc; thí dụ tranh vẽ quả phật thủ (phúc) với quả đào (thọ) và quả lựu (đông con) là ngụ ý: đa phúc, đa thọ, đa nam tử. Quả quít tượng trưng sự tốt lành (cát). Ngay trong đời sống hằng ngày người ta cũng thích biếu xén nhau quít.
Hoa thường được vẽ chung với điểu. Chim hạc tượng trưng cho sự trường thọ. Người Trung Quốc tin rằng hạc sống đến ngàn năm (hạc thọ thiên tuế 鶴壽千歲). Hạc thường được vẽ chung với cây tùng (cũng ngụ ý trường thọ), nên tranh «Tùng hạc diên niên» 松鶴延年 (tùng và hạc sống lâu) được dùng để chúc thọ.
Thi nhân cho rằng chim én là loài chim nhỏ có cảm tình, mùa thu và mùa đông bay đi tìm cái ấm áp của miền nhiệt đới và mùa xuân quay về tổ cũ. «Xuân phong yến hỉ» 春風燕喜 (chim yến vui trong gió xuân) mô tả một đôi én về tổ trong cành liễu xanh phất phơ hay cành đào hồng thắm. Một bức tranh với đôi én hoặc một bức tranh với cặp hồng nhạn (vịt trời) hay đôi uyên ương bơi lội trong ao sen chính là biểu tượng tình nghĩa vợ chồng, gia đình khang lạc.



SONG THỌ - tranh Tề Bạch Thạch























Tranh «Thập toàn báo hỉ» 十全報喜 vẽ mười con chim khách đậu trên phiến đá và trên cây tùng hót líu lo báo tin mừng (chim khách được tin tưởng là báo điềm lành nên tục gọi nó là «hỉ thước» 喜鵲), tranh để chúc sự nghiệp thành công.
Dưới cội mai vàng (biểu tượng của phúc) là đôi chim cun cút hoặc một đàn gà con cùng gà trống gà mái cũng là biểu tượng của ân nghĩa tào khang, quan hệ nhân luân. Tranh phụ đề «ân nghĩa tại sinh tiền» 恩義在生前 (ân nghĩa đối với nhau lúc còn sống) thật là cảm động và thâm trầm biết bao! Con gà mái với bầy con tượng trưng cho gia đình đông đúc, đầm ấm.
Con công tượng trưng cho sự bình an thịnh vượng. Chim phượng (thường gọi gộp là phượng hoàng, thực ra phượng là con trống, hoàng là con mái) là linh điểu, tương truyền chim phượng xuất hiện là thánh nhân ra đời. Nhưng chim loan và chim phượng thì tượng trưng duyên nợ vợ chồng. Tranh «loan phượng hoà minh» 鸞鳳和鳴 (chim loan và chim phượng hoà chung tiếng hót) ngụ ý sự hoà thuận êm ấm của vợ chồng.
Một số động vật cũng có ý nghĩa biểu tượng. Rồng (long ), một con vật huyền thoại, là biểu tượng của vương quyền. Kỳ lân (kỳ là con đực, lân là con cái) tượng trưng nhân ái và thái bình. Con rùa (quy ) cũng là thần vật, tương truyền nó sống tới ngàn năm, nên tượng trưng sự trường thọ.
Ngựa là một chủ đề quen thuộc. Dân gian cho rằng ngựa có đức tính trinh tiết, ý thức rõ quan hệ truyền chủng, không vi phạm cái mà luân lý loài người gọi là loạn luân. Như Dịch Kinh từ đời Chu đã ca ngợi là «Tẫn mã chi trinh» 牝馬之貞 (đức trinh tiết của ngựa cái). Ngựa còn có đức tính trung thành, một đức tính mà Nho gia rất coi trọng trong các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế, ngựa từ thời xa xưa có giá trị rất cao. Trong chiến tranh ở Trung Quốc cổ đại, ngựa giữ vai trò rất quan trọng có thể gọi là nền tảng của sức mạnh quân sự. Các kỵ binh du mục trên lưng các chiến mã thần tốc và dũng mãnh luôn là mối kinh hoàng cho binh quân của Trung Quốc. Trong giao thông vận tải thì ngựa là phương tiện nhanh chóng và hữu hiệu. Từ đời Thương người ta đã biết đánh xe ngựa tới nơi xa xôi để buôn bán. Ngoài giá trị quan trọng của ngựa trong vận tải và quân sự, người ta còn tìm thấy giá trị y học của ngựa, được mô tả trong Bản Thảo Cương Mục (xuất bản 1596) nữa. Cứ xem đời nay mà xét, ngày nay người ta xem những xe hơi hiện đại sang trọng là biểu tượng của giàu có thì ngày xưa ngựa chính là biểu tượng đó. Nói chung, ngựa xuất hiện trong tranh Trung Quốc như là biểu tượng của sự mau chóng và thành đạt. Thí dụ bức tranh có chủ đề phổ biến nhất là «mã đáo thành công» 馬到成功 thể hiện qua một bầy ngựa phi nước đại gió bụi mịt mù. Nguyên ý câu này là «Kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công» 旗開得勝馬到成功 (Cờ phất [làm hiệu thì] chiến thắng, ngựa quay về [báo tin] thành công). Ngày xưa khi xuất binh phải phất cờ hiệu, mà cờ đã phất rồi thì phải chiến thắng; tướng soái khi lấy đầu tướng giặc, chiến mã quay về tất báo tin thành công. Ý nghĩa câu «mã đáo thành công» ngày nay chỉ còn tượng trưng là tốc chiến tốc thắng. Và một bức tranh «mã đáo thành công» làm quà khai trương cho một cửa hiệu chỉ đơn giản tương tự như là «khai trương hồng phát» (mở cửa tiệm thì phát đạt lớn).


Có những vật tưởng như bình thường nhưng cũng có ý nghĩa đặc biệt, thí dụ con cóc tía (thiềm thừ 蟾蜍) tượng trưng cho sự giàu có, can đảm, và cái gì quý báu, khó kiếm ra được. Con bướm (hồ điệp 蝴蝶) tượng trưng sự trùng điệp. Con mèo tượng trưng sống lâu. Con cá chép (lý ngư 鯉魚, cá hoá long, cá vượt vũ môn) tượng trưng thi đỗ, v.v...
Rồi sự kết hợp nhiều thứ khác nhau cũng có ngụ ý tổng hợp. Thí dụ hoa kết hợp với điểu, thảo trùng, cá, đá (tượng trưng sự vững chắc) và các khí vật khác (thí dụ cái bình hoa, ngụ ý an bình) làm tăng thêm thi ý cho tranh, thường đó là lời chúc nguyện cát tường.
Mẫu đơn phối hợp với cá lội là biểu tượng «Phú quý hữu dư» 富貴有餘 (phú quý dư dật) là lời chúc nguyện tốt đẹp vào ngày đầu năm. Mẫu đơn vẽ chung với khổng tước (chim công) mang tên «Khổng tước khai bình» 孔雀開屏 là tranh chúc mừng khai trương cửa tiệm. Hoa xuân điểm thêm vài cánh bướm, tạo sinh động cho tranh. Bướm ngụ ý là trùng điệp. Tranh mẫu đơn điểm thêm cánh bướm ngụ ý phú quý trùng điệp 富貴重疊. Hoặc trên cánh hoa vẽ con dế, cho ta hình dung tiếng thu đang về rồi với tiếng nhạc để râm ran đâu đây.
Như trên đã nói, thông qua ngôn ngữ (nhất là từ ngữ đồng âm hay cận âm) người ta sẽ liên tưởng hình vẽ này đến một sự vật nào đó với ý nghĩa biểu tượng nhất định trong tâm thức chung của mọi người.
- Bông hoa, chữ Hán là hoa phát âm [huā] gần giống chữ hoa (vinh hoa) [huá].


- Hoa sen, chữ Hán là liên phát âm [lián] giống như chữ liên (liên tục) [lián]; hoặc chữ Hán là phát âm [hé] giống như chữ hoà (hoà hợp) [hé].
- Quả thị hay cành thị, chữ Hán là thị phát âm [shì] giống như chữ sự (sự việc) [shì].
- Quả lựu, chữ Hán là lựu phát âm [liú] giống như chữ lưu (trôi chảy, lưu truyền) [liú].
- Cây phong, chữ Hán là phong phát âm [fēng] giống như chữ phong (ban phong) [fēng].
- Cây ngô đồng, chữ Hán là đồng phát âm [tóng] giống như chữ đồng (cùng với) [tóng].
- Cành mai, chữ Hán là mai phát âm [méi] gần giống chữ mỗi (mỗi thứ, mỗi người) [měi].
- Cành trúc, chữ Hán là trúc phát âm [zhú] gần giống chữ chúc (chúc tụng) [zhù].
- Con gà, chữ Hán là phát âm [ji] gần như chữ cát (tốt lành) [jí].
- Con cá, chữ Hán là ngư phát âm [yú] giống như chữ (dư thừa, dư dật) [yú].
- Con dơi, chữ Hán là bức phát âm [fú] giống như chữ phúc (hạnh phúc) [fú]. Vẽ 5 con dơi tức là ngũ bức 五蝠 , phát âm [wǔ fú] giống như ngũ phúc 五福 . Con dơi vẽ lộn ngược tức là đảo bức , phát âm [dào fú] giống như đáo phúc 到福 (phúc đến).


- Con mèo, chữ Hán là miêu phát âm [máo] gần giống chữ mạo (già 80 tuổi) [mào].
- Con bướm, chữ Hán là điệp phát âm [dié] giống như chữ điệt (già 70 tuổi) [dié] và chữ điệp (trùng điệp) [dié].
- Con hươu, con nai, chữ Hán là lộc 鹿 phát âm [lù] giống như chữ lộc (bổng lộc) [lù].
- Con vượn, con khỉ, chữ Hán là hầu phát âm [hóu] giống như chữ hầu (tước hầu) [hóu].
- Cái quạt, chữ Hán là phiến phát âm [shàn] giống như chữ thiện (tốt lành) [shàn].
- Ống sáo, chữ Hán là sinh phát âm [shēng] giống như chữ sinh (sinh nở) [shēng] và chữ thăng (bay lên) [sheng].
- Cái lục bình, chữ Hán là bình phát âm [píng] giống như chữ bình (bình an) [píng].
- Cái mũ, cái mão, chữ Hán là quan phát âm [guān] giống như chữ quan (ông quan) [guan].
- Ngọc như ý đúng ý nghĩa là như ý 如意 [rú yì].
- Số 9, chữ Hán là cửu phát âm [jiǔ] giống như chữ cửu (lâu dài) [jiǔ].
- v.v...
Phối hợp nhiều thứ với nhau, tranh vẽ mang ý nghĩa biểu tượng tổng hợp. Thí dụ như:
1. Tranh vẽ quả đào với 5 con dơi ngụ ý Ngũ Phúc Lâm Môn 五福臨門. Ngũ Phúc là: phú (giàu), thọ (sống lâu), khang ninh 康寧 (khỏe mạnh), du hiếu đức 攸好德 (yêu nhân đức), khảo chung mệnh 考終命 (chết êm ái).
2. Tranh vẽ quả phật thủ với con bướm ngụ ý sống lâu đến 70-80 tuổi, vì quả phật thủ tượng trưng cho thọ hay phúc, con bướm (điệp) ngụ ý già 70 tuổi (điệt ) hay trùng điệp (điệp ), tức là phúc thọ trùng điệp 福壽重疊.
3. Tranh vẽ quả phật thủ (phúc) với quả đào (thọ) và quả lựu (đông con) ngụ ý tam đa 三多: đa phúc 多福 (nhiều phúc), đa thọ 多壽 (rất thọ), đa nam tử 多男子(nhiều con trai).
4. Tranh vẽ quả phật thủ, quả đào, quả lựu với 9 miếng ngọc như ý ngụ ý «tam đa cửu như» 三多九如 nghĩa là chúc cho phúc thọ, con cháu đầy đàn, bền vững.
5. Tranh vẽ quả lựu đã bóc vỏ một phần để lộ hạt ra ngụ ý «lựu khai bách tử» 榴開百子 (lựu mở ra sinh trăm con).
6. Tranh vẽ quả lựu với 5 cậu bé con ngụ ý mong cho con cái sau này đều hiển đạt như 5 con của ông Đậu Yên Sơn đời Tống.
7. Tranh vẽ quả lựu (ngụ ý lưu truyền ) với cái mũ (ngụ ý tước quan ), cái đai lưng (đái ), cái thuyền (thuyền , đọc giống truyền ) ngụ ý mong cho «Quan đái truyền lưu»官帶傳流 (đai lưng của quan được lưu truyền, tức là được phong quan tước nhiều thế hệ trong gia tộc).
8. Tranh vẽ hai quả thị (ngụ ý sự việc) với ngọc như ý là mong «Sự sự như ý» 事事如意 (vạn sự như ý).
9. Tranh vẽ cây ngô đồng (đồng âm với đồng : cùng với) với con hươu (lộc 鹿 , đồng âm với lộc : bổng lộc) và chim hạc (trường thọ) là ngụ ý «Lộc thọ đồng lộc hạc» 禄壽同鹿鶴 (được bổng lộc và sống lâu như hươu, hạc).
10. Tranh vẽ chim hỉ thước 喜鵲 (vui vẻ) đậu cây ngô đồng (đồng âm với đồng : cùng với) là ngụ ý «đồng hỉ» 同喜 (mọi người cùng vui vẻ).
11. Tranh vẽ đứa trẻ cỡi trên lưng con kỳ lân tay cầm bông sen (liên ) và ống sáo (sinh ) là ngụ ý «Liên sinh quý tử» 連生貴子 (liên tiếp sinh quý tử).
12. Tranh vẽ 4 đứa trẻ: đứa cầm cành táo (tảo , đồng âm với tảo : sớm), đứa cầm ống sáo (sinh ), đứa cầm cái ấn quan văn, đứa cầm cái kích quan võ là ngụ ý mong: sớm sinh con cái sau này thành quan văn hay quan võ.
13. Tranh vẽ đứa trẻ ăn mặc sang trọng (phú ), cổ đeo cái khánh (đồng âm với khánh , hiểu là may mắn hạnh phúc) đang ngắm bầy cá vàng (ngư , hiểu là dư thừa) là ngụ ý mong: giàu có, đông con, hạnh phúc có thừa.
14. Tranh vẽ chim hỉ thước 喜鵲 đậu cành mai (đồng âm với mỗi : mọi người) cành trúc (đồng âm với chúc : chúc mừng) là ngụ ý mong cho mọi người đều vui vẻ.
15. Tranh vẽ trúc mai 竹梅 ngụ ý mọi người may mắn.
16. Tranh vẽ mai, trúc với con mèo và con bướm là ngụ ý mong mọi người sống lâu đến 70-80 tuổi.
.
17. Tranh vẽ mẫu đơn 牡丹 (phú quý) với con gà ( đồng âm với cát : tốt lành) ngụ ý «phú quý cát tường» 富貴吉祥.
18. Tranh vẽ con khỉ (hầu ) trèo cây phong (phong ) có cái ấn cột vào cành cây ngụ ý «ấn phong hầu» 印封侯, tức là được thăng quan tiến chức nói chung.
v.v...
Trên đây là một số minh hoạ tiêu biểu. Tóm lại, ý nghĩa biểu tượng của loại tranh này cho thấy ba chủ ý của tác giả: 1- gởi gấm ý chí; 2- ước nguyện mọi tốt lành cho bản thân; 3- và cầu chúc hạnh phúc cho người khác. Với chủ ý thứ ba, các bức tranh này thường được người ta làm quà tặng nhau vào những dịp mừng thọ hay những dịp đặc biệt như ngày đầu năm, mà những lời chúc nguyện rồi sẽ như chồi non lộc mới nảy nở thành những đoá hoa rực rỡ tươi thắm trong tiết xuân sang.●


Sưu tầm từ:http://vietsciences.free.fr/lichsu/thuhoa-trungquoc/ynghiabieutuong.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét