Translate

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2013

TRUYỆN TÂY TẠNG


Dịch giả: Lục Hương
Lời mở đầu
Công nguyên năm 838, vị vua cuối cùng của dân tộc Thổ Phạn là Lãng Đạt Ma lên ngôi Tán Phổ, tuyên bố diệt Phật. Trong cuộc tàn sát ấy, các tăng lữ đã mang một lượng lớn kinh điển và thánh vật đi chôn giấu tại một nơi bí mật, ở đó họ dựng lên một ngôi thần miếu, đặt tên là Bạc Ba La. Thời gian dần trôi, chiến tranh không dứt, ngôi thần miếu ẩn chứa biết bao báu vật Phật gia đã hoàn toàn biến mất trong lớp bụi lịch sử…

MỤC LỤC
 
Chương 1: Bắt đầu từ một tấm ảnh
Chương 2: Truyền thuyết Tử Kỳ Lân
Chương 3: Hồi ức của Ba Tang
Chương 4: Băng qua Khả Khả Tây Lý
Chương 5: Chuyến đi kinh hồn trên sông băng tiền sử
Chương 6: Bí mật cuốn nhật ký
Chương 7: Bạc Ba La thần miếu có tồn tại hay không?



 ( Tập I )


Tác giả Hà Mã

Nhiều năm sau, Trác Mộc Cường Ba, một thương nhân đồng thời là kẻ ưa thích chó ngao Tây Tạng, loài chó dũng mãnh nhất thế giới, nhận được một phong thư lạ. Trong đó có hai bức ảnh chụp Tử Kỳ Lân, một loài linh thú từ thời viễn cổ, một con ngao hoàn mỹ nhất trên đời. Và thế là, không có gì có thể ngăn cản anh ta dấn thân vào một chuyến phiêu lưu vào sâu trong vùng đất băng giá khốc liệt Tây Tạng để truy tìm giấc mơ trọn đời. Để rồi, theo dấu Tử Kỳ Lân cũng là theo dấu Bạc Ba La thần miếu vĩ đại. Cả một nền văn hóa Tây Tạng mênh mông và huyền hoặc đã dần dần hiện ra. Cùng một giáo sư khuyển học uyên thâm mà hiếu động, một chàng đặc nhiệm lực sĩ và bồng bột, và một kỳ nữ đỏng đảnh nhưng thuần hậu, Trác Mộc Cường Ba đã có cơ hội khám phá những kinh nghiệm sống tột cùng đáng say mê…
Chương 1
BẮT ĐẦU TỪ MỘT TẤM ẢNH

Phương Tân tự thấy rằng mình đã từng trải sự đời, không còn thứ gì có thể hấp dẫn nổi ông nữa, nhưng giờ đây, thứ Trác Mộc Cường Ba mang tới, đã lại một lần nữa khiến ông động lòng, ông nôn nóng muốn xem rốt cuộc là thứ gì mà có thể khiến Trác Mộc Cường Ba xem trọng đến vậy.

Trác Mộc Cường Ba lại trêu ngươi ông, lần chần mãi không chịu mở cái tráp vàng, thấy Phương Tân cứ nhìn chằm chằm vào chiếc tráp, hai con mắt sắp rơi ra ngoài, mới đẩy nó tới trước mặt ông, tôn kính nói: “Thầy giáo, xin mở ra xem thử đi!” 

 

Bắt đầu từ một tấm ảnh

 
Trác Mộc Cường Ba, cao một mét tám mươi bảy, chính xác là lưng hùm eo gấu, tóc dài, da mặt màu đồng cổ, toàn thân không chỗ nào không toát ra sức mạnh không giấu nổi. Nhưng thường ngày, gã là con người cực kỳ hoà nhã, đồ Tây thẳng thớm, đeo đôi kính gọng khoan nhỏ hình vuông, trên mặt lúc nào cũng nở nụ cười, có người gọi gã là Trác tổng, cũng có người gọi gã là giáo sư, còn bạn bè thân thiết thật sự thì đều gọi gã là Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba, người Tạng, bốn mươi hai tuổi, tổng giám đốc Công ty Nuôi Luyện Danh Khuyển Thiên Sư, cũng là giáo sư thỉnh giảng của khoa Sinh vật Đại học Phúc Đán, chuyên giảng về các giống chó nổi tiếng thế giới. Trác Mộc Cường Ba sinh tại một ngôi làng nhỏ có tên Đạt Nghĩa Nô Thố nằm tít sâu trong đất Tạng, kề sát khu không người, tên của gã, ý nghĩa vốn chỉ người có thể chiến thắng biển lớn. Gã không làm cha mẹ mình thất vọng, nay đã là tổng giám đốc công ty có tài sản hàng trăm triệu Nhân dân tệ, cũng là giáo sư của một trường đại học danh tiếng, có thể nói là công thành danh toại, vốn lập nghiệp của gã, không phải thứ gì khác, chính là chó.
 

Tiểu bang Pensylvania, nước Mỹ.
“Mấy nghìn năm nay, cả thế giới đều công nhận, giống chó hình thể lớn nhất, tính cách hung mãnh nhất, gọi là ngao. Đó là đặc sản của đất Tạng chúng tôi, đã tồn tại từ mấy nghìn vạn năm trước, cách đây khoảng hai nghìn năm thì lưu truyền sang Hy Lạp, sau sang đế quốc La Mã, rồi lại do người Slave ở Đông Âu du nhập vào các nước châu Âu, đến nay trong cơ thể các loại chó nổi tiếng thế giới vẫn còn giữ được gien di truyền của giống ngao Tây Tạng - ở Lhasa, và khắp trên đất Tạng, giống chó độc đáo nhất phải tính đến ngao…” Trác Mộc Cường Ba đứng diễn giảng hùng hồn trên sân khấu bài trí lộng lẫy, kể cho các tân khách đến tham quan lịch sử của giống chó ngao Tây Tạng.
Đây là lễ khai mạc giải đấu chó ngao đẳng cấp thế giới do công ty gã xuất tiền tổ chức, một mặt để có thể tuyên truyền về ngao Tây Tạng trên các phương tiện truyền thông, nâng cao hiểu biết của mọi người về giống chó này, mặt khác cũng để giới thiệu cơ sở nuôi luyện của gã với người nuôi chó ngao toàn thế giới, cho bọn nó mở rộng tầm mắt, biết thế nào mới gọi là chó ngao chân chính.
Trong hội trường, phóng viên các nước mấy trăm người, khách đến dự lễ khai mạc hơn tám nghìn người, trong số đó rất đông người yêu chó ngao từ trong nước đặc biệt bỏ công sang tham dự. Trác Mộc Cường Ba mỉm cười nói: “Hiện nay, chó ngao thuần chủng một con giá khoảng trên trăm nghìn Đô la Mỹ. Tuy nói người nuôi chó ngao không ít, nhưng tôi có thể cam đoạn với các vị rằng, chó ngao thuần chủng nhất thế giới chỉ có ở cơ sở của chúng tôi, chó ngao tuyết, chó ngao đỏ, thiết bao kim, ở chỗ chúng tôi đều là loại ưu tú nhất…”
Trong sảnh đầu người lố nhố, mọi người đều biết, vị tổng giám đốc Trác này, vốn xuất thân từ đất Tạng, chó ngao nuôi ở cơ sở của ông ta, trong nước tuyệt đối có thể đứng hàng thứ nhất, thứ nhì, còn bản thân ông ta cũng nghiên cứu rất sâu về chó ngao, tuyệt đối chưa bao giờ nhìn lầm. Những người có chó dự thi đấu lần này, ngoài hy vọng giành ngôi hạng cao, không ai là không mong ngao của mình lọt mắt xanh Trác tổng, có thể vào cơ sở Nuôi Luyện Danh Khuyển Thiên Sư phối giống, để có những con ngao Tây Tạng thuần chủng hơn nữa.
“Nếu Tạng ngao rời khỏi Tây Tạng, có còn gọi là ngao nữa không?”
Thông thường khi Trác tổng nói chuyện, ai nấy chỉ yên lặng lắng nghe, ngong ngóng có thể học hỏi được chút ít kiến thức liên quan đến nuôi dưỡng huấn luyện chó ngao. Vậy mà, giữa một hội nghị lớn thế này, không biết là người nào, đột nhiên phá vỡ sự yên lặng, khiến tất thảy đều giận dữ, mấy người mua ngao lên tiếng phản bác tức thì: “Sao lại không gọi là ngao nữa?”
“Chú mày cởi mẹ hết quần áo ra, có còn gọi là người nữa không?”
“Đúng là vớ vẩn!”
Người kia rõ ràng không địch nổi bao người đang nổi giận, thoắt cái đã không thấy đâu, Trác Mộc Cường Ba cười cười ngăn mọi người lại, nói: “Không sai, chó ngao ở đất Tạng mới có được hình thể to lớn hung mãnh và khí chất lấn át của chúng. Cũng có rất nhiều người hỏi tôi, tại sao chó ngao ở cơ sở của chúng tôi so với những nơi khác, nhìn uy mãnh hơn, thần thái hơn, kỳ thực chó ngao ở chỗ chúng tôi, trước giờ vẫn luôn được chọn ở đất Tạng, nuôi thả trên đất Tạng, huấn luyện thuần hoá cũng trên đất Tạng, đấy tuyệt đối là chó ngao Tây Tạng chân chính.” Đám đông giờ mới yên lặng trở lại, tiếp tục nghe Trác Mộc Cường Ba thuyết giảng.
Tuy mọi người đều không biết ai vừa lên tiếng, nhưng Trác Mộc Cường Ba từ lâu đã chú ý, kẻ đứng bên cửa, mũ rộng vành sùm sụp, đeo kính râm, mặc áo khoác gió che kín mặt, vừa rồi chính là y đã lên tiếng hỏi.
Trác Mộc Cường Ba vẫn đường đường tự tin và hãnh diện, tiếp tục diễn giảng, gã lấy hình mấy con chó ngao ưu tú nhất của cơ sở, dùng máy chiếu chiếu lên bức tường phía sau, cả đám người phát ra những tiếng ồ à kinh ngạc, làm Trác Mộc Cường Ba vô cùng thoả mãn. Sắc mặt cũng vì kích động mà hồng nhuận lên, gân xanh nổi gồ khắp trán, biểu lộ gã bắt đầu hưng phấn dưới ánh đèn flash chớp sáng.
Vừa lúc đó, một đứa nhỏ cầm thứ gì không rõ, chen qua hàng người lên phía trước, gần đến bục diễn giảng tới nơi thì bị mấy gã lừng lững chặn ngang lại. Trác Mộc Cường Ba liếc mắt, thấy trên người nó không có vũ khí gì để tấn công, trong tay chỉ cầm một vật nom giống phong thư, liền đưa mắt ra hiệu, đám vệ sĩ liền nhận lấy món đò nó định trao Trác Mộc Cường Ba, trực tiếp đưa cho gã. Đứa nhỏ đưa thư xong, lập tức chạy đi, cơ hồ như được người ta nhờ vả.
Trác Mộc Cường Ba một tay chỉ bức ảnh lớn phía sau, miệng nói về sự xuất sắc và thuần chủng của chó ngao ở cơ sở của gã, tay kia bóc lá thư ra xem.
Khoảnh khắc phong thư được mở ra, khuôn mặt gã vụt tắt nụ cười quen thuộc, toàn thân chợt đờ đẫn ngây ngẩn trên bục diễn giảng sáng rực ánh đèn.
Mọi người đều đang chăm chú nghe Trác Mộc Cường Ba diễn giảng, gã vừa dừng lại, cả hội trường gần vạn người thành ra im phắc, chỉ còn tiếng cửa trập máy ảnh vang lên đâu đó trong các góc. Biến cố bất ngờ làm ánh mắt ai nấy dồn cả vào Trác Mộc Cường Ba, chỉ thấy gã mở mắt nhìn tấm ảnh trừng trừng, như người lạc hồn lạc vía, gương mặt mất sạch sắc hồng nhuận ban đầu, chuyển sang trắng bợt. Liền đó họ nhận ra Trác Mộc Cường Ba không còn tự chủ, từ một tay cầm thư, chuyển thành hai tay nâng nó lên, run rẩy, khoé miệng hơi mấp máy, những người ngồi hàng đầu còn phát hiện, đuôi mắt Trác Mộc Cường Ba đang giật giật, rõ ràng là vô cùng kích động, đám phóng viên nhạy cảm không để lỡ thời cơ, lập tức giương máy quay lên ghi lại biến cố này.
Ước chừng nửa phút sau, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên bừng tỉnh, chộp lấy microphone, kêu lên: “Anh bạn, đợi chút!” Giọng gã lạc hẳn đi, trở nên khan khan chói tai, gã dường như không hề trông thấy các phóng viên và tất cả những người khác, chỉ nhìn chằm chằm đứa nhỏ kia, hỏi: “Ai đưa cho cậu thứ này vậy?”
 Đứa nhỏ rõ ràng bị vẻ mặt của Trác Mộc Cường Ba làm sợ hãi, không đáp lại câu nào, chỉ hoảng hốt đưa mắt ra phía cửa, cuống cuồng chen khỏi đám người. Trác Mộc Cường Ba nhìn theo ánh mắt đứa nhỏ, người “áo gió kính đen” ban nãy đã biến mất từ lúc nào không hay. Gã không buồn tiếp tục diễn giảng, mà nhảy xuống khỏi bục cao, chen ra phía cửa. Cử chỉ đột ngột này khiến cả hội trường nhốn nháo, đám phóng viên chen lấn nhau len ra, nhóm vệ sĩ thì cố sức mở đường giúp Trác Mộc Cường Ba, người muốn xông tới trước, người muốn lui lại phía sau, tình hình nhất thời hoàn toàn không thể khổng chế.
Giữa lúc hỗn loạn, Trác Mộc Cường Ba biến mất! Mọi người xôn xao bàn luận, đứa nhỏ kia rốt cuộc đã đưa thứ gì cho Trác Mộc Cường Ba, sao gã có thể để mất mặt ngay trước ống kính phóng viên, bất chấp cả lễ khai mạc trọng thể mà đích thân đuổi theo. Một điều càng bất ngờ nữa là sau đó mấy ngày, trong giải thi đấu chó ngao đẳng cấp nhất thế giới này tuyệt nhiên không thấy bóng dáng  Trác Mộc Cường Ba, người đề xướng và chủ trì giải đấu. Có người bảo đó là thư tống tiền, bên trong là ảnh Trác Mộc Cường Ba và tình nhân của gã thông gian, mấy người ngồi hàng đầu rõ rành nhìn thấy ảnh trong bì thư, cho nên khối người tin giả thiết này, còn đám phóng viên thì chắc mẩm không có lửa, sao có khói, càng đổ thêm dầu vào lửa, đặc tả dông dài, nhất thời, tiếng tăm Trác Mộc Cường Ba giờ đây thành ra lại lớn gấp cả hai chục lần so với hai mươi năm về trước.
Trong khi các phóng viên đang khuấy động ồn ào câu chuyện, Trác Mộc Cường Ba đã ở Thượng Hải, tại nhà giáo sư Phương Tân. Trác Mộc Cường Ba chỉ là giáo sư thỉnh giảng, còn Phương Tân là giáo sư động vật học thực thụ, chuyên nghiên cứu các giống chó, năm nay đã sáu lăm tuổi, từng là thấy hướng dẫn nghiên cứu loài chó của Trác Mộc Cường Ba, về sau trở thành đôi bạn hợp tác chuyên nghiên cứu chó ngao Tây Tạng, nhưng giáo sư Phương Tân chỉ dừng lại ở khía cạnh học thuật, kiên quyết phản đối việc dùng Tạng ngao để kinh doanh, khiến bọn họ phân ly mỗi người một ngả. Về sau sự nghiệp kinh doanh của Trác Mộc Cường Ba lên như diều gặp gió, còn giáo sư Phương Tân vẫn chỉ là một nhà nghiên cứu vô danh, nhưng để biểu thị lòng cảm tạ giáo sư Phương Tân vì sự khơi mở và hỗ trợ chuyên môn về thuộc tính sinh vật, Trác Mộc Cường Ba hết sức ủng hộ công tác học thuật của ông, nay giáo sư đã trở thành nhân vật có uy tín trong giới học thuật chuyên nghiên cứu loài chó, con chó nào muốn trở thành danh khuyển cấp quốc tế, cách tốt nhất chính là được giáo sư công nhận. Mới đây, ông bắt tay viết một luận văn về huyết thống Tạng ngao, gần như là biên soạn một bảng phả hệ cho chó ngao Tây Tạng trên toàn thế giới, sau này ai muốn truy tông tích chó ngao, đều phải dò tìm trong đó. Bản luận văn được viết để tham gia hội nghị sinh vật học Matthew Liya, nghe nói hội nghị lần này sẽ trao cho giáo sư Phương Tân giải thưởng đặc biệt, ý nghĩa không khác gì giải Nobel Động vật học, là vinh dự tối cao đối với các nhà Động vật học.
Phương Tân tóc đã bạc trắng từ lâu, nhưng tinh thần vẫn còn rất quắc thước, hai mắt sáng rực có thần, ông châm điếu thuốc Trung Hoa theo thói quen, rít một hơi, rồi nói: “Tuần sau tôi đi Đức tham dự hội nghị sinh vật học, nghe nói anh mang đến một thứ rất đặc biệt? Là thứ gì có thể khiến anh bỏ cả cơ hội thể hiện mình ở cuộc thi chó ngao bên Mỹ mà bay về Thượng Hải thế?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Thầy giáo (gã vẫn giữ cách xưng hô này), xin xem thử thứ này…” Vừa nói, gã đặt chiếc va li nhỏ trên tay xuống bàn. Đó là chiếc va li chống trộm bằng thép chuyên dùng vận chuyển tiền, bên ngoài bọc da. Phương Tân giờ mới để ý thấy Trác Mộc Cường Ba đã dùng còng tay cẩn thận khoá chiếc va li đó vào tay gã. Phương Tân giật mình kinh ngạc, phải biết rằng, Trác Mộc Cường Ba đã hai lần đoạt chức quán quân Khố Bái (còn gọi là Suất Túc (1)) của đặc khu Tây Tạng, bản thân rất giỏi võ, cảnh sát bình thường cũng không phải là đối thủ của gã, gã từng giúp người ta mang một viên kim cương giá tới hai mươi triệu Đô la, bất quá cũng chỉ tuỳ tiện tìm một cái túi vải bọc lại, cho vào túi áo, xưa nay chưa bao giờ thấy gã mang thứ gì mà cẩn thận như vậy.
Nhưng sau khi Trác Mộc Cường Ba mở va li, Phương Tân lại càng kinh ngạc hơn, trong va li đặt một cái tráo vàng hình vuông, mỗi cạnh chừng ba mươi xăng ti mét, phù điêu khắc bên trên sống động như thật, bốn góc khảm thứ ngọc mắt mèo hiếm thấy, hạt nhỏ nhất cũng phải đến mười ba carat. Phương Tân biết, đây là tráp báu vật gia truyền của Trác Mộc Cường Ba, chỉ riêng giá trị của tráp đã không thể dùng tiền mà tính rồi, chiếc tráp này, hồi trước dùng để kinh Phật, về sau truyền đến đời bố Trác Mộc Cường Ba, kinh Phật hiến tặng cho nhà nước, được coi là bộ kinh thánh Ninh Mã hoàn chỉnh duy nhất được “thỉnh” vào cung Bố Đạt La, chiếc tráp này từ đấy luôn để trống, Trác Mộc Cường Ba thường hay cười cười huênh hoang, cả đời này chỉ sợ không tìm được thứ gì có thể đặt vào trong tráp này nữa. Nhưng hôm nay, lại có thứ gì được đặt vào trong đó đây?
Phương Tân tự thấy rằng mình đã từng trải sự đời, không còn thứ gì có thể hấp dẫn nổi ông nữa, nhưng giờ đây, thứ Trác Mộc Cường Ba mang tới, đã lại một lần nữa khiến ông động lòng, ông nôn nóng muốn xem rốt cuộc là thứ gì mà có thể khiến Trác Mộc Cường Ba xem trọng đến vậy.
Trác Mộc Cường Ba lại trêu ngươi ông, lần chần mãi không chịu mở cái tráp vàng, thấy Phương Tân cứ nhìn chằm chằm vào chiếc tráp, hai con mắt sắp rơi ra ngoài, mới đẩy nó tới trước mặt ông, tôn kính nói: “Thầy giáo, xin mở ra xem thử đi!”
Phương Tân đeo găng tay bằng tơ trắng, cẩn thận mở chiếc tráp ra, trong tráp không có thứ gì khác, chỉ có một thứ duy  nhất - ảnh! Nhưng nét mặt Phương Tân cũng giống như Trác Mộc Cường Ba khi vừa nhìn thấy thứ này vậy, đờ đẫn như khúc gỗ!

(1) Suất Túc: môn đấu vật của người Tạng
 
Bí mật trong tấm ảnh
 

Nói một cách chính xác, trong tráp để hai tấm ảnh. Tấm thứ nhất có bối cảnh thảo nguyên mênh mông, dăm khóm cây bụi lúp xúp mọc rải rác trên trảng cỏ, trời xanh mây trắng, chính giữa nổi lên một cơn gió lốc màu đen. Nhìn kỹ lại, thì ra không phải gió, mà là cái bóng lờ mờ của một con vật, cả tấm ảnh rất mờ, người thạo nghề nhiếp ảnh đều biết, đó là do tay người chụp run quá, nhưng vẫn có thể mang máng nhận ra bộ lông con vật. Tấm ảnh thứ hai, bối cảnh vẫn là thảo nguyên, nhìn kỹ hơn sẽ phát hiện ra vị trí chụp ảnh không hề thay đổi, cũng dãy núi đó, cũng chính những bụi cây đó, ngay cả ngọn cỏ cũng giữ nguyên vị trí, chỉ có cảnh trời xanh mây trắng bị sắc đêm thay thế, có nghĩa là người chụp ảnh đã phục nguyên tại chỗ từ sáng sớm đến tối mịt không hề nhúc nhích. Bóng đen kia đã chìm hẳn trong màn tối, nhưng tấm ảnh thứ hai rõ hơn tấm thứ nhất, bởi vì cái bóng cách điểm đặt máy ảnh gần hơn, thêm nữa còn đối diện với vị trí của người chụp.
Trên tấm thứ hai, cái mặt mờ mờ hình như là của sư tử đực châu Phi, những nếp nhăn trên cổ liền với lông bờm giống hoa hướng dương ôm lấy khuôn mặt. Nhưng xem thân thể nó thì khác hẳn sư tử; sư tử châu Phi, vì nguyên nhân địa lý, khí hậu, chỉ quanh đầu và sau gối mới có tí lông bờm, còn con vật này, toàn thân phủ kín lớp lông vừa dày vừa dài, y hệt một con bò Yak, dũng mãnh và tráng kiện.
Giáo sư Phương Tân cầm hai tấm ảnh lên, hồi lâu không nói được tiếng nào, hình thể như bò Yak Tây Tạng, đầu sư tử, đường nét như báo, con vật phủ kín lông đen trong tấm ảnh, mỗi múi thịt trên cơ thể đều phác thành những đường nét gần như hoàn mỹ, bên trong ẩn chứa sức mạnh vô song, thoạt nhìn tựa như một mũi tên có thể lao vút bất cứ lúc nào, từng động tác không khác gì của một động vật họ mèo đang thủ thế chực vọt đi. Nhưng ông biết chắc chắn, đây là một động vật họ chó, đầu vuông tai nhỏ, mõm ngắn nhưng miệng há cực rộng, lưng thẳng bụng thon, bốn chân to như cây cột, bất luận là nhìn từ góc độ nào đi nữa thì đây cũng chính là một con chó ngao Tây Tạng đúng tiêu chuẩn. Hơn nữa, không phải là Tạng ngao thông thường, Tạng ngao thông thường không lớn như vậy, không chắc nịch như vậy, không dũng mãnh và điềm tĩnh uy nghi như vậy, nó hiện lên lừng lững, tựa người khổng lồ bằng thép, lẫm liệt khí chất của bậc vương giả, dã tính trời sinh khiến ánh mắt như bao trùm trời đất, vô cùng uy phong lao đi giữa chốn thảo nguyên.
Giáo sư Phương Tân ngắm suốt nửa giờ đồng hồ, không nói năng gì, Trác Mộc Cường Ba mỉm cười nhìn ông, gã biết gíáo sư đang nghĩ gì, trong đầu ông giờ đây chắc hẳn là một vùng trắng xoá, giống như gã lúc nhác trông thấy hai tấm ảnh này vậy. Bởi vì chỉ như trong ảnh mới có thể gọi là Tạng ngao chân chính, chỉ ở trên cao nguyên mới có được bầu trời xanh trong vắt như thế, mây trắng sà xuống cách mặt đất thấp như thế, chừng như vươn tay ra là có thể gỡ được một cụm, những khóm cây kia, nào tuyết tùng, ma hoàng, liễu lá cứng, đều là những loài thực vật đặc sắc của cao nguyên, ngoài ra còn dăm ba loài thực vật đặc sắc của cao nguyên, ngoài ra còn dăm ba loài gần như chỉ ở đất Tạng mới có. Riêng con ngao, Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân đều là những bậc lão làng trong giới, chẳng cần đến cái liếc mắt thứ hai đã có thể chắc chắn đây là con ngao tuyệt nhất mà họ từng thấy, hình thể hoàn mỹ nhất, khí chất hoàn mỹ nhất, càng hiếm có là, con ngao này còn sở hữu một cái gì đó không con Tạng ngao nào khác có được, tuyệt đối không thể dùng ngôn ngữ mà tả nổi là cái gì. Trác Mộc Cường Ba cố kiềm chế hơi thở, lấy tay gõ nhẹ lên đùi, mỗi lần nhìn hai tấm ảnh này, gã đều kích động đến muốn khóc, không kiểm soát nổi đôi tay, cho dù đã xem đi xem lại vô số lượt, thế mà các ngón tay lúc này cũng chỉ miễn cưỡng không run rẩy.
Phương Tân tháo cặp kính lão xuống, một lúc sau, lại đeo lên, sau đó lại tháo xuống, cứ lặp đi lặp lại như vậy đến mấy chục lần, rồi mới ấn mạnh tay chỉ vào tấm ảnh nói: “Không thể nào, đây là giả, ảnh do máy tính dựng thôi!”
Trác Mộc Cường Ba đứng bật dậy, chỉ tay vào giáo sư, sắc mặt bỗng trắng bệch, gã không thể ngờ giáo sư Phương Tân xem lâu như vậy, mà lại đưa ra kết luận như thế, nếu ông không phải là người gã tôn kính, chỉ e là gã đã lập tức ra tay đánh người rồi.
Giáo sư Phương Tân ra hiệu cho gã bình tĩnh lại, chỉ vào tấm ảnh nói: “Chúng ta xem tấm này trước, đây là ảnh chụp ban ngày, tuy bối cảnh rất mơ hồ, nhưng những loài thực vật trong ảnh vẫn có thể phân biệt rõ ràng được, anh xem, đây là vân sam Tứ Xuyên, nhìn đường kính thì chắc đã trưởng thành, chiều cao của chúng khoảng ba mươi đến bốn mươi mét, còn cả cây tuyết tùng bên cạnh con ngao này nữa cũng đã trưởng thành, chiều cao có lẽ khoảng mươi đến mười lăm mét, nếu vị trí của người chụp ảnh là cố định, chúng ta có thể lấy mắt đo để suy đoán ra khoảng cách giữa hai gốc cây này với con vật, trên cùng một đường thẳng, dựa vào tỷ lệ thu nhỏ, vậy là tính ra được chiều cao của nó. Tôi tính sơ sơ một chút, nếu nó quả có thật thì vai nó phải cao từ một mét hai đến một mét tư, vậy thì, lúc nó đứng dựng lên, chiều cao phải hơn hai mét rưỡi, đó không còn là chó nữa rồi, căn bản là một con nghé thì đúng hơn. Những con chó mà tôi từng tiếp xúc, con cao nhất vai cũng không quá một mét linh năm, mà theo tất cả các báo cáo hiện nay, con chó cao nhất đứng dựng lên cũng không quá hai mét mốt. Chiều cao của chó ngao thế nào thì anh cũng biết, vai cao khôn thể quá tám mươi xăng ti mét, chiều dài không quá một mét rưỡi, anh đã bao giờ thấy con chó to như thế này chưa?”
Trác Mộc Cường Ba kích động nói: “Nhưng, chó ngao đúng là chủng loại to nhất trong loài chó, chó bốn xích (1) là ngao, vốn chữ ‘ngao’ trong tiếng Hán là để chỉ giống chó to lớn giỏi đánh nhau, chó chăn cừu, chó săn của Đức, chó Đan Mạch, chó Saint Bernard của Thuỵ Sĩ, những giống chó được cả thế giới công nhận là hình thể lớn nhất, cũng đều mang huyết thống của ngao. Vì vậy, có một con ngao hình thể đặc biệt to lớn cũng không phải là điều gì kỳ quái.”
“Đặc biệt to lớn?” Giáo sư Phương Tân nhếch mép cười: “Không sai, nhưng anh phải biết rằng, môi trường sinh tồn của nó là ở đâu, là cao nguyên, cao nguyên cao nhất thế giới, cao nguyên Thanh Tạng.”
Trác Mộc Cường Ba đỏ mặt, lẩm bẩm nói: “Vậy… vậy thì sao chứ?” Gã biết rõ, kiến thức chuyên môn của mình vẫn không so được với thầy giáo.
Phương Tân nói: “Cao nguyên là môi trường sống rất đặc thù, không khí loãng, hàm lượng ô xy thấp, các giống loài đều đã thích nghi với môi trường không khí thiếu ô xy, địa thế cao dần thì hình thể hấp dẫn, động vật ở đây đa phần đều rất lùn nhỏ, da dày lông dài, bốn chân to mà ngắn, để tiết kiệm năng lượng cần cho máu vận chuyển ô xy trong cơ thể, bảo đảm cho đầu óc được tỉnh táo. Anh đã học qua rồi, các loài vật trên cao nguyên, hình thể đều thấp nhỏ hơn đồng loại ở những khu vực có độ cao so với mực nước biển thấp hơn, còn trong tấm ảnh này, có một cây dương xỉ lùn chỉ sinh trưởng ở vùng cao, cũng có nghĩa là, con chó ngao trong bức ảnh này, sinh sống ở một nơi còn cao hơn cả nơi sinh sống của những con chó ngao đồng loại, vậy thì nó không thể có hình thể cao lớn hơn đồng loại được.” Phương Tân nói xong, mở máy tính trên bàn, chậm rãi tiếp tục, “Chúng ta dùng máy tính phân tích, anh hãy xem độ nét của tấm ảnh,, chỉ số nhoè của cỏ chỉ 2,4, có thể cho là do tay người chụp không vững gây ra, nhưng anh xem chỉ số nhoè của con cái quái này xem, lại cao đến 6.7, máy chụp ảnh thông thường, từ lúc mở cửa trập đến khi ánh sáng ùa vào, thời gian từ 0,005 đến 0,01 giây, cũng tức là, trong một phần hai trăm giây, con quái này di động hai mươi xăng ti mét hoặc nhiều hơn, chúng ta tính tương đương ra, vận tốc của nó có thể đạt tới bốn mươi mét một giây, hay một trăm bốn mươi ki lô mét một giờ, nhưng, báo đốm là động vật chạy nhanh nhất trên lục địa, tốc độ cao nhất chẳng qua cũng chỉ một trăm hai mươi ki lô mét một giờ, anh cho rằng, con ngao này, chạy nhanh hơn cả báo đốm Ghê pa hay sao?”
Trác Mộc Cường Ba bắt đầu hơi nhụt chí, lầm bầm nói: “Nhưng, thầy giáo, chỉ số nhoè rất không ổn định, dựa vào mức độ thấp nhất là một phần trăm giây để tính, tốc độ của nó chỉ khoảng tám mươi ki lô meté một giờ, tốc độ bộc phát trong khoảng khắc của một con ngao, hoàn toàn có thể đạt được yêu cầu này.”
Phương Tân gật đầu: “Được rồi, vậy coi như tốc độ có thể đạt yêu cầu đi, chúng ta sẽ phân tích huyết thống của nó, chó ngao trên thế giới hiện nay hầu như đều bắt nguồn từ Thanh Tạng, tổng cộng có ba loại bảy loại chi sáu họ, màu lông có đen tuyền, trắng tuyền, nâu đỏ, màu xám, chân vàng lưng đen, có ngao vàng, cũng có cả ngao đỏ, ngao mắt trắng đầu sư tử, ngao song đồng báo hiếm gặp, nhưng anh nhìn con này mà xem, màu lông của nó, anh nhìn thật kỹ đi, đây không phải màu đen, cũng không phải màu nâu, nếu đúng là nó tồn tại, đây căn bản là một giống ngao chưa bao giờ xuất hiện. Lông của nó, màu tím, thứ màu tím đỏ cực sậm.” Phương Tân nói tới đây, vô thức đưa tay lên nâng kính, gương mặt trở nên nghiêm túc, sự tồn tại của một giống ngao như vậy chính là sự khiêu chiến với uy tín trong chuyên ngành của ông, thậm chí cơ hồ là một sự miệt thị.
Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm một mình, không ngừng muốn giải thích gì đó, nhưng gã lại thấy cực kỳ khó khăn, dù gì trong lĩnh vực học thuật này, gã chỉ là học trò của Phương Tân, tuy đã phát triển cơ sở nuôi chó ngao rất chỉnh tề lớp lang, nhưng nói về kiến thức học thuật, gã còn xa mới bì được với thầy của mình, làm sao có thể thuyết phục được giáo sư Phương Tân tin chứ, xét cho cùng ngay cả người đưa cho gã tấm ảnh này cũng không biết nó từ đâu mà có cơ mà.
Phương Tân lại đưa ra thêm bằng chứng: “Thứ màu sắc này, thứ tốc độ và hình thể này, rất giống hình tượng chó ngao lý tưởng mà người nào đó đã dùng máy tính dựng lên, máy tính  dùng độ phân giải màu 32 bit, nay vẫn chưa bằng được độ phân quang hoá học, vì vậy khi dựng màu đen dễ bị nhạt đi thành màu tím đỏ sậm, hai màu này khác nhau không nhiều, người dựng ảnh rõ ràng cũng không phải chuyên môn nghiên cứu chó ngao, anh ta biết được một số đặc tính của ngao, nhưng lại quá khoa trương và làm hoàn mỹ ở một số chỗ, thành ra lại lộ sơ hở.”
Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba mồ hôi đầm đìa, liền chuyển sang khuyên giải, “Được rồi, tôi biết anh vẫn luôn muốn tìm một con ngao tốt nhất thế giới, vì vậy mà anh quá mẫn cảm với những con ngao ưu tú, đến nỗi nhất thời không phân biệt được thật giả, chuyện này cũng không trách anh được. Thử nghĩ xem, bao nhiêu chuyên gia lão làng cả đời nghiên cứu cổ vật mà cũng có lúc nhìn lầm, huống hồ anh không chuyên nghiên cứu giống chó ngao này.”
“Không!” Trác Mộc Cường Ba kiên quyết ngẩng đầu lên, nói: “Thầy giáo, tôi tin đây là một con ngao thật, đúng là nó sống ở đất Tạng, giờ cũng đang ở đó, tôi… tôi đã quyết tâm rồi, tôi phải đi tìm nó, lần này đến gặp thầy, vốn muốn xin thầy một gợi ý, nếu thầy đã không tin sự tồn tại của nó là sự thật, thì tôi đành một mình đi tìm nó vậy.”
Phương Tân nhìn người học trò đắc ý nhất và người bạn hợp tác tốt nhất từ trước tới nay, không khỏi mềm lòng vuốt khẽ lên đầu gã, nhẹ giọng hỏi: “Cường Ba, con trai ta, là thứ gì khiến anh cố chấp và kiên định như thế? Anh hạ quyết tâm lớn như vậy, lẽ nào muốn tìm con vật sống trong máy tính này?”
Trác Mộc Cường Ba cầm mấy tấm ảnh trong tay Phương Tân, chỉ vào tấm thứ hai nói: “Thầy giáo, thầy xem, đây là mắt nó, tôi vừa nhìn đã thấy đôi mắt này, chính đôi mắt này cho tôi biết, nó đích thực tồn tại.”
Giáo sư Phương Tân lại quan sát tấm ảnh thứ hai lần nữa, bộ mặt hướng thẳng về máy ảnh của con ngao, những chỗ khác đều hơi mơ hồ, duy chỉ có đôi mắt là rất sáng trong. Ông nhìn vào đôi mắt ấy, cũng cảm thấy hơi kinh ngạc, con mắt sâu thẳm, lấp lánh trước màn đêm đang buông xuống, tựa như sao sáng trong đêm, toát lên một thứ ma lực làm người ta sợ hãi, vẻ mạnh mẽ và khí chất trong đôi mắt ấy hiển hiện sự ngông cuồng tự đại. Trác Mộc Cường Ba kiên quyết nói: “Một tấm ảnh dựng bằng máy tính, làm sao có được đôi mắt sinh động như thế, đây là đôi mắt sáng nhất, mạnh mẽ nhất mà tôi từng thấy. Thầy giáo, thầy có biết cảm giác khi tôi lần đầu tiên nhìn thấy nó không? Lúc ấy, tôi đã hoàn toàn ngây ra….”
(1) bốn xích: đơn vị đo lường cổ của Trung Quốc, tương đương khoảng 1/3 mét.
 
Người điên đầu tiên
 

Trác Mộc Cường Ba nhìn chăm chăm vào bức ảnh trong tay, tựa như bị người ta đập một gậy giữa đầu, trong lòng ngoài chấn động ra, chỉ còn chấn động, hình ảnh chân thực trong tấm ảnh, chớp mắt đã nắm giữ linh hồn gã. Gã giống một nhà nghiên cứu đã dành cả đời ra nghiên cứu hoá thạch khủng long, bỗng nhiên, lại thấy một con khủng long sống sờ sờ ở khoảng cách gần, còn là loài khủng long hiếm thấy nhất nữa, đứng sừng sững ngay trước mặt, chỉ vươn tay là có thể chạm tới, tâm trạng kích động của gã có thể tưởng tượng ra được. Một tiếng nói phát ra tự đáy lòng, phảng phất như lời kêu gọi từ thời viễn cổ, nhưng lại hết sức chân thực mà thân thiết: “Đi đi, đi tìm nó, vì linh hồn và tín ngưỡng của ngươi, vì giá trị tồn tại của ngươi. Cuộc đời này của ngươi lẽ nào không phải vì được nhìn thấy nó mà tồn tại hay sao?” Bỗng nhiên gã lại bắt đầu chế giễu chính mình, “Vẫn còn ở đây ‘oắc oắc’ giảng bài cho người ta sao, chủ nhân của tấm ảnh kia đang cười nhạo ngươi, ngươi căn bản chưa hề thấy qua chó ngao chân chính, ngươi căn bản không biết ngao là thế nào!”
Gã ngây ngẩn ra một lúc lâu, rồi đột nhiên sực tỉnh, như lên cơn điên truy hỏi cậu bé đưa thư về lai lịch của tấm ảnh, nhưng cậu bé chẳng biết chút nào. Trác Mộc Cường Ba không còn để ý gì nữa, nhảy xuống bục diễn giảng, gã biết, chủ nhân bí mật kia vừa rồi vẫn còn đứng ở cửa, nếu để lỡ cơ hội này, cả đời gã cũng không biết được con ngao này ở nơi nào, bức ảnh này từ đâu mà ra.

Nhưng lúc đó quá ồn ào hỗn loạn, Trác Mộc Cường Ba khó khăn lắm mới chen ra được khỏi hội trường, đừng nói là chủ nhân tấm ảnh, đến cả thằng bế choai choai đưa thư kia cũng đã không thấy đâu. Trác Mộc Cường Ba như phát điên, hỏi người qua đường, hỏi tài xế lái xe, hỏi từng người mà gã gặp phải, có thấy một người cao chừng mét bảy, mặc áo gió, đeo kính đen, đội mũ lưỡi trai hay không. Nhưng không ai nhìn thấy người nào ăn mặc đặc biệt nổi bật như thế cả.
Gã như mất đi ba hồn bảy vía, thân thể cao lớn lập tức không còn sinh khí, trở nên ủ rũ, chẳng còn tâm trí nào tham gia thi đấu chó ngao nữa, tuy là người kêu gọi đồng thời cũng chủ trì giải đấu, nhưng sau đó gã không hề đáo qua nơi thi đấu lấy một lần. Trác Mộc Cường Ba hệt con bệnh thần kinh, cơm không ăn nổi, ngủ cũng không yên, cả ngày cứ ngây ngẩn ngẩn nhìn hai tấm ảnh trên tay, xem đi xem lại, tấm ảnh đó tuy mờ mờ không rõ, nhưng Trác Mộc Cường Ba gần như có thể đếm được số lông trên mình con ngao đó, gã biết ở chân sau, chố phía trên ngón chân thứ ba của con ngao  tầm hai xăng ti mét, đếm từ trước ra sau, sợi lông thứ ba mươi sáu bị chẻ nhánh; gã còn biết, ngón đầu tiên ở chân trước bên trái của con ngao, móng chân có một vết ngần. Tất cả những chi tiết trong ảnh gã đều biết hết, điều duy nhất mà gã không biết chính là, hai tấm ảnh này do ai chụp, và chụp ở nơi nào.
Nếu không có cú điện thoại đó, Trác Mộc Cường Ba có lẽ cả đời này cứ vẫn tiếp tục chìm đắm, bởi vì hai tấm ảnh đã đoạt mất của gã khả năng suy tư. Điện thoại treo một lúc lâu, Trác Mộc Cường Ba vẫn không đứng dậy, bởi vì sẽ có người nghe điện thoại, bên cạnh gã có thư ký, có giám đốc nghiệp vụ, có vệ sĩ, điện thoại công việc xưa nay gã chưa bao giờ tự nghe cả, còn những người biết được số điện thoại cá nhân của gã, chỉ giới hạn trong mấy bạn bè thân thiết nhất mà thôi.
Cô Hoắc nhẹ đẩy cửa, thấp giọng nói: “Tổng giám đốc Trác, là điện thoại tìm ông.”

Trác Mộc Cường Ba mặt ủ mày chau, nhạt giọng nói: “Nói tôi không ở đây, mấy ngày này, điện thoại gì cũng không bảo tôi không ở đây hết.”
Cô Hoắc cúi đầu khó xử: “Nhưng, người gọi điện nói, chỉ cần nói với ông về tấm ảnh, nhất định ông sẽ nhận điện thoại.” Đến khi  ngẩng đầu lên, cô kinh ngạc nhận ra, Trác tổng đã không còn ở phòng nghỉ nữa.
Trác Mộc Cường Ba nắm chặt ống nghe, gượng gạo nói bằng tiếng Anh: “Anh bạn, có phải anh là người đưa cho tôi hai tấm ảnh đó? Xin anh đừng gác máy, bất luận anh có yêu cầu gì, đều có thể thương lượng được.”
Bên kia đầu dây im lặng giây lát, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy tim đập dồn cơ hồ nghẹt thở, tựa như trong khoảnh khắc chờ bị tuyên án tử hình vậy, cuối cùng, người bên kia đầu dây nói: “Tấm ảnh đó, là… là chó đúng không?” Một giọng thanh niên, lại là tiếng phổ thông chính cống.
Trác Mộc Cường Ba lập tức nói: “Phải, phải, là giống chó tốt nhất. Anh đang ở đâu, chúng ta gặp mặt nói chuyện nhé?”

Người bên kia ngần ngừ nói: “Thực ra, tôi gửi anh hai tấm ảnh đó, chỉ là muốn xác nhận một chút, tôi nghĩ không cần gặp mặt nói chuyện đâu?”
Trác Mộc Cường Ba như người chết đuối khó khăn lắm mới vớ được khúc cây cứu mạng, nào chịu buông tay, lập tức nói: “Cần chứ, cần chứ, anh muốn xác nhận gì? Tôi có thể thoả mãn bất cứ yêu cầu nào của anh, tôi cần phải gặp anh nói chuyện, nếu anh rảnh, giờ tôi sẽ lái xe đến luôn.”
Người kia lẩm bẩm: “Không cần làm lớn vậy chứ, hì!” Hình như có chút bất ngờ, người ấy phát ra một tiếng cười lạ lùng.
Năm phút sau, Trác Mộc Cường Ba đến bệnh viện Andrea, trước cửa bệnh viện, gã nhìn thấy người gửi cho mình hai tấm ảnh, một anh chàng Trung Quốc, chừng mười bảy mười tám tuổi, dáng dong dỏng, có vẻ kiêu kỳ, anh ta tự giới thiệu tên là Đường Minh.
Vừa xuống xe Trác Mộc Cường Ba đã hỏi: “Cậu muốn xác nhận điều gì? Lẽ nào cậu cũng không biết tấm ảnh đó từ đâu mà có?”

Đường Minh nhếch nhếch mép, nói: “Đương nhiên tôi biết tấm ảnh này từ đâu ra, tôi chỉ muốn xác nhận lại một chút, đây có đúng là con ngao không, ngao chính cống ấy.”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Đương nhiên là đúng, trên thế giới này, không có Tạng ngao nào cao quý hơn nó nữa, nó mới thực sự là ngao của loài ngao.”

Đường Minh ngại ngùng gãi đầu, nghi hoặc nói: “Ý của tôi không phải vậy, ý của tôi là, nó có tồn tại thật không? Hay chỉ là một kiểu ảo giác?”
“Ảo giác?” Trác Mộc Cường Ba nói, “Làm sao mà là ảo giác được? Lẽ nào cậu chưa hỏi người chụp ảnh sao? Tấm ảnh này rốt cuộc từ đâu mà có?”
Đường Minh lẩm bẩm nói: “Nhưng, tôi hỏi rất nhiều người rồi, bọn họ cũng là chuyên gia nuôi chó, bọn họ đều nói đây là giả, còn có người nói đó là ảnh dựng bằng máy tính nữa.”
Trác Mộc Cường Ba nắm chặt vai Đường Minh, nôn nóng hỏi: “Người chụp ảnh đâu? Tìm người đó ra đây, chúng ta cùng hỏi anh ta, không phải vậy là rõ hết cả sao?”
Đường Minh bị gã nắm đau quá, vội lùi lại một bước, không ngờ sức lực của vị giáo sư dáng vẻ phong nhã này lại mạnh đến kinh người, anh ta xoa xoa vai nói: “Người chụp ảnh là anh trai tôi, giờ không thể hỏi anh ấy được gì nữa rồi.”
Trác Mộc Cường Ba kích động, lại chụp lấy Đường Minh, nhưng bị anh ta tránh ra trước một bước, gã vội nói: “Anh trai cậu ở đâu? Mau dẫn tôi đi gặp anh ta!”
Đường Minh nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt kỳ quái, xem ra chưa gặp người nào điên cuồng như vậy, nghĩ ngợi giây lát, rồi nghiêng đầu nói: “Đi theo tôi!” Không ngờ lại quay đầu đi vào bệnh viện Andrea.
 

Bệnh viện Andrea, bệnh viện tâm thần nổi tiếng nhất nước Mỹ.

Trong phòng bệnh, Trác Mộc Cường Ba gặp anh trai Đường Minh, cũng nhìn thấy thêm nhiều bức hình nữa.
Anh trai Đường Minh nằm trên giường, vẻ mặt từa tựa Trác Mộc Cường Ba lúc nhác thấy tấm ảnh, cứ ngây ngây dại dại nhìn lên bức tường dán chi chít ảnh. Đột nhiên thấy người lạ đi vào, anh ta lập tức run lên như cầy sấy, Đường Minh không thể không bước tới khe khẽ vỗ về, dịu dàng nói mấy câu an ủi để anh trai bình tâm lại. Đường Minh giới thiệu, anh trai anh ta tên Đường Thọ, lớn hơn năm tuổi.
Đường Thọ cao ngang Đường Minh, nhưng thân hình vạm vỡ hơn hẳn, da đen như sắt, thoạt nhìn vô cùng khỏe khoắn, tóc húi cua một phân, sợi nào sợi nấy dựng đứng như kim sắt. Gương mặt Đường Thọ rất tuấn tú, Trác Mộc Cường Ba cảm giác như đã gặp ở đâu rồi, nhưng gã không chú ý nhiều đến anh ta, mà bị thu hút bởi những tấm ảnh trên tường, toàn là phong cảnh danh lam nổi tiếng thế giới, có những tấm tinh tế đến mức Trác Mộc Cường Ba phải thầm khen ngợi. Gã biết những tấm ảnh này ắt phải do một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp chụp, bất luận gửi đến tạp chí ảnh nào, cũng sẽ được đăng lên trang bìa, hơn nữa giá cả cũng không phải tầm thường. Gã hỏi: “Đều của anh trai cậu chụp à?”
Đương Minh kiêu ngạo đáp: “Đương nhiên.”
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn quanh bốn bức tường, độ sắc nét, vị trí chụp, bối cảnh trong các tấm ảnh này đều tối ưu, nhưng Đường Thọ hình như không buồn nhìn lấy một lần, chỉ chòng chọc dán mắt vào bức tường đối diện.

Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba quay về bức tường đối diện Đường Thọ, điều bất ngờ là những tấm ảnh dán trên đó hoàn toàn khác hẳn, vỏn vẹn hơn chục tấm, vô cùng mơ hồ, toàn là chụp con chó ngao thần bí kia. Trác Mộc Cường Ba phát hiện ra hai tấm ảnh gã cầm là rõ nhất, số còn lại, tấm mờ nhất nom chỉ như vệt mây đen nổi lên giữa một nền mây xanh mà thôi. Đến lúc này gã mới lên tiếng hỏi: “Anh trai cậu… sao vậy?”
Đường Minh thở dài nói: “Không biết, lần này trở về anh ấy thành ra như thế, bác sĩ nói là do bị kinh hãi quá độ, chúng tôi từ trong nước sang đây, định xem bác sĩ ở Mỹ có giỏi hơn không, thời gian này anh tôi đang chữa bằng liệu pháp thôi miên. Mấy hôm trước tôi xem tin tức, nói giáo sư Trác đang ở đây tổ chức thi đấu chó ngao, vì vậy mới thử mang ảnh cho ông xem.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Cậu ấy giờ có vẻ rất yên bình.”

Đường Minh nói: “Là hội chứng sợ tối.” Nói đoạn, anh ta chỉ lên ngọn đèn trên đầu, Trác Mộc Cường Ba giờ mới nhận ra ban ngày ban mặt mà đèn trong phòng đều bật sáng, lòng không khỏi thầm đặt câu hỏi, rốt cuộc nhiếp ảnh gia này đã nhìn thấy gì hôm ấy?
Đường Minh lại nói: “Tôi cũng tin đây là thật, anh trai tôi xưa nay chưa bao giờ chụp ảnh giả, có điều không biết lần này anh ấy chụp ở đâu, cả thảy mười mấy tấm không có tấm nào rõ ràng cả.”
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hỏi: “Anh trai cậu bị chấn động tâm thần như thế, làm sao mà trở về được?”
Đường Minh đáp: “Tháng Sáu năm ngoái, đội tuần tra núi Khả Khả Tây Lý phát hiện ra anh ấy, nghe nói lúc đó, anh ấy đang chạy thục mạng, thần trí đã thất thường rồi, nếu không phải bị người trong đội bảo vệ ấn xuống đất, chắc anh ấy còn chạy tiếp nữa, đến khi hết hơi mà chết mất.
Nghe những người đó nói, anh trai tôi vừa ngã xuống liền hư thoát mà ngất xỉu, lúc tỉnh lại thì thần trí mơ hồ, cứ nói đi nói lại hai câu “Tên điên ở Mông Hà nói thật, cửa địa ngục. Đến rồi, bọn chúng đến rồi! Chạy mau!” chính là hai câu này, không biết là ý gì, về sau đội bảo vệ phát hiện ra chiếc xe jeep việt dã của anh tôi bị bỏ lại cách nơi tìm thấy anh ấy ba trăm ki lô mét, xăng trong xe cạn sạch.”
Trác Mộc Cường Ba lại ngẩn ra, nếu Đường Thọ bỏ xe lúc hết xăng mà chạy, tức là đã chạy bộ ba trăm cây số, vậy mà vẫn không chịu dừng lại, rốt cuộc anh ta đã nhìn thấy thứ gì mà biến thành như vậy? Nhưng trong lòng gã lại chủ yếu là mừng rỡ kích động, bởi vì hai câu nói người khác nghe không hiểu kia, gã lại hiểu được. Đột nhiên, gã nhớ đến một cái tên, vội vàng hỏi: “Độc hành hiệp? Anh trai cậu chính là Độc hành hiệp Đường Thọ?”
Đường Minh vẻ như muốn nói: “Cuối cùng thì ông cũng nhớ ra,” gật đầu công nhận. Đúng là Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng nhớ ra, chẳng trách người này nom quen như vậy, thì ra là Độc hành hiệp Đường Thọ, một trong số ít người nổi tiếng hàng đầu trong nước. Cha anh ta là Đường Minh Huy, một trong ba ông trùm ngành sữa Trung Quốc, nhưng đã qua đời từ năm bốn mươi tuổi, để lại cho hai người con gia sản trên trăm triệu, con trai lớn Đường Thọ, không biết từ lúc nào đã thích du lịch mạo hiểm, khởi đầu là một mình vượt qua Đường Cổ Lạp Sơn, rồi một mình xuyên sa mạc Taklimakan, một mình lên đỉnh Chomolungma, một mình đi thuyền dọc Hoàng Hà, dọc Trường Giang, dọc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, một mình bơi qua eo biển Bột  Hải. Sau đó, anh ta bắt đầu phóng tầm mắt ra thế giới, những ngọn núi hiểm trở nhất, những dòng thác chảy siết nhất, những thung lũng đáng sợ nhất thế giới, anh ta đều đặt chân tới, phàm là nơi không người nào tới, anh ta đều muốn đi xem thử, mà còn đi một mình. Lần nào khi ai nấy đều cho rằng Đường Thọ đã cầm chắc cái chết, tuyệt đối không có hy vọng quay về, anh ta lại sừng sững trở lại với thế giới văn minh này.
Từng có người đặt câu hỏi, tại sao phải vậy? Anh ta nói, làm như vậy, chẳng vì cái gì khác, ngoài để chứng minh sự tồn tại của bản thân. Sở thích nhiếp ảnh của anh ta cũng nảy sinh từ những chuyến đi đơn độc đó, nhưng ảnh của anh ta đều không bán, rất nhiều tạp chí đã trả giá cao để xin đăng dù chỉ một tấm ảnh phong cảnh mà không được.
Trác Mộc Cường Ba mắt đỏ lừ, cuối cùng biện luận: “Thầy giáo, thầy nghĩ xem,ảnh từ tay một người như vậy, làm sao có thể là giả được?”
Phương Tân nói: “Xem ra quyết tâm của anh rất lớn đấy con trai. Anh đi đi, chúc anh thành công.” Nhưng nét mặt của ông rõ ràng đang nói, đây gần như là chuyện hoang đường.
Trác Mộc Cường Ba rất chán nản, gã không thể thuyết phục được thầy giáo của mình, không khác gì đã mất đi một trợ thủ quan trọng. Gã hậm hực thu hai tấm ảnh lại, nặng nề đi ra cửa đúng lúc dợm bước ra ngoài, chợt xoay ngoắt người lại, hỏi: “Thầy giáo, thầy còn nhớ, lần đầu tiên thầy giảng bài cho tôi không?”
 
 Bài giảng của Phương Tân
 

Giáo sư Phương Tân vuốt vuốt mái tóc bạc, mường tượng chuyện xưa, bừng tỉnh ngộ, phải rồi, tình hình hôm ấy, ông đã nhớ lại.
Trong hội trường sức chứa ba nghìn người, ngày đầu tiên lên lớp, chỉ có chưa đến năm mươi người, ngồi lác đác trong giảng đường, cả hội trường rộng lớn lộ rõ vẻ trống trái mà quá lặng lẽ.
Phương Tân không hề chú ý, sinh viên chọn học chuyên ngành này vốn rất ít, bọn họ căn bản không biết được giá trị và ý nghĩa của môn khoa học này, ông sửa sang lại tài liệu, mở đầu bằng giọng điệu hài hước đặc biệt của mình: “Hôm nay, những bạn cần đến đều đã đến rồi,” ông chỉ vào cậu học viên đang ngủ phía đối diện nói: “Những bạn không cần đến cũng đến rồi, đúng là đã vượt quá mức mong đợi của tôi. Tôi biết, tôi không được tuấn tú hào hoa lắm, nghe nói hôm qua Mis Lãng dạy sinh vật, quý cô có vòng ba hơi khoa trương lên lớp, các bạn đã ngồi chật hết cả hội trường này.”
Không khí trong hội trường nhẹ đi phần nào, Phương Tân chuyển đề tài mới, nói: “Tôi biết, rất nhiều người cho rằng vấn đề tôi nghiên cứu quá đơn điệu, cũng quá đơn giản, nghiên cứu cái gì, chó ấy mà, chó có gì hay ho mà nghiên cứu? Khắp phố đều thấy, có lớn, có nhỏ, có sủa ‘oắc oắc’, có cắn người. Có bạn nào cảm thấy mình chẳng hiểu biết gì về chó, vẫn cần học thêm không?”
Bên dưới rì rầm nói chuyện, nhưng không người nào tự nhận mình không hiểu biết gì về loài chó, Phương Tân mỉm cười, nói: “Vậy thì tốt, tôi sẽ kiểm tra, trước tiên là một câu đơn giản đã, ở đây có một số hình ảnh, xin mời cho tôi biết, tên tục của những con chó này.”
Một loạt mười mấy tấm ảnh được chiếu lên, không ngờ không ai nói được tên của những con chó đó, tất cả nhìn chó thì là chó, ai biết được chó gì là chó gì. Phương Tân nghĩ ngợi giây lát, rồi nói: “Vấn đề này có lẽ hơi chuyên ngành quá, chúng ta hỏi một câu đơn giản hơn vậy, theo các bạn, trên thế giới này giống chó nào là hung ác nhất?”
Không khí trong giảng đường lập tức ồn ào hẳn lên, người nói là chó béc giê, người nói là chó săn, chó đầu bò, chó Siberia, chó Eskimo, thứ gì cũng có. Phương Tân chú ý thấy, khi mọi người đang ồn ào bàn luận, ở giữa giảng đường có một người cao lớn, không nói tiếng nào, trên mặt nở một nụ cười khinh miệt, đó là lần đầu tiên Phương Tân chú ý đến Trác Mộc Cường Ba.
Giáo sư Phương Tân đợi mọi người nói ngớt, mới đưa tấm ảnh Tạng ngao lên, một con thiết bao kim đầu sư tử thuần chủng, bên dưới lập tức có người reo lên: “Đây là sư tử!” Lúc đó, chó ngao còn chưa mấy được biết đến, người biết Tạng ngao lại càng ít đến tội nghiệp. Ông nói: “Đây, mới là giống chó hung mãnh nhất được thế giới công nhận, nó được gọi là ngao.” Ông quay người lại viết lên bảng đen một chữ ngao to tướng, kế đó nói: “Giống chó này sống ở vùng Thanh Tạng nước ta. Ở khúc quanh đầu tiên của Hoàng Hà có một địa danh là Hà Khúc, ngao ở Hà Khúc có hình thể ưu trội nhất, con ngao này, chính là một con ngao Hà Khúc hình thể tiêu chuẩn. Còn loại ngao hung mãnh nhất, trung thành bảo vệ chủ nhân nhất, sản sinh ở vùng phụ cận huyện Đạt Mã ở Tây Tạng, một điểm cao của cao nguyên, hoàn cảnh địa lý vô cùng khắc nghiệt. Có nhiều cách nói về ngao, có rất nhiều loại, theo giải thích trong Khang Hy đại từ điển, ngao: chó bốn thước là ngao, tính hung, hộ chủ, có thể đấu mãnh thú. Thông thường, loài chó hình thể cao lớn, hung hãn hiếu chiến, lại còn trung thành với chủ nhân, thì gọi là ngao. Đất Tạng người thưa mà mãnh thú nhiều, dân Tạng nuôi ngao để bảo vệ bầy dê, chống sói cao nguyên hung ác và giảo hoạt, vùng đó có câu, một ngao đấu ba sói, một con ngao tốt có thể một mình chống lại ba con sói ác.”
Giáo sư Phương Tân mở máy, bắt đầu thao thao bất tuyệt kể những chuyện liên quan đến chó ngao, đám sinh viên say sưa lắng nghe, không ngờ trên đời có lắm loài chó kỳ dị đến vậy, và nhiều huyền thoại về ngao đến vậy. Giữa lúc giáo sư đang hưng phấn, thì người cao lớn ngồi giữa lên tiếng: “Giáo sư là chuyên gia nghiên cứu chó, vậy tôi muốn hỏi, trong giống ngao, lợi hại nhất là loài nào giáo sư biết không?”
Đám sinh viên sững lại, không ngờ chó ngao mà cũng phân đẳng cấp cao thấp, lợi hại hay không lợi hại. Phương Tân nhìn cậu sinh viên với ánh mắt khác, thật bất ngờ còn có sinh viên muốn kiểm tra thầy giáo nữa, đương nhiên ông không thể tỏ ra kém thế, lập tức trả lời: “Anh bạn hỏi rất hay, ngao cũng có phân giống loài, cũng có khác biệt về huyết thống, dựa trên những nghiên cứu đang có, ngao phân bố từ đất Tạng đến Đông Âu, Bắc Âu, theo thống kê sơ bộ hiện nay, có ba chủng năm loài mười một hệ lớn, trong đó, chó ngao có hình thể tương đối hoàn mỹ tôi vừa nói khi nãy rồi, là ngao Hà Khúc, còn loài ngao hiếu chiến nhất, mạnh mẽ nhất, có lẽ là ngao Đằng Hạng, nhưng nói chung huyết thống rất gần nhau, nên tốc độ, sức mạnh, bản năng chiến đấu, không khác nhau mấy. Nhưng ở đất Tạng, chỉ có ở đất Tạng, mới có chó ngao lợi hại hơn những nơi khác, đó không phải do trời sinh, mà do con người huấn luyện. Dân Tạng nói chín chó một ngao, chính là ý này đây.”
Nghe tới đây, đám sinh viên càng thêm hào hứng, nóng lòng muốn biết “chín chó một ngao” rốt cuộc là thế nào. Giáo sư Phương Tân nói: “Đó là một kiểu tuyển lựa cạnh tranh tàn khốc, để có được con ngao xuất sắc nhất, họ thường thả mười con ngao con sinh cùng năm xuống cái hố sâu, không có thức ăn, hoặc có rất ít, chỉ đủ cho một con ăn thôi, mười con ngao này buộc phải trải qua một cuộc cạnh tranh tàn khốc, cuối cùng chỉ sống sót được một con, hoặc là nhờ giành được chút ít thức ăn đó, hoặc là nhờ ăn thịt đồng loại. Chúng ta đều biết, chó được thuần dưỡng từ sói, trong cơ thể còn lưu giữ không ít đặc tính của loài sói, mà trong họ nhà sói, có một quy tắc thế này, trong cùng một bầy, con sói sống là đồng loại, một khi chết đi, liền trở thành thức ăn, đặc biệt là ở những vùng giá lạnh, điều này lại càng thể hiện rõ, đàn sói Siberia sở dĩ hung hãn, mạnh mẽ, không gì không dám làm, chính vì bọn chúng có quan niệm sinh tồn đáng sợ như thế nên mới có thể sinh tồn tiến hoá trong môi trường tự nhiên tàn khốc.”
Con ngao duy nhất còn sót lại đó, chính là ngao của loài ngao mà người ta vẫn nói, vì nó có ý chí sinh tồn kiên cường nhất, sức sống ngoan cường nhất.
Giáo sư Phương Tân tự nhận thấy mình nói đã có sức thuyết phục, thái độ say sưa lắng nghe đến ngơ ngẩn của đám sinh viên là minh chứng, nhưng ngẩng đầu lên nhìn, người cao lớn ngồi chính giữa vẫn nở một nụ cười khinh khỉnh, kiểu cười ấy, làm Phương Tân cảm thấy rất mất tự nhiên. Ông nghĩ ngợi giây lát, ồ, đúng rồi, còn một cách giải thích khác, là cách giải thích bí truyền của một vùng nào đó trên đất Tạng, cách nói này, thậm chí rất nhiều người bản địa Tây Tạng cũng chưa từng nghe đến, ông lại nói tiếp: “Về ‘chín chó một ngao’, còn một cách giải thích khác đó là thần ngao thiên bẩm, cách giải thích này, lại càng thần bí, càng tàn khốc, càng xa xôi, cũng… càng cổ xưa. Tạng ngao cũng là chó, bọn chúng cũng giống như đa số các động vật có vú khác, mỗi lần mang thai có thể đẻ bốn đến sáu con, hiếm lắm mới được bảy, còn như một lứa tám con, thì phải nói là lông phượng vẩy lân rồi. Nhưng nếu ngao mẹ một lần sinh chín con, thì ắt trong đó sẽ có một con ngao thần. Ngao mẹ nhiều nhất chỉ có tám đầu vú, có nghĩa là nhất định có một con không được bú sữa mẹ, rốt cuộc, giống như hoàn cảnh chín chó một ngao do con người tạo ra, lần này là thiên định, sẽ có một ngao ăn thịt cả tám anh em nó, rồi sau cũng ăn thịt cả con mẹ mà thành ngao của loài ngao. Truyền thuyết nói thứ ngao này khí chất cực kỳ mạnh mẽ, khi thành niên có thể săn cả gấu xám. Nó thế chỗ sói cao nguyên và hổ địa cực trên khắp vùng cao nguyên rộng lớn, trở thành mắt xích cuối cùng của chuỗi thức ăn. Nhưng truyền thuyết này, phạm vi lưu truyền không rộng, hơn nữa về cơ bản không có ai chứng thực, nên từ trước tới nay người ta chỉ xem như truyền thuyết. Nếu so sánh, thì cá nhân tôi tin vào cách giải thích chọn ngao từ chín chó trong hoàn cảnh nhân tạo hơn.”

Kể xong truyền thuyết này, giáo sư Phương Tân tưởng như đã được nhìn thấy nét mặt tán thưởng của sinh viên kia trước những hiểu biết của mình, nhưng tiếp theo, anh ta lại hỏi: “Vậy thưa giáo sư, lợi hại hơn cả chín chó một ngao là gì?”
“Ồ…” Giảng đường lập tức xôn xao, có người nói sinh viên này cứ rúc đầu vào ngõ cụt, truy hỏi đến tận cùng sao được, cũng có người nói gã này đầu óc đần ngốc không mở mang nổi, chỉ được cái to khoẻ, nhưng hầu hết lấy làm kinh ngạc vì chỉ độc chuyện chó ngao mà có lắm truyền thuyết và bí mật đến vậy. Ai nấy đều ngong ngóng xem giáo sư Phương Tân đối đáp thế nào.
Giáo sư Phương Tân lau mồ hôi trán, không ngờ sinh viên này lại hiểu biết về Tạng ngao sâu đến thế. Ông nhận ra anh chàng cao lớn ngồi ở giữa có khuôn mặt hồng đặc trưng của vùng cao nguyên, làn da thô ráp, đưòng nét góc cạnh, hoàn toàn đều lộ rõ gốc gác là người đất Tạng cho dù không phải dân tộc Tạng thì cũng là một chàng trai cao nguyên chính cống sống trên cao nguyên đã lâu. Trước mặt dân Tạng kể chuyện Tạng ngao, gần như là múa búa trước cửa nhà Lỗ Ban, nhưng Phương Tân, dù sao cũng là giáo sư, không thể nào để mất mặt với học trò được, hơn nữa đây lại còn là sinh viên mới lần đầu tiên vào lớp ông.
Giáo sư Phương Tân chỉnh lại cặp kính, mỗi lần chuẩn bị nghiêm túc sắp xếp một việc gì đó hay chìm vào suy tư, ông đều thích chỉnh lại kính mắt. Trong khoảnh khắc, đám sinh viên nín thở im phăng phắc, hồ như đang chuẩn bị xem hai đối thủ quyết đấu, không dám lên tiếng hay hỏi han gì sợ gây xáo trộn. Giáo sư Phương Tân mặt không đổi sắc, trước tiên ngước mắt nhìn lên trần nhà, rồi sau đó nhìn thẳng vào sinh viên to con kia, vẻ như không muốn tiết lộ, mãi sau cùng mới chầm chậm nói: “Không sai, lợi hại hơn cả chín chó một ngao, có địa vị cao quý nhất ở đất Tạng, gọi là… chiến ngao!”
Phương Tân vừa dứt lời, lập tức có sinh viên không nén được kêu lên khe khẽ. Ông lại tiếp tục: “Gọi là chiến ngao, nghe tên là biết nghĩa, là chó ngao dùng để chiến đấu. Địa vị của chiến ngao ở đất Tạng, tương tự như toạ kỵ của Bồ Tát trong thần thoại cổ Trung Quốc, thân phận tương đương với thánh tượng ở Thái Lan, con vật này, chỉ người địa vị tối cao ở đất Tạng mới được nuôi dưỡng, dân thường không thể có, cũng không dám có. Chiến ngao, thực tế chính là chín chó một ngao, tinh phẩm trải qua sự tuyển lựa khắt khe của ông trời hoặc con người, thêm vào kinh nghiệm của các cao thủ nuôi chó ngao nhiều đời, được huấn luyện thành thứ chó ngao có trí tuệ nhất, trung thành nhất, có khả năng tấn công và sức chiến đấu nhất. Tôi lấy ví dụ, chó béc giê, các bạn ít nhiều đều đã thấy qua, chó nghiệp vụ, mọi người cũng đều biết, hầu hết chó nghiệp vụ đều là chó béc giê, nhưng một con béc giê bình thường nhà nuôi mà đánh nhau với một con chó nghiệp vụ, cho dù hình thể, chiều cao không hơn kém nhiều, nhưng xác suất chó nghiệp vụ chiến thắng lại cao hơn rất nhiều. Bởi vì bọn chúng đã trải qua huấn luyện nghiêm khắc, biết cách tấn công thế nào mới là hiệu quả nhất. Kỳ thực, nói trắng ra, cũng giống như con người chúng ta thôi, đều là con người, nhưng lại có vận động viên là người bình thường, chẳng hạn bảo anh đi thi cử tạ với quán quân cử tạ, ba người như anh cũng không thể nâng được trọng lượng mà quán quân cử tạ nâng được. Nghe nói, sau khi trải qua tuyển lựa chín chó một ngao, dã tính của con vật cực kỳ ngoan cố, là một trong ba loài động vật khó thuần phục nhất trên thế giới, vì nó cuồng ngạo, muốn khiến nó khuất phục, tuyệt đối là một chuyện không dễ. Nhưng, một khi huấn luyện chiến ngao thành công, sự thần phục của nó với chủ nhân so với chó ngao thông thường còn kiên trung gấp bội, thậm chí còn cảm động hơn cả chuyện tình của chúng ta nữa. Khi tôi khảo sát ở đất Tạng, từng có một chuyện thế này, thợ săn A Vượng Phổ Tài, từng là người chuyên huấn luyện chiến ngao cho thổ ty, sau giải phóng trở thành đội trưởng đội săn bắn Tây Tạng, ông ta có một con chiến ngao, gọi là Đa Cát. Năm tôi vào Tây Tạng khảo sát, lão A Vượng theo đội đi săn, dọc đường không ngờ đã bất hạnh gặp nạn, khi mọi người trong đội đưa thi thể lão về nhà, con Đa Cát vốn đang bị sợi xích sắt to bằng ngón tay khoá vào trụ đá, đột nhiên như lên cơn điên giật tung xích sắt, lúc ấy có sáu bảy thợ săn ưu tú, đều hoàn toàn bị khí thế ấy của nó làm cho sững sờ, ba người bị hất ngã ngay tại chỗ, những người khác không ai dám tiến lên. Nó hít hà mũi lão A Vượng, liếm trán lão, dường như nó cũng cảm nhận được từ thi thể băng lạnh ấy cái gì gọi là chết chóc. Đa Cát cứ như vậy, không cho bất kỳ ai lại gần A Vượng, nó đứng đó, như một bức tượng đá, nếu có ai định lại gần, nó sẽ lập tức xù lông bờm quanh cổ lên cảnh cáo. A Vượng được Đa Cát kéo tới cửa, rồi  nó bắt đầu từ chối ăn bất cứ thứ gì, miệng cứ không ngừng phát ra tiếng rên ư ử đau thương, nó không biết cái chết là gì, nhưng nó vẫn không ngừng cố gắng, thử tìm cách đánh thức lão A Vượng dậy. Năm ngày năm đêm, thì người thợ săn dũng cảm nhất lại gần Đa Cát lần nữa, thì phát hiện ra nó đã chết từ lúc nào, vẫn ngồi chồm hỗm bên cạnh lão A Vượng, đầu  ngẩng cao nhìn trời. Tư thế đó của nó, nhiều năm nay, tôi vẫn không thể nào quên.” Nói tới đây, giáo sư Phương Tân có chút nghẹn ngào, bên dưới cũng có không ít sinh viên ngân ngấn nước mắt.
Lúc này, chuông đã vang lên, giáo sư Phương Tân vung tay, thở ra một tiếng nặng nề, nói: “Vốn còn rất nhiều truyền thuyết về Tạng ngao, nhưng hôm nay thời gian đã hết, đành để lại cho mọi người một kết cục bi thương vậy, được rồi, nếu các bạn còn hứng thú, ngày mai lại đến đi.” Mọi người đều oán trách thời gian sao trôi đi quá nhanh, nhưng cũng đành ra về, tiết sau thầy giáo và các bạn học khác cần sử dụng đến giảng đường này.
Lúc các sinh viên đứng dậy, Phương Tân gọi anh chàng cao lớn đã đặt câu hỏi kia lại, hỏi: “Bạn học kia, đợi một lát, cậu tên là gì?”
Anh chàng to con đó ngẩng đầu, kiêu ngạo đáp: “Tôi tên Trác Mộc Cường Ba.”
Phương Tân gật đầu nói: “Ồ, là người Tạng, cậu ở vùng nào của Tây Tạng vậy?”
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười nói: “Người Cổ Duy, làng Đạt Ngõa Nô Thố.”
Sắc mặt Phương Tân thoáng biến đổi, nói: “Chẳng trách, cậu lại hiểu rõ chó ngao đến vậy, thì ra là đến từ quê hương của ngao.” Cổ Duy nằm xa xôi hẻo lánh nhất trong đất Tạng, nhờ đó mới bảo tồn được những con chó ngao thuần chủng hiếm hoi, nên gọi là quê hương của chó ngao, nhưng làng Đạt Ngoã Nô Thố thì ngay cả ông cũng chưa từng nghe nói đến. Phải biết rằng, Tây Tạng rộng 1,202 triệu cây số vuông, nhưng dân số lại chỉ không đến ba triệu người, diện tích mỗi làng có khi còn lớn hơn một thành phố cấp địa phương. Trác Mộc Cường Ba thở ra, nói: “Nghiên cứu của giáo sư về chó ngao quả thực khiến tôi rất khâm phục, nhưng tôi vốn muốn hỏi xem, giáo sư Phương từng nghe đến truyền thuyết về Tử Kỳ Lân bao giờ chưa. Nhưng hình như giáo sư không biết thì phải.”

Phương Tân nhíu sâu mày, cố gắng lục tìm trong ký ức, nhưng một chút ấn tượng cũng không có, ông rất tự tin về trí nhớ của mình, chỉ cần đã nghe qua, nhất định là có ấn tượng, nhưng ông không có, một chút ấn tượng cũng không có.

 
Truyền thuyết về Tử Kỳ Lân
 

Cuối cùng Phương Tân cúi đầu, đây là lần đầu tiên ông phải cúi đầu trước mặt sinh viên, nhưng trên cương vị là một học giả, ông rất vui lòng cúi đầu trước học thuật, đặc biệt là những vấn đề học thuật ông chưa từng tiếp xúc nhưng lại thuộc phạm vi nghiên cứu của ông. Ông điềm đạm nói: “Ồ, xem ra đúng là tôi không biết gì về chuyện này, có thời gian ăn cơm không? Cậu kể cho tôi chuyện Tử Kỳ Lân nhé? Nó là loại chó gì vậy? Cũng là một giống Tạng ngao hả? Theo tôi được biết, Tạng ngao không có màu tím đâu.”
Trác Mộc Cường Ba nhe răng cười: “Cám ơn giáo sư đã mời, chúng ta đi thôi.”
Vậy là, lúc ăn cơm, Trác Mộc Cường Ba kể cho giáo sư Phương Tân câu chuyện về Tử Kỳ Lân. Gã chậm rãi bắt đầu từ giáo lý: “Dân Tạng ban đầu vốn chưa được khai hoá, quen tính hoang dã, hiếu chiến, nhiều lần chiến tranh không ngừng chia cắt, đến khi Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân giáng thế, dùng giáo lý điểm hoá dân chúng, năm 629 sau Công nguyên, Tán Phổ đời thứ ba mươi ba kế vị, nhanh chóng tập trung quyền lực về trung ương, quét sạch bát hợp, thờ phụng giáo lý, thờ Phật kính Phật, thiện hoá chúng dân…”
Giáo sư Phương Tân ngắt lời: “Đợi chút đã, những gì anh nói tôi đều hiểu cả, Tán Phổ đời thứ ba mươi ba chính là Tạng Pháp vương Tùng Tán Can Bố, xây dựng vương triều Thổ Phồn, thống nhất và cát cứ đất Tạng, dùng Phật giáo dạy dân Tạng hướng thiện, nhưng, điều này có liên quan gì đến Tử Kỳ Lân mà anh nhắc tới chứ?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không không, tôi không muốn nói đến lịch sử Tây Tạng, tôi đang nói về một bộ kinh, vừa rồi chỉ là tôi dịch bộ kinh đó sang tiếng Hán hiện đại mà thôi, còn câu chuyện về Tử Kỳ Lân, cũng được ghi chép trong bộ kinh đó.”
Phương Tân gật đầu, ngầm đồng ý.

Trác Mộc Cường Ba giờ mới nói tiếp: “Năm 641 sau Công nguyên, đất Tạng xảy ra một chuyện kinh thiên động địa, tháng Giêng, công chúa Nepal là Xích Tôn sang đất Tạng, mang theo tượng vàng của Thích Ca Mâu Ni lúc tám tuổi, tháng Ba, công chúa Đại Đường là Văn Thành sang đất Tạng, mang theo tượng vàng của Thích Ca Mâu Ni lúc mười hai tuổi. Tạng Vương Tùng Tán Can Bố bắt đầu tôn thờ Phật pháp, từ đó Phật giáo Tạng bắt đầu có sự phát triển…” Trác Mộc Cường Ba dường như không giỏi phiên dịch lắm, mỗi lần nói được một đoạn đều phải dừng lại nghĩ ngợi.
Giáo sư Phương Tân hơi nôn nóng, lại ngắt lời lần nữa: “Anh không cần dịch, cứ đọc nguyên văn bộ kinh ra cũng được, tôi hiểu tiếng Tạng cổ và tiếng Tạng Phục địa. Các giáo hệ của Phật giáo Tạng như Hồng giáo, Hoa giáo, Bạch giáo, Hoàng giáo, Phục địa giáo, tôi đều có nghiên cứu qua rồi.”
Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ mừng rỡ, nói: “Thì ra giáo sư từng nghiên cứu Tạng giáo, vậy tôi nói thẳng luôn. “Gã bắt đầu nói bằng thứ tiếng Tạng rất lưu loát: “Nhất thời, như thị khai khải Đế Thích cung môn như thị Cao Lâu quảng môn, tùng trung cử xuất tuỳ dục năng sinh viên mãn tứ bộ diệu quả, tức pháp, tài, dục, giải thoát…
Giáo sư Phương Tân hiểu cả, đại ý của bộ kinh này là, Tùng Tán Can Bố thống nhất đất Tạng, sau khi kết thúc chiến tranh, bắt đầu hiệu triệu toàn dân thờ phụng Phật pháp, cũng chính vì nguyên nhân này, mới cưới công chúa của miền đất khởi nguồn Phật pháp, và công chúa của đế quốc tôn thờ Phật pháp đương thời. Về sau, Tùng Tán Can Bổ thờ phụng tứ diệu pháp, bản thân ông trở thành Đại Pháp vương đầu tiên của đất Tạng, phái ra bốn người bảo vệ, lần lượt canh giữ bốn vùng xa nhất ở biên giới Tạng, đồng thời tuyên giảng Phật học với tứ phương. Bốn người bảo vệ này gọi là Pháp năng, thủ hộ ở miền biên tái gian khổ, có địa vị rất cao trong đất Tạng, và luôn giữ mối liên hệ trực tiếp với Tạng Vương tối cao, vài năm một lần, các Tạng Vương lại truyền cho bốn Pháp năng các kinh sách, Tạng sử mà họ ghi chép được, lý do là các Pháp năng ở tận cùng miền biên viễn xa xôi, nếu có chiến tranh hay thay triều đổi đại, thì Đại thừa Phật pháp và lịch sử Tạng vẫn được gìn giữ. Tổ tiên của Trác Mộc Cường Ba, chính là một trong bốn vị Pháp năng đó, trấn giữ Cổ Duy nằm ở phía Nam, bộ kinh này chính là một bộ Tạng kinh hoàn chỉnh mà gia tộc còn bảo tồn được.
Trác Mộc Cường Ba kể lịch sử hết sức dài dòng của bộ kinh, nhưng nét mặt tuyệt nhiên không hề tỏ ra ngạo mạn, trước sau vẫn điềm tĩnh, ôn tồn, giáo sư Phương Tân hiểu gã kể ra như vậy không ngoài mục đích để ông tin vào tính chân thực của bộ kinh. Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba chậm rãi nói: “Đại Tạng Vương Lăng Đạt Mẫu, ham mê săn bắn, thích đuổi sói trên thảo nguyên hoang dã, kế vị, tuyên bố phế Phật, ép tăng phải cởi áo tu hành đi săn bắn, diệt Phật thủ, thiên đạo bất dung. Năm Cống Hồng thứ năm, săn ở bãi phía Nam , mang hơn mười con chiến ngao, kỵ binh năm trăm người, cùng ba trăm tay cung nỏ. Đi về phía Đông trăm dặm, gặp mưa lớn, phó tướng Ba Tông nói phía Đông có mây không lành, không nên đi, Vương không nghe, tiếp tục đi. Đuổi một con dê, ngựa chạy quá nửa ngày, đi qua núi đồi đất bằng, rừng sâu trảng cỏ, chiến mã chợt dừng lại, cúi đầu hí lên, cỏ cây rung động, không biết là vật gì. Vương kinh hãi, ra lệnh thả ngao, nào ngờ, mười mấy chiến ngao đều phục xuống đất, mắt lộ vẻ sùng kính, dùng roi đánh đập cũng không tiến lên, chợt nghe một tiếng gầm khẽ, vang động núi rừng, chiến ngao vụt đứng dậy rồi hợp lại. Chiến mã tung vó hí vang, Vương rơi xuống đất, ra lệnh cung thủ bắn tên, cung thủ sợ, không dám kéo dây.”
Giáo sư Phương Tân nghe tới đây, trong lòng đã có không ít nghi hoặc, Tạng Vương Lăng Đạt Mẫu là vị Tạng Vương cuối cùng của Thổ Phồn, còn gọi là Lăng Đạt Mã. Vì Xích Tổ Đức Tán quá sùng bái Phật giáo, khiến rất nhiều đại thần bất mãn. Bọn họ ngấm ngầm bí mật sách động, lật đổ đương triều và thủ tiêu Phật giáo. Trước tiên họ mưu sát đại thần phụ trách tôn giáo Bát Xiền Bố Bối Cát Vĩnh Đan, sau lại hãm hại Tang Mã, người anh trai sùng tín Phật giáo của Xích Tổ Đức Tân, cuối cùng mưu sát cả Tân Phổ Xích Tổ Đức Tán, đề cử người anh trai không thích Phật pháp của Xích Tổ Đức Tán là Lăng Đạt Mã kế vị Tân Phổ Thổ Phồn. Truyền thuyết về Tạng Vương Lãng Đạt Mẫu, xưa nay rất nhiều, nhưng đại để đều nói Vương bị hoà thượng Phật giáo Mật tông La Long Bối Cát Đa Kiệt hành thích, sau đó đất Tạng chìm vào một cuộc hỗn chiến dài cả trăm năm. Nghe nói Tạng Vương này ghét nhất là Phật pháp, sao lại ghi chép lại câu chuyện của mình vào kinh Phật chứ? Mà các truyền thuyết sau khi Đại Tạng Vương qua đời đều mang một ít sắc thái thần thoại, từ điểm này mà xét, ý nghĩa chân thực của bộ kinh kia có lẽ không hề chân thực như Trác Mộc Cường Ba đã nói.
Giáo sư Phương Tân còn đang suy tư, Trác Mộc Cường Ba đã nói tiếp: “Vương cả giận, đích thân cầm cung, vận lực bắn vào rừng. Lúc này, tiếng gầm như sấm, trời đất biến sắc, một vật xồ ra, thân to như ngựa, khắp mình một mầu tử kim, đầu như cái đấu, mắt như chuông đồng, bốn chân như bốn cột. Trong khoảnh khắc, người nghiêng ngựa ngã, chiến ngao rạp xuống rên rỉ, thần thái cung kính. Phó tướng Ba Tông kêu lên: “Tử kim báo nhãn thú!” Con thú này toàn thân màu tía, mắt ẩn kim quang, chân đạp mây lành, duy chỉ có cái đuôi là giống chó, đối mặt với Vương, Vương không dám nhìn, kêu lớn ‘chó thần’, vứt bỏ cung, tất cả binh sĩ đều quỳ rạp xuống bái, không người nào không xưng thần. Ba khấu đầu, chín bái lạy, thú đã biến mất. Bỏ săn về, Vương bệnh không dậy nổi, nói con thú ban ngày vừa thấy chính là Tử Kỳ Lân, bạo bệnh mấy chục ngày, lòng lo sợ vô cùng. Vương truyền thủ hạ đến nói: “Tử Kỳ Lân, thần thú dưới Phật toạ, lần này giáng lâm, là để trách cứ những gì ta làm, phải hướng thiện hướng tâm Phật, mới có thể giải ưu.” Mấy ngày sau, Vương trở lại Đại Chiêu tự, bị hành thích trước bia.”
Giáo sư Phương Tần vẫn còn nhớ, lúc ấy mình đã đưa ra mấy điểm nghi vấn, đồng thời sau này cũng nhiều lần tranh luận về tính chân thực của truyền thuyết, nhưng lần nào Trác Mộc Cường Ba cũng không có ý kiến, đối với gã, tranh luận về tính chân thực của Tử Kỳ Lân chẳng khác gì tranh luận xem có phải khủng long đã tồn tại hay không vậy, là một chuyện hoàn toàn không có ý nghĩa. Phương Tân đương nhiên phải truy vấn xem cách nói này của gã từ đâu ra, lý do của Trác Mộc Cường Ba cũng rất đơn giản, trong làng của gã, có người đã thấy Tử Kỳ Lân, hơn nữa, cứ cách mấy trăm năm, thế nào cũng có một hai vị trí giả sẽ thấy được Tử Kỳ Lân hiển linh, bọn họ từ nhỏ đã nghe chuyện Tử Kỳ Lân mà lớn lên, đó là toạ kỵ của Quán Thế Âm Bồ Tát, cùng hạ phàm với Quán Thế Âm, hơn nữa còn luôn ở vùng không người sinh sống trên đất Tây Tạng, mỗi khi con người mắc nạn, có khó khăn cần đến sự giúp đỡ, những người thành tâm và nhất tâm hướng thiện, sẽ nhận được sự giúp đỡ của Tử Kỳ Lân.
Sau đó, Trác Mộc Cường Ba có hỏi giáo sư Phương Tân liệu đây có phải là một dị chủng hiếm gặp trong Tạng ngao hay không, nhưng bị giáo sư phủ nhận, vì hình thể lớn như vậy, đặc trưng cơ thể điển hình như vậy, nếu có tồn tại thật sự, với sức mạnh của khoa học kỹ thuật hiện nay, đáng lẽ phải được phát hiện ra từ lâu rồi mới đúng, hơn nữa, còn phải được ghi chép lại trong hồ sơ từ lâu. Nhưng sự thực là, truyền thuyết về Tử Kỳ Lân, ngoại trừ người dân trong làng Trác Mộc Cường Ba đời đời truyền miệng cho nhau ra, không tìm thấy bất cứ ghi chép nào liên quan đến Tử Kỳ Lân nữa, cũng không có ai phát hiện ra tông tích của Tử Kỳ Lân cả. Nghiên cứu sâu hơn, Trác Mộc Cường Ba lại nói với Phương Tân, không rõ Tử Kỳ Lân và lý thuyết mới nhất “Di truyền cách đời” của ông có liên quan không.
Di truyền cách đời là chỉ một số đặc tính nào đó trong cơ thể động vật, không biểu hiện ở thế hệ tiếp sau đó, mà cách mấy đời, hoặc đến mấy chục đời mới biểu hiện ra ngoài, điều này có di truyền học làm căn cứ, gien lặn kết hợp với gien trội, ban đầu biểu hiện dưới dạng lặn, cũng có nghĩa là nhìn bên ngoài không thấy bất cứ vấn đề gì, cho đến khi gặp phải một gien lặn khác, kết hợp với nhau, cuối cùng mới biến thành gien trội mà biểu hiện ra đặc tính của gien, có mặt tốt, cũng có mặt xấu. Lý thuyết về di truyền cách đời của giáo sư Phương Tân chính là giả thiết có một loài vật nào đó, nếu gien trong cơ thể nó có được tổ hợp ưu tú nhất thì nó sẽ tiến hoá như thế nào, mà trên thực tế, tuy rằng tỷ lệ của kiểu tổ hợp này nhỏ đến gần như bằng không, nhưng khẳng định là có tồn tại. Bọn họ nghiên cứu động vật họ chó, nên lý thuyết di truyền cách đời ấy đương nhiên cũng áp dụng với loài chó.
Trác Mộc Cường Ba phân tích thế này: “Ngao sinh sôi ở vùng cao nguyên, vì vậy chỉ ở cao nguyên mới có thể sản sinh ra thứ chó ngao thuần chủng nhất; nó cần thích ứng với cao nguyên để sinh tồn, vì vậy khả năng hấp thu và sử dụng ô xy của cơ thể cần phải cao hơn các loài chó thông thường. Kết luận này cơ bản ý nói tốc độ lưu chuyển của máu tăng cao, tốc độ vận chuyển ô xy nhanh lên, nhưng vì môi trường cao nguyên luôn có mức dưỡng khí thấp, nên nhìn bề ngoài của nó đã thấy rõ huyết quản thiếu dưỡng khí, mà ai cũng biết, thiếu dưỡng khí sẽ biểu hiện ra ngoài, chính là sinh màu tím sẫm, cho nên mới có một màu tía đặc biệt. Để thích ứng với hoàn cảnh địa lý đặc thù trên cao nguyên, chân cần phải to mà có lực, những nếp nhăn trên cổ, là để khi kẻ thù cắn cổ nó, nó có thể quay ngược lại cắn kẻ thù, mắt trợn to, có thể mở rộng khả năng tiếp nhận ánh sáng, ở vùng cao nguyên mờ mịt hơi mù này, tiếp nhận nhiều ánh sáng tức là nhìn xa hơn, mũi ngắn hơn các loài chó khác, lỗ mũi to hơn, làm các tế bào khứu giác phân bố đều hơn, để phân biệt mùi vị tinh tế hơn, những đường cong trên cơ thể là để đạt tới tốc độ cao trong thời gian ngắn nhất mà tốn ít năng lượng nhất.”
Về mặt lý thuyết, Trác Mộc Cường Ba nêu lên một phỏng đoán táo bạo, nhưng không được giáo sư Phương Tân chấp nhận: nếu không tận mắt nhìn thấy, giáo sư không đời nào tin. Đây cũng là điểm khác biệt giữa ông và Trác Mộc Cường Ba khi lần đầu nhìn thấy hai tấm ảnh, ông nhận định đó là giả, còn gã, lại kích động vô cùng.
Giáo sư Phương Tân cúi đầu suy tư, ông không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại kết hợp hai tấm ảnh này với truyền thuyết Tử Kỳ Lân ở quê gã. Nhưng, nếu như… nếu như hai tấm ảnh này là thật, cái bóng đó rốt cuộc có phải Tử Kỳ Lân không? Lần thứ hai Phương Tân cảm thấy tim mình đập dồn, tựa như lúc mới nhận được lời mời của chủ tịch hội nghị Matthew Liya vậy, không, lần này còn mạnh mẽ hơn nữa. Lần đầu tiên trong đời, giáo sư Phương Tân cảm thấy hoài nghi với kiến thức chuyên ngành của mình.
Trác Mộc Cường Ba thấy giáo sư Phương Tân có vẻ dao động, bèn lập tức chớp lấy cơ hội, cao giọng nói: “Thầy giáo, cùng đi đi. Thầy cả đời nghiên cứu động vật họ chó là vì cái gì chứ? Chúng tôi không tiếp sức lực tuyên truyền về chó ngao với mọi người là vì cái gì chứ? Từ trước đến nay, tôi luôn tin rằng, duyên mệnh của mình gắn chặt với chó ngao, bọn chúng kiên nghị, ngoan cường, trung thành, chúng là tín ngưỡng của tôi. Tìm kiếm con ngao hoàn mỹ nhất, mạnh mẽ nhất, chính là sứ mệnh của cuộc đời tôi. Thầy giáo, tôi cần thầy giúp đỡ.”
 
Chương 2
TRUYỀN THUYẾT TỬ KỲ LÂN

Giáo sư Phương Tân kích động nói: “Cường Ba à, Cường Ba thiếu gia của tôi ơi! Hình như anh vẫn chưa hiểu, người điên đó nói đến, không chỉ là một con Tử Kỳ Lân thôi đâu. Nếu tất cả đều đúng như trong kinh thư ghi chép thì phía trước chúng ta là cả một kho tàng văn hoá lịch sử đấy….” 

 

Chuyến đi Mông Hà

 
Giáo sư Phương Tân trầm ngâm hồi lâu, đến lúc có vẻ như đã hạ quyết tâm rất lớn mới ngẩng đầu lên, gọi vọng vào trong phòng bằng tiếng Anh: “Marie!” Bên trong có người dạ một tiếng, giáo sư liền dặn dò: “Thay tôi liên lạc với giáo sư Gugerell, nói với ông ấy, hội nghị Matthew Liya năm nay, e rằng tôi không thể tham dự được, tôi vô cùng xin lỗi. Nhớ là nói sao cho uyển chuyển một chút.”

Trác Mộc Cường Ba cảm kích không biết nói sao, chỉ hết sức nắm chặt lấy tay giáo sư Phương Tân, lắp bắp: “Thầy giáo… thầy giáo…”
Marie, cô giúp việc người Philippines của giáo sư Phương Tân, nghe chưa dứt lời đã lao vội ra, nhìn ông với ánh mắt quá sửng sốt, hỏi: “Giáo sư! Vừa rồi ông nói gì vậy? Tôi nghĩ, chắc là tôi nghe lầm rồi. Ông nói, ông không đi Đức nữa sao?”

Giáo sư Phương Tân gật đầu khẳng định, Marie nhắc lại: “Giáo sư, giáo sư Phương! Ông thật không tới hội nghị đó nữa sao? Nhưng đó là hội nghị ông luôn muốn tham gia mà!”
Phương Tân thở dài, nở nụ cười hoà nhã với Marie, khẽ vỗ vai cô, nói: “Đi đi, Marie, danh bạ ở dưới giá đèn bên trái bàn sách.”


Marie ôm một bụng nghi hoặc, hậm hực quay đi, trong lòng thầm nhủ: “Điên rồi, nhất định là giáo sư điên rồi. Lặng lẽ nghiên cứu cả một đời, ai lại bỏ cả giải thưởng cao nhất có thể chứng minh giá trị của mình chứ? Rốt cuộc là vì cái gì?” Cô lại nghĩ: “Cái gã cao lớn kia chắc chắn là ma quỷ hiện hình!”
Giáo sư Phương Tân vừa xoay người lại đã bị Trác Mộc Cường Ba ôm chặt cứng, gã không còn cách nào biểu đạt tâm trạng của mình lúc này nữa, miệng hét vang: “Thầy giáo, thầy là người tốt nhất của tôi! Tốt nhất!”
Giáo sư vất vả nói: “Đủ rồi, Cường Ba! Đủ rồi, tôi nghẹt thở quá. Chúng ta còn nhiều vấn đề chưa giải quyết, giờ phải xem lại hai tấm ảnh đã!”
Trác Mộc Cường Ba nắm chặt tay giáo sư nói: “Không cần đâu, thầy giáo. Xe ở dưới nhà, chúng ta lên xe rồi nói tiếp. Máy bay sẽ cất cánh sau hai tiếng nữa.”
Phương Tân chỉ tay vào Trác Mộc Cường Ba, mỉm cười nói: “Thì ra tên tiểu tử nhà anh đã có âm mưu từ trước rồi. Nhưng mà ít nhất cũng để tôi lấy mấy bộ quần áo đã chứ?”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Không cần chuẩn bị đâu, áo dạ lần trước thầy để lại ở Tây Tạng tôi mang tới rồi, còn ba bộ áo cổ đứng Trung Hoa với cả ngày vớ cũng đã đủ. Chỉ còn một vấn đề, thầy có cần mang máy đo hay thiết bị gì không?”
Phương Tân cười ha hả, nói: “Vậy thì đơn giản, tôi chỉ cần mang máy tinh xách tay là được.”
Giáo sư vừa dứt lời, Trác Mộc Cường Ba đã một tay xách va li bảo hiểm, một tay xách máy tính đi ra trước. Gã đứng ở cửa, hai tay đều bận, nhưng vẫn lễ độ ra hiệu mời thầy đi trước. Giáo sư Phương Tân chỉ biết cười cười, cái gã cố chấp người Tạng này cũng chính là học trò giỏi nhất mà ông đào tạo được.
Trên chiếc xe Benz dòng thương mại nối dài, Trác Mộc Cường Ba lại mở tráp kính ra, Phương Tân nhìn hai tấm ảnh, nói: “Vấn đề đầu tiên, đầu mối của chúng ta ít quá, thứ duy nhất có thể cho chúng ta một chỉ dẫn, chỉ có hai tấm ảnh này, hơn nữa…” Ông liếc mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, nghiêm túc nói, “đến giờ tôi vẫn chưa thể khẳng định chúng là thật.”

Trác Mộc Cường Ba mỉm cười: “Thầy giáo không cần lo lắng. Sau khi nghe Đường Minh kể chuyện, tôi đã lập tức liên hệ với bạn bè ở biên giới Tạng, cử bọn họ đến Mông Hà điều tra, ở đó quả thực có một người đàn ông trung niên quần áo rách rưới, cử chỉ điên rồ. Nghe nói, ông ta đến Mông Hà đã gần một năm, ban ngày nửa ăn xin nửa nhặt nhạnh kiếm sống, ban đêm thì chui rúc vào một căn nhà hoang. Dựa vào ngày tháng trên tấm ảnh, Đưòng Thọ đã đến đó hồi tháng Năm, mà Mông Hà lại là một địa phương nhỏ, người ta thưa thớt, nếu không có gì bất ngờ, người điên kia chính là kẻ điên ở Mông Hà mà Đường Thọ nhắc đến. Đường Thọ có thể thăm dò tin tức từ miệng anh ta, lẽ nào chúng ta lại không thể?”
Giáo sư Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt hứng thú, cười cười bảo: “Xem ra, anh sớm đã chuẩn bị xong, chỉ đợi thuyết phục được tôi là đi luôn đây!” Trác Mộc Cường Ba nhoẻn miệng cười thật thà, Phương Tân chớp mắt rồi lắc đầu: “Chưa được, vẫn còn những điểm chưa ổn. Một số chỗ rất quan trọng, thứ nhất, chưa xác định được người điên kia có phải người mà Đường Thọ nhắc tới hay không; thứ hai, cho dù đúng là vậy, nhưng y bị điên, đầu óc ngây dại, cho dù có tìm ra được, cũng chưa chắc y đã nói lại những điều đã nói với Đường Thọ, hơn nữa, chúng ta vẫn còn chưa biết, Đường Thọ đã gặp y trong tình huống nào, bằng cách nào, là cố ý đi tìm, hay là tình cờ gặp? Nếu là cố ý đi tìm thì trước đó anh ta đã biết được chuyện gì? Chúng ta hoàn toàn không hay biết. Nếu không chuẩn bị kỹ càng hơn, chuyến đi Mông Hà này chỉ e là uổng công thôi.”
Trác Mộc Cường Ba chau mày nghĩ bụng thầy giáo nói rất phải, bèn hỏi lại: “Vậy, vậy chúng ta còn có cách nào khác không? Hay là tôi bay sang Mỹ một chuyến nữa?”
“Không!” Phương Tân xua tay,  “nếu bệnh tình Đường Thọ không chuyển biến gì, đi lần nữa phí công, chẳng phải anh vẫn giữ liên lạc với Đường Minh sao? Gọi một cú điện thoại là biết ngay.”
Trác Mộc Cường Ba vội lấy di động ra hỏi han một hồi rồi gác máy, sắc mặt càng nặng trĩu, lắc đầu thốt lên: “Tình hình không chuyển biến. Giờ phải làm sao đây?”

Phương Tân thở dài, bật máy tính xách tay lên, nói: “Lúc này phải nhờ đến bạn bè thôi. Tôi sẽ gửi mấy bức ảnh cho người bạn ở Cục Khí tượng Bắc Kinh.”
Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: “Cục Khí tượng Bắc Kinh?”
Phương Tân chỉ vào tấm ảnh, giảng giải một cách am hiểu: “Nhìn tấm ảnh này xem, những cây cối mờ mờ ở đây có thể là manh mối, trước hết là tuyết tùng, ma hoàng, mỹ hoa thỏa, ở gần vị trí người chụp ấy nhé, cây tuyết tùng này sinh trưởng ở độ cao từ ba đến bốn nghìn mét, các vùng như Cửu Trị, Tuân Hoà ở Thanh Hải đều có, hỉ dương pha, ma hoàng lùn, sinh trưởng ở độ cao khoảng hai đến bốn nghìn sáu trăm mét, có thể bắt gặp ở nhiều nơi trên cao nguyên Thanh Tạng. Hỉ dương pha sinh trưởng ở khe nham thạch, cát sỏi, đất ven rừng; mỹ hoa thảo lại càng nhiều hơn, đồng cỏ, sườn núi đều mọc vô số. Từ đây có thể suy ra người chụp quay mặt về hướng nắng, Tây Tạng Thanh Hải đều nằm về phía Tây, ngày tháng trong ảnh đề tháng Năm, hôm thứ ba sau Hạ chí, mặt trời mọc ở đằng Đông, đi qua phụ cận chí tuyến Bắc, dựa vào bóng nắng, đặt giả thiết cây tuyết tùng này mọc thẳng, theo độ nghiêng của cái bóng có thể tính góc cao độ của mặt trời, so sánh phân tích góc cao độ của mặt trời ở chí tuyến Bắc có thể suy ra vĩ độ tương đối, loại máy ảnh kỹ thuật số này hầu hết đều cài đặt giờ Bắc Kinh, có nghĩa là năm giờ mười hai phút chiều giờ Bắc Kinh, chúng ta đã biết được phạm vi độ cao so với mặt nước biển, cũng có thể dựa vào độ nghiêng của bóng, đối chiếu với độ nghiêng ở Bắc Kinh cùng thời gian đó, là có thể suy đoán ra phạm vi kinh độ. Như vậy là, ít nhất chúng ta cũng có được một phạm vi kinh vĩ đại khái, không đến nỗi mèo mù bắt chuột.”
Tín hiệu truyền tới, Phương Tân gõ máy tính, nói: “Được rồi, bọn họ ở Bắc Kinh so sánh bóng nắng, gửi hình ảnh cho chúng ta luôn đây rồi.” Trác Mộc Cường Ba ghé nhìn, chỉ thấy trên bản đồ thế giới giữa màn hình vi tính, một vùng dài hẹp nằm dọc có đánh dấu, màu vàng cam nổi bật lên, phần giữa có nhiều chỗ trống, theo đối chiếu số liệu trong máy tính với tấm ảnh của họ, khu vực này có phần trên ở khoảng 90.2 đến 104.5 kinh độ Đông, phần dưới từ 86.5 đến 91.5 kinh độ Đông; phạm vi vĩ độ từ 26 đến 37 vĩ độ Bắc… Trác Mộc Cường Ba mừng rỡ nói: “Chính là trong phạm vi này à? Tốt quá rồi, không ngờ Cục Khí tượng còn có công năng này nữa.”
Phương Tân thoáng nhìn đã lại nhăn mặt lắc đầu: “Ồ, phạm vi này rộng quá, ui dà… anh xem, dài uốn lượn ngoằn ngoèo này, bắt đầu từ Thanh Hải, xuyên Khả Khả Tây Lý hoang vu, phần đuôi lại vắt ngang dãy Himalaya, vươn ra nước ngoài, sang tận Nepal, Sikkim (1), Bhutan. Ở giữa còn có những chỗ màu sắc đồng nhất chính là mấy ngọn núi cao trong dãy Himalaya, tính cả ngọn Chomolungma nữa, phạm vi lớn như vậy, anh làm sao tìm được, kinh độ đánh dấu còn không tệ, nhưng vĩ độ vì chịu ảnh hưởng của núi cao, thực ra không thể chính xác mười mươi. Xem ra tôi còn phải liên hệ với bạn bè bên Cục Địa chất nữa.” Nói đoạn, ông lại truyền ảnh đi. Sau đó nói tiếp: “Đất Tạng là vùng có cấu tạo địa chất và địa mạo phong phú nhất thế giới, anh thực đã hiểu hết quê hương mình chưa?”
Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, ngoại trừ chó ra, gã chẳng thấy Tây Tạng có gì đặc biệt, Phương Tân nói với gã như đang giảng bài cho sinh viên: “Dãy núi Himalaya trải dài từ Tây Bắc đến Đông Nam, vòng cung hướng xuống phía Nam ở rìa cao nguyên Thanh Tạng, tiếp giáp với Ấn Độ, Nepal và Bhutan, trông xuống sông Hằng và bình nguyên Assam của tiểu đại lục Ấn Độ. Núi Côn Luân, núi A Nhĩ Kim và núi Kỳ Liên ở rìa Bắc cao nguyên có độ cao từ bốn đến năm nghìn mét nối liền với bồn địa Tarim trên vùng hoang mạc khô cằn ở Trung Á và hành lang Hà Tây. Miền Tây có địa thế cao hẳn là dãy núi Ca Thích Côn Luân và cao nguyên Pamirs, tiếp giáp với khu vực Kashmir, Afghanistan và Liên Xô cũ ở khu vực Tây Himalaya. Phía Đông Nam cao nguyên là dãy núi cắt ngang nối liền Miến Điện và cao nguyên Văn Nam của nước ta, đồng thời sát với “đất nhà trời” bồn địa Tứ Xuyên có khí hậu á nhiệt đới ẩm thấp, biên giới này bị những đường đứt gãy của núi Ngọc Long, núi Long Môn khống chế, giáp với sườn Nam và sườn Đông của núi tuyết Ha Ba, núi Đại Tuyết, núi Giáp Kim, núi Cùng Lai và núi Mân. Đây là một vùng đất cực kỳ rộng lớn và thiêng liêng, là cực thứ ba của thế giới đó!” Nói tới đây, trong mắt ông hiện lên vẻ sùng kính, giáo sư Phương Tân đã bảy lần tới Tây Tạng, không chỉ vì chó ngao, mà còn vì núi ở đó, con người ở đó, trời xanh mây trắng ở đó; chỉ có đứng trên vùng đất Tạng rộng lớn, cảm nhận cơn gió nhẹ mát dịu, mới hiểu thì ra người ta có thể gần với thần linh đến thế, cảm giác sùng bái thần linh từ thời viễn cổ chợt thăng hoa tự đáy lòng.
Chiếc xe lao đi vùn vụt, tâm trạng Trác Mộc Cường Ba vừa nôn nóng vừa kích động, gã biết, bạn bè của giáo sư đều là chuyên gia đẳng cấp thế giới trong các lĩnh vực, kết luận của bọn họ có độ chính xác cao, những người làm công tác nghiên cứu thông thường không thể bì kịp, nếu không phải có giáo sư tham gia, lần hành động này có thể đúng như giáo sư đã nói, còn chưa xuất phát đã chết yểu. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến gã quyết mời cho được giáo sư tham gia.
Dữ liệu lại truyền về, phân tích trên máy tính cho thấy: “Theo phân bố thảm thực vật cao nguyên trong tấm ảnh thì đây chắc chắn là cao nguyên ở đất Tạng không sai, tảng đá bên trên có dấu xâm thực của băng, mặt đất xung quanh có địa mạo điển hình của sông băng kỷ thứ tư, chóp núi đóng băng xa xa chứng tỏ độ cao so với mực nước biển ở đây ít nhất phải trên bảy nghìn mét. Vì xung quanhh có cả thực vật ẩm ướt và thực vật chịu rét, chịu hạn cùng sinh tồn, dựa vào biên độ chiếu xạ của mặt trời lúc đó và độ rạp của thảm thực vật dễ nhận thấy, chúng rất có thể chịu ảnh hưởng của luồng khí lưu Tây Phong. Tổng hợp lại, miền đất trên tấm ảnh có thể thuộc Trung bộ dãy Himalaya, hướng về phía Đông Nam, nhiều khả năng lần qua biên giới quốc gia.” Khu màu cam trên tấm hình Cục Khí tượng gửi đến, lại có một mảng nhỏ được tô bằng màu đỏ sậm, từ phía Bắc Chomolungma vạch đến biên giới Sikkim và Nepal . Phương Tân nắm tay lại, không nén nổi kích động: “Tốt quá rồi!”
Chỉ thấy chuyên gia bên kia gõ một hàng chữ đùa cợt: “Lão Phương, lại vào Tây Tạng bắt chó hả?
Nghe nói lần trước anh tới đó, bị rét cho cóng người mới trở về. Tôi vẫn định tới Thượng Hải thăm anh, xem có phải là thật không.”
Giáo sư Phương Tân cười cười trả lời: “Ngón tay ngón chân rụng hết cả rồi, ông anh…” Lúc này, máy bay đã hiện lên xa xa trước mắt.
Ông tắt máy tính, lẩm bẩm nói: “Vào đất Tạng thì không dùng mạng không dây được nữa rồi, chỉ là trong máy tính có rất nhiều tư liệu có ích. Đúng rồi, máy bay bay tới Thành Đô trước hả?”
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười nói: “Không, chúng ta bay thẳng tới Lhasa .”
“Ủa?” Phương Tân nghi hoặc nói: “Hình như giờ này không có chuyến bay thẳng tới Lhasa mà?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Bởi vì chúng ta cần đi Lhasa , nên có chuyến bay thẳng rồi.”
Vào sân bay, Phương Tân không khỏi đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, hít vào một hơi nói: “Anh thuê cả một cái máy bay riêng hả!”
(1) Sikkim : một bang ở Ấn Độ, nằm giữa Nepal và Bhutan , sát biên giới Tây Tạng.
 
Người điên thứ hai
 

Hai người lên máy bay, từ Thượng Hải bay về phía Tây, hướng đến cao nguyên thiêng Tây Tạng.
Trên đường, giáo sư Phương Tân không ngừng trách móc Trác Mộc Cường Ba là người lãng phí, hai người thuê cả một cái máy bay riêng, kỳ thực đợi một hai ngày, hoặc chuyển máy bay ở Thành Đô cũng hoàn toàn có thể được, nhưng Trác Mộc Cường Ba không đợi thêm được một giây một phút nào nữa, gã chỉ hận không thể lập tức có mặt tại Mông Hà, tìm kiếm người điên kỳ quái kia mà hỏi cho rõ ngọn ngành.

Máy bay đã ở trên bầu trời cao nguyên Thanh Tạng, nhìn qua cửa sổ khoang hành khách, chỉ thấy dưới làn mây trắng là núi xanh trải dài, tuy đã gần cuối thu, nhưng cao nguyên vẫn giữ được màu xanh đặc hữu của nó.
Cảnh đẹp trước mắt như bất tận, máy bay đã vượt qua núi non. Lúc hạ cánh xuống Lhasa , không ngờ lại có chút rắc rối, do Lhasa có sương mù, tầm nhìn cực thấp, máy bay không tài nào hạ cánh xuống sân bay, mà nhiên liệu cũng gần cạn kiệt, đến cả xăng để chuyển hướng đi sân bay Gonggar cũng không đủ. Sau khi xin ý kiến đài chỉ huy, họ liên hệ thẳng với một sân bay quân sự gần đó, lúc này, cũng chỉ có thể hạ cánh khẩn cấp ở đó mà thôi.
Trác Mộc Cường Ba hơi cuống, nói: “Nhưng, xe của công ty tôi đang đợi ở sân bay, giờ sương mù mịt đường sá, e là chúng ta phải đi bộ tới Lhasa mất, ôi, đều tại tôi cả, trước đó lại không nghĩ đến chuyện này.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Không sao, lần trước có lý do đặc biệt, chúng tôi cũng bất đắc dĩ phải hạ cánh xuống sân bay quân sự này, có một tay chỉ huy rất hữu hảo còn sắp xếp xe đưa chúng tôi đến đại bản doanh của đoàn khảo sát khoa học, lần này chắc cũng có thể nhờ anh ta giúp đỡ, xem xem họ có xe nào rảnh không. Máy bay này có gọi điện thoại được không?”
Trác Mộc Cưòng Ba nói: “Ừm, có thể gọi bằng vô tuyến.”
Sư đoàn trưởng Ban Giác Thứ Nhân, là người Tạng bản địa, cao lớn to khoẻ như trâu như ngựa, mặt vuông miệng rộng, dưới hai hàng lông mày đậm là đôi mắt dữ tợn. Ban Giác Thứ Nhân vừa ăn cơm tối, một binh sĩ chạy vào báo cáo, cấp trên gọi điện xuống, nói sân bay Lhasa có sương mù, một chiếc máy bay riêng sắp hết nhiên liệu chuẩn bị hạ cánh khẩn cấp ở sân bay chúng ta, người xuống máy bay sẽ đi thẳng tới Mông Hà, hy vọng có thể kiếm được một chiếc xe.
Ban Giác Thứ Nhân xoa xoa cái bụng hơi phồng lên, hỏi: “Ồ, không khí lạnh đang xuống phía Nam , chẳng mấy nữa là sương mù cũng lan tới chỗ chúng ta đây thôi, công tác chuẩn bị phòng chống sương mù bên sân bay thế nào rồi? Bao giờ thì máy bay tới?”
Người lính kia đáp: “Chắc khoảng mười phút nữa.”
“Là ai vậy?”
“Một vị là giáo sư Phương Tân ở Thượng Hải, còn một vị là thương nhân người Tạng, gọi là… Trác… Trác… gì đó.”

Ban Giác Thứ Nhân nói với sĩ quan trẻ tuổi bên cạnh: “Tiểu Trương, cậu và Tiểu Hoàng cùng ra sân bay xem sao, dù sao họ cũng là khách phương xa tới, từ Thượng Hải bay thẳng đến Lhasa , đi gấp như vậy, liệu có chuyện gì rất quan trọng không nhỉ?”
Tiểu Trương là thuộc hạ của Ban Giác Thứ Nhân, tên Trương Lập, được phân về sư đoàn đã hai năm, kiêu dũng, thiện chiến, là thành phần tinh anh của sư đoàn. Anh ta cao một mét bảy sáu, thân hình cao lớn chỉ thua sư đoàn trưởng Ban Giác Thứ Nhân, mặt như đao cắt, mắt sáng như đuốc, khả năng chiến đấu cá nhân và tư duy ứng biến tuyệt đối không xếp hàng thứ hai trong sư đoàn này. Trương Lập tính toán thời gian rồi nói: “Nhưng tới sân bay ít nhất cũng mất khoảng hai mươi phút, trời lại mới mưa, nên đường không dễ đi lắm.”
Ban Giác Thứ Nhân nói: “Không vội, đi từ từ, bọn họ đến trước thì để họ đợi một lúc đi. Phương Tân? Cái tên này nghe hình như quen quen, người này nghiên cứu gì vậy?”
Người lính tên gọi là Tiểu Hoàng kia đi ra tới cửa, mới sực nhớ ra điều gì đó, nói: “Đúng rồi, nghe người trong tổ lái nói, thương nhân thuê máy bay, tên là Trác Mộc… Trác Mộc Cường Ba thì phải?”
“Cường Ba thiếu gia!” Ban Giác Thứ Nhân vừa nghe, đang nằm trên giường lập tức nhảy dựng lên, vừa mặc quần áo vừa nói: “Mau, mau lấy xe, ra sân bay. Chúng ta phải đến trước khi máy bay hạ cánh.”
Tiểu Hoàng đưa mắt nhìn Trương Lập, lại nói: “Nhưng, đến sân bay ít nhất cũng cần mười lăm phút, con đường đó không dễ đi…”
Ban Giác Thứ Nhân đã sải chân đi ra tới cửa, quay ngoắt đầu lại nói như chém đinh chặt sắt: “Tôi mặc kệ các cậu dùng cách gì, nhất định phải đến sân bay trong mười phút.” Anh ta vừa trợn mắt lên, Tiểu Hoàng đã túa mồ hôi, tóc gáy dựng ngược cả lên.
Hai mươi phút sau, khi bọn Trác Mộc Cường Ba xuống, đám người Ban Giác Thứ Nhân đã đợi ở sân bay một lúc lâu rồi. Trương Lập thắc mắc: “Đoàn trưởng, người đó, Cường Ba thiếu gia đó, là người thế nào?” Vì cả Ban Giác Thứ Nhân còn gọi là thiếu gia, Trương Lập cũng không dám nói năng bất kính. Ban Giác Thứ Nhân đáp: “Là con trai của Đức Nhân lão gia. Đức Nhân lão gia, ở miền Nam đất Tạng chúng ta, ngoài Phật Sống ra, ông ấy là người có trí tuệ nhất.” Gã đưa mắt nhìn Trương Lập đang đứng thẳng người, nói: “Cường Ba thiếu gia từng hai lần đoạt quán quân Khổ Bái đặc khu Tây Tạng, cao hơn cậu nửa cái đầu. Tuy cậu là tinh anh trong các tinh anh của sư đoàn chúng ta, nhưng nếu đánh nhau tay không, chưa chắc cậu thẳng nổi anh ấy đâu.”
Máy bay hạ cánh, người đầu tiên bước ra khỏi khoang, vóc dáng cao lớn mạnh mẽ, gương mặt cương nghị điềm tĩnh, đeo kính chắn gió, hai tay xách hai chiếc va li, gió thổi tới, cơ bắp dưới chiếc áo khoác xám toát lên khí thế dũng mãnh. Theo sau là một ông già tóc hoa râm gầy gò, đôi mắt sáng ngời ẩn chứa nhiều điều, thoáng trông đã biết không phải nhân vật tầm thường.
Ban Giác Thứ Nhân vừa thấy Trác Mộc Cường Ba đã toét miệng cười bước ra đón, cúi đầu nói: “Cường Ba thiếu gia, hoan nghênh anh trở về!”
Trác Mộc Cường Ba ngây người, hỏi: “Anh là…”
Ban Giác Thứ Nhân nói: “Ban Giác Thứ Nhân, trước tôi đã từng theo Đức Nhân lão gia đến núi Cương Nhân Ba Tề (1) bái tế đó. Nghe nói Cường Ba thiếu gia lâu nay vẫn ở bên ngoài kinh doanh, không ngờ nay lại đích thân trở về.”

Trác Mộc Cường Ba nở một nụ cười thân thiện, gật gật đầu, gã cao hơn Ban Giác Thứ Nhân nửa cái đầu, đứng giữa mọi người trông như một con bò đực tráng kiện, cực kỳ nổi bật. Phương Tân biết, Đức Nhân lão gia chính là cha của Trác Mộc Cường Ba, có ảnh hưởng rất lớn ở miền Nam Tây Tạng.
Đã là người quen, vấn đề cũng dễ giải quyết hơn rất nhiều. Ban Giác Thứ Nhân bận việc, bất đắc dĩ đành để Trương Lập đích thân đi theo Trác Mộc Cường Ba và Phương Tân đến Mông Hà một chuyến, dọc đường nói rất nhiều câu ngưỡng mộ, lại tiễn bọn họ mấy chục dặm rồi mới trở về.
Trên đường đi, trời lại đổ mưa phùn mù mịt, xe chạy êm ru trên đường quốc lộ thuộc khu Sơn Nam . Đường núi chật hẹp, vách đá cheo leo, xuyên qua các hẻm núi, giáo sư Phương Tân hít thở không khí trong lành, chìm đắm trong sự tĩnh lặng, lòng không tạp niệm, đầu óc sạch không. Mấy tiếng đồng hồ trước, ông còn ở thành phố phồn hoa nhất Trung Quốc, lo lắng băn khoăn không biết mình có đoạt được vinh dự lớn nhất trong đời hay không, giờ đây, tâm trạng ông như được cơn mưa kia quét sạch ưu sầu, cái còn lại thì chỉ là sự thành kính trong đáy sâu linh hồn và tâm tư ngưỡng vọng cội nguồn. Chỉ có Tây Tạng, cao nguyên cao nhất thế giới này mới có thể khiến ông xúc động đến thế, nơi đây không có bụi hồng mù mịt, không có nhà cao ngất trời, nơi đây có không khí đã được thanh tẩy, có những ngọn thần sơn thánh khiết như tiên nữ.
Tâm trạng Trác Mộc Cường Ba cũng bị thế giới vô thanh này cảm nhiễm, nhưng trong lòng gã lại nghĩ đến một chuyện khác. Bao nhiêu năm chưa trở về, mải bôn ba ở các thành phố lớn, cuộc đời gã ngoại trừ chó ngao ra, xem ra rất khó chấn động, mãi cho tới bây giờ mới gặp gỡ một người gây xáo động tâm can. Giờ đây, trở về quê hương, nơi có trà dầu và bột mì Thanh Khoa nuôi gã khôn lớn, bầu trời vẫn rộng mênh mông không bờ bến, không khí vẫn nguyên vẻ thanh tân quen thuộc; núi cao xa xa sừng sững như những người khổng lồ, mấy trăm nghìn năm nay vẫn ngạo nghễ nhìn mảnh đất này như thể, chính là chúng đã dùng dòng sữa ngọt tinh khiết thiêng liêng nuôi dưỡng sự sống ở nơi đây. Nhưng mặt đất thì biến đổi, văn minh đã sải bước chân dài vươn đến vườn địa đàng cuối cùng này; con người văn minh đã đến đây cùng với lòng ngưỡng mộ chốn bồng lai tiên cảnh, nhưng đồng thời, bọn họ đã mang văn minh đến, và chốn tiên cảnh bao la này cũng đang biến thành thành thị văn minh. Người ta không nhìn thấy, khó lòng còn nhìn thấy được những đàn bò dê hoang dã chạy rầm rập ở nơi này như xưa kia, khi chưa có con đường quốc lộ; khó lòng còn nhìn thấy được những khách hành hương mặc áo chùng, lưng đeo tay nải đi về miền đất Phật. Hồi nhỏ chính gã cũng từng đem thức ăn tặng cho những người đổ về từ khắp các nẻo đường Tây Tạng, cứ ba bước một khấu đầu, nằm rạp mình xuống bái tế, đi ròng rã hàng năm, cứ như vậy mà bái lạy trên suốt cả nghìn cây số, bái lạy tới khi đến được thần điện Lhasa, núi thánh Cương Nhân Ba Tề. Còn có những kẻ bất hạnh, bỏ mình dọc đường ở nơi hoang dã. Hành trình gần như một sự khổ tu, động tác lặp đi lặp lại cả mấy vạn lần, đơn điệu và cố chấp như thế, thảy chỉ là để đặt chân đến thánh địa trong lòng một lần trong đời.
Lúc đi qua Dương Trác Ung Thổ (Yamdrok), Trương Lập đang lái xe đắc ý giới thiệu với khách: “Đây chính là hồ Yamdrok nổi tiếng của Tây Tạng, theo tiếng Tạng nghĩa là hồ San Hô, nó không chỉ có rất nhiều nhánh chĩa ra giống cây san hô, mà nước hồ còn có năm màu rực rỡ đẹp chẳng khác nào san hô vậy. Trong vùng có truyền thuyết ấy là…” Trương Lập đang nói chợt im bặt, vì nhìn vào kính chiếu hậu, anh ta nhận ra hai vị khách ngồi sau đã nhắm mắt, tay chắp lên ngực, xem ra còn hiểu “con mắt tiên nữ” hơn anh nhiều.
Họ đi qua hồ Yamdrok, xe rẽ sang hướng Tây, về phía Nhật Ca Thích (Shigatse)
Mông Hà, kỳ thực tương đương với một ngôi làng trong nội địa, là địa danh ít nghe nói đến, người ngoài tự nhiên nói chung không thể biết. Nhưng diện tích Mông Hà rộng tới sáu bảy dặm chiều ngang, mười mấy dặm chiều dài, nằm trong núi, có một con đường, hai bên đường là khu dân cư sinh sống cả trăm hộ gia đình.
Đường núi gồ ghề, khi bọn Trác Mộc Cường Ba đến được Mông Hà thì trời đã gần sập tối, hỏi thăm người dân trong vùng họ đã tìm ra người điên kia. Trương Lập thấy người này đầu tóc bù xù, mặc một chiếc áo Tạng rách nát, bên ngoài khoác áo gi lê đen cáu bẩn, ngực đeo tượng Bồ Tát sáu tay, nằm trên một tấm thảm len cũng bẩn thỉu không kém; anh ta không khỏi chau mày cũng không lại quá gần.
Phương Tân nhìn thấy người này, đã giật bắn mình kinh ngạc, đầu tiên là pho tượng Bồ Tát sáu tay màu vàng trên cổ y, tạm không nói là đồng hay vàng, nhưng đây là tượng của Tán Phổ đời thứ ba mươi mốt, giá trị văn hoá và giá trị lịch sử không thể đo đếm được, trong các cuộc đấu giá ở Thượng Hải, thấp nhất cũng phải lấy hàng triệu làm đơn vị định giá; kế nữa là tấm thảm len dưới đất, tuy bẩn thỉu vô cùng, nhưng đồ hình bên trên vẫn còn rất rõ ràng dễ thấy, đó là Niêm hoa thị đạo đồ của Thích Ca, bên cạnh ngồi mỉm cười là Ma Kha Gia Diệp, cách đó một chút phía trước là Đại Phạn Thiên Vương (Brahma), Già Lâu La tôn giả và Địa Tạng Bồ Tát đang thì thầm, bên phải là Nam Vô Quan Âm đại sĩ, và mấy người nữa, mặt mũi nhân vật đều hết sức sống động. Phương Tân thầm nhủ: “Nếu mình đoán không lầm, đây có lẽ là một bức Thang ga (2) hết sức tinh xảo từ trước đời Tống, dùng kỹ nghệ thêu. Thứ như vậy. không thể nào định giá được.” Còn đồ trang sức trên đầu, trên lưng y, nhìn có vẻ rách nát, nhưng cũng đều không phải vật tầm thường.

Trác Mộc Cường Ba là người đầu tiên lại gần y, cũng không chú ý xem y bẩn thỉu thế nào, ngồi xổm trước mặt y, hỏi: “Có phải anh đã gặp một con chó không? Cao thế này, đen tuyền, đầu sư tử, mắt của nó là…”
Người có bộ dạng như ăn mày đó không hề phản ứng, chẳng buồn để Trác Mộc Cường Ba vào trong mắt, nhép nhép miệng, lật người, quay mặt vào tường, chổng mông về phía gã, sau đó chìa cánh tay dính dớp đen đúa ra, giơ tới trước mặt Trác Mộc Cường Ba. Gã vội móc ví tiền ra, nói: “Anh cần tiền phải không? Được, anh cần bao nhiêu, nói đi. Hai trăm, đủ không, thêm một trăm nữa!”
Gã đặt tiền vào bàn tay đen sì đó, người kia không ngờ lại “soạt” một tiếng, đánh rơi tiền, toét miệng nhìn Trác Mộc Cường Ba cười ngây ngây, vẫn chìa tay ra. Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, tưởng rằng y chê không đủ tiền, lại chuẩn bị lấy ví ra, người đi đường cạnh đó liền nói: “Hắn không biết tiền đâu, cho hắn tiền tác dụng gì chứ, hắn cần đồ ăn thôi.”
Trác Mộc Cường Ba lập tức thu xếp, bảo Trương Lập đi mua chút đồ ăn, Mông Hà không có tiệm chuyên bán đồ điểm tâm, cũng không hiểu Trương Lập dùng cách gì, kiếm về được mấy cái bánh bột mỳ Thanh Khoa trộn với bơ nặn thành hình, còn cả hai miếng thịt bò khô nữa. Trác Mộc Cường Ba đưa bánh cho người ăn xin, hỏi: “Anh là người ở đâu?” Người kia không trả lời, cũng không sợ phỏng, cầm luôn cái bánh nhét vào miệng, nuốt xong lại chìa tay ra cười ngây ngốc.
Trác Mộc Cường Ba lại cho y thêm hai cái nữa, hỏi: “Anh hiểu tôi nói gì không?”
Người kia chỉ ăn mà không đáp, ăn xong lại cười, Trác Mộc Cường Ba còn định đưa thêm, Phương Tân đã chặn tay gã lại, lắc đầu nói: “Như vậy không được, anh ta căn bản không thèm để ý đến chúng ta, thử đi tìm người nào hỏi xem, lẽ nào anh ta cứ điên như vậy suốt?”
Kết quả, câu trả lời của người qua đường là, người điên này từ khi tới đây vẫn luôn như vậy, có lúc đói quá còn túm lấy quần áo người ta xin xỏ, nhưng không ai thấy y nói chuyện cả. Trác Mộc Cường Ba thầm chán nản, lẽ nào thầy giáo gã chẳng may lại đoán trúng, đây không phải là người điên bọn họ muốn tìm? Nhưng giáo sư Phương Tân lại nói: “Tôi chắc đến chín phần rằng người điên mà Đường Thọ gặp chính là anh ta, nhưng phải làm sao để anh ta mở miệng bây giờ?”
Trương Lập nói: “Trời đã tối rồi, chi bằng chúng ta về trước, ngày mai nghĩ ra cách rồi quay lại.”
Trác Mộc Cường ba cũng nói: “Thầy giáo, sao thầy có thể khẳng định như vậy?” Hai người cùng lúc lên tiếng, thành thử đều nghe không rõ, Trác Mộc Cường Ba lại hỏi lại lần nữa. Giáo sư Phương Tân nói: “Người này, trên người có rất nhiều thứ hiếm thấy, nhất định đến từ một nơi rất biệt lập với thế giới bên ngoài. Những thứ trên người anh ta, thứ nào cũng giá trị không tầm thường, không phải là thứ mà người điên ở thế giới văn minh có thể đeo được, có thể khẳng định là anh ta đến từ một nơi văn minh chưa vươn tới.”

“A!” Trác Mộc Cường Ba chưa nghĩ đến chuyện này. Trương Lập thì giật mình kinh ngạc, chẳng lẽ vị giáo sư này cho rằng những thứ cả trong nhà xí cũng không thể dùng này đều rất đáng tiền hay sao?
Trong lúc đó, người điên thấy Trác Mộc Cường Ba cầm bánh trên tay mà không cho mình, bất ngờ thò tay cướp, Trác Mộc Cường Ba không để ý, vung tay cản lại một cách rất tự nhiên. Thân thủ Trác Mộc Cường Ba cao cường, tay vừa co lại, cổ tay hạ xuống, đè lên cánh tay người điên, lật bàn tay tóm lấy cổ áo y. Người điên lùi lại, liền lộ ra hình xăm trước ngực, Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, kinh ngạc kêu lên: “Người Qua Ba, anh là người của bộ tộc Qua Ba.”

 
(1)   Núi Gang Rinpoch, ngọn núi thiêng của người Tạng
(2)   Một dạng tranh vẽ đặc sắc của người Tạng, mang đậm ý nghĩa tôn giáo
 
Bộ tộc Qua Ba
 

Người điên nhân lúc Trác Mộc Cường Ba ngẩn ra, cướp luôn mấy cái bánh trong tay gã, quay người bỏ chạy. Trác Mộc Cường Ba trong cơn chấn động, quên cả đuổi theo. Trương Lập nhanh tay nhanh mắt, vội chụp lấy áo gi le của y, nhưng người điên nảy rất khoẻ, “soạt” một tiếng đã kéo rách cả áo bỏ chạy. Trương Lập đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, không biết có nên đuổi theo không, chỉ thoắt một cái như thế, người điên đã chạy biến vào một ngõ nhỏ.
Phương Tân đứng sau Trác Mộc Cường Ba, không nhìn rõ lồng ngực người điên, nhưng biết nhất định có cái gì đó, vội hỏi: “Bộ tộc Qua Ba? Trên ngực anh ta có gì?”
Trương Lập hỏi: “Là, là đầu sói chăng?”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không! Không phải sói, là tô tem Tử Kỳ Lân.”
“Cái gì?!” Phương Tân không dám tin vào tai mình nữa. Trác Mộc Cường Ba nhắc lại: “Tôi nói với thầy rồi mà, thầy giáo, thầy quên rồi sao? Bộ tộc Qua Ba, ở phía Nam làng chúng tôi, là bộ lạc sống sâu trong vùng đất hoang dã nhất. Truyền thuyết Tử Kỳ Lân từ chính chỗ họ mà truyền ra đấy.”
Phương Tân lập tức hiểu ra: “Ồ, tôi nhớ rồi, chính là bộ lạc nguyên thuỷ hồi trước giải phóng còn đốt rừng làm rẫy, quần cư săn bắn mà anh đã nhắc đến.”

Trác Mộc Cường Ba lẩm nhẩm: “Phải rồi, bọn họ sống ở một nơi không có đường quốc lộ, muốn đến phải trèo qua ngọn núi cao hơn bảy nghìn mét so với mực nước biển, trong khu rừng nguyên thủy cuối cùng của cao nguyên, là bộ lạc sống chung với sói. Bọn họ dũng mãnh thiện chiến, là những thợ săn ưu tú nhất của cao nguyên. Tôi từng có ý định tìm kiếm họ, nhưng bị cha tôi ngăn cản, ông bảo chớ có đến gần, bọn họ gần nhất với Tán ma đó. Vì linh tổ của dân Qua Ba phụ thuộc vào Tán ma, gây ôn dịch, chết chóc, tai nạn, nên về sau Tán ma bị Cát Tường Thiên Mẫu trấn áp, thì con dân cũng bị phạt nhốt trong Ác Ma thành nằm trên một bình nguyên đồng cỏ, xung quanh là những cọc đồng nhọn hoắt chọc trời, chim ưng đầu trọc màu nâu đỏ bay lượn trên cao, hồn ma dật dờ khắp chốn, rắn độc lổm ngổm đầy mặt đất, giữa những dãy núi đỏ lừ là một biển máu sục sôi. Còn Tử Kỳ Lân chính là thần thú đã giúp Cát Tường Thiên Mẫu đánh bại và canh giữ Tán ma. Những câu chuyện thần thoại xa xưa này đã bị vùi chôn dưới lớp bụi lịch sử từ lâu, chỉ có cha tôi là còn nhớ thôi.”
Trương Lập hỏi: “Giờ người chạy mất rồi, có đuổi theo không?”
Trác Mộc Cường Ba gật mạnh đầu: “Nhất định phải tìm được người này, giờ đã gần như có thể khẳng định anh ta biết chuyện Tử Kỳ Lân.”
Trương Lập nghe hai người đối thoại, cũng hiểu ra được vài manh mối, biết hai người tốn bao công sức như vậy, chẳng qua chỉ muốn tìm một con chó, nên trông thấy vẻ nôn nóng hiện rõ trên mặt Trác Mộc Cường Ba, trong lòng không khỏi thầm tức cười. Phương Tân khuyên giải: “Yên tâm, anh ta đã ở đây một thời gian rất dài rồi, chắc chắn là rất dễ tìm.”
Ba người lên xe đi một vòng, tìm người trong vùng hỏi thăm, người đó liền chỉ cho một con đường, sau rồi làu bàu: “Thằng ăn mày điên đó có gì hay, mà liên tục có người tìm hắn thế nhỉ?”
“Gì hả?” Trác Mộc Cường Ba và Phương Tân cùng giật nảy mình kinh ngạc, vội hỏi dồn. Người kia nói: “Thì hai ngày trước đó, có một cô gái, tầm mười bảy mười tám gì đấy, cũng hỏi tên điên ấy ở đâu,  mấy người biết nhau à?”
Phương Tân lắc đầu. Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt, lớn giọng nói: “Một cô gái trẻ?! Anh có nhìn rõ không, sau đó cô ta đi đâu rồi?”
Người kia giật mình đánh thót, vội đáp: “Tôi không biết đâu. Cô ta chỉ là hỏi đường kiếm người, tôi làm sao biết được cô ta đi đâu chứ? Cô ta không phải người Tây Tạng.”
“Anh quen hả?” Phương Tân hỏi. Trác Mộc Cường Ba thấy hai người đang nhìn mình, vội lấp liếm: “Không… không phải, tôi chỉ nghĩ, liệu có người nào khác cũng đang tìm Tử Kỳ Lân không. Nếu người khác tìm ra trước, thì hỏng bét cả.”
Phương Tân biết rất rõ gã học trò này của mình không biết nói dối, bèn ngẩng đầu lên nhìn Trác Mộc Cường Ba “ừm” một tiếng. Trác Mộc Cường Ba không dám nhìn thẳng, nét mặt ngượng nghịu, rất giống đứa học trò tiểu học làm chuyện sai quấy, lung túng: “Chúng ta mau đi tìm người điên đó đi, nếu không, nếu không, anh ta đi mất thì…”
Ba người đến chỗ ở tạm của người điên, nhà cửa toàn bộ dựng bằng gỗ, chống bằng cột, cách mặt đất bốn năm mét, tấm vải năm màu trên nóc đầy dấu muội than, trước cửa có vẽ mặt trăng, mặt trời và mây lành, hai bên bậu cửa xếp bằng đá trắng, ở giữa đặt một chiếc sừng trâu. Cửa không khoá, đẩy ra bước vào, trong phòng trống không, gió thổi vút qua, mùi phân nước tiểu hòa lẫn với mùi thức ăn thiu thổi xộc vào mũi. Ba người đảo mắt nhìn quanh, thấy trên trần nhà còn có bích hoạ truyền thống của Tạng giáo, một căn phòng bên trong hướng về phía mặt trời là Phật đường, am thờ đã bị dọn sạch, trong phòng bụi phủ dày, một góc chất đống vô số quần áo rách tả tơi, xem ra được dùng làm giường ngủ. Bốn căn phòng đều không có người. Trác Mộc Cường Ba và Phương Tân đang thầm lo lắng, không biết người điên kia đã đi đâu mất, chợt nghe Trương Lập kêu lên: “Ở đây này!”
Trác Mộc Cường Ba và Phương Tân vội chạy vào Phật đường nơi Trương Lập đang lục soát, thấy anh ta mở cửa sổ, chỉ tay xuống con ngõ nhỏ bên dưới, người điên đang nằm rúc thành một đống, đen trùi trũi như con nhím, không nhìn kỹ thật khó mà phát hiện ra. Ba người vội rời nhà, vòng ra phía sau. Trương Lập đi bên trái, Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân đi bên phải, dồn người điên vào con ngõ nhỏ sau căn nhà.
Nhưng liền đó họ nhận ra làm vậy là thừa, vì người điên cuộn thu lu một đống, cả thân mình rúc trong tấm chăn dày màu đen không biết làm bằng chất liệu gì, run lên cầm cập, đầu dúi hết sức vào tấm chăn, thi thoảng thò ra ngó nghiêng, tròng mắt đảo vẻ đầy bất an và sợ hãi, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc từ một bãi xú uế to tướng, không ngờ đã mất kiểm soát mà đại tiểu tiện cả ra.
Bọn Trác Mộc Cường Ba trong lòng đầy kinh ngạc, nhìn theo ánh mắt y, trông thấy một thứ lông lá xồm xoàm, thì ra là một con chó đen nhỏ cỡ bốn, năm tháng tuổi, đi đứng còn chập chững. Người Tạng coi chó như thần, nhiều nơi thờ cúng tô tem, bái tế linh thần đều là tượng thần chó, người Tạng tôn kính con chó như người Ấn Độ tôn kính bò thần vậy, vì thế chó lớn chó nhỏ đều có thể đi nghênh ngang khắp đường lớn, ngõ nhỏ. Ở thánh địa Lhasa , có một độ chó nhiều đến thành nạn, chỉ riêng mấy thứ chúng thải ra đã đủ khiến người ta phải đi đứng dò dẫm thận trọng từng bước rồi. Bất kể đâu trên đất Tạng, chuyện phát hiện ra một vài đàn chó hoang chẳng có gì là lạ, nếu là người kinh nghiệm, có con mắt tinh tường còn có thể tìm ra giống chó tốt trong đó, thậm chí là ngao.
Nhưng con chó nhỏ này, Trác Mộc Cường Ba và Phương Tân thoáng nhìn đã biết chỉ là chó hoang tầm thường, với kích cỡ và sức lực của nó bây giờ, quả không thể uy hiếp một người trưởng thành, bọn họ không sao hiểu nổi, cớ gì người điên sợ hãi đến thế. Con chó nhỏ đang đi kiếm ăn, thấy bánh của người điên rơi dưới đất, tất nhiên mon men chạy đến. Mắt người điên muốn lòi cả ra ngoài, miệng không ngừng kêu lên những tiếng khàn khàn, con chó mà đến gần hơn nữa, e rằng y sẽ ngất xỉu. Trác Mộc Cường Ba liền sải chân bước tới, nhẹ nhàng để tay lên cổ con chó, nó dừng ngay tại chỗ.
Người điên gào ầm ĩ như lên cơn: “Đi đi! Đi đi! Mang đi! Nhanh mang nó đi!” Y nói bằng tiếng địa phương ở Nam Tây Tạng rất hiếm người hiểu được, cũng may Trác Mộc Cường Ba vốn là người xứ đó.
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười, nhấc con chó len, đung đưa trước mặt người điên, nói: “Sao hả? Biết nói chuyện rồi à?”
Lồng ngực người điên phập phồng dữ dội, hai mắt không dám nhìn vào tay Trác Mộc Cường Ba, gã khẩn  khoản: “Mang nó đi, nhanh lên! Xin ông.”
Phương Tân đưa tay giữ con chó lại, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Xem ra, anh ta thật sự rất sợ con vật này, đừng làm anh ta sợ quá lăn ra chết đấy.”
Trác Mộc Cường Ba khẽ vung tay, đưa con chó cho Trương Lập đứng phía sau, rồi mới hỏi: “Tôi hỏi anh, anh là người bộ tộc Qua Ba hả? Thông làng của các anh ở đâu? Tại sao anh lại ở đây một mình?”
Người điên nhìn chằm chằm vào con chó nhỏ trên tay Trương Lập, để lộ ánh mắt cực kỳ sợ hãi nhưng cũng tràn đầy oán hận, răng đánh vào nhau cầm cập, nhưng lại như đang cố nghiến chặt: “Chết rồi! Nó đến rồi, chết cả rồi!”

Tuy Phương Tân không hiểu người điên đang nói gì, nhưng ông để ý thấy tai trái y sứt một miếng, tuy vết thương đã lành từ lâu, nhưng nhìn vết sẹo còn lại thì rất giống bị chó cắn.
Trác Mộc Cường Ba chau mày, hỏi: “Cái gì chết rồi? Anh nói rõ xem nào.”
Người điên rớt dãi ròng ròng, ánh mắt lơ mơ, ngây dại nói: “Tất cả dê, đều bị cắn chết cả rồi!” Anh ta dường như nhớ lại được cái gì đó, trong cơn sợ hãi thoáng lộ vẻ lãnh đạm với cái chết.
Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy, trong lòng thầm kinh hãi không hiểu ở đâu ra cái ánh mắt lạnh lẽo, cơ hồ không có chút sinh khí nào kia, lờ mờ cảm nhận được gì đó. Gã chụp hai vai người điên, lắc mạnh: “Còn người? Người trong làng đâu?”

Người điên thoáng như cười mà chẳng phải cười, bình tĩnh nói: “Tất cả mọi người, đều bị cắn chết rồi.”
Trác Mộc Cường Ba đã chuẩn bị tâm lý, nhưng tim vẫn đập loạn xạ, ở thôn làng bộ tộc Qua Ba đó, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Người sống sót duy nhất phát điên, rốt cuộc y nhìn thấy cảnh tượng gì vậy? Nếu y tỏ ra cực kỳ sợ hãi, gã còn có thể an ủi vỗ về, nhưng y lại làm ra vẻ lạnh lùng hờ hững, mạng sống của người trong cả một làng, đối với y khác nào đàn kiến bị giẫm chết đâu. Nét mặt lạnh tanh này khiến Trác Mộc Cường Ba lạnh toát toàn thân, sống lưng tê buốt. Người điên đột nhiên bỗng há miệng đọc rống lên một đoạn Phạn văn dùng trong tế lễ, nghe như nguyền rủa: “Ma quỷ phản lại Phật lấy máu nhuộm đỏ nhà của Thần, thần thú canh giữ bốn phương sống lại…”
Trương Lập đứng cạnh thấy người điên kia vừa khóc vừa cười, lúc rên lên ư ử, lúc hát rống lên, chẳng biết có ý định gì, lẩm bẩm nói: “Tên điên này, đang làm gì vậy nhỉ?” Phương Tân vội đưa tay ngăn anh ta lại, ra hiệu Trương Lập không được lên tiếng.
Tuy Phương Tân biết tiếng Tạng, nhưng thứ phương ngôn này ông nghe không hiểu, có điều nhìn nét mặt của Trác Mộc Cường Ba, ông nhận ra gã hiểu và đang lắng nghe xem người điên kia nói gì.
Ước chừng nửa tiếng sau, Trác Mộc Cường Ba mới đứng dậy, thần sắc nặng nề, người điên kia vẫn lúc cười lúc hát, lúc lại khóc lên tu tu. Phương Tân quan tâm hỏi: “Sao rồi?”

Trác Mộc Cường Ba mở miệng, bất ngờ nhận thấy bản thân quá căng thẳng nên không thể thốt thành tiếng, gã nuốt nước bọt một cách khó nhọc, hồi lâu sau mới nói khàn khàn: “Tử Kỳ Lân có lẽ ở gần làng của họ, chỉ là… chỉ là không biết đã xảy ra chuyện gì. Người trong làng ấy e là chết sạch cả rồi, chỉ còn mình anh ta thoát được.”
Phương Tân nôn nóng ngắt lời: “Bị Tử Kỳ Lân…” Nói tới đây thì tắc nghẹn.”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không biết. Anh ta không nói hẳn như vậy, đây chỉ là suy đoán thôi. Thầy giáo, thầy biết Tứ Phương miếu không?”
Phương Tân ngẩn người, ông am hiểu văn hoá Tạng, nhưng Tứ Phương miếu thì hình như chưa bao giờ nghe nói. Trác Mộc Cường Ba biết không ít những chuyện Tây Tạng không có ghi trong chính kinh chính sử từ cha mình. Còn Trương Lập thì chỉ biết nghe mà thôi.
Trác Mộc Cường Ba thủng thẳng: “Từ khi Tán Phổ đời thứ ba mươi ba chấn hưng Phật giáo đến nay, Lhasa được coi là trung tâm của thánh địa, núi Cương Nhân Ba Tề, núi Mạc Nhĩ Đa, núi Cống Bố Nhật Thần, núi Niệm Thanh Đường Cổ Lạp - tứ đại thần sơn như một bàn tay, nâng niu viên minh châu ở giữa này. Còn Đại Chiêu tự thì ở trung tâm khu thành trì cũ, là chính tâm tự, phía Đông có Tang Gia tự cổ xưa nhất, phía Bắc là Xung Cổ tự ở Niệm Thanh, phía Tây có Bạc Bang Ca, phía Nam có Tát Già tự, bốn ngôi chùa này gọi là Tứ Phương miếu.”
Trác Mộc Cường Ba nói xong, Phương Tân liền nhớ ra, tiếp lời: “Tôi biết rồi, chính là Tứ Phương thần miếu mà Bản giáo (1) lưu truyền. Khi nghe kể truyền thuyết này, tôi đã vô cùng kinh ngạc,  Bản giáo vốn là tôn giáo nguyên thuỷ ở Tây Tạng, hoàn toàn không hợp với Phật giáo, thánh miếu của Phật giáo sao lai có thể thông qua Bản giáo để lưu truyền, hơn nữa trong bốn ngôi chùa này có Bạc Bang Ca được xây dựng từ thời Tùng Tán Can Bố, Tang Gia tự, Tát Già tự, xây cách nó chừng hơn trăm năm, còn Xung Cổ tự lại cách đó những hơn hai trăm năm, là kiến trúc của thời kỳ Phật pháp phát triển, mấy ngôi chùa miếu này căn bản chẳng liên quan gì đến nhau, tại sao lại hợp chung làm Tứ Phương miếu chứ?”
Trong mắt Trác Mộc Cường Ba thoáng lộ vẻ bất an, gã nhìn sắc trời đang dần ảm đạm hơn, lẩm bẩm: “Tôi cũng không rõ lắm, có lẽ ông già tôi biết, đến lúc phải về nhà rồi.”
Phương Tân vỗ nhẹ lên vai gã như an ủi, ôn tồn nói: “Về nhà đi, thế nào cũng phải về nhà. A ma anh đang đợi đó!”
 
.
(1) Còn gọi là Hắc giáo, nhưng không phải một chi phái thuộc đạo Phật như Hoàng giáo, Bạch giáo, mà là tôn giáo nguyên thuỷ ở Tây Tạng, tương tự như đạo Shaman, sùng bái các thần linh trong thế giới tự nhiên. Bản giáo nguyên thuỷ chia thế giới làm ba phần - trời, đất, dưới đất; các vị thần trên trời gọi là Tán (btsan), các thần trên mặt đất là Niên (gnyan), các thần dưới đất là Lỗ (klu).
Sau khi Phật giáo truyền vào Tây Tạng, Bản giáo và Phật giáo đã có xung đột gay gắt, cho đến thời Xích Tổ Đức Tán, Tán Phổ đứng ra chủ trì một cuộc biện luận giữa Phật giáo và Bản giáo. Bản giáo bị thua, từ đó phải lui về, để Phật giáo trở thành tôn giáo chính thức ở Tây Tạng. Về sau tranh chấp vẫn chưa dứt, đại thần Lang Đạt Mã đoạt quyền trong tay Xích Tổ Đức Tán, chủ trương diệt Phật, Bản giáo lại lên ngôi. Đây có thể xem là một lần phản kích nặng nề của Bản giáo đối với Phật giáo. Sau đó, Lang Đạt Mã bị ám sát, Phật giáo trở lại vị trí tôn giáo chính thức ở Tây Tạng.

 
Trí giả ở Đạt Ngoã Nô Thố
 

Người điên nhảy múa đi về căn nhà bẩn thỉu của mình, bọn Trác Mộc Cường Ba ba người có vẻ đã nắm được thông tin cần biết, cũng không cản y lại.
Kỳ thực, trong  lòng Trác Mộc Cường Ba còn rất nhiều nghi vấn, nhưng gã biết, có hỏi thêm cũng không thể biết được nhiều hơn từ miệng người điên này nữa, dõi theo bóng lưng y đi xa dần, gã thở dài: “Hà, chúng ta đi thôi.”
Trương Lập nhìn sắc trời bảo: “Muộn quá rồi, chi bằng ở luôn đây nghỉ một đêm, ngày mai mới đi?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Không, đêm nay phải trở về gấp.” Phương Tân gật gật đầu, ra hiệu cho Trương Lập lái xe.
Phương Tân đọc được trong ánh mắt gã sự kính sợ. Trác Mộc Cường Ba sợ cha. Đức Nhân lão gia không cao bằng Trác Mộc Cường Ba, tuổi tác đã cao, cả thể chất lẫnh tinh thần đều không bì được với Cường Ba, nhưng gã rất kính sợ. Trước mặt cha, Trác Mộc Cường Ba hệt như đứa trẻ đã sai quấy chuyện gì đó, làm cái gì cũng cẩn thận từng li từng tí, lỡ làm không đúng một chuyện nhỏ, chưa cần Đức Nhân lão gia mắng mỏ, chính gã đã sợ đến nỗi tim đập thình thịch. Thậm chí nghe tiếng ho của cha, gã cũng cảm thấy tim đập nhanh hơn, lông tóc dựng đứng. Bởi vì Đức Nhân lão gia là bậc đại trí giả của phương Nam, nhà họ rất nhiều quy củ, cực kỳ nghiêm khắc, Trác Mộc Cường Ba là con trai duy nhất, đối với những quy củ trong nhà, gã cảm thấy rất sợ hãi nhưng cũng không thể làm gì được.
Mỗi lần về nhà, Trác Mộc Cường Ba đều hy vọng cha đã ra ngoài, chỉ khi ở cùng mẹ, gã mới có cảm giác an toàn. Đặc biệt là những năm gần đây, chuyện Trác Mộc Cường Ba làm, cha gã không ủng hộ, trong mắt Đức Nhân lão gia, chó là bạn của con người, được thần linh trên trời đưa xuống phàm trần để cứu giúp nhân loại, địa vị của chúng so với con người thậm chí còn cao hơn một bậc, cần đặt tượng thần chó lên bàn thờ mà kính phụng. Còn Trác Mộc Cường Ba thì đang làm gì chứ, gã bắt hết cả chó lại, nhốt trong lồng, đem đi bán lấy tiền, chỉ riêng một điểm này, mỗi lần gã về đều bị cha trách mắng. Theo quy củ trong nhà, khi chay dạy bảo, Trác Mộc Cường Ba phải quỳ dưới đất, cúi đầu xuống, cha không cho mở miệng thì gã không được mở miệng biện bạch. Nhưng lần này thì khác, lần này giáo sư Phương Tân đến. Đức Nhân lão gia rất có cảm tình với giáo sư Phương Tân, hai người tuổi tác tương đương, tính cách tương hợp, người này kính trọng kiến thức của người kia, từ thuở gặp mặt lần đầu đã trò chuyện như bạn cũ mười năm. Giáo sư Phương Tân nghiên cứu học thuật rất chuyên nghiệp về Phật giáo ở Tây Tạng, thành thực đất Tạng và lịch sử Tây Tạng, đây cũng là kinh nghiệm ông tích luỹ được khi nghiên cứu Tạng ngao, hơn nữa, tuyệt đại đa số đều bắt nguồn từ Đức Nhân lão gia cả.
Có Trác Mộc Cường Ba chỉ đường, Trương Lập lái xe gần hai tiếng đồng hồ, cuối cùng cũng đến được Đạt Ngõa Nô Thố vào lúc trời đã tối đen như mực. Xe dừng, ba người đi vào nhà Trác Mộc Cường Ba, một nội viện Tây Tạng điển hình. Vừa đi qua cổng, đã thấy một ông già người Tạng đang quét dọn trong vườn, xung quanh đốt nến. Trác Mộc Cường Ba thân thiết gọi: “La Ba a khố!”
Ông già người Tạng ngẩng đầu lên, ngước đôi mắt đã mờ đục nhìn Trác Mộc Cường Ba, xúc động nói: “Thiếu gia? Cường Ba thiếu gia? Cậu trở về rồi. La Ba nhớ cậu muốn chết, mau vào gặp a ma của cậu đi, bà ấy cũng nhớ cậu lắm đấy. Để tôi đi báo cho lão gia.” Nói xong, ông lão bỏ luôn cây chổi xuống, chạy vào Phật đường.
Trác Mộc Cường Ba hơi biến sắc mặt, lộ ra vẻ cam chịu, lẩm bẩm nói: “A ba cũng ở nhà à? Thầy giáo, đội trưởng Trương, hai người ở đây đợi tôi, tôi vào thăm a ma một chút.”
Trương Lập nhìn xuống đất, lại nhìn những ngọn đèn quanh sân, ngạc nhiên hỏi: “Sao trời tối như vậy mới quét dọn?”

Phương Tân giải thích: “Ban ngày cái sân nhỏ này lúc nào cũng chặt cứng người tới nghe trí giả truyền giáo. Đoàn trưởng của các anh cũng từng được ban phúc ở đây đấy.”
Trương Lập thấy hướng đi của Trác Mộc Cường Ba và hướng đi của ông già La Ba kia khác nhau, lại ngạc nhiên hỏi tiếp: “Cha mẹ của Cường Ba thiếu gia không ở cùng nhau sao?”
Phương Tân đáp: “Đây là quy củ trong gia tộc bọn họ, cho dù là thân cận như vợ, con, muốn gặp Đức Nhân lão gia, cũn phải thông báo trước, Đức Nhân lão gia đồng ý gặp thì mới được vào.”
“A!” Trương Lập kinh ngạc thốt lên, “Đây là quy củ gì vậy?”
Phương Tân lại giải thích: “Đây là quy củ địa vị của bậc trí giả phải cao hơn người khác. Vì vậy ở phương Nam này, Đức Nhân lão giao, giống như một nửa Phật Sống vậy.”
Trương Lập nói: “Tôi thấy Cường Ba thiếu gia hình như hơi sợ cha mình thì phải.”
Phương Tân cười ha hả, nói: “Không phải hơi sợ, mà là rất sợ, từ nhỏ đã bị quy củ nghiêm khắc như vậy gò bó, với tính cách của Trác Mộc Cường Ba, khẳng định là có phạm lỗi, phạm lỗi rồi thì không tránh khỏi bị trừng phạt nghiêm khắc, cho dù vết thương đã lành cả rồi, nhưng trong lòng vẫn sẽ để lại chướng ngại tâm lý.”
Trương Lập “ồ” một tiếng, nói: “Lẽ nào Đức Nhân lão gia còn lợi hại hơn cả Cường Ba thiếu gia?” Anh ta nghĩ đến hình thể của Trác Mộc Cường Ba, thầm mường tượng ra Đức Nhân lão gia.
Phương Tân nói: “Không, thực ra Đức Nhân lão gia, không cao lớn như Trác Mộc Cường Ba, ông ấy cũng giống như tôi, chỉ là một ông già mà thôi.”
“Vậy mà Cường Ba thiếu gia vẫn sợ thế ư?” Trương Lập vẫn không hiểu.
Phương Tân nói: “Đó là uy nghiêm, một sự uy nghiêm tràn đầy trí tuệ, rất khó hình dung bằng ngôn ngữ, nếu có cơ hội, anh được gặp Đức Nhân lão gia, tự nhiên anh sẽ hiểu thôi.”
Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đã đi ra, bên cạnh gã còn có một người đàn bà Tạng trung niên, giống như tất cả những phụ nữ lao động dân tộc Tạng khác, bà đội khăn đầu, mặc áo Tạng, khuôn mặt đã hơi nhăn nheo, nhưng rất tươi tắn, dựa vào Trác Mộc Cường Ba cao hơn mình cả cái đầu. Khoảng khắc đó khiến Trương Lập trong lòng chấn động, cái gì là hạnh phúc, anh ta có thể đọc được trên gương mặt của người phụ nữ Tạng này.
Trác Mộc Cường Ba kéo tay người phụ nữ, chỉ vào Phương Tân đứng xa xa nói: “A ma, đô na!”
Người phụ nữ mừng rỡ nói: “A, phương hành trát tây, trát tây đức lặc!”
Phương Tân đáp: “Trát tây đức lặc, Mai Đoá mạc bố, thiết nhượng giới ví gia bố cùng.”
Ba người dùng tiếng Tạng nói chuyện, Trương Lập đứng đó, chẳng hiểu câu nào, Trác Mộc Cường Ba thấy anh ta lúng túng, bèn giải thích: “A ma của tôi không biết tiếng Hán.” Về sau nghe người phụ nữ tên là Mai Đoá đó nói: “Á phụng hứa điếm gia.” Trác Mộc Cường Ba mới bảo: “A ma mời hai người vào trong ngồi.”
Ba người vào một gian sảnh bên, ngồi xếp bằng, bà Mai Đoá lấy trà bánh ra tiếp khách, Phương Tân đưa hai tay đón lấy, Trương Lập cũng học theo, hai tay đón lấy bát trà.
Ba người Trác, Phương, Mai vui vẻ trò chuyện. Trương Lập đảo mắt nhìn xung quanh, căn phòng nhỏ này vẫn theo lối cũ của dân Tạng, kết cấu rất đơn giản, nhưng trang trí rất hoa lệ. Bức tường kim loại màu vàng được ánh đèn chiếu sáng ngời, bên trên lò sưởi vẽ hình bát bảo cát tường (1), những bức tường còn lại đều là tranh Phật tổ, Bồ Tát, trên trần nhà cũng là tranh Bồ Tát, tất cả tường trong căn phòng này, có thể nói là vách vàng rực rỡ cũng không sai. Một số gia cụ dát vàng được chạm trổ hết sức phức tạp, chiếc tủ kiểu Tạng dựa sát tường, khán thờ nhỏ, bên trên khắc chìm những câu kinh bằng chữ Khoa đẩu, và chiếc kỷ thấp ở giữa, không thứ nào là không tỏ rõ sự hào hoa của chủ nhân. Dưới đất dùng nệm trải lên thảm kiểu Tạng, trên thảm cũng thêu một số bức tranh giảng kinh thuyết đạo của Phật giáo. Nhưng căn phòng này khác với những căn phòng kiểu Tạng mà Trương Lập đã thấy, nó không có sofa, cũng không có ti vi hay những đồ điện gia dụng hiện đại gì hết.
Phương Tân thấy Trương Lập cứ ngoảnh đi ngoảnh lại, nhìn quanh bốn phía, liền thấp giọng nhắc nhở: “Đừng nhìn lung tung, thế là rất bất lịch sự.”
Một lát sau, ông lão người Tạng tên La Ba kia đi vào, dùng tiếng Tạng chào hỏi bà Mai Đoá xong, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba thiếu gia, lão gia gọi cậu!”
Cường Ba thiếu gia lè lưỡi với mẹ, làm mặt quỷ, rõ ràng  là muốn nói: “Lại ăn mắng rồi.” A ma gã nói mấy câu hình như an ủi, rồi Cường Ba rón rén đi ra.
Không lâu sau, liền nghe thấy một giọng già nua, người còn ở ngoài cửa, đã nói bằng tiếng Hán lưu loát: “Giáo sư Phương Tân, thằng nhãi Cường Ba này thật không lễ độ, lại không bảo trước cho tôi, làm anh phải đợi ở đây lâu như vậy.”
Giáo sư Phương Tân đứng dậy, ra cửa đáp: “Đức Nhân a la, lâu rồi không gặp tôi vẫn luôn rất nhớ ông.”
Trương Lập thầm nhủ, Đức Nhân lão gia đến rồi, liền quay đầu lại nhìn, một ông già thân hình hơi mập, tinh thần quắc thước đang đứng ngoài cửa. Đức Nhân lão gia không để râu, nhìn tướng mạo, Trác Mộc Cường Ba giống ông nhu khuôn đúc, nhưng khuôn mặt ông rộng hơn một chút, ánh mắt hiền hoà, trong lúc nói chuyện, tự nhiên toát lên vẻ uy nghiêm, khiến người ta có cảm giác vừa thân thiết lại vừa kính trọng.
Đức Nhân lão gia ôm chặt giáo sư Phương Tân, sau đó ngồi chỗ đầu tiên bên trái lò sưởi, giáo sư ngồi sát cạnh ông, bên cạnh là Trác Mộc Cường Ba, Trương Lập ngồi sau cùng, bà Mai Đoá ngồi chỗ đầu tiên bên phải, lão La Ba đứng cạnh một bên.
Đức Nhân lão gia nói giọng rất bình thản, điềm đạm, nhưng toát lên sức mạnh áp chế lạ lùng: “Người điên mà mọi người tìm thấy ta cũng biết. Có lẽ, đây chính là ý trời, bộ tộc Qua Ba sớm muộn gì cũng bị thần linh trừng phạt, điều này đã được quyết định từ mấy nghìn năm trước rồi.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Ồ, lẽ nào Đức Nhân a la sớm đã đoán trước được số mệnh của bộ tộc Qua Ba?” Câu này hỏi nghe hết sức thành khẩn, không hề có ẩn ý châm chọc, bởi vì Phương Tân biết, đối với bậc trí giả mà nói, rất nhiều chuyện vượt qua sức tưởng tượng của con người.
Đức Nhân lão gia đáp: “Những lời người điên đó lảm nhảm, Cường Ba đại khái cũng nhớ được một ít, đã nói lại cho tôi rồi. Đó là một điểntrong kinh Phật. ‘Bất động minh vương chú giáng yêu trừ ma!’”
“A!” Phương Tân cũng đã nghĩ những câu thổ ngữ nghe như hát kia có thể là văn khấn của một buổi tế lễ nào đó, nhưng không ngờ lại chính là “Bất động minh vương chú”, Phật kinh có tam đại mật chú để giáng ma: “Bất động minh vương chú”, “Đại bi chú”, “Lục đạo luân hồi chú”, đều là những điển tịch cao nhất trong kinh Phật, phải là cao tăng đắc đạo giữ được lòng sáng mới được truyền dạy; đó là tượng trưng của tín ngưỡng và thân phận địa vị, tuyệt đối không phải là kinh văn mà một người điên như vậy có thể học được. Nhưng người điên đó làm sao biết được? Phương Tân nghi hoặc trong lòng, lộ ra cả nét mặt.
Đức Nhân lão ra nhận ra mối nghi hoặc trong lòng giáo sư Phương Tân, liền giải thích: “Theo Bồ Đề tổ tâm kinh của chúng tôi, bộ tộc Qua Ba gần mực thì đen, trở thành nô bộc của đại ác ma Tán ma, bị Cát Tường Thiên Mẫu trừng phạt, phải ở trong thành Ác Ma. Tuy đó chỉ là truyền thuyết huyễn hoặc, mục đích là để điểm hoá người đời, nhưng thân phận thực sự của người Qua Ba chính là người canh gác Tứ Phương miếu, canh gác toà miếu cuối cùng ở cực Nam, Nghi thức tế bái trong làng được truyền từ đời này qua đời khác, bọn họ là bộ tộc duy nhất biết lối vào của thánh miếu phương Nam, nhưng giáo quy cực kỳ nghiêm khắc, căn bản không cho bất cứ người nào trong làng được lại gần Cực Nam thánh miếu. Còn “Bất động minh vương chú” đó, chính là được khắc trên mình thần thú hộ vệ trước miếu.”
Phương Tân lại hỏi: “Nhưng mà, có Tứ Phương miếu thật sao? Theo những tư liệu tôi có được, Tứ Phương miếu phân bố không hề đối xứng, mà thời gian xây dựng lại càng cách xa nhau hơn, hình như không có khả năng quy vào một mối thì phải.”
Đức Nhân lão gia cười cười, tay trái chỉ vào giữa hai chân mày, kế đó kết thành trước ngực, tỏ ý nói Phương Tân là người trí tuệ cao sâu, sau đó nói: “Tứ Phương miếu mà bây giờ vẫn gọi, là khái niệm mơ hồ mà người sau căn cứ theo Thi kinh, Sử kinh của người xưa để lại mà luận ra, chỉ có trong giáo lý của cổ giáo Ninh Mã vẫn lưu lại cách xưng hô này. Còn Bạch giáo, Hoa giáo về sau vì thuyết này không thể khảo sát, nên đã bỏ không gọi nữa. Còn nguồn gốc cách gọi Tứ Phương thánh miếu của Ninh Mã giáo, lại bắt nguồn từ Bản giáo Tạng truyền, vì vậy không được các giáo phái khác tiếp nhận. Sự thực, Tứ Phương miếu mà tổ tiên chúng tôi nhắc đến, là bốn toà miếu tự lúc Đại Pháp vương hắc đạo, mới ban bố giáo lý, để lại bốn mặt Thánh sơn. Bốn ngôi miếu này không nằm ở cực Đông, cực Tây, cực Nam, cực Bắc mà tuân theo giáo lý nhà Phật, nằm ở các góc của chữ Vạn, theo kinh văn Ninh Mã ghi chép, lần lượt gọi là Đang Nhã Cống Bố, Đức Cách Lạp Khang, Hoà Bản Lợi Tạng Tông, Sắc Quả Lạp Mẫu; còn theo ta suy đoán, bốn tên này có lẽ đại biểu cho chùa Giáng Chân Cách Kiệt ở phía Tây Bắc, chùa Cách Tát Lạp Khang ở Tây Nam, chùa Bồ Khúc ở Đông Bắc, Sắc Cát Lạp Khang ở phía Đông Nam. Thứ mà bộ tộc Qua Ba đời đời bảo vệ, chínhh là Tứ Phương miếu chính thống này.”
Phương Tân nghe xong, lại càng nghi hoặc, thầm nhủ: “Chùa Bố Khúc? Không phải chùa Tang Gia sao? Sắc Cát Lạp Khang là chùa nào? Ở đâu?” Ông đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, thấy gã cũng chau mày, hiển nhiên là đang lục tìm trong ký ức.
Cả lão bộc tên La Ba kia, cũng cảm thấy nghi hoặc với những tên chùa mà Đức Nhân lão gia vừa nói, rõ ràng Đức Nhân lão gia chưa nhắc đến bao giờ. Chỉ có Trương Lập không hề hứng thú với những chuyện này, anh ta đến Tây Tạng thời gian còn ngắn, chưa có hiểu biết gì về văn vật cổ tích của đất Tạng, từ đầu đến cuối chỉ chú ý đến bà Mai Đoá mẹ Trác Mộc Cường Ba. Người mẹ hiền hậu này, nãy giờ vẫn chăm chú ngắm đứa con cao lớn của mình, khuôn mặt lúc nào cũng nở nụ cười hoà nhã, một nụ cười thoả mãn, rất hiển nhiên, bà hết sức thoả mãn với cuộc sống trước mắt của mình. Không hiểu tại sao, Trương Lập luôn thấy bóng dáng mẹ mình trên gương mặt người phụ nữ Tạng chất phác này, mẹ anh ta ở quê, quanh năm làm việc vất vả, gương mặt từng trải phong sương cũng sớm in đầy những nếp nhăn. Nụ cười của mẹ cũng hạnh phúc và an lành như vậy. Đã hai năm không về nhà, cứ lặng lẽ ở vùng cao nguyên lạnh lẽo này, Trương Lập biết mẹ ở nơi xa xôi đang khắc cốt ghi tâm nhớ mong mình, cũng như mình đang nhớ mẹ vậy. Nhưng anh vẫn kiên quyết canh giữ nơi đây, không chỉ vì lý do lớn “tổ quốc yêu cầu”, mà quan trọng hơn là, khi hoàn thành nhiệm vụ trấn thủ biên giới Tây Tạng này, anh có thể một lần lĩnh hai trăm nghìn tiền trợ cấp đặc biệt, có món tiền này, sau khi chuyển ngành về nhà, anh có thể mua một chỗ ở trong thành phố, để mẹ và người nhà đều được sống trong thành phố, đây là tâm nguyện bức thiết nhất mà cũng lớn nhất của Trương Lập.
Lúc này, Phương Tân đã mang nghi vấn trong lòng nói ra, Đức Nhân lão gia chỉnh lại mép chiếc áo kiểu Tạng, làm nó càng gọn gàng chỉnh tề hơn, ông rủ rỉ nói: “Đây là một bí mật, nếu không phải từ nhỏ tôi đã có thể đọc thuộc lòng toàn bộ ‘Bồ Đề Tổ tâm kinh’, đồng thời hoàn toàn thông hiểu thì cũng không thể cho mọi người một đáp án.” Phương Tân biết rõ, ‘Bồ Đề Tổ tâm kinh’ đó, chính là cổ kinh Ninh Mã được cất trong Bố Đạt La cung, là chí bảo gia truyền của nhà Trác Mộc Cường Ba.
Đức Nhân lão gia ngồi thẳng hơn nữa, toàn thân lại toát lên vẻ trang trọng, ai nấy đều chịu ảnh hưởng, không khí thành ra thêm phần nghiêm trang. Đức Nhân lão gia nói: “Chuyện này, liên quan đến đại tai kiếp của Phật giáo.” Ba người Phương, Trác, La cùng lúc “ồ” lên một tiếng, tuy vẻ mặt mỗi người khác nhau, nhưng xem ra đều đoán được một đôi phần. Quả  nhiên, Đức Nhân lão gia nói: “Phật giáo Tạng truyền” (2), vốn được các đời Pháp vương tuyên truyền, hoằng dương Phật pháp, nhưng đến đời Tán Phổ thứ bốn mươi hai, lại làm ngược lại, ra sức diệt Phật. Sau khi Tạng Vương đời thứ bốn mươi hai Lãng Đạt Mã kế vị, đã ra sức diệt Phật, cấm dịch Phật điển, đốt đền huỷ chùa, phá hoạt tượng Phật, kinh điển, sát hại tăng lữ, Phật giáo  Tây Tạng chìm vào thời kỳ đen tối. Lãng Đạt Mã diệt Phật có một duyên cớ. Chuyện kể rằng có ba anh em xây tháp ở Nepal, khi tháp hoàn thành, họ làm lễ ‘hồi hướng’, dựa vào nguyện lực của ba người, lần lượt chuyển thể thành Xích Tùng Đức Trinh (3), Liên Sư (4), Tịch Hộ (5). Nhưng bọn họ lại quên mất không làm lễ cho con bò cũng phải vất vả làm việc, con bò phẫn hận, thề sẽ phá hoại ngăn cản bọn họ hoằng dương Phật pháp. Vì thế đỉnh đầu Lãng Đạt Mã gồ lên như sừng bò, ‘Lãng’ có nghĩa là ‘bò’, ‘Đạt Mã’ là lưu chuyển, chính là muốn nói, Lãng Đạt Mã là con bò chuyển thế.”
(1)Bát bảo cát tường (tám vật may mắn) hay Bát cát tường, còn gọi là Bát thuỵ cát tường, tiếng Tạng là “Trát tây đạt kiệt”, là môt loại tinh phẩm hội hoạ kiểu tổ hợp rất thường thấy ở Tây Tạng, nhưng nội hàm rất sâu sắc. Phần lớn đều được thể hiện dưới hình thức bích hoạ, đôi khi dưới hình thức phù điêu hay điêu khắc, biểu tượng may mắn này gắn liền với Phật giáo, thường thấy trên đồ dùng, trang sức của người Tạng.
Tám vật này gồm:
Bảo tản (cái ô), tiếng Phạn là CHATTRA, âm tiếng Tạng là Rinchen Dug, tượng trưng cho quyền uy giáo hoá của Phật Thích Ca.
Bảo ngư (con cá), tiếng Phạn là SURVANA MATSYA, âm tiếng Tạng là Sergyi Nya, tượng trưng cho tự do và giải thoát, cũng tượng trưng cho trí tuệ.
Bảo bình (cái bình), tiêng Phạn là KALASHA, âm tiếng Tạng là Terchen-pahi Bumpa, tượng trưng cho A Di Đà Phật, và linh hồn vĩnh hằng.
Diệu liên (hoa sen), tiếng Phạn là PADMA, âm tiếng Tạng là Padma Zangpo, tượng trưng cho phẩm chất gần bùn mà không hôi tanh mùi bùn, cũng tượng trưng cho chính quả.
Bạch hải loa (ốc biển trắng), tiếng Phạn là SHANKHA, âm tiếng Tạng là Dungkar Yakhyil, tượng trưng cho Phật pháp vang vọng tứ phương.
Cát tường kết (gút thắt may mắn), tiếng Phạn là SHRIVATSA, âm tượng Tạng là Palgyi Behu, tượng trưng Phạn Võng Kinh đại biểu cho tất cả triết học và lý luận trong vũ trụ.
Thắng lợi chàng (cờ chiến thắng), tiếng Phạn là DHVAJA, âm tiếng Tạng là Choggi Gyaltshan, tượng trưng cho thắng lợi tu thành chính quả.
Kim pháp luân, tiếng Phạn là CHAKRA, âm tiếng Tạng là Sergyi Khorlo, tượng trưng cho sự toả chiếu của giáo lý nhà Phật.
(2) Là một trong ba nhánh của Phật giáo Trung Quốc, tục gọi là Lạt ma giáo.
(3)  Tạng Vương đời thứ 37.
(4)  Liên Hoa Sinh đại sư: nhà sư Ấn Độ mang Phật giáo Mật tông truyền
vào Tây Tạng nửa sau thế kỷ thứ tám.
(5) Satiraksita (705 – 762): nhà sư Ấn Độ, năm 743 được Tán Phổ Xích Tổ Đức Tán mời đến Tây Tạng, chủ trì việc dịch kinh văn sang tiếng Tạng ở Lhasa.

 
Bí mật về cô gái
Trương Lập cũng đã bị câu chuyện của Đức Nhân lão gia hấp dẫn, giờ mới biết thì ra Phật giáo Tây Tạng từng trải qua một thời đại cực kỳ đen tối. Còn Phương Tân lại ngấm ngầm gật đầu, tuy ông đã nghe chuyện Tạng Vương đời thứ bốn mươi hai diệt Phật và thân thể của ông ta, nhưng chưa biết đến câu chuyện bò chuyển thế diệt Phật giáo hoàn chỉnh như Đức Nhân lão gia vừa kể.
Đức Nhân lão gia lại tiếp: “Phật giáo Tây Tạng vì sự cố Lãng Đạt Mã, phân thành hai thời kỳ, trước và sau. Thời kỳ đầu, Phật giáo Tây Tạng không có gì phân biệt giáo phái, chỉ có tranh chấp giữa Phật giáo và Bản giáo. Cũng vì sau khi diệt Phật, điển tịch truyền lại không giống nhau, nên Phật giáo Tây Tạng mới phân ra mấy nhánh như bây giờ.” Đức Nhân lão gia thấy ánh mắt náo nức của mọi người, khẽ mỉm cười nói: “Không cần nôn nóng, giờ ta sẽ nói chuyện Tứ Phương miếu đây. Trước tiên là nói về chuyện xây dựng Tứ Phương miếu đã nhé. Đại Pháp vương Tùng Tán Can Bố vì khai mở dân trí, cầu Phật ban ân, đã lần lượt phái sứ giả đến ba nước có nền Phật giáo cường thịnh nhất bấy giờ là Ấn Độ, Nepal , Đại Đường, đồng thời xin được cầu thân để tỏ lòng hữu hảo. Cuối cùng công chúa Xích Tôn của Nepal và công chúa Văn Thành của Đại Đường đã lần lượt vào Tạng, công chúa Lăng Già Lan của Ấn Độ vì đường xá vất vả, đi được nửa đường thì mắc bệnh mà qua đời, nhưng đội ngũ tống hành thì vẫn đến được Tây Tạng, ba vị công chúa mang theo rất nhiều kinh điển Phật học, thư tịch và tất cả các pháp khí liên quan tới giáo lý, quan trọng hơn cả là, lúc đó Phật chỉ có ba pho tượng vàng đẳng thân duy nhất, cũng theo các công chúa vào Tây Tạng. Vì công chúa Lăng Già Lan nửa đường quy tiên, nên tượng Phật bằng vàng lúc hai lăm tuổi đã lập tức trở về Ấn Độ, nhưng tượng tám tuổi và mười hai tuổi đều để lại đất Tạng. Chịu trách nhiệm cung phụng chính là chùa Đại Chiêu, Tiểu Chiêu sau này.”
Trương Lập như nhớ ra gì đó, chen miệng vào nói: “À, tôi nhớ ra rồi, đứng vậy, tôi còn đến chùa Đại Chiêu xem tượng vàng rồi nữa.”
Đức Nhân lão gia khẽ lắc đầu nói: “Đó là do về sau các tăng lữ đúc lại để đề xướng Phật học thôi, theo sách cổ ghi chép, tượng vàng đẳng thân của Phật tổ là bằng vàng thật, năm đó khi được đưa vào Tây Tạng, chỉ riêng tượng tám tuổi, đã cần tới mười tám con bò mới kéo được. Thực không dám giấu, pho tượng vàng chân thân đó, sớm đã bị lưu lạc trong trần thế bao la này rồi. Mọi người có thể tưởng tượng, theo cùng tượng vàng đẳng thân quý trọng như vậy vào Tây Tạng có thứ nào là vật tầm thường đâu, lúc ấy phẩm vật đều là những pháp bảo cao quý nhất, thánh khiết nhất của đất Tạng rồi. Ngoại trừ chùa Đại Chiêu, Tiểu Chiêu ra, phải xây thêm bốn ngôi chùa nữa mới đặt hết các vật phẩm cung phụng Phật tổ. Khi Lãng Đạt Ma diệt Phật giáo, cũng biết chùa thường không thể so với những ngôi chùa này, báu vật kỳ trên bên trong hẳn nhiều vô số kể, cũng may tăng lữ trong chùa sớm biết tin, khi Lãng Đạt Ma mang quân đến, những pháp bảo trong chùa đã được chuyển đến nơi khác, chôn sâu dưới tầng nham thạch, đó chính là Nham Tạng (gter-ma) (1) nổi tiếng. Các tăng lữ trong chùa có chết cũng không chịu tiết lộ địa điểm chôn giấu thánh vật, Lãng Đạt Mã liền nổi cơn thịnh nộ, phóng hoả thiêu rụi cả Tứ Phương thánh miếu!”
“A!” Miệng giáo sư Phương Tân tròn lại thành hình chữ: “O”: “Bị… bị đốt rồi! Vậy hiện giờ…”
Đức Nhân lão gia trang trọng gật đầu nói: “Không sai, những chùa chiền chúng ta thấy hiện nay, đều là sau này mới trùng tu lại. Theo như ghi chép trong Bồ Đề kinh, lúc đó, Phật giáo được lưu truyền lại, một phần là do các giáo đồ Ninh Mã cổ giáo hoàn tục đem kinh điển đi chôn giấu; kế đó đến ba người Mã, Yêu, Tạng chạy đến khu người Khang, Mã Thích Ca Mâu Ni, Yêu Cách Vĩ Quýnh Nãi, Tạng Nhiễu Tái (2) tu hành ở núi Cát Tường Khúc Ốc Nhật (3). Về sau ba người giả làm hành khất, dùng một con la chở sách vở điển tịch chạy sang nước khác, thời Hậu Truyền của Phật giáo Tây Tạng có quan hệ rất lớn với ba người này. Còn giáo đồ Ninh Mã cổ giáo cũng học theo cách của ba người, giả làm ăn mày, dùng la gầy chở một lượng lớn đồ pháp khí nhiều lần dịch chuyển, mang pháp bảo nhà Phật ở Nham Tạng và biên giới thánh địa đến một nơi an toàn hơn.”
“Ở, ở đâu?” Giáo sư Phương Tân không ghìm nổi kích động, thấy Đức Nhân lão gia dừng lời, lập tức hỏi ngay.
Đức Nhân lão gia lắc đầu đáp: “Trong kinh thư không ghi chép cụ thể, chỉ nói đó là một nơi không nhìn thấy mặt trời lên phía Đông, cũng không thấy mặt trời lặn phía Tây, nhưng quanh năm đều tắm trong ánh nắng chói lọi. Một nơi được linh hồn của các tín đồ tận trung vĩnh viễn bảo vệ.”
Nét mặt giáo sư Phương Tân lộ vẻ vô cùng chán nản, ông vốn muốn nghe Đức Nhân lão gia nói ra một kết quả cặn kẽ hơn, ví dụ như địa danh mà người bộ tộc Qua Ba bảo vệ, ở một ngôi làng nhỏ đìu hiu nào đó chẳng hạn, nhưng Đức Nhân lão gia lại chỉ tiết lộ một đáp án không thể coi là đáp án được. Đức Nhân lão gia tiếp: “Có điều, tôi hoài nghi, thứ mà bộ tộc Qua Ba bảo vệ chính là số kinh văn và pháp khí đó.” Tâm trạng giáo sư Phương Tân lập tức bị kích động trở lại, lòng bàn tay Trương Lập cũng tự dưng đẫm mồ hôi.
Trong khi tâm trạng hai người Phương, Trương lên xuống theo lời kể của Đức Nhân lão gia, Trác Mộc Cường Ba chỉ ngồi ngây ra đó, bất động, bởi cha gã không hề nhắc tới bất cứ đầu mối gì liên quan tới Tử Kỳ Lân, ngoài Tử Kỳ Lân ra, gã chẳng mấy hứng thú với những chuyện khác.
Giáo sư Phương Tân lại hỏi thêm một số tình tiết trong lịch sử đất Tạng và những manh mối về Tứ Phương miếu. Đức Nhân lão gia nhất nhất đều dùng nội dung trong kinh văn làm đáp án, có chỗ nào không hiểu, ông lại đọc nguyên văn ra, cùng giáo sư Phương Tân chụm đầu tham khảo. Trác Mộc Cường Ba làm một thính giả cung kính, điều gã thấy may mắn nhất chính là, cha gã dường như chìm đắm vào phát hiện tưởng như trọng đại kia, mà quên mất không hỏi ý đồ và mục đích vào Tây Tạng lần này của giáo sư Phương Tân và gã.
Thời gian trôi đi rất nhanh, ông già La Ba chuẩn bị món trà bơ bốc khói nghi ngút, đồng thời hâm lại bữa tối. Mẹ Trác Mộc Cường Ba đã dọn phòng ngủ cho hai người khách, ăn cơm xong, giáo sư Phương Tân tiếp tục nói chuyện với Đức Nhân lão gia trong phòng của ông, rất muộn mới trở lui. Giáo sư vừa bước ra sân đã thấy Trác Mộc Cường Ba cũng đứng đó, cúi đầu nhìn đăm đăm xuống đất, vẻ suy tư. Ông ngạc nhiên nói: “Cường Ba, anh đang đợi tôi à?”
Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới ngẩng đầu lên để ý, vội hỏi: “Thế nào rồi? A ba tôi có hỏi gì không?”
Giáo sư Phương Tân mỉm cười nói: “Yên tâm, Đức Nhân lão gia không hề hỏi mục đích chuyến đi này của chúng ta, ông ấy chỉ thảo luận với tôi về những nơi có khả năng cất giấu một số kinh sách đã biến mất cả nghìn năm nay. Người có trí tuệ cao vời như ông ấy, đã tham ngộ ra sân, si rồi. Ông ấy chỉ muốn nhờ tôi nói với anh, nếu có thể tìm ra số Tạng kinh đã mất tích đó, sẽ là một cống hiến rất lớn đối với quốc gia và dân tộc Tạng đấy.”
Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm nói: “Tôi có thiếu tiền đâu, số Tạng kinh đó và Tử Kỳ Lân lại chẳng liên quan gì tới nhau cả.”
Giáo sư Phương Tân kích động nói: “Cường Ba à, Cường Ba thiếu gia của tôi ơi! Hình như anh vẫn chưa hiểu, người điên đó nói đến, không chỉ là một con Tử Kỳ Lân thôi đâu. Nếu tất cả đều đúng như trong kinh thư ghi chép thì phía trước chúng ta sẽ có một kho tàng văn hoá lịch sử đấy. Giá trị của nó, không thể dùng tiền bạc mà tính toán được. Kim tự tháp Ai Cập, lăng mộ Pharaoh, di tích Maya, thần điện Hy Lạp, còn cả, còn cả… cái chúng ta sắp phát hiện đây nữa, là một di tích lịch sử, một nền văn minh nhân loại, thậm chí còn vượt trên cả các kỳ quan kia nữa, anh biết phân lượng của nó thế nào chưa? Cám ơn nhé, Cường Ba.”
Giáo sư Phương Tân bất thình lình cảm ơn, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy hơi hoang mang, gã ngạc nhiên hỏi: “A! Tại sao lại cảm ơn tôi? Giáo sư?”
Phương Tân cười nói: “Nếu không có anh, tôi vẫn còn đang chuẩn bị bài phát hiểu ở hội  nghị Matthew Liya, là anh đã khiến tôi cảm thấy xúc động và hưng phấn chưa từng thấy?” Nét mặt giáo sư Phương Tân quá đỗi kích động, cứ như đã phát hiện ra kho báu đó rồi vậy. Lúc này, cả hai người bọn họ đều không ai ngờ sự việc sẽ phát triển theo một hướng khác.
Giáo sư Phương Tân kích động hồi lâu rồi mới bình tâm trở lại, khi bình tâm, tư duy của ông cũng khôi phục sự tinh tế tỉ mỉ, ông nghiêng đầu hỏi: “Đúng rồi, Cường Ba, anh có chuyện gì giấu tôi phải không?”
Trác Mộc Cường Ba không ngờ giáo sư Phương Tân nói thẳng như vậy, lắp bắp: “Gì… gì ạ?!”
Phương Tân cười ha hả, nói: “Anh là học trò do một tay tôi đào tạo, nhất cử nhất động đều không qua nổi mắt tôi đâu. Hôm nay, khi đang dò hỏi về người điên, lúc nghe thấy có một cô gái đến  hỏi thăm, cử chỉ của anh rất bất thường nhé, rồi sau đó, anh cứ luôn ngẩn ngơ thần hồn. Rốt cuộc đã xả ra chuyện gì? Cường Ba, con trai, có chuyện gì không tiện nói ra phải không?”

Mặt Trác Mộc Cường Ba không ngờ lại đỏ bừng lên, cũng may dưới ánh trăng không dễ gì nhận ra được, gã ngập ngừng nói: “Giáo sư, tôi, tôi có một chuyện không nói thật với thầy.”
Giáo sư Phương Tân thu lại nụ cười, hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba đáp: “Đường Minh, Đường Minh thực ra, cô ấy, cô ấy là con gái, tên, tên là Đường Mẫn.” Nói xong, gã như đứa trẻ đã làm chuyện sai trái, cúi gầm mặt, trong lòng hồi tưởng lại những ngày tháng bên Đường Mẫn ở Pensylvania.
Trác Mộc Cường Ba bốn mươi hai tuổi, đã có một lần thất bại trong hôn nhân, gã quá mạnh mẽ, vợ gã khi ở bên gã lúc nào cũng cảm thấy áp lực nặng nề, một thứ áp lực vô hình. Thân thể cao lớn khôi vĩ của gã, gương mặt nghiêm lạnh như gang như thép, tác phong làm việc nhanh mạnh như sấm chớp, không gì là không tạo nên áp lực đối với những người xung quanh. Nhân viên của gã từng thì thầm nhỏ to với nhau: “Ở cùng một phòng làm việc với tổng giám đốc Trác có thể khiến người ta căng thẳng đến nỗi không thở nổi.”
Từ khi vợ mang theo con gái rời  xa gã, Trác Mộc Cường Ba lại càng toàn tâm toàn ý tập trung vào công việc, khi cả bản thân gã cũng cho rằng mình sẽ cứ vậy phấn đấu cả đời thì bỗng nhiên Đường Mẫn xuất hiện ngay trước mặt gã, một cô nữ sinh nhỏ thuần khiết, yểu điệu đứng trước cổng bệnh viện Andrea. Khi nhìn thấy cô lần đầu tiên, gã đã có cảm giác cô giống như một nàng công chúa nhỏ cần người khác bảo vệ. Trác Mộc Cường Ba không ngờ rằng, trái tim của gã lại vì cô mà dậy sóng, vì một cô gái chỉ lớn hơn con gái gã có ba tuổi. Trong thời gian hơn một tháng ở Mỹ, gã không thể nào kiếm chế nổi mình, bắt đầu thường xuyên tiếp xúc với Đường Mẫn, càng tiếp xúc càng nhận ra, cô công chúa nhỏ thuần khiết này thật sự cần gã bảo vệ. Sự thông minh trong sáng, sự tinh nghịch ngây thơ, sự hoạt bát vui tươi của cô, mang đến cho cuộc sống khô khan của Trác Mộc Cường Ba hứng thú vô cùng vô tận, Trác Mộc Cường Ba không nói được cảm giác của gã với Đường Mẫn, rốt cuộc là giống cha với con gái, hay là giữa tình nhân với tình nhân, có lẽ cả hai đều có cả, nhưng gã đã mười phần khẳng định, gã không thể rời xa Đường Mẫn, giống như Đường Mẫn không thể rời xa gã vậy. Sự gặp gỡ của họ, tựa như hai giọt nước mưa từ nghìn vạn năm trước, đi khắp vũ trụ bao la, cuối cùng lại dung hợp với nhau, hoà lẫn thành một, không thể tách rời ra nữa. Tình cảm của gã với Đường Mẫn vừa phát ra thì không thể thu lại, thậm chí còn vượt lên cả năng lực suy nghĩ của gã, đến nỗi khi gặp giáo sư Phương Tân, gã phải che giấu giới tính của Đường Mẫn. Bởi gã đột nhiên cảm thấy, vị giáo sư già này tinh thần quắc thước, học vấn chất đầy năm xe, mà quan trọng hơn là, gã biết giáo sư Phương Tân đang sống một mình!
Giáo sư Phương Tân giữa độ trung niên thì mất vợ, từ đó không tái hôn, con trai ông đang học tiến sĩ ở Canada . Trong khoảnh khắc đầu tiên khi gặp lại ông, Trác Mộc Cường Ba đã coi giáo sư thành tình địch của mình, vì một lý do hết sức hoang đường nên đã nói dối một điều nho nhỏ.
Ở Mông Hà, khi người qua đường nói đến một cô gái trẻ, Trác Mộc Cường Ba lập tức có phản ứng, Đường Mẫn đến rồi, cô cũng đang tìm tung tích người điên kia, làm sao mà gã không kinh hoảng cho được. Trước khi lên đường, Trác Mộc Cường Ba đã vừa dỗ vừa gạt, lại doạ dẫm uy hiếp, nhất quyết không để Đường Mẫn đi Tây Tạng, gã biết rõ, con đường anh trai Đường Mẫn đã đi qua, không phải đơn giản có thể dùng hai chữ “nguy hiểm” mà hình dung cho được, lộ trình lần này, nói không chừng còn phải đem tính mạng ra đặt cược nữa, gã làm sao chịu để bảo bối trong lòng mình chịu gió chịu sương, chịu đựng những đày đoạ không phải người nào cũng chịu được cả chứ. Gã đã mua một phần bảo hiểm cực lớn, người nhận bồi thường là Đường Mẫn. Sự xuất hiện của cô ở đây, đã hoàn toàn làm loạn hết tính toán của gã.
Giáo sư Phương Tân nghe hết câu trả lời như tự kiểm điểm của Trác Mộc Cường Ba, liền nhoẻn miệng nở lại nụ cười, nói: “Ha ha, lợi hại nhỉ, coi cả thầy giáo thành tình địch. Lão già chết đến nơi như tôi mà vẫn còn quyến rũ thế sao?”
Trác Mộc Cường Ba thành thật đáp: “Trí tuệ của thầy giáo khiến thầy trẻ mãi không già.”
Phương Tân cười cười nói: “Được rồi, có phải là cô bé đó hay không vẫn chưa chắc chắn, anh cũng không cần quá căng thẳng. Ngủ sớm chút đi, ngày mai, chúng ta còn phải đến Mông Hà thăm người điên đó lần nữa, anh ta nhất định còn có thể cho chúng ta nhiều tin tức giá trị hơn. À, nói không chừng, ngày mai, anh có thể gặp được người tình trong mộng nữa đấy, hà hà…” Giáo sư Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba nhẹ nhõm trở về phòng, sắc mặt không ngờ lại từ từ trầm xuống, thầm nhủ: “Cường Ba, nếu cô gái kia không phải là tình nhân của anh, thì mới đáng lo đấy.”
Ngày hôm sau, Trác Mộc Cường Ba dậy từ sớm, làm lễ chào cha mẹ, cơm sáng cũng chưa kịp ăn, chỉ bốc tạm mấy miếng bánh bột Thanh Khoa, rồi bảo Trương Lập lái xe đi Mông Hà.
Trên xe, ngoài Trương Lập, hai người còn lại đều mang tâm trạng thấp thỏm không yên, vì những mục đích khác nhau, bọn họ đều hy vọng có thể đến Mông Hà càng sớm càng tốt. Vừa tới Mông Hà, đã gặp ngay người đã chỉ đường cho họ lần trước. Trương Lập kéo cửa kính xe xuống, chào hỏi, nhưng câu trả lời của ông ta lại khiến cả ba giật nảy mình, ông ta nói: “Ồ, là mấy ông à. Mấy ông lại đến tìm thằng điên à? Tôi còn tưởng sáng sớm nay các ông đã đưa hắn đi rồi chứ!”
“Gì hả? Bị đưa đi rồi?” Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng hỏi.
Người kia gật đầu nói: “Đúng vậy, có người lái xe tới đưa đi.”
Phương Tân hỏi: “Đưa đi lúc nào? Bọn họ là ai? Lái xe gì?”
Ông kia nói: “Tầm bảy giờ sáng gì đó, tôi cũng không nhìn rõ lắm, tôi chỉ thấy mấy người vác một người lên xe rồi lái đi luôn, nhìn phía sau giống giống với tên điên đó, về sau thì không thấy hắn nữa. Xe của họ cũng giống xe của các ông, tôi còn tưởng là các ông nữa cơ.”
Trương Lập nói ngay: “Chúng ta đến đó xem sao, xem trong nhà còn sót manh mối gì không?”


Chú thích:

(1) Tiếng Tạng nghĩa là kho báu chôn giấu
(2)   Tây Tạng Phật giáo lược sử ghi tên ba người này là Mã Nhĩ Thích Ca Mâu Ni (Smarsakya-muni), Lạp Phổ Tát (Rab-gsal), Nguyệt Cách Cẩm(Gyo-dge-hbyuin)
(3) Tây Tạng Phật giáo lược sử chép là núi Mã Long Đoá Kiết Tường.

 

Chương 3
HỒI ỨC CỦA BA TANG

Anh ta nói giọng hơi run run: “Đó đơn thuần chỉ là trùng hợp, hoặc có thể là báo ứng của chúng tôi, cứ như bị ma quỷ dẫn đường vậy. Chúng tôi mất phương hướng trên dải Tây Phong, đi mười lăm ngày trong gió tuyết mờ mịt, tự mình chẳng biết mình đang ở đâu, chỉ biết tất cả vẫn đang trong khu vực Himalaya hùng vĩ, xem ra chúng tôi vĩnh viễn chẳng có cách nào thoát ra được. Có ba người đã chết cóng, hai người quáng tuyết(1), những người còn lại e cũng đã tận số, khi vượt qua một ngọn núi không tên, một người trong đội sảy chân trượt trên vách đá xuống, không biết bao lâu sau, anh ta dùng bộ đàm liên lạc, bảo chúng tôi cùng xuống hết, vì anh ta đã khám phá ra thiên đường.”
 

Chú thích:
(1) 
Tình trạng chảy nước mắt, đau nhức mắt, sợ ánh sáng, nghiêm trọng có thể bị mù do nhìn ánh sáng phản chiếu cường độ mạnh hắt từ mặt tuyết lên.  
 Bản đồ sống của Tây Tạng        

 

Trương Lập kiểm tra hết sức kỹ lưỡng căn nhà tạm của người điên, cuối cùng đứng dậy kết luận: “chỉ sợ không đơn giản là đưa đi thôi đâu, hai người xem, đây là vết chân đạp giãy giụa, đây là vết chân bị kéo lê, ngoài cửa còn có vụn vải rách, người điên chắc chắn đã bị bắt đi. Đối phương có ba người, nhìn dấu chân thì đều cao trên một mét tám cả, là ai được chứ?”
Giáo sư Phương Tân cầm tấm thảm rách và một món trang sức nhỏ bước ra, mỉm cười có vẻ đắc ý: “Xem ra bọn họ đi rất vội, hơn nữa, lại không hề biết giá trị của những thứ trên người anh chàng kia.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn tấm thảm bẩn thỉu, hỏi: “Đây là gì vậy?”
Phương Tân đáp: “Đây là thảm lông dệt hoa, cụ thể là lông gì thì còn chưa rõ, nhưng xem ra thì rất có phong cách Tây Tạng ở thế kỷ mười ba. Món đồ trang sức này là một cái Ca Ô mạ vàng, bên trong có hình Phật tổ chịu nạn, tôi nghĩ, đây đều là đồ vật tùy thân của người điên kia, có thể đem về nhờ cha anh coi thử xem sao.”
Ba người lủi thủi trở về. Trên đường Trác Mộc Cường Ba nghĩ mãi không ra: “Rốt cuộc là ai đã đưa người điên đó đi? Là Mẫn Mẫn chăng? Tại sao cô ấy lại làm thế? Không! Không thể là cô ấy.”
Vừa về tới nhà, Trác Mộc Cường Ba vội gọi ngay cho chi nhánh cơ sở Thiên Sư của gã ở Tây Tạng, nhắc toàn bộ nhân viên chú ý tìm một người điên, tuy nói thế nào cũng không thể miêu tả rõ ràng được, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn cố hết sức kể thật tường tận với từng nhân viên. Còn giáo sư Phương Tân thì mang những thứ đồ phát hiện được đến bái kiến Đức Nhân lão gia.
Đức Nhân lão gia đang rất bận, phải sờ đầu ban phúc cho những người sùng tín vượt đường xa tới đây, còn phải giảng Phật pháp nữa, thành ra giáo sư Phương Tân chỉ có thể nhân lúc Đức Nhân lão gia nghỉ giải lao, nhờ giám định hai món đồ ông mang về. Nhưng chỉ lát sau, giáo sư Phương Tân mặt mày hoan hỉ chạy ra ngoài, nói với bọn Trác Mộc Cường Ba: “Đã xác định được rồi, đây là thảm dệt thời vương triều Tát Già, bên trên là Hoan Hỉ Phật và các Minh Phi. Còn về chất liệu, Đức Nhân lão gia nói ông ấy cũng chưa từng thấy thứ lông tơ này bao giờ, không phải ngựa không phải bò, không phải dê cũng không phải lạc đà, vô cùng hiếm thấy. Còn cái Ca Ô kia thì là đồ mới, chỉ có bộ tộc Qua Ba mới có. Hàng chữ nhỏ ở hai bên là Tịch Thiên Bồ Tát văn: “Tai họa, sợ hãi và khổ ải trên thế gian, đều do ta nắm giữ…” Hình vẽ bên trong là Phật Tổ, chìm đắm trong Bi Thiên địa ngục, bị muôn nghìn loài ma quỷ cắn xé, về sau được Tử Kỳ Lân trong truyền thuyết vượt qua chín mươi chín tầng trời, mới cứu thoát Phật khỏi Bi Thiên địa ngục, hơn nữa… hơn nữa Đức Nhân lão gia nói, truyền thuyết này chỉ tồn tại trong bộ tộc Qua Ba. Không được ghi trong bất kỳ điển tịch hay kinh Phật nào. Đức Nhân lão gia nói ông ấy có thể dốc sức giúp chúng ta tìm kiếm địa giới của bộ tộc Qua Ba đó”
“A!” Trác Mộc Cường Ba giờ mới lộ vẻ mừng rỡ,gã biết trọng lượng lời nói của ba mình tương đối có sức nặng, với sức ảnh hưởng của cha gã, về mặt vật chất bọn họ đã được ủng hộ rất lớn, những thứ chỉ dựa vào năng lực của bọn họ khó mà có được, nay đều có thể dễ dàng về tay.
Trương Lập đứng bên cạnh nói: “nhưng đầu mối duy nhất của chúng ta giờ đã đứt rồi, làm sao mà tìm đây?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không, cậu không hiểu rồi. Chúng tôi đại khái cũng đã biết phạm vi cư trú của bộ tộc Qua Ba, chỉ là xưa nay chưa có ai tới đó mà thôi. Nay tất cả các đầu mối đều tập trung vào một chỗ, con ngao và các kinh Phật thất lạc chúng ta muốn tìm rất có khả năng đều nằm ở phạm vi đó, chúng ta chỉ cần mang theo đủ các thiết bị là có thể xuất phát được rồi!”
Phương Tân nói: “Ồ, việc này làm sớm ngày nào hay ngày ấy, người điên kia đã mất tích, quả thật không phải chuyện lành đâu.”
Trương Lập hỏi: “Vậy, chúng ta cần những thiết bị gì chứ?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Xe việt dã thật khỏe, toàn bộ dụng cụ để leo đỉnh Chomolungma, đồ ăn và một người dẫn đường xuất sắc.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Đức Nhân lão gia đã lên tiếng rồi, tôi nghĩ mấy thứ trước đều rất dễ xử lý, nhưng còn, người dẫn đường xuất sắc…” Trác Mộc Cường Ba liền toét miệng cười.
Phương Tân ngạc nhiên thốt lên: “Lẽ nào anh đã có lựa chọn thích hợp rồi?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng vậy.” Gã xoay người về phía nhà trong, nhưng không bước vào, mà chỉ La Ba đang cắt sửa cây cảnh. Lão bộc tóc trắng như cước này còn đang ngơ ngác, Trác Mộc Cường Ba đã lên tiếng giới thiệu: “Chú La Ba đây, chính là tấm bản đồ Tây Tạng sống của chúng ta. Trên trời không còn lại dấu vết cánh chim lướt qua, nhưng chú ấy có thể tìm được mùi của chim ưng cách đó ngàn dặm, thần thánh trên núi Niệm Thanh Đường Cổ Lạp không thể nào dập tắt được ngọn lửa cuồng nhiệt trong tim chú, sông Nhã Lỗ Tạng Bố (Yarlung zangbo) nổi sóng cồn không thể ngăn nổi bước chân chú…”
La Ba cười ha hả nhìn Trác Mộc Cường Ba, khuôn mặt chằng chịt nếp nhăn nom như vầng mặt trời ấm áp mùa xuân, thật thà nói: “Cường Ba thiếu gia, sao cậu lại đem câu chuyện của A Sơ vương tử gán lên người tôi chứ!”
Trác Mộc Cường Ba cười cười: “Chú La Ba, chú hoàn toàn đủ tư cách làm bản đồ sống của Tây Tạng mà. Mọi người biết không, thời trẻ chú La Ba đã là tay lái ngựa nổi tiếng nhất trên Trà Mã cổ đạo (2) sau này lại đảm nhiệm chức trách hướng đạo viên mặt đất cho đường bay Đà Phong (3), khảo sát biên giới Tạng-Nepal, đầu những năm 1990, còn dẫn đội leo núi mở tuyết leo núi Nam Ca Ba Ngòa(4), Tây Tạng có bao nhiêu vực sâu, bao nhiêu núi cao, chú ấy chỉ cần nhắm mắt cũng đếm ra được.”
Trác Mộc Cường Ba chỉ vắn tắt ba sự kiện, nhưng mỗi sự kiện lại khiến miệng giáo sư Phương Tân mở rộng một chút, đến khi gã nói xong, thì đã há thành hình chữ “O” rồi, ông xúc động bước lên, nắm chặt tay La Ba hồi lâu, không chịu buông. La Ba không khỏi thấy hơi ngại ngùng. “Lão anh hùng, xin thứ lỗi trước đây tôi đã thất kính,” giáo sư Phương Tân thành khẩn nói.
Giáo sư đã đến nhà Trác Mộc Cường Ba mấy lần, nhưng luôn nghĩ La Ba chẳng qua là một lão bộc bình thường. Tây Tạng trước giải phóng vốn có rất nhiều nông nô, sau giải phóng bọn họ đều được phân đất sống đời tự do, nhưng một số người không muốn rời khỏi gia đình chủ nhân quý tộc của mình, nên còn ở lại. Giáo sư Phương Tân do vậy xưa nay không mảy may chú ý đến lão bộc mặt đầy nếp nhăn, da dẻ lấm tấm đồi mồi này, hôm nay nhân Trác Mộc Cường Ba nhắc đến, mới biết lão bộc không ngờ lại có nhiều công lao đến thế. Trà Mã cổ đạo, tuyến đường bay Đà Phong, đều là những lộ trình hung hiểm nổi tiếng từ lâu, một bên là đường vận chuyển hàng hóa của Mã bang, một bên là hành lang tử vong trên không, đều nguy hiểm vạn phần; nhưng điều khiến giáo sư kinh ngạc nhất, vẫn là chiến công mở tuyến đường Nam Cao Ba Ngõa.
Nam Cao Ba Ngõa hiểm trở dựng đứng bên dòng sông Nhã Lỗ Tạng Bố, là ngọn núi cao nhất Tây Tạng với độ cao chừng bảy nghìn mét trên mực nước biển, tiếng Tạng có nghĩa là “Cây giáo dài chọc thẳng lên trời cao”, leo lên đó khó khăn thế nào không cần nghĩ cũng biết, mà La Ba hiện giờ ít ra cũng phải sáu bảy chục tuổi, hồi lão khảo sát con đường lên Nam Ca Ba Ngõa chẳng phải cũng đã hơn năm chục tuổi rồi sao, đó đâu phải là chuyện người thường có thể làm nổi.
La Ba luýnh quýnh hết cả chân tay vì sự xúc động của giáo sư Phương Tân, vội đáp: “Xin chớ nói thế, giáo sư Phương Tân là người trí tuệ, cũng giống như Đức Nhân lão gia, đều là người La Ba vô cùng vô cùng kính trọng. Tôi chỉ là một kẻ trèo núi, nhân lúc chân cẳng còn đi được, thích đi nhiều nơi nhiều chỗ mà thôi. Năm tám tuổi đó, nếu không phải nhờ lão gia giải cứu, e sớm đã bị bọn Mã bang ném xuống sông cho cá ăn rồi, là lão gia đã dùng vàng đổi lấy tôi từ tay Thổ ty người Khang đó…” Nhắc lại chuyện xưa, lần nào lão La Ba cũng cảm xúc bồi hồi.
Phương Tân thở phào nói: “Thì ra là vậy. Vậy thì tốt rồi, có ông làm hướng đạo, chúng tôi yên tâm được rồi.”
La Ba ngây người nói: “Gì vậy? Hướng đạo gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Chú La Ba, chúng tôi muốn đến lãnh thổ của bộ tộc Qua Ba.”
“Gì hả?” Chiếc kéo tỉa cây trong tay La Ba rơi xuống đất, “Tại… tại sao thiếu gia lại đột nhiên muốn tới đó? Lão gia có biết không?”
Phương Tân nói: “Đức Nhân lão gia đã đồng ý rồi.”
Trác Mộc Cường Ba tiếp: “Chẳng lẽ chú đến đó rồi? Sao lại căng thẳng thế?” Gã vỗ đầu, “Đúng rồi, chú La Ba là tấm bản đồ sống mà, có nơi nào chú chưa đi qua đâu.”
La Ba nhặt kéo tỉa cây lên, lắc đầu chậm chạp: “Không, không dám dấu thiếu gia, nơi thiếu gia vừa nhắc tới, La Ba có biết, nhưng xưa nay chưa bao giờ đến cả. Lão gia chẳng phải đã nói, đó là vùng đất bị thần linh nguyền rủa, mây đen bất tường mang tới hơi mù vĩnh viễn, màn đêm bị những luồng không khí tà ác bao trùm. Chỉ có những sinh linh đã mất hết lương tri, mới bị ném vào chốn địa ngục mãi mãi không thể quay đầu ấy. Đó không phải là nơi thiếu gia đặt chân tới đâu, thiếu gia”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Lời của cha, tôi cũng nhớ rõ, nhưng lần này cha đã đồng ý rồi. Hơn nữa, cha còn nói, Dược Sư Lưu Ly Quang Phật đã dấn thân địa ngục, dùng hoa Mạn Đà La sáu cánh giải trừ oán khí tích tụ mấy ngìn năm. Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt từng lấy hoa sen thuyết pháp, độ kiếp vô số linh hồn cực ác. Đến cả Thích Ca Như Lai, cũng thả thú cưỡi của mình xuống bảo vệ những linh hồn bị ruồng bỏ, những cô hồn dã quỷ lang thang không cách quay đầu trở lại dưới chốn Hoàng Tuyền.” Gã biết rõ, La Ba vốn rất thành tín, không thể dùng lý lẽ bình thường mà nói cho thông được, cần phải mang những lời cha gã đã dạy dỗ ra thuyết phục họa may mới xong.
La Ba vẫn lắc đầu: “Tại sao lão gia lại đồng ý chứ? Đó đâu phải là nơi thiếu gia có thể tới được. Sao lão gia lại đồng ý được cơ chứ?”
Giáo sư Phương Tân giờ mới lên tiếng: “Bộ tộc Qua Ba có thể đang bảo vệ Phật điển nghìn năm từ thời Tây Tạng diệt phật. Kinh điển từ nghìn năm trước đó đã đến lúc phải được đưa ra khỏi khe núi tối tăm rồi. Đây chính là nguyên nhân khiến Đức Nhân lão gia đồng ý cho chúng tôi đi.”
La Ba nói: “Không, mọi người không hiểu. Môi trường ở đó khốc liệt tới mức không thể nào tưởng tượng được đâu.”
Trác Mộc Cường Ba nôn nóng hỏi: “vậy là chú biết nơi đó, rốt cuộc là ở đâu vậy, chú La Ba?”
La Ba nói: “Ở… nói một cách chính xác, có lẽ là ở Nam Tây Tạng, phía Tây của miền Nam .”
“Có thể cụ thể hơn nữa không?” Giáo sư Phương Tân chau mày, bởi vì ông biết, nơi La Ba vừa nói, rất có thể chính là khu vực dãy Himalaya cắt ngang qua, ở đó có những ngọn núi cao nhất, nơi hoang vu không có con người sinh sống lạnh giá nhất, hơn nữa còn vượt qua cả biên giới Trung Quốc! \
La Ba trầm ngâm, rồi lẩm bẩm bằng tiếng Tạng: “Lão gia chắc không đồng ý đâu, đó là nơi ở của ma quỷ mà.” Rồi đột nhiên lão ngẩng phắt đầu dậy, hỏi: “Thiếu gia, giáo sư, hai người có biết, tại sao biên giới Trung-Ấn cứ lần lữa mãi không thể xác định không?”
“Hả?” Trác Mộc Cường Ba ngần ngừ. Giáo sư Phương Tân thì nói: “Đó là vấn đề lịch sử để lại.”
La Ba vuốt nhẹ lên những vết nhăn trên mặt, xem ra vẫn khó quyết định, hai mắt nhắm hờ, nói: “Đó chỉ là một chuyện. Nhưng quan trọng hơn là việc khảo sát vùng đất đó quá khó khăn! Sau giải phóng, La Ba từng cùng đi với đoàn khảo sát, đó là một vùng núi tuyết kéo dài tít tắp. Trước mắt toàn là những ngọn núi tuyết phủ trắng toát, bất kể đi bao nhiêu lâu, núi vẫn cứ lù lù trước mặt, cứ như thể biết tiến lên theo bước chân người vậy. Chúng tôi cắm trại dưới chân núi, mười hai người làm một tổ, đoàn khảo sát đã phái đi hơn ba mươi tổ, nhưng không có một tổ nào trở về được đại bản doanh. Bọn họ mất phương hướng trong gió tuyết, chết mà thân thể cũng không tan rữa, linh hồn bị cầm cố trên đỉnh Thần Phong, trong đó có một nửa đều là dân Tạng đã sống nhiều năm ở vùng cao, lại được huấn luyện đặc biệt, tôi đáng lẽ cũng theo tổ số mười ba lên núi, nhưng lại bất ngờ mắc bệnh nặng, nên La Ba mới sống được đến ngày hôm nay đó. Thiếu gia, La Ba khuyên cậu, đừng nên đi, thật sự là không thể đi đâu.”

Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu nhìn ngọn Tuyết Sơn xa xa phía trước, nhưng quyết tâm của gã vẫn kiên định vô song, chỉ nghe gã điềm đạm nói: “Lẽ nào chú muốn nói, khu vực sinh sống của bộ tộc Qua Ba, chính là ở đó?”
La Ba cơ hồ cũng đọc được tín niệm của Trác Mộc Cường Ba trong mắt gã, thở dài nói: “Đúng vậy, thiếu gia. Nghe nói bộ tộc Qua Ba sống ở khu đó, không ai biết bọn họ sống thế nào cả. Đó không phải là một nơi nhỏ đâu, trong phạm vi biên giới Trung Quốc có tầm vài chục nghìn cây số vuông, đồng thời bao gồm cả đất đai ba nước Bhutan, Ấn Độ, Nepal nữa. Nếu thiếu gia muốn đi, có thể từ Á Đông đi về phía Tây, nếu không thì từ Định Kết hoặc Cương Ba xuống phía Nam, chúng ta cách Định Kết gần hơn, nhưng đường ở Cương Ba thì dễ đi hơn. Tôi chỉ biết phạm vi đại khái thôi, có điều nhiều người nói, ở phía Tây có thể gặp được người tộc Qua Ba, thậm chí phạm vi hoạt động của họ còn mở rộng tới huyện Nhiếp La Mộc nữa.”
Giáo sư Phương Tân trợn to hai mắt, khổ sở cười thốt lên: “Anh La Ba, anh có biết phạm vi tìm kiếm anh vừa vạch ra cho chúng tôi cả ngọn núi cao nhất thế giới đó!”
 

(1)   đồ trang sức bằng kim loại, hình dạng như chiếc hộp nhỏ, đeo ở thắt lưng hoặc cổ.
(2)   Con đường vận chuyển trà từ Vân Nam tới Tây Tạng, đi Ấn Độ, Bhutan …,còn gọi là Con đường Tơ lụa phương Nam
(3)   The Hump: tên các phi công phe Đồng minh hồi thế chiến II đặt cho tuyến đường bay từ Ấn Độ đến Trung Quốc vượt qua dãy Himalaya .
(4)   Ngọn núi đứng đầu trong Thập đại danh sơn của Trung Quốc.
 

Người điên thứ ba
 

La Ba nghiêm túc nói: “Không sai,cả dãy Thần Sơn, rất có khả năng chính là phạm vi hoạt động của bộ tộc Qua Ba. Thiếu gia, cậu phải nghĩ cho thật kỹ, cậu sẽ đối mặt với cái gì thì cậu biết rồi đấy! Ngọn núi cao nhất, thời tiết lạnh nhất, không khí cực loãng, xe cộ khó đi, đi bộ nửa tháng có thể cũng không thấy một bóng người, gió ở khe núi có thể thổi bay cả bò yak, tuyết rơi một đêm có thể lấp đầy cả lều, đó là tấm bình phong mà cả chim ưng tuyết cũng không thể nào bay qua nổi.”
Nghe La Ba nói vậy, giáo sư Phương Tân không thể nào không suy nghĩ lại. Ông thẫn thờ nói: “Phải đó, Cường Ba, anh cần nghĩ cho kỹ, lần này khác hẳn với mấy lần trước. Nơi chúng ta muốn đến là Thần Sơn mà cả chim ưng cao nguyên cũng không thể bay qua được. Đội leo núi, chẳng qua chỉ chinh phục một ngọn núi, còn chúng ta khiêu chiến cả dãy Himalaya đấy.”
Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu. Phương Tân nhìn gã chằm chằm, kế đó lại nói: “Độ cao bình quân so với mực nước biển là sáu nghìn ba trăm mét, núi cao trên tám nghìn mét có mười ngọn, trên bảy nghìn mét trở lên có năm mươi ngọn; nhiệt độ bình quân hàng ngày là âm ba mươi độ, khu không người rộng cả chục nghìn cây số vuông, gió cấp mười hai ở khe núi, có thể thổi cho những tảng đá cao bằng đầu người hay xe con lăn lông lốc, hàm lượng ô xy trong không khí không đến mười phần trăm, chưa bằng năm mươi phần trăm hàm lượng ô xy trong không khí ở nội địa. Bão tuyết, khe nứt, mỗi một cạm bẫy đều là chí mạng cả, còn mục tiêu của chúng ta, lại là…”
“Sẽ tìm thấy thôi, tôi chắc chắn đấy.” Trác Mộc Cường Ba quay đầu lại, nở một nụ cười vô cùng tự tin, khoảnh khắc ấy, thân thể cao lớn và mạnh mẽ của gã khiến lời nói tăng thêm không ít sức mạnh. Gã đưa mắt nhìn La Ba năn nỉ: “Chú La Ba, dẫn chúng tôi đi đi. Thứ tôi muốn tìm, là thứ cả đời này tôi vẫn muốn tìm thấy.”
Ánh mắt La Ba lộ vẻ thương yêu, tay vuốt nhẹ cậu chủ chính mình đã chăm bẵm lớn lên, nhưng cuối cùng lão vẫn lắc đầu nói: “Thiếu gia, La Ba già rồi, không thể theo cậu đi Thần Sơn được nữa. Mỗi ngày La Ba sẽ niệm một trăm lần kinh Cát Tường, cầu xin Trát Tây Thứ Nhân Mã (1) chỉ đường dẫn lối cho thiếu gia, cầu xin Cách Tát Nhĩ Vương (1) vĩ đại tiêu diệt tất cả yêu ma quỷ quái trên đường đi của người.”
Trác Mộc Cường Ba hơi cuống quýt, nói: “nhưng chú La Ba, nếu không có chú dẫn đường, chúng tôi làm sao dám tùy tiện đặt chân vào Đại Tuyết Sơn đây?”
La Ba trầm tư, mọi người nhất thời không ai lên tiếng, không khí cơ hồ đông cứng lại, thời gian vẫn lặng lẽ trôi như cuộn chỉ bị rút dần, đột nhiên, La Ba choàng tỉnh, kêu lên: “Thiếu gia! Tôi có thể giới thiệu cho cậu một người!”
“Ủa?!” Đúng lúc Trác Mộc Cường Ba chuẩn bị vểnh tai lên lắng nghe, gã chợt chú ý tới hai luồng mắt sắc chiếu chằm chằm vào mình, nom tà ác, thâm độc, giống như con rắn đang thè lưỡi ra, lại có chút gì đó quen thuộc, phảng phất như đã gặp ở đâu đó rồi vậy. Nhưng khi Trác Mộc Cường Ba ngoái lại, kẻ đó đã quay mình đi vào nhà lớn, trà trộn trong đám người đến bái lạy, tất cả đều mặc áo choàng rộng thùng thình kiểu Tạng, đầu đội mũ nỉ, không còn phân biệt được ai với ai nữa. Giáo sư Phương Tân nôn nóng hỏi: “Là ai? Người ta đã từng đến đó chưa?”
“Ừm, rồi. Đó là em trai ruột của tôi, tôi nghĩ có lẽ cậu ấy tương đối thông thuộc vùng đó, theo tôi biết, ít nhất cậu ấy cũng đi năm lần. Hơn nữa tôi đoán, có thể cậu ấy đã gặp người bộ tộc Qua Ba rồi.” La Ba trả lời.
“Vậy mau dẫn tôi đến gặp chú ấy đi, chú La Ba.” Trác Mộc Cường Ba đã chú ý trở lại.
La Ba nói: “nhưng chuyện này, chỉ sợ cũng phải được lão gia đồng ý, chúng ta mới có thể đi gặp cậu ấy được.” La Ba lộ ra vẻ khó xử.
“Tại sao?” Cả hai người đồng thanh hỏi.
La Ba ngập ngừng nói: “Chuyện này, bởi vì… bởi vì, câu ấy, đang ở nhà tù.”
Trác Mộc Cường Ba và Phương Tân đưa mắt nhìn nhau, trông nét mặt của La Ba, xem ra em trai lão không phải nhậm chức trong nhà tù, mà là ở đó lao động cải tạo. Chỉ nghe La Ba tiếp tục nói: “Mỗi lần tôi đến thăm, cũng nhờ lão gia nói trước một tiếng, bằng không thì cũng không gặp được Ba Tang đâu.”

“A!” Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc nói, “lẽ nào là tội phạm  trọng hình?”
La Ba giải thích: “Cũng không phải là nặng lắm, chỉ là, cậu ấy hình như bị kinh hãi thứ gì đó, dẫn đến tâm thần bị… việc này, lần trước tôi đi thăm thì cậu ấy đã không khác gì người bình thường rồi, nhưng nhân viên y tế nói với tôi, trong một hoàn cảnh nhất định nào đó, cậu ấy sẽ lên cơn điên.”
“Bệnh thần kinh!” Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân không hẹn mà cùng nghĩ đến anh trai Đường Thọ của Đường Mẫn, và người điên ở Mông Hà kia. Xem ra, trong lãnh thổ của bộ tộc Qua Ba quả thực đã xảy ra chuyện gì đó rất khủng khiếp, bằng không thì không thể khiến những người từng đến đó cũng mất lý trí cả như vậy.
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Em trai chú có nói chuyện gì đã khiến chú ấy bị kích động thế không?”
La Ba nói: “Làm sao được, bác sĩ đặc biệt dặn dò tôi không được hỏi vấn đề đó, bằng không cậu ấy sẽ phát điên đấy. Nghe nói mỗi lần bác sĩ cho rằng Ba Tang đã khỏi, hỏi cậu ta vấn đề đó, đều bị cậu ấy tấn công cả, có hai bác sĩ suýt nữa thì mất mạng. Chỉ là không biết hiện nay cậu ấy đã hoàn toàn khỏe mạnh hay chưa thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nhớ tới người điên đã mất tích một cách thần bí và đôi mắt khiến gã không lạnh mà run, nói: “Vậy thì, sự việc không thể chậm trễ, tôi lập tức đi hỏi cha, chúng ta phải tranh thủ xuất phát càng sớm càng tốt.”
Đức Nhân lão gia gác máy, điềm đạm nói “Nhiều nhất chỉ được đi ba người, mọi người tự sắp xếp đi.”
Trác Mộc Cường Ba đảo mắt một vòng, La Ba là người dẫn đường, cần phải đi, bản thân gã cũng nhất định phải đi xem sao, giáo sư Phương Tân và Trương Lập… lúc này, Trương Lập lên tiếng: “Vậy mọi người đi đi, tôi trở về sư đoàn chuẩn bị một chút thì tiện hơn.”
“Không.” La Ba lên tiếng: “Cậu em trai này của tôi, trước nay đã từng trong quân ngũ, nếu có chuyện bất ngờ xảy ra, người bình thường rất khó chế phục nổi, vô cùng nguy hiểm, giáo sư, ông xem…”
Giáo sư Phương Tân gật đầu, nói: “Được rồi, tôi ở lại, xem thử coi có thể tìm ra thêm đầu mối gì từ các thứ người điên kia để lại hay không.”
Một viên giám ngục tên Sát Tây được sắp xếp đón tiếp ba người, anh ta nhận ra La Ba, vừa gặp mặt liền bảo ngay: “Bệnh của anh ấy, được bác sĩ chuẩn đoán sơ bộ, thì đã hoàn toàn khỏi hẳn rồi.”
La Ba siết chặt tay Sát Tây , nói: “Cám ơn, cám ơn các vị.”
“Ba vị, mời theo tôi.” Sát Tây dẫn ba người vào sâu trong nhà tù.
Trương Lập trên đường đi cũng biết đại khái tình hình, bèn hỏi: “Chú La Ba, chú với em trai tuổi tác cũng không chênh lệch nhau lắm đúng không? Rốt cuộc vì sao mà chú ấy bị…” Trác Mộc Cường Ba lừ mắt nhìn Trương lập một cái.
La Ba mỉm cười tỏ ý hiểu, rồi giải thích: “Không, em trai tôi nhỏ hơn tôi gần ba mươi tuổi. Lúc quan hệ của cha mẹ chúng tôi không tốt lắm, năm mười tuổi cậu ấy đã theo mẹ dọn đi nơi khác, về sau đồng chí giám nguc thông báo, tôi mới biết cậu ấy đã bị bắt. Sự việc cụ thể thế nào, tôi nghĩ Sát Tây có lẽ rõ hơn tôi mới đúng.”
Sát Tây đi trước dẫn đường tiếp lời: “Nói ra thì cũng thật là một chuyện kỳ quái. Đó là ngày đầu tiên tôi được phân tới đây làm việc, Ba Tang, bộ dạng hung thần ác sát của anh ta thật khiến người ta phải sợ hãi. Mặt mày dữ tợn, râu ria tua tủa, quần áo bị giằng xé rách bươm ra, ai nấy cứ tưởng là một người điên không biết ở đâu mò tới, không ai ngờ anh ta lại khỏe đến thế, liên tiếp làm bị thương bảy tám giám ngục, đến lúc đó mọi người mới nhận ra tính nghiêm trọng của vấn đề. Về sau cả nhà ngục báo động, các giám ngục phải dùng đến cả súng thuốc mê, mới khiến anh ta yên, câu mà anh ta đứt hơi khản tiếng gào thét đó, khiến tôi đến giờ vẫn còn sởn cả tóc gáy, là “Tôi cần được bảo vệ!”
Sát Tây quay đầu lại thấy mọi người ai cũng có vẻ nghi hoặc và khó hiểu, lại nói tiếp: “Đúng vậy, cứ nghĩ anh ta đã khỏe đến mức đáng sợ như thế, không ngờ còn ra sức gào thét đòi được bảo vệ, thật không tài nào hiểu nổi rốt cuộc anh ta đã gặp phải chuyện gì nữa. Chúng tôi vốn không có ý định bắt giữ anh ta làm gì, nhưng anh ta cứ nằng nặc đòi ở lại đây mới cảm thấy an toàn, nhất định phải thấy cả đại đội giám ngục súng ống đầy đủ đứng bên cạnh, anh ta mới hơi có chút cảm giác an toàn. Để “được” nhốt ở đây, anh ta thừa nhận mình nhiều lần săn trộm linh dương Tây Tạng hoang dã, động vật được bảo vệ cấp một quốc gia. Mới đầu chúng tôi còn cho là anh ta nói điên nói khùng, nhưng anh ta nói ra mấy nơi cất giấu lông và da linh dương Tây Tạng, ở những nơi đó, tổng cộng chúng tôi tìm được hơn năm trăm bộ da, đó là một chuyện lớn chứ chẳng chơi đâu.”
“Ồ!” Trương Lập ngạc nhiên nói, “Để được bảo vệ nghiêm ngặt trong nhà lao, không tiếc nói ra chuyện phạm tội của mình, suy nghĩ của anh ta cũng tỉnh táo lắm đấy chứ”
Sát Tây nói: “Không sai, lúc không lên cơn, anh ta hoàn toàn không khác gì một người bình thường, chỉ là đôi khi đột nhiên kích động sẽ điên loạn bất an, lúc đó thì nguy hiểm lắm. Có không ít bác sĩ muốn tìm nguyên nhân bị kích động của anh ta, nhưng đều thất bại cả, giờ bác sĩ Lạc Truy nói anh ta đã khỏi hẳn rồi, nhưng ai mà biết được, làm gì có ai dám hỏi anh ta vấn đề đó để thử xem sao đâu.”
Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập đưa mắt nhìn nhau, rốt cuộc người đàn ông tên Ba Tang này, em trai lão La Ba, là người thế nào đây?
Từng cánh cửa sắt được mở ra, Sát Tây nói: “Đến rồi, căn phòng nhỏ của Ba Tang ở trong đó, để bảo đảm an toàn, chúng ta tốt nhất nên tuân theo trình tự, trước tiên để chú La Ba vào thăm hỏi, sau đó một trong hai người vào thôi, bác sĩ nói, anh ta sợ đông người, càng nhiều người vào chính ra lại càng nguy hiểm.”
La Ba đã vào trong, Trác Mộc Cường Ba đưa mắt quan sát xung quanh, cửa các phòng đều bọc thép, cửa sổ lắp kính trống đạn, vẻ như được xử lý đặc biệt, khiến cho bên ngoài có thể nhìn thấy bên trong, nhưng bên trong lại không thể nhìn ra bên ngoài. Ba Tang, cái đầu tròn đã từng bị cạo trọc, ít cọng ria nhọn, cứng như kim sắt từ môi trên viền thành một vòng xuống dưới, rồi lại vươn sang hai bên, nối liền với tóc mai. Thân hình anh ta không cao lớn đặc biệt, nhưng rất cân đối, cơ bắp săn chắc, toàn thân tràn trề sức mạnh bạo phát như thuốc nổ, đặc biệt là đôi mắt, đôi mắt sáng như chim ưng chim ó. Hai anh em ôm nhau một lượt, sau đó bắt đầu nói chuyện.
Hơn mười phút sau, La Ba đi ra, gật đầu với Trác Mộc Cường Ba: “Có thể vào được rồi, cậu ấy nói, cậu ấy đồng ý tiết lộ một chút về chuyện thiếu gia hứng thú.”
Trác Mộc Cường Ba còn chưa bước lên, Trương Lập đã tranh lên trước, “Để tôi vào trước cho, Trác tiên sinh, đối với chuyện tra hỏi này tôi tương đối có kinh nghiệm.” Tuy sư đoàn trưởng có nói cho anh ta biết, Trác Mộc Cường Ba không phải là nhân vật bình thường, nhưng Trương Lập vẫn cho rằng, một ông chủ dù có lợi hại tới đâu đi nữa, cũng không thể mạnh hơn những binh sĩ ngày ngày được huấn luyện như bọn họ.
“Ồ.” Trác Mộc Cường Ba nghe Trương Lập nói vậy, nghĩ ngợi giây lát, “được. Tôi muốn biết rốt cuộc anh ta đã thấy cái gì ở chỗ nào.”
Trương Lập đi vào phòng, đột nhiên nhận ra không gian bên trong nhỏ hơn nhiều so với bên ngoài, còn Ba Tang rất có khả năng sẽ bất ngờ tấn công kia, cơ hồ như vươn tay ra là có thể chạm tới được. Ba Tang nói một câu tiếng Tạng, Trương Lập chưa kịp phản ứng, anh ta lại buông ra một câu tiếng phổ thông: “Anh là ai?” Ba Tang hơi cúi đầu, mở to mắt trừng trừng nhìn Trương Lập. Trương Lập cười gượng gạo, cố làm ra vẻ ung dung: “Thoải mái, thoải mái, chúng ta đều thoải mái một chút được không? Tôi ở quân khu, tên Trương Lập, lần này đến, là muốn…”Đột nhiên, chỉ thấy một nắm đấm từ nhỏ thành to, gí sát vào mặt.
Trương Lập vốn có phản ứng nhanh nhạy, ba lần giật giải quán quân Tán thủ toàn quân khu Tây Tạng, thành tích cao nhất từng đạt là đứng thứ năm toàn quốc, nhưng lần này hình như hơi không được như lúc thường, vừa nghiêng đầu tránh khỏi một đấm đánh thẳng tới mặt, đã nhận ra Ba Tang sớm vận sức tay trái đánh một đòn còn dữ dội hơn, quyền chưa tới gió đã rít vào mặt, tốc độ nhanh như vậy, Trương Lập hiếm khi gặp phải. Trương Lập chỉ kịp ngửa đầu ra sau, còn thân thể thì đã mất thăng bằng, Ba Tang giơ chân móc khẽ một cái, Trương Lập hạ bàn không ổn, trong lúc hoảng hốt vươn tay ra chụp lấy tay trái Ba Tang. Điều khiến Trương Lập không thể ngờ là, khả năng ứng biến của Ba Tang cao hơn cả mình, quyền thu được nửa đường, đột nhiên biến thành móc, chụp lấy cổ tay Trương Lập trước, thuận thế đẩy một cái, kéo một cái, khiến Trương Lập xoay lưng lại, hai tay giật ngược, một đôi gọng kìm cứng như sắt khóa chặt hai tay Trương Lập, Ba Tang hơi phát lực một chút, đã gô hai tay nhấc bổng Trương Lập lên.
Lúc này người đứng ngoài cửa mới định thần lại, La Ba vội hét lớn: “Ba Tang, thả người ta xuống!” Còn Trác Mộc Cường Ba đã xông vào trong trước. Ba Tang thấy cửa mở ra, nhìn cũng không buồn nhìn, vươn tay chuẩn bị đẩy cho người mới xông vào trở tay không kịp, không thể ngờ lại thấy tay mình bị gạt sát tới tường, lúc phát hiện ra kẻ vừa xông vào là một người đàn ông cường tráng cao một mét tám thì không kịp thu tay về nữa. Trác Mộc Cường Ba hai tay chập lại, đầu tiên bóp chặt tay trái Ba Tang, kế đó xoay người một cái, cả thân thể ép về phía Ba Tang, tay phải Ba Tang đang khóa tréo Trương Lập, ba người cùng lúc lăn xuống đất. Trác Mộc Cường Ba lợi dụng ưu thế tuyệt đối về thể hình, đè cho Ba Tang không cựa được.
(1)   Tiên nữ may mắn và trường thọ
(2)   Nhân vật trong Cách Tát Nhĩ Vương truyện-bộ sử thi dài nhất thế giới cho đến nay, kể chuyện Quốc Vương Cách Tát Nhĩ, người có ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Tây Tạng.
 
Hồi ức của Ba Tang
 

Hai cánh tay Trác Mộc Cường Ba kẹp chặt tay trái Ba Tang, hai chân khóa chặt một chân anh ta, đè Ba Tang áp bụng xuống đất. Lão La Ba cũng xông vào tới nơi, lớn tiếng quát hỏi: “Rốt cuộc cậu làm cái gì vậy, Ba Tang!”
Ba Tang buông Trương Lập ra, giãy giụa hai ba cái, nhưng vẫn không cách gì hất được Trác Mộc Cường Ba trên lưng xuống, lúc này Trương Lập cũng lật người lại, giữ chặt cánh tay còn lại của anh ta. Sát Tây chạy vào cuối cùng, thấy tình hình trong phòng, liền hỏi: “Có cần tôi gọi người đến không?”
Trác Mộc Cường Ba cảm giác Ba Tang đã thôi chống cự, mỉm cười, nói: “Không cần đâu, cám ơn.” Gã lật người dậy, nhưng vẫn khống chế Ba Tang, nói: “Chúng tôi muốn nói chuyện với Ba Tang tiên sinh một chút, chỉ hiềm căn phòng này hơi chật.”
Sát Tây gật đầu, xoay người lại nhắc nhở: “Cẩn thận đó, rất nguy hiểm.” Ra khỏi cửa anh ta mới thở phào một tiếng, không khỏi le lưỡi lắc đầu, từ đầu Sát Tây đã nhìn ra người đàn ông cao lớn này không phải tầm thường, nhưng không ngờ gã lại lợi hại tới vậy!
Ba Tang mấy lần vận lực muốn thoát ra, nhưng đều không ra khỏi sự khống chế của Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập, rốt cuộc nói: “Hai người thắng rồi.”

Trác Mộc Cường Ba buông tay, nói: “Xem ra anh không có ác ý gì, tại sao lại đột nhiên tấn công sĩ quan Trương vậy?”
Ba Tang và Trương Lập đều vung vẩy cánh tay cho máu lưu thông. Ba Tang chỉ Trương Lập nói: “Anh dùng thủ pháp cầm nã, là người trong đội đặc chủng của quân khu phải không, nếu không phải bất ngờ tấn công, cũng tương đối khó đối phó.” Rồi Ba Tang lại chỉ Trác Mộc Cường Ba nói: “Anh dùng thủ pháp đấu vật, thân thủ như vậy, khẳng định đã đoạt được Khố Bái rồi, nếu tôi toàn lực đối phó một mình anh, thắng bại thế nào cũng chưa nói trước được.” Trương Lập nghe xong, mặt đỏ tai nóng bừng bừng, không ngờ mình quả nhiên không phải là đối thủ của Trác Mộc Cường Ba.
La Ba đứng bên cạnh nói: “Ba Tang, không được vô lễ, đây chính là Cường Ba thiếu gia, chính là người mà anh thường kể với cậu đấy.”
Ba Tang giờ mới tỏ ra nghiêm túc, đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba một lượt, rồi tán tụng: “Thì ra là Cường Ba thiếu gia, quả nhiên là trời sinh thần lực. Cám ơn cậu, cám ơn cả nhà cậu đã chiếu cố cho anh trai tôi.” Ba Tang đột nhiên quỳ xuống đất đập đầu mấy cái, làm Trác Mộc Cường Ba giật mình đánh thót, vội vàng cúi xuống đỡ lên. Ba Tang lại nói rất nhiều lời cảm kích.
Trương Lập còn rất hoài nghi kĩ thuật chiến đấu của Ba Tang, liền hỏi: “Anh là người của đội quân nào vậy? Thủ pháp vừa rồi tôi chưa gặp bao giờ cả.”
Ba Tang mỉm cười nói: “Nhất định anh đã gặp, bởi vì tôi biết các anh vừa đến Tây Tạng là đã nghe giới thiệu về chúng tôi rồi.” Anh ta vạch áo, để lộ mỏm vai trái. Quả nhiên, Trương Lập kinh ngạc thốt lên: “Nhện Xanh!”
Vai trái của Ba Tang, trên bắp thịt chắc nịch, lồ lộ hình xăm hình con nhện xanh nhỏ. Trác Mộc Cường Ba không hiểu, liền hỏi: “Nhện Xanh? Là quân đội nào vậy?”
Trương Lập đọc làu làu như đọc bài khóa trên lớp: “Đội biệt động Nhện Xanh, được xưng tụng là át chủ bài của quân đội nước N, cùng đội đặc công Bọ Cạp Đỏ của Đức và đội lục chiến đặc chủng Hải Báo của Mỹ lừng danh trên trường quốc tế. Đội đặc công Bọ Cạp Đỏ đã bị tiêu vong gần hết sau thế chiến thứ II, còn đội lục chiến đặc chủng Hải Báo thì mọi người đều biết cả rồi, tốc độ tác chiến nhanh nhất, hiệu quả cao nhất, là đội quân tinh anh siêu cấp nổi tiếng với khả năng hoàn thành những nhiệm vụ không thể hoàn thành. Đội biệt động Nhện Xanh, là một đội quân tác chiến đặc chủng của chính phủ nước N thành lập dựa trên mô hình của Bọ Cạp Đỏ, thành lập năm 1977, đã mời những chuyên gia nổi tiếng nhất thế giới thời bấy giờ về giáo dục quân sự và huấn luyện quân đặc chủng làm sĩ quan huấn luyện. Bọn họ đã đặt ra cho đội quân này một loạt các quy tắc huấn luyện địa ngục, trong đó có không ít bài tập còn được ứng dụng trong các giáo trình quốc tế. Quân sĩ của bất cứ quốc gia nào cũng đều được yêu cầu phải có hiểu biết về đặc tính của đội quân này. Tại sao anh lại đến đây vậy?” Câu cuối cùng là để dành cho Ba Tang trả lời.
Ba Tang bình chân như vại, nói: “Để từ từ tôi nói cho anh biết. Giữa những năm 60 thế kỷ trước, một loạt các sự kiện như Chiến tranh Lạnh Xô-Mỹ, khủng hoảng tài chính, làm cả châu Á chìm vào hỗn loạn. Quốc vương nước N sợ trong nước bị ảnh hưởng, nguy hiểm cho sự ổn định của chính quyền, nên đã hạ chiếu, thành lập một đội biệt động nhỏ tập trung lực lượng tinh anh nhất, nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ sự an toàn của thành viên vương thất. Trên vai mỗi đội viên, giống như thành viên của đội đặc công Bọ Cạp Đỏ, đều xăm hình một con nhện xanh, đây chính là căn nguyên sự tồn tại của Nhện Xanh. Nhưng khi đội quân này hoàn thành huấn luyện, thì châu Á đã trở lại bình ổn rồi, công tác đảm bảo an toàn cho thành viên hoàng tộc chỉ cần lực lượng cảnh vệ thông thường là đủ, vì vậy đội quân này chỉ có thế hệ đầu tiên, không còn được đào tạo tiếp nữa.”
Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc nói: “Tại sao anh lại tham gia vào Nhện Xanh?”
Ba Tang đáp: “Tôi và mẹ dọn đến nơi khác không lâu thì mẹ qua đời. Một mình tôi lưu lạc khắp nơi, ngẫu nhiên có cơ hội đến nước N, được tuyển chọn vào đội biệt động tinh anh Nhện Xanh…”
Trương lập ngắt lời nói: “Vậy tại sao anh trở về Trung Quốc? Tại sao tham gia săn trộm linh dương Tây Tạng?”

Ánh mắt Ba Tang đột nhiên trở nên đờ đẫn. Cơ bắp trên mình Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập bất giác co rút, bọn họ đều phải đề phòng nhân vật nguy hiểm này lại bất ngờ tấn công. La Ba lùi một bước, tình hình lần nữa trở nên căng thẳng. Ba Tang nghiến răng ken két, cơ hồ như đang gắng hết sức để khống chế bản thân, bắp thịt co giật như bị chuột rút, hai tay run run, trán bắt đầu túa mồ hôi. Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập cũng không hơn bao nhiêu, lưng đều sũng mồ hôi. Cuối cùng, Ba Tang dường như tự chế ngự được mình, toàn thân nhũn ra như sắp xỉu, bình tĩnh nói: “Đúng vậy, rốt cuộc tôi đã làm gì chứ. Thế nào cũng phải đối diện, muốn trốn tránh cũng không trốn tránh được. Thật đáng sợ quá, tất cả cứ như một cơn ác mộng vậy.”
Trác Mộc Cường Ba thăm dò: “Rốt cuộc anh đã gặp phải chuyện gì? Có phải liên quan đến một con chó không?”
Ba Tang toàn thân chấn động, giật bắn người lên, hồi lâu sau mới trở về trạng thái bình thường, ôm đầu nói: “Không, không phải chó, là thứ gì? Tại sao tôi không thể nhớ ra nổi?”
Trác Mộc Cường Ba lấy làm nghi hoặc, La Ba liền lên tiếng khuyên giải: “Không cần nôn nóng, từ từ nghĩ, thế nào rồi cũng nhớ ra thôi. Cậu cứ kể từ đầu đi, kể tường tận cho Cường Ba thiếu gia nghe.”
Ba Tang từ từ nhớ lại, trầm nghâm nói: “Kể từ đầu… Kể từ ngày Nhện Xanh thành lập, công dụng không phát huy được ngày nào, mà trang bị cũng cực kỳ tốn kém, Nhện Xanh, ngoại trừ một cái tên hay ra, đối với quân đội, đối với hoàng tộc mà nói, đã trở thành gánh nặng. Chỉ trong ba năm ngắn ngủi, đội quân nhỏ được mệnh danh là tinh anh nhất, mạnh mẽ nhất trong lịch sử nước N này đã bị buộc phải giải tán.” Nói tới đây, Ba Tang nhắm nghiền hai mắt lại.
Trác Mộc Cường Ba chau mày, nghĩ bụng nói như vậy thì đến bao giờ mới tới chỗ gã muốn nghe đây. Trương Lập lặng lẽ gật đầu, tự nhủ thì ra số phận của đội quân này lại truân chuyên như thế, chẳng trách sau này không thấy có tin tức gì về họ nữa, người ta còn tưởng rằng đội quân thần bí đã được che giấu một cách cực kỳ tinh vi, thật không ngờ…
Ba Tang tiếp tục kể: “Vì đội quân này chỉ chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn cho thành viên hoang gia, sự thực thì chưa được sử dụng đến một ngày, không ảnh hưởng gì đến cơ mật quốc gia, nên chúng tôi không bị tiêu diệt, cũng không bị giám sát hành vi, chỉ là bị tống ra khỏi cửa như người ta hất rác vậy. Tất cả các thành viên đều tự tìm đường sống cho mình, tôi đã làm đủ thứ nghề, nhưng sống chết có số, phú quý do trời, vẫn không làm nên nổi trò trống gì. Đúng lúc đó, các đồng đội ngày trước tìm đến tôi, bọn họ cho tôi biết, có một con đường kiếm được rất nhiều tiền.”
Trương Lập đứng phắt dậy, nói: “Con đường đó, chính là săn trộm linh dương Tây Tạng phải không?”
Ba Tang bật cười như tự chế nhạo, nói: “Không sai. Thật không ngờ, đội đặc nhiệm Nhện Xanh từng nổi danh khắp thế giới, lại đến nước phải đi săn trộm như thế này. Chúng tôi chọn con đường nguy hiểm nhất, đồng thời cũng là an toàn nhất để săn trộm. Bọn tôi xuất phát từ Thông Trạch lên phía Bắc, vượt qua ngọn Hi Hạ Bang Mã, băng qua sông Nhã Lỗ Tạng Bố, đi một mạch tới mé dưới khu bảo tồn thiên nhiên Khương Đường, sau đó rẽ qua phía Tây, hoặc vòng đường lên phía Bắc, mùa hè hằng năm chính là thời gian đi săn của chúng tôi. Chúng tôi không đi Khả Khả Tây Lý, vì đội kiểm lâm nơi đó rất lợi hại, giờ cả trạm canh cũng tăng lên rất nhiều, đường đi lại xa, khí hậu cũng không tốt lắm. Bọn tôi chỉ cần phục trên đường di trú của linh dương Tây Tạng, mỗi lần thu hoạch được cũng khoảng trên dưới mười con. Trước sau chúng tôi đã đi bốn năm lần, nhưng thu hoạch không được tốt lắm, lần nhiều nhất cũng chỉ được hơn sáu mươi con, sau đó, chúng tôi thay đổi…” Khóe miệng Ba Tang co giật, kế đó lại tiếp lời, “chúng tôi thay đổi tuyến đường!”
Ba Tang nắm chặt tay, hít thở thật sâu, nhìn như đang cố hết sức giữ bình tĩnh, nhưng chỉ tỏ ra đang mỗi lúc một thêm căng thẳng. Anh ta nói giọng hơi run run: “Đó đơn thuần chỉ là trùng hợp, hoặc có thể là báo ứng của chúng tôi, cứ như bị ma quỷ dẫn đường vậy. Chúng tôi mất phương hướng trên dải Tây Phong, đi mười lăm ngày trong gió tuyết mờ mịt, tự mình chẳng biết mình đang ở đâu, chỉ biết tất cả vẫn đang trong khu vực dãy Himalaya hùng vĩ, xem ra chúng tôi vĩnh viễn chẳng có cách nào thoát ra được. Có ba người đã chết cóng, hai người quáng tuyết, những người còn lại e cũng đã tận số, khi vượt qua một ngọn núi không tên, một người trong đội sảy chân trượt trên vách đá xuống, không rõ bao lâu sau, anh ta dùng bộ đàm liên lạc, bảo chúng tôi cùng xuống hết, vì anh ta đã khám phá ra thiên đường.” Ba Tang nói liền một hơi, há miệng thở hổn hển, La Ba đưa ly nước đã chuẩn bị từ trước, Ba Tang như người mới chạy ra từ sa mạc, ngửa cổ uống “ừng ực ừng ực”. Uống hết một ly vẫn chưa đủ, La Ba lại rót thêm nước, đến ly thứ tư, Ba Tang mới để lộ nét mặt điên cuồng đáng sợ, đó không phải là cười, mà là cơ mặt co rút, khiến miệng bạnh sang hai bên, trong mắt toát lên nỗi kinh khiếp đến tàn khốc. Sát Tây đứng bên ngoài quan sát thấy tình trạng đó, liền biết phải sẵn sàng gọi bác sĩ ngay rồi, khả năng nhẫn nại của Ba Tang đã đến cực điểm.
“Thiên đường! Ha ha, đúng là thiên đường!” Giọng Ba Tang trở nên khàn đặc, ánh mắt cuồng dại đảo qua từng người một trong phòng, “Tôi không biết tại sao nơi quỷ quái đó hình thành được, nhưng núi cao đột nhiên bị thụt xuống, mức độ thụt xuống đó, thật khiến người ta khó mà tưởng tượng ra nổi, độ cao so với mực nước biển ít nhất cũng phải giảm tới hai nghìn mét. Hơn nữa, từ chỗ chúng tôi đang đứng đi xuống bên dưới tương đối khó khăn, lần đầu tiên tìm đường xuống đã có một nửa số thành viên mất tích. Nhưng, khi chúng tôi trượt xuống đến nơi mới phát hiện ra,”  ánh mắt Ba Tang đảo tròn, “dưới đó không còn thấy tuyết trắng mênh mông nữa, cây cao chọc trời, cỏ xanh mát mắt, rừng cây bất tận kia, khi ta lần đầu tiên nhìn thấy, đó thật đúng là một thiên đường! Nhưng mười sáu đồng đội của tôi, tinh anh trong các tinh anh, tất cả đều đã chết trong chính thiên đường đó.”
Trương Lập biến sắc, Trác Mộc Cường Ba cũng không hơn. Phải biết rằng, một đội mười mấy người của Nhện Xanh, đó đã là cả một đoàn quân tinh nhuệ rồi, nếu muốn tiêu diệt hết bọn họ, binh lực, nhân lực cần thiết là một con số khổng lồ chứ chẳng chơi, vậy mà tất cả bọn họ đều chết ở một nơi giống như thiên đường, rốt cuộc đó là một nơi như thế nào vậy!
“Từ trên núi tuyết trượt xuống thì dễ, muốn lên trở lại, khó còn hơn lên trời. Thiên đường đó bên ngoài nhìn thì đẹp đẽ, đi vào trong mới phát hiện ra, đó là địa ngục, địa ngục thực sự.” Mắt Ba Tang đảo đi đảo lại nhìn hai người Trác, Trương như nhìn bọn tội phạm, “Mấy người đã từng thấy con muỗi to như ong bắp cày chưa? Bị đốt một cái có thể khiến cả cánh tay sưng phồng lên! Các người đã thấy những bông hoa ăn thịt người chưa? Những con bướm to bằng bàn tay nấp dưới tán lá, chỉ cần có người bị bắt lấy, bọn chúng sẽ đến đòi dây máu ăn phần. Mấy người đã thấy loài cây nào nửa đêm siết chết người, treo lơ lửng trên không chưa? Mấy người đã thấy những con đỉa trốn trong đầm lầy chưa, một khi để tụt xuống đó, khi được kéo lên, khắp người như treo đầy lạp xường vậy.”
Nghe Ba Tang nói mà hai người lúc nóng lúc lạnh, cảm giác không thể tả được bằng lời, anh ta lại cao giọng nói tiếp: “Đáng sợ không? Không! Tất cả những thứ này đều chẳng đáng là gì! Đều không làm chúng tôi khiếp sợ! Chúng tôi khắc phục được cả. Chúng tôi đi qua rừng sâu thì thấy một thảo nguyên mênh mông, bãi cỏ rộng không thấy tận cùng, cứ như nối liền với núi tuyết vậy, đồng thời, chúng tôi cũng phát hiện ra một bầy linh dương Tây Tạng vô cùng đông. Tôi tin chắc, đó là một vùng đất bị quên lãng, tôi chưa bao giờ thấy nhiều linh dương đến thế. Bọn chúng cũng không hề sợ con người, dường như chưa bao giờ thấy thứ sinh vật như con người chúng ta vậy. Lúc ấy, chúng tôi đều mừng rỡ như phát điên, đó gần như là vàng từ trên trời rơi xuống còn gì. Thậm chí lúc chúng tôi bắt đồng loại của chúng, lột da ngay trước mặt chúng, bọn chúng cũng không hề kinh hoảng. Cứ như vậy, chúng tôi giết từng con, từng con một, lột da từng con một, đến khi mềm cả tay, đồ đạc mang theo đều chất đầy cả, chúng tôi vẫn chưa cam tâm, quyết định vận chuyển số da linh dương này đi trước, rồi sẽ trở lại lần nữa.”
Nét mặt Ba Tang hiện lên một nụ cười, cơ hồ như đang thấy lại cảnh tượng thu hoạch khi đó vậy, anh ta cười gằn nói: “Lúc đó bọn tôi quyết định, nhân mùa linh dương đang mọc lông măng, tạm thời không bán số da đó ra vội. Sau khi chuyên gia vẽ bản đồ quân sự ghi lại các tọa độ địa lý, chúng tôi mang đợt chiến lợi phẩm đầu tiên, gần sáu trăm bộ da linh dương về bảo quản, cất dấu ở lãnh thổ Trung Quốc, cũng chính là số da mà tôi đã chỉ cho cảnh sát đến tìm. Chúng tôi lại vào nơi đó lần thứ hai, lần này là đi từ phía Bắc xuống phía Nam, chúng tôi xuất phát ở Tông Ca, đi xuống phía Nam, vượt qua Đại Tuyết Sơn, vùng đất thiên đường cạm bẫy chết chóc giăng khắp nơi đó vẫn còn nằm yên chỗ cũ, vẫn lặng lẽ nằm đấy, giống như một người đẹp bằng vàng đang say ngủ, đợi chúng tôi đến thức tỉnh.”
Ba Tang kể tới đây, giọng đột nhiên nhỏ dần, ủ rũ cúi đầu: “Lần này, chúng tôi gặp phải con người, anh ta ăn mặc rất kì quái, dùng thổ ngữ địa phương cảnh cáo chúng tôi điều gì đó, đáng tiếc chúng tôi căn bản không nghe lọt, trong đầu chúng tôi chỉ toàn là da linh dương Tây Tạng, vàng ròng, linh dương Tây Tạng chính là vàng ròng mà! Để tránh tiết lộ tin tức, chúng tôi đã giết chết anh ta, giết chết anh ta! Một đội quân đảm trách việc bảo vệ an toàn cho yếu nhân, lần đầu tiên giết người, không ngờ lại đối với một người Tạng tay không tấc sắt! Khi chúng tôi bước vào khu rừng chết chóc đó lần nữa! Chúng tôi…” Ánh mắt Ba Tang đột nhiên trở nên đờ đẫn, cả người giống như bị giật điện, đôi mắt thất thần trợn trừng hướng lên chỗ trống, tròng mắt đảo tròn qua lại, lông mày càng lúc càng nhíu chặt, sắc mặt mỗi lúc một đau đớn, anh ta lại ôm lấy đầu, rú lên như sói tru.
Trương Lập và Trác Mộc Cường Ba đều ở trong trạng thái tập trung tinh thần, thấy nét mặt Ba Tang không ổn, lập tức đứng lên, một trái một phải kẹp anh ta vào giữa, đề phòng anh ta đội nhiên gây chuyện. La Ba nhẹ vuốt lên lưng Ba Tang, không ngừng an ủi, Ba Tang vẫn ôm đầu ngửa mặt gào lớn: “Tại sao?! Không phải bác sĩ nói tôi đã khỏi bệnh rồi sao?! Tại sao tôi không nhớ ra!? Tại sao chứ?!”
 
Đàn ông và xe  
La Ba bất lực nhìn Trác Mộc Cường Ba, ý như muốn nói mình cũng không ngờ sẽ như vậy. Nhưng Trác Mộc Cường Ba đã nắm được trọng điểm, gã đợi Ba Tang bình tĩnh lại, rồi hỏi cặn kẽ về người bị bọn họ giết chết, không ngờ chuyện này Ba Tang lại nhớ hết sức rõ ràng. Hỏi xong, Trác Mộc Cường Ba không nói không rằng đi ra ngoài, nhờ Sát Tây gọi bác sĩ trị liệu của Ba Tang tới. Bác sĩ Lạc Truy nghe xong tình hình liền chậm rãi nói: “Đây chính là minh chứng anh ta đã khỏi bệnh. Nếu sự việc kích thích quá độ đến nỗi đại não không thể chấp nhận, não bộ sẽ chặn thông tin đó lại, không thể nói là quên đi, cũng không phải bị xóa, chỉ là đem nó chôn xuống thật sâu. Nếu anh ta không quên đi, câu chuyện làm cho anh ta khủng hoảng cực độ đó sẽ không ngừng kích thích thần kinh, khiến anh ta phát điên lên. Còn về người chết mà anh ta nhắc đến đó, tôi nghĩ có lẽ là sự thật, bởi vì con người là động vật có tâm hướng thiện, đối với một người mà nói, người đầu tiên anh ta giết hoặc nhìn thấy người khác giết, sẽ để lại ấn tượng cực kỳ sâu sắc…”
Trên đường rời khỏi nhà tù, Trác Mộc Cường Ba im bặt, cúi đầu trầm tư, không ai biết gã đang nghĩ gì. Trên xe, Trác Mộc Cường Ba cũng chỉ nhìn chằm chằm xuống sàn xe, làm La Ba thấp thỏm không yên, người là do ông giới thiệu với cậu chủ, giờ gần như là không giúp được chuyện gì cả. La Ba thử dò hỏi: “Thiếu gia, Ba Tang cậu ấy…”
Trác Mộc Cường Ba đang cúi đầu không ngờ lại nhoẻn miệng cười, gã ngẩng đầu lên, tựa như hạ quyết tâm rất lớn, kế đó nắm chặt vai La Ba nói: “Chú La Ba, tôi quyết định rồi, nhất định phải nghĩ cách đưa Ba Tang khỏi nhà tù, anh ấy sẽ là người hướng đạo tốt nhất cho chúng tôi.”
“A?” La Ba và Trương Lập đều giật bắn mình. Trác Mộc Cường Ba tràn trề lòng tin nói: “Còn nhớ anh ấy có kể là đã giết một người không? Tôi đã hỏi cặn kẽ về đặc điểm quần áo của người đó, không nghi ngờ gì nữa, hoàn toàn với cách ăn mặc của người Qua Ba trong lời kể của a ba tôi, thêm vào vị trí của nơi họ đã đến kia, càng có thể khẳng định bọn họ nhất định đã tình cờ đi lạc vào lãnh địa của bộ tộc Qua Ba. Còn rốt cuộc xảy ra chuyện gì, tôi đã hỏi bác sĩ rồi, đến khi trở lại nơi đó, anh ấy sẽ từ từ nhớ lại thôi.”
Trương Lập lại chỉ thấy tóc gáy dựng ngược, lên tiếng nhắc nhở. “Nhưng, Cường Ba thiếu gia, có một chuyện hy vọng anh có thể làm rõ, bọn họ là quân đặc chủng chuyên nghiệp, lại có tới mười mấy người, mà giờ, dường như chỉ còn một mình Ba Tang từ nơi đó sống sót trở về, nhưng đã bị điên rồi, nếu mấy người chúng ta đi…”
Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ đắc ý, nói: “Giờ đem mấy sự việc chúng ta đã trải qua móc nối với nhau, gần như đã có thể giải thích được đầu đuôi của chuyện này rồi, người Qua Ba có thể đang bảo vệ kinh Phật quý báu đã thất tán trong lịch sử ở nơi sinh sống của họ, hơn nữa nơi đó cũng có cả thần thú trong truyền thuyết, Tử Kỳ Lân. Đám người săn trộm bọn Ba Tang, tình cờ đi vào lãnh địa của bộ tộc Qua Ba, hơn nữa còn giết chết một người của họ, tự nhiên là làm cho người Qua Ba phẫn nộ, hai bên đã xảy ra kịch chiến, cuối cùng tiểu đội Nhện Xanh có vũ khí hiện đại và người tộc Qua Ba đông đảo có thể đã cùng gặp phải kết cục không khác gì nhau, người gần như chết sạch! Còn Đường Thọ ưa thích mạo hiểm cũng vừa hay tiến vào lãnh địa của người Ba Qua, vốn đang chụp ảnh một con vật họ chó khổng lồ, lại vô tình chứng kiến cảnh tàn sát của hai bên, có lẽ vào lúc trận chiến tương đối tàn khốc và tanh máu. Vì vậy, người điên là người Qua Ba sống sót duy nhất, Ba Tang là kẻ may mắn duy nhất trong đội Nhện Xanh, còn Đường Thọ là người chứng kiến, như thế, cả ba đều phát điên cả. Chúng ta đi lần này, ngoài việc phải cẩn thận đối phó với các loài động vật trong rừng ra, chắc cũng không còn gì nguy hiểm hơn nữa đâu.”
Trương Lập không cãi, nhưng trong lòng nghĩ: “Cường Ba thiếu gia à, cách nói này của anh thật khiên cưỡng quá đi. Trước tiên là thời gian không đúng, Ba Tang vào tù đã mười mấy năm rồi, còn Đường Thọ thì mới phát điên thời gian gần đây thôi; người điên kia lại càng không thể nào, nếu thời gian phù hợp với thời gian Ba Tang kể, anh ta chỉ chừng bốn, năm tuổi, lúc đó nếu người tộc Qua Ba đã chết sạch cả rồi, vậy thì anh ta của ngày hôm nay chắc gì đã biết nói chuyện? Hơn nữa, bọn họ người thì thần kinh không bình thường, người thì mất ký ức, những gì họ nói cũng hàm hồ không rõ, theo lời người điên đó do chính anh dịch ra, thì người trong bộ tộc của anh ta tất cả đều đã bị cắn chết mà! Chẳng lẽ hai đám người lại lao vào cắn nhau chắc…” Trương Lập thầm run sợ, không dám tiếp tục tưởng tượng nữa, lại bắt đầu suy nghĩ, “Nếu dựa vào những gì bọn họ sợ hãi, Đường Thọ sợ bóng tối, người điên kia sợ chó, còn Ba Tang lại sợ đám đông. Bóng tối, đám đông, chó, cắn chết, đó là…” Trương Lập cơ hồ như nắm bắt được điều gì đó, chỉ thấy sống lưng lạnh toát, tay đang lái xe cũng không tự chủ được mà run lên một cái!
Trác Mộc Cường Ba thấy mình mỗi lúc một gần mục tiêu, tâm trạng lấy làm vui vẻ, nói với Trương Lập: “Đã tới đây rồi, chúng ta vào nhà hàng Nhã Lỗ Tạng Bố ăn đồ Tứ Xuyên đi. Nếu không thì đến khách sạn Lhasa , ở đó cũng không tệ lắm. Sau đó tôi sẽ tới cơ sở của công ty chúng tôi ở Lhasa, chú La Ba có thể tới phố Bát Giác mua chút đồ mang về.”
Khách sạn Lhasa là khách sạn bốn sao đầu tiên của Tây Tạng, cách thánh địa trung tâm Bố Đạt La cung chỉ có mười phút đi xe, ba người chọn một vị trí gần cửa sổ ở nhà hàng tầng hai, từ đây có thể trông thấy vòi phun nước phía trước khách sạn.
Ba người vừa ngồi xuống, Trương Lập đã “a” lên một tiếng đứng bật dậy, sắc mặt hân hoan. Trác Mộc Cường Ba quay đầu lại, đồng thời hỏi: “có gì vậy?”
“Hummer H1 Connerstone! Xe việt dã quân dụng của công ty Mỹ AMG, bốn cầu, phía trước có động cơ phun dầu điện tăng áp DOHC hai trục bánh đà lồi, thời gian gia tốc từ 0 đến 100km/h chỉ 19.5 giây. Độc đáo, nguyên thủy, xe việt dã tốt nhất thế giới, đây đều là những từ ngữ dùng để miêu tả Hummer H1 cả.” Trương Lập cuối cùng tán thêm, “Đây là chiếc xe thuộc về đàn ông, to lớn mạnh mẽ và cực kỳ thẳng thắn. Chiến tranh đã đem cho Hummer sắt da đồng của nó. Tôi nằm mơ cũng muốn mình có một chiếc xe như thế đấy.”

Trác Mộc Cường Ba cũng đã trông thấy, vẻ ngoài to lớn mạnh mẽ và tính năng cơ động linh hoạt, quả nhiên là một chiếc xe vô cùng khí thế, nhưng điều gã chú ý hơn nữa là biển số xe, biển số xe đó là “S224009”. Trác Mộc Cường Ba biết, đó là xe của đại sứ quán nước nào đó, nhưng, tại sao lại lái tới tận nơi này chứ? Đón nhân vật quan trọng gì tham quan Bố Đạt La cung sao? “À, chuyện gì thế nhỉ?” Cảm giác kỳ dị đó lại cuồn cuộn tấn công Trác Mộc Cường Ba, như một con cá trạch ẩm ướt đang bò trên lưng gã, một con sao biển to tướng đang thối rữa trên mặt gã, lại giống như nghe thấy tiếng rin rít của móng vuốt cào lên bảng sắt, lông tóc toàn thân dựng ngược cả lên. Giống hệt như lúc ở nhà vậy, ánh mắt âm độc khiến gã không lạnh mà run đó khiến Trác Mộc Cường Ba xác định rất nhanh, chính là người ở nhà gã hôm trước!
Trác Mộc Cường Ba gượng gạo quay đầu lại, nhìn thấy một bóng người cao lớn, ngồi cách bọn gã ba bàn, người đó ngồi xoay lưng lại với bọn gã, nhìn thẳng thì thấy có lẽ cao hơn gã một chút, áo nhà binh bằng da thuộc bóng loáng, không cài cúc, khoác lên vai giống như áo choàng, đầu đội mũ nồi đỏ. Mái tóc màu vàng kim và làn da đồng cổ khiến Trác Mộc Cường Ba có thể nhận ra, đó là một người nước ngoài, gã quyết định làm quen với người đó.
Nhưng, Trác Mộc Cường Ba vừa đứng dậy, người ngồi xoay lưng với gã kia cũng đứng thẳng dậy, vai dài lưng rộng, tựa như một pho tượng Kim Cương đứng sừng sững ở đó, cả Trác Mộc Cường Ba cũng phải thầm tán thưởng: “Đúng là một con người uy mãnh!” Thân hình toát lên khí thế áp đảo ngùn ngụt ấy, khiến Trác Mộc Cường Ba liên tưởng tới chiếc Hummer đang đậu bên dưới.
Người kia vừa đứng lên, hai vệ sĩ mặc âu phục màu đen bên cạnh cũng đứng lên theo, hộ vệ người đó đi ra cổng. Người này bước đi, làm sàn nhà phát ra những tiếng “cạch cạch”, Trác Mộc Cường Ba nghe tiếng nhìn theo, thì ra gót đôi ủng quân sự cao cổ của y không ngờ còn gắn thêm một lớp sắt. Trác Mộc Cường Ba hậm hực ngồi xuống, đột nhiên trông thấy nhân viên phục vụ của khách sạn bưng đồ ăn ba người đó vừa gọi ra bàn, đồng thời ngạc nhiên nhìn quanh quất. Trác Mộc Cường Ba giờ mới hiểu, ba người đó mới tới đây không lâu, cả cơm cũng chưa kịp ăn đã bỏ đi luôn, chỉ vì mỗi chuyện gã đứng lên, xem ra người đó rất cảnh giác, hơn nữa từ đầu tới cuối luôn chú ý đến gã. Nhưng ánh mắt và bóng lưng quen thuộc ấy, rốt cuộc là đã gặp người đó ở đâu, Trác Mộc Cường Ba không sao nhớ nổi.
Trương Lập vẫn thao thao bất tuyệt tán tụng chiếc Hummer kia. La Ba thấy Trác Mộc Cường Ba đứng lên rồi ngồi xuống, ngạc nhiên hỏi: “ Cường Ba thiếu gia, cậu sao vậy?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ồ, không có gì, đồ ăn lên rồi, thử đi, bíp tết thượng hạng đấy!”
Lúc này Trương Lập chợt kêu lên: “Xem kìa, chủ xe ra rồi, oai quá!”
Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn, trong lòng thầm thốt lên: “Quả nhiên là y!” Người nước ngoài cao lớn tóc vàng, dưới tấm áo da chính là quân trang dã chiến mùa đông của lục quân Thụy Sĩ, bộ quân trang trắng như lông cáo bạc đó và áo da đen tạo ra sự đối lập rõ rệt, lại để lộ những đường nét thân thể uyển chuyển như loài báo của người mặc, đôi quân hàm lấp lánh phát sáng dưới ánh mặt trời.
Trên sống mũi cao cao của y đeo một đôi kính râm to bản, cả gương mặt giống như đá trên núi Nam Ca Ba Nhã, lạnh, cứng, bị gió nghìn năm bào mòn, bị tuyết vạn năm che phủ. Người kia không biết tình cờ hay chú ý liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba một cái, sau đó lên xe, đích thân lái đi, tiếng gầm động cơ bộc lộ rõ sức mạnh của chiếc Hummer H1
Trác Mộc Cường Ba lại càng nghi hoặc, một người đặc biệt như vậy, nếu gã từng gặp qua, làm sao có thể không có ấn tượng gì? Nhưng dáng lưng đó, ánh mắt đó, đích thực đã kích thích dây thần kinh trong não gã, một thứ kích thích rất đau đớn.
Tiếng chuông điện thoại kéo Trác Mộc Cường Ba trở lại với bàn ăn, gã lấy điện thoại ra nói: “A lô, thầy giáo ạ? A! Thầy cũng tới Lhasa rồi? Sao không đi với chúng tôi luôn. Được rồi, chúng tôi đang ở khách sạn Lhasa . Được được.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Giáo sư Phương Tân cũng tới rồi, hình như có chuyện gì đặc biệt.”
Trương Lập nói: “Có cần đi đón ông ấy luôn không?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không cần, ông ấy đã ăn rồi, giờ đang ở chùa Tiểu Chiêu, chúng ta ăn xong rồi đi kiếm ông ấy, sau đó cùng trở về. Chú La Ba, đến phố Bát Giác vừa hay cũng thuận đường đấy.”
Ba người ngồi xe đến phố Bát Giác, du khách đến Lhasa hầu như đều tới đây chọn mua những món đồ nho nhỏ. Phố Bát Giác này cực kỳ phồn hoa, cửa hàng san sát, người đi như dòng nước chảy không ngừng. Dọc trên phố bày đầy các loại đồ thủ công mỹ nghệ của các dân tộc, chẳng hạn như Kinh Luân, Tạng hương, Tạng đao, nhẫn, hoa tai, vòng tay, còn có cả trang phục dân tộc, nhiều màu rực rỡ, thứ nào cần có đều có cả. Có người đến từ khu chăn nuôi phía Bắc Tây Tạng mặc áo trắng, có người đến từ địa bàn núi Khang Ba đeo anh hùng kết, còn có người sống ở khu phố Bát Giác, quần áo rực rỡ… tóm lại, đủ loại tín đồ, tay cầm kinh sách, đi vào phố Bát Giác, vòng qua chùa Đại Chiêu, miệng không ngừng niệm kinh. Trương Lập lái xe chầm chậm, để ông già La Ba có thể nhìn rõ các cửa tiệm ven đường, chọn được những thứ ông muốn mua về, vòng qua đường chuyển kinh, đến trước Đại Pháp Vương cung, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên vỗ nhẹ vai Trương Lập, kêu lên: “Dừng xe! Dừng xe!”
Trương Lập dừng xe, đang chuẩn bị hỏi xem Trác Mộc Cường Ba đã nhìn thấy gì, chợt phát hiện hai mắt gã nhìn trân trân phía trước, hồn đã không còn trên xe, đến cả mở cửa xe cũng không biết, Trương Lập phải giúp gã mở ra. Trác Mộc Cường Ba hai mắt ngây ngây, cứ thế đờ đẫn xuống xe, rồi lại đờ đẫn tiến lên phía trước. Trương Lập nhìn theo ánh mắt gã, một cô gái mười bảy mười tám tuổi, đầu đội mũ trượt tuyết màu vàng lúa, áo lông vũ màu trắng, giày cao gót màu đỏ, tay đi một đôi găng tay len màu vàng nhạt. Gương mặt nhỏ nhắn hồng hồng, đôi mắt to đen láy sáng rỡ, thoạt nhìn tựa như một chú thiên nga trắng trên mặt hồ đóng băng, một bức tượng băng không nhiễm chút bụi trần.
Khi Trác Mộc Cường Ba cách cô gái đó chừng mười mấy mét, cô mới nhìn thấy gã, nét mặt cô cũng hệt như Trác Mộc Cường Ba vậy, ngạc nhiên, mừng rỡ, ngẩn ngơ, u uất, Trương Lập cứ cảm thấy quái lạ: “Mẫn Mẫn, em…em đến rồi!” Nghìn vạn lời muốn nói tắc nghẹn lại trong ngực Trác Mộc Cường Ba, chỉ lắp bắp nói ra được một câu đó. Con người gã luôn nhớ nhung trong lòng, ngày đêm mơ gặp, khiến gã cứ quanh quẩn giữa hạnh phúc và đau khổ, nay lại đột nhiên hiện lên trước mặt , tất cả ngôn ngữ đều tan biến đi, gã chỉ muốn ôm chặt lấy cô, khiến cô tan chảy trong lòng mình. Đường Mẫn, tiên nữ trong lòng của Trác Mộc Cường Ba.
“Vâng, em đến rồi.” Đường Mẫn nhẹ nhàng đáp lại một câu, đột nhiên nước mắt tuôn trào, tựa như một đôi oan gia mấy đời, trải qua luân hồi bao kiếp mới được trùng phùng, nhưng sự thực thì bọn họ xa nhau mới chưa được một tuần. Hai người ôm chặt lấy nhau, cơ hồ như không có sức mạnh nào trên thế gian này có thể tách rời ra được nữa.
Trương Lập ngồi trên xe lẩm bẩm nói: “Thế này, xúc động đến thế này, chẳng lẽ cô ấy là con gái của Cường Ba thiếu gia?”
Trác Mộc Cường Ba áp mặt vào mặt Đường Mẫn, dịu dàng vuốt ve, gã hôn lên trán cô, tình cảm đè nén bùng phát lên trong khoảnh khắc, hai người thỏa sức dựa vào nhau. “Em ngốc thật, không phải anh đã bảo em không được đến rồi sao. Em đến lúc nào thế? Mấy hôm nay ở đâu vậy?” Trong trách móc đầy quan tâm thân thiết. Đường Mẫn lại dùng một câu thơ trả lời: “Nếu trời cao trông thấy, nhất định sẽ không để anh và em chia tay; nếu Aphrodite nhìn thấy, nhất định sẽ để đôi ta trở về nhân gian.”
Trác Mộc Cường Ba nồng nàn nâng cằm Đường Mẫn lên, hôn rồi lại hôn, lại ngả đầu cô vào ngực mình, lẩm bẩm nói: “Mấy ngày nay em đều ở Lhasa à? Có khỏe không? Có bị lạnh không? Có bị phản ứng cao nguyên không? Có ăn quen đồ ăn ở đây không? Em…anh trai em thế nào rồi…”
Trương Lập thầm nhủ: “Xem ra, Cường Ba thiếu gia rất yêu thương con gái.”
La Ba cũng đang nghĩ: “Quái thật, sao không nhớ thiếu gia nói là còn có một cô con gái nhỉ, lẽ nào mình già thật rồi? Không nhớ nổi gì nữa?”
 
Tranh luận
 
Đường Mẫn áp chặt người vào ngực Trác Mộc Cường Ba, nức nở rủ rỉ: “Ư, ư ư, ứ ừ ư…”giống một con mèo nhỏ bị oan ức gì lớn lắm, một lúc lâu cô mới nói được một câu hoàn chỉnh, cô nói: “Bệnh tình của anh trai em vẫn chưa biến chuyển, em đã nhờ hộ lý chuyên nghiệp trông nom rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy sao không ở đó chăm sóc em trai em cho tốt?”
Đường Mẫn nghe xong lại khóc òa lên, đáp: “Đều tại anh cả. Anh…anh là…anh là đồ xấu xa. Điện thoại cũng không gọi được, em lo đến sắp chết rồi!”
Trác Mộc Cường Ba an ủi: “Anh đã nói rồi mà, chỗ này thực ra không hề phủ sóng. Được rồi, nhìn em kìa, gầy rộc đi rồi. Em xem em khóc kìa, giống như bà địa chủ trong truyện Nasreddin ấy.”
Đường Mẫn đổi khóc thành cười: “Vậy thì anh chính là lão địa chủ béo, lão già Bayi đó.”
Hai người anh một câu, anh một câu, toàn những câu tình tứ ngọt ngào, sớm đã quên mình đang ở đâu. Đợi đến khi Trác Mộc Cường Ba nhớ ra còn phải đi đón giáo sư Phương Tân, Trương Lập cảm giác như bánh xe cũng đợi đến xẹp hết cả hơi. Trác Mộc Cường Ba áy náy cười cười nói: “Thật ngại quá, để hai người đợi lâu rồi. À, chú La Ba, chú có thể đi mua các đồ cần dùng trong nhà, Khang châu, Tạng hương, nến thần gì đó đều cần rất nhiều phải không.”
La Ba vuốt râu nói: “Ồ, xem ra đúng là thiếu gia không nghe thấy gì cả. Vừa nãy La Ba đã nói với thiếu gia rồi mà, tôi đi mua đồ trước, thiếu gia không trả lời gì cả. Giờ đã chất đầy trên xe rồi.”
“Ha ha. Thật không?” Trác Mộc Cường Ba cười khan một tiếng, “Xin lỗi, xin lỗi, tôi sơ ý quá. Nào, để tôi giới thiệu mọi người, đây là cô Đường Mẫn, là…là…”
Đường Mẫn tỏ vẻ không vui, dẩu môi lên nói: “Tôi là bạn gái anh ấy.”
“A!” Trương Lập trợn tròn mắt lên, đôi mắt anh ta vốn đã trợn rất to, giờ tròng mắt như muốn lòi ra ngoài, La Ba há hốc miệng, bộ răng giả suýt chút nữa thì rơi ra ngoài. Trác Mộc Cường Ba đỡ Đường Mẫn lên xe, kế đó cũng lên theo, nói: “Ồ, chuyện này, từ từ tôi sẽ kể với mọi người, giờ lái xe tới chỗ giáo sư Phương Tân trước đã, ông ấy chắc đợi lâu lắm rồi.”
Ba người lái xe tới đón giáo sư Phương Tân, chỉ nhìn đống tàn thuốc dưới chân ông, đủ biết tâm tạng ông lúc này thế nào, Trác Mộc Cường Ba không biết nên xin lỗi thế nào, đành giới thiệu qua loa về Đường Mẫn, rồi ngây ra không nói gì nữa.
Giáo sư Phương Tân lạnh lùng lườm một cái, đưa mắt nhìn Đường Mẫn một lượt, sau đó nhạt giọng nói: “Cô chính là Đường Mẫn? Tôi nghe Cường Ba nhắc tới cô rồi.”
Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Hỏng rồi, hỏng rồi, xem ra lần này giáo sư trút giận chuyện đến muộn lên Mẫn Mẫn mất thôi.”
Giáo sư Phương Tân bắt tay Đường Mẫn theo phép lịch sự, cười nghiêm nghị, rồi nói: “Lên xe đi, thời gian đã muộn rồi, rất khó trở về Cổ Duy đó.”
Trác Mộc Cường Ba phụ họa: “Đúng, đúng. Chúng ta lên xe trước. Đúng rồi, thầy giáo, sao thầy không đi cùng chúng tôi đến Lhasa ?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Tôi vốn cũng không muốn đến, về sau lại đột nhiên nhớ ra, tôi có một người bạn, nghiên cứu rất sâu về văn vật Tây Tạng, nên muốn gửi hai thứ kia cho anh ấy xem thử, vì gửi EMS phải từ Lhasa, nên tôi mới trực tiếp đến đây luôn.”
“Ồ,”Trác Mộc Cường Ba nói, “cậy thầy gửi hai thứ đó đi rồi à?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, nếu anh ấy ở nhà, chẳng bao lâu sẽ có hồi âm. Đúng rồi, thu hoạch lần này thế nào?”
Trác Mộc Cường Ba kể qua chuyện trong ngục một lượt. Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: “Như vậy xem ra, phạm vi hoạt động của bộ tộc Qua Ba đúng là ở trong dãy Himalaya , phạm vi cần tìm kiếm của chúng ta lại nhỏ đi một chút rồi. Đợi Ba Tang ra khỏi tù, chúng ta sẽ xuất phát luôn.”
La Ba lắc đầu nói: “Ba Tang bị xử mười bốn năm, vẫn còn mấy năm nữa cơ.”
Trác Mộc Cường Ba vỗ vỗ vai lão, giọng đầy tự tin: “Sẽ có cách thôi.” Sau đó lại quay sang kể cho Đường Mẫn chuyện xảy ra trong mấy ngày hôm nay, đồng thời hỏi cô một số chuyện. Xe tới khách sạn của Đường Mẫn lấy đồ xong, liền đi tiếp đến chi nhánh Lhasa của công ty Trác Mộc Cường Ba.
Gặp được Đường Mẫn, tâm trạng Trác Mộc Cường Ba vô cùng phấn chấn, gã mời bốn người cùng tới cơ sở nuôi dạy chó Thiên Sư của tập đoàn Thiên Sư ở gần Lhasa. Lái xe mất gần hai tiếng đồng hồ, vừa vào khu nuôi chó, cả con người Trác Mộc Cường Ba như hoàn toàn thay đổi. Trong mắt Trương Lập, vị tổng giám đốc thân hình cao lớn, lạnh lùng, ít nói này giống như một mặt hồ sâu không thấy đáy; nhưng vừa vào khu huấn luyện chó, gã liền giống như một đứa nhỏ sáu bảy tuổi lần đầu tiên được vào công viên Disneyland, đôi mắt sáng ngời, đối với mọi vật xung quanh đều hết sức hữu hảo và thân thiết.
Trong cơ sở huấn luyện này có sáu mươi mấy con ngao, ngoài những con mới sinh hay mới bắt về, Trác Mộc Cường Ba có thể gọi tên từng con một, những con quái to tướng thường ngày khoogn thèm để ý đến con người này cũng bày tỏ sự chân thành và tình cảm tốt đẹp với gã Trương Lập cảm nhận được, Trác Mộc Cường Ba thực sự là người nuôi chó ngao, chứ không phải đang kinh doanh chó ngao, mỗi con ngao ở đây, dường như đều do chính tay gã nuôi dưỡng. Tình cảm với ngao tốt như vậy, làm sao nỡ đem chúng bán đi chứ? Trương Lập nghĩ vậy, liền buột miệng hỏi luôn.
Trác Mộc Cường Ba đang ôm cổ một con ngao trưởng thành tên “Hùng Hùng”, điềm đạm đáp: “Tôi chỉ kinh doanh công ty, người nuôi dưỡng và bán chúng đều không phải tôi, nếu là do đích thân tôi huấn luyện nuôi dưỡng, chỉ sợ ngay cả một con cũng không bán đi được.” Ngưng lại một chút lại nói tiếp, “Có điều, anh nên nghĩ như thế này, có thể tìm cho chúng một mái nhà ấm áp, để những người thật sự yêu thích chó ngao tìm được chỗ dựa tinh thần, để trên thế giới có thêm nhiều người hiểu và biết tới loài chó thần Trung Hoa này, đối với cả ngao lẫn người, đều là một chuyện tốt.”
Trương Lập thầm nhủ: “Người yêu chó ngao chân chính liệu có được bao nhiêu? Là người yêu tiền lương đối nhiều hơn sao?” Nhưng câu này anh ta không nói ra miệng.
“Cường Ba, anh trở về rồi. Sao không báo trước cho tôi một tiếng, tôi phái người ra sân bay đón anh.” Một người có vẻ như là quản lý, chạy vội từ trong tòa nhà làm việc ra đón, đeo một đôi kính gọng vuông, tướng mạo nghiêm trang, giày da đồ Tây, chừng ba bốn mươi tuổi gì đó.
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười giới thiệu với mọi người: “Vị này là phó tổng giám đốc công ty chúng tôi, Đồng Phương Chính. Năm xưa mấy vị nguyên lão cùng đánh dẹp thiên hạ, giờ người đi đã đi, người nghỉ đã nghỉ, người sáng lập công ty chỉ còn lại hai chúng tôi thôi. Phương Chính, vị này là giáo sư Phương Tân, thầy giáo của tôi, anh đã gặp rồi; đây là Đường Mẫn, bạn…bạn gái của tôi, mới quen tháng trước bên Mỹ; vị này là đặc cảnh của quân khu, Trương Lập; chú La Ba, anh cũng biết rồi.”
Đồng Phương Chính lần lượt bắt tay, mọi người làm quen rất nhanh. Trác Mộc Cường Ba dẫn mọi người vào công ty tham quan một lượt, rồi để người chuyên trách tiếp đãi, gã và Đồng Phương Chính vào phòng làm việc. Trong phòng, Trác Mộc Cường Ba lấy ra mấy thứ giấy tờ, nói với Đồng Phương Chính: “Phương Chính, thời gian tôi không ở đây, công ty do anh toàn quyền phụ trách, đây là thư ủy quyền của tôi, anh sẽ là người chịu trách nhiệm pháp nhân thay tôi.”
Đồng Phương Chính là một trong số ít những quản lý cấp cao của công ty biết được hướng đi của Trác Mộc Cường Ba, có vẻ lo lắng nói: “Cường Ba, lần này anh phải đi rất lâu sao?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Ừm, giờ cảm thấy sự việc rất phức tạp, nếu may mắn, có thể hai ba tháng là về được, còn nếu…” Gã lắc đầu, “Tôi lấy thời gian ba năm làm hạn định, trong thời gian tôi không ở đây, chuyện lớn chuyện nhỏ trong công ty đều dựa vào anh cả đấy.”
Đôi lông mày lưỡi mác của Đồng Phương Chính chau lại, anh ta nói: “Lâu như vậy sao? Nếu công ty xảy ra chuyện gì lớn…”
Trác Mộc Cường Ba ngắt lời: “Tôi tin anh, anh có đủ năng lực xử lý tốt bất cứ chuyện gì, cứ đợi tin của tôi! Được rồi, đây có phải lần đầu đâu, quy củ cũ, tất cả cứ theo lệ cũ mà làm.”
Đồng Phương Chính cười khổ lắc đầu, ký tên mình xuống dưới, anh ta biết người bạn hợp tác này của mình, nói gã ta là thương nhân chi bằng nói trong người gã đang chảy dòng máu của một nhà mạo hiểm cho rồi. Trác Mộc Cường Ba thường xuyên đi về những vùng hoan dã nguyên sơ không người sinh sống, nhanh thì hai ba tháng, lâu thì nửa năm một năm, trong thời gian gã ra ngoài, bất cứ ai cũng không liên lạc được, lần nào công ty cũng để ra một quỹ hoạt động độc lập, cung cấp toàn bộ phí tổn dự tính cho hành trình của Trác Mộc Cường Ba. Năm ấy, Trác Mộc Cường Ba vì một con chó Malamute (1) Alaska mà để mất phương hướng trên băng nguyên, một mình sống ba tháng liền trong hoàn cảnh khắc nghiệt; năm ngoái, gã giúp bạn bè tìm một tảng đá, dẫn theo một đám người mang theo trang bị nhẹ tiến vào rừng nguyên thủy Langkawi (2), kết quả là phải nhờ đến chính phủ Malaysia giúp đỡ mới đưa được cả bọn trở về. Người đàn ông nhiệt huyết bừng bừng này ở bên ngoài thì phong quang vô hạn, nhưng trong nhà thì rối bời hết sức, đặc biệt là gần đây, cả vợ cũng dắt con gái đi theo người khác, cứ nghĩ đến chuyện này, Đồng Phương Chính lại không khỏi lắc đầu.
Sắp xếp xong việc ở công ty, cả bọn Trác Mộc Cường Ba trở về Cổ Duy.
Về tới nhà, Trác Mộc Cường Ba giúp bố trí ổn thỏa cho Đường Mẫn, rồi thì thầm nói với a ma về quan hệ của gã với Đường Mẫn, dặn dò nghìn vạn lần không được tiết lộ xong, liền đi tìm a ba của gã. Từ phòng của Đức Nhân lão gia đi ra, người đầu tiên Trác Mộc Cường Ba gặp là La Ba, Trác Mộc Cường Ba lúc này, giống như biến thành một người khác, tai cụp đầu cúi, bộ dạng chán nản ưu sầu, nhìn thấy La Ba định nói gì đó rồi lại thôi, cơ hồ như không thể mở miệng, La Ba khuyên giải: “không cần khó chịu đâu Cường Ba thiếu gia, lão gia có cân nhắc của lão gia, tự Ba Tang đã phạm tội, đó là hình phạt cậu ấy đáng phải nhận. Tôi biết chuyện này vốn không thể nài ép được.’
Trác Mộc Cường Ba ngây người nói: “A, chú La Ba, chú biết cả rồi.”
La Ba mỉm cười nói: “Nếu là một chuyện nhỏ, lão gia sớm đã giúp tôi từ lâu rồi, tuy lão gia và giám đốc nhà tù có quan hệ rất tốt, nhưng tình người cũng có mức độ thôi, chúng ta không thể nhờ lão gia làm chuyện vượt ngoài mức độ đó được, vậy chẳng những làm khó cho giám đốc nhà tù, mà cũng làm khó cho cả lão gia nữa.”
Trác Mộc Cường Ba thần sắc ảm đạm hẳn đi, nói: “Nhưng, nếu không có Ba Tang dẫn đường, kế hoạch của chúng tôi trước sau vẫn chỉ là bọt nước.”
“Không thành bọt nước được đâu!” Giáo sư Phương Tân ở phía sau lên tiếng, “Tôi và anh La Ba đã bàn bạc kỹ rồi, Đức Nhân lão gia chắc chắn sẽ không đồng ý lời khẩn cầu của anh. Nhưng không tỏ ý Ba Tang nhất định phải đợi đến khi mãn hạn tù mới được phóng thích. Chúng ta có thể đàng hoàng thông qua con đường pháp luật, bão lãnh hậu thẩm, tôi có thể liên lạc với một số bạn bè làm luật sư ở Thượng Hải, về mặt này họ rất có kinh nghiệm, chỉ cần chút thời gian và một món tiền bảo lãnh nhất định mà thôi.”
Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ mừng rỡ, cơ hồ lại nhìn thấy ánh sáng hy vọng, lập tức nói: “Tiền bảo lãnh không thành vấn đề, chỉ mong bọn họ có thể làm càng thanh càng tốt!”
Giáo sư Phương Tân lại hơi đổi sắc mặt, nói: “Có điều, Cường Ba à, có một chuyện tôi muốn hỏi anh.”
“Thầy cứ nói đi.”
“Anh định sắp xếp Đường Mẫn thế nào? “Giáo sư Phương Tân nói rất nghiêm túc.
Gương mặt Trác Mộc Cường Ba lập tức lộ vẻ khó xử, gãi đầu nói: “Mẫn Mẫn à, cô ấy, cô ấy…cô ấy kiên quyết đòi đi…”
“Không thể được!” Giáo sư Phương Tân nghiêm giọng ngắt lời, “Nghe Ba Tang thuật lại, tôi nghĩ anh chắc cũng biết, nơi đó đại để là một nơi thế nào. Đừng nói là một cô gái, đến cả đám người chúng ta đi tới đó cũng còn chưa biết sống chết ra sao, đường đi phía trước mịt mù, Đường Mẫn không phải là anh trai Đường Thọ của cô ấy, anh nhìn cơ thể cô bé là biết, cô ấy không có kinh nghiệm sinh tồn nơi hoang dã gì hết, đừng nói là leo núi tuyết, chỉ riêng có thể sống cuộc sống bình thường trên cao nguyên Tây Tạng này cũng đã không dễ rồi. Hôm nay tôi nhìn thấy ánh mắt đó của anh, là biết anh nghĩ như thế rồi. Anh có nghĩ đến, nếu dọc đường cô ấy thì làm sao? Trong hoàn cảnh đó, căn bản không thể đưa cô ấy đến bệnh viện hay được người khác giúp đỡ, anh chữa được cho cô ấy không? Làm vậy chẳng phải tự lao đầu vào chỗ chết hay sao?”
Trác Mộc Cường Ba ấp úng: “Nhưng mà…”
Giáo sư Phương Tân tiếp tục nói: “Cho dù cô ấy bình an vô sự, vậy tôi hỏi anh, cô ấy có thể xách được bao nhiêu cân? Nếu trong chúng ta có người ngã xuống, liệu cô ấy có thể đỡ người ta dậy không? Một ngày cô ấy đi được bao nhiêu cây số? Có được hai mươi cây số không? Hơn nữa, cả đám đàn ông chúng ta, thêm một thành viên nữ, sẽ có rất nhiều điểm bất tiện. Kỳ thực, chỉ cần nghĩ kỹ một chút là biết, có cô ấy, không thể giúp chúng ta được bất cứ chuyện gì mà còn phải tốn thêm tinh lực gấp mười lần để chăm sóc cô bé nữa, nếu dẫn Đường Mẫn đi, chỉ sợ chúng ta cả lối vào ở đâu cũng chưa tìm thấy thì đã chết hết ở trong núi tuyết mênh mông rồi!”
Trác Mộc Cường Ba chưa bao giờ thấy giáo sư Phương Tân nói chuyện nghiêm khắc thế này, nhất thời không đáp nổi tiếng nào, hơn nữa những lời giáo sư nói quả tình rất có lý, nhưng cứ tưởng đến đôi mắt của Đường Mẫn, Trác Mộc Cường Ba lại không thể nào nghĩ nổi lý do khuyên giải cô đừng đi. La Ba tiếp: “Giáo sư nói rất đúng, Thiếu gia, chi bằng để cô Đường Mẫn ở nhà chúng ta nghỉ ngơi đ, như vậy có thể tăng thêm cảm tình giữa phu nhân và cô Đường Mẫn, cũng có thể khiến cậu yên tâm.”
Giáo sư Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba chằm chằm: “Nếu anh cảm thấy không tiện nói, tôi có thể truyền đạt giúp.”
“Không cần đâu.” Một giọng giòn tan vang lên trong nhà. Đường Mẫn khoác chiếc áo da lông báo của Trác Mộc Cường Ba đi ra ngoài, quấn chặt áo như một con búp bê sứ, môi dẩu hẳn ra: “Tôi nghe thấy hết rồi.”
Trác Mộc Cường Ba liếc mắt ra hiệu bảo Đường Mẫn về phòng trước. Đường Mẫn giả bộ không nhìn thấy, quay sang nói với giáo sư Phương Tân: “Không sai, cơ thể cháy hơi yếu ớt, vác nhiều không nổi, đi cũng không nhanh, nhưng, giáo sư hình như đã quên mất một điểm rất quan trọng.”
Giáo sư Phương Tân quay người lại, hỏi: “Điểm nào?”
Đường Mẫn cắn môi dưới, mở to đôi mắt lanh lợi nhìn ông, nói: “Giáo sư quên mất, ông cũng là một ông già sáu mươi tuổi rồi.”
“A?! Cô!” Giáo sư Phương Tân không ngờ Đường Mẫn lại lấy mình ra để nói.
Đường Mẫn đĩnh đạc nói tiếp: “Tuy cơ thể giáo sư vẫn còn khỏe mạnh, nhưng năm tháng không tha ai, trạng thái thân thể mỗi ngày sẽ một kém đi, cháu vẫn còn trẻ, cháu có thể tiếp nhận các khảo nghiệm, trong hoàn cảnh gian khổ không ngừng rèn luyện bản thân. Nếu chỉ vì chim con không biết bay, mà không để nó vươn cánh, vậy thì cả đời nó cũng không bay lên được. Chỉ có đợi khi nó vươn rộng đôi cánh mới biết được, rốt cuộc nó là phi ưng, hay là hồng hộc. Còn người già thì khác, tuổi tác lớn rồi, dễ mắc chứng loãng xương, không thể vác nặng, các khí quan cũng vì mạch máu bị xơ cứng mà không được cung cấp đủ máu, vì vậy người già không thể làm việc nặng được, cũng không thể đi bộ xa, càng không cần nói đến chuyện leo trèo trên cao nguyên làm gì nữa.”
“Cô…” Giọng giáo sư Phương Tân gần như lạc cả đi. Trác Mộc Cường Ba cao giọng: “Mẫn Mẫn! nói kiểu gì vậy!” sau lưng thì không ngừng vẫy tay ra hiệu, nháy mắt, bảo Đường Mẫn đừng nói nữa, mau về phòng.
Giáo sư Phương Tân lấy lại bình tĩnh rất nhanh, cười khà khà một tiếng nói: “Tôi bảy lần vào Tây Tạng, ba lần tham gia đội khảo sát khoa học núi Chomolungma, mỗi sáng sớm đều chạy bộ mười cây số, vác được hai mươi cân, chạy lên xuống tám tầng lầu; một năm bốn mùa, lạnh đến mấy cũng dùng nước lạnh tắm rửa; cô bé con, chỉ cần cô làm được bất kỳ điều nào trong những điều tôi vừa nói, tôi sẽ cho là cô đủ thể năng leo Đại Tuyết Sơn cùng chúng tôi.”
Đường Mẫn quay đầu đi, không nhìn giáo sư Phương Tân, nói: “Đằng nào cháu cũng cho rằng, chỉ cần giáo sư có tư cách đi, cháu cũng đủ điều kiện đi theo. Nói thế nào cháu cũng học ở trường Y, có chuyện gì, cháu còn giúp được mọi người chữa bệnh nữa.”
Giáo sư Phương Tân nghĩ lại giây lát, rồi nói: “Nơi chúng ta sắp đi, không chỉ là môi trường khắc nghiệt, hơn nữa còn rất khó nói có những sinh vật không biết tên gì, trước sau ba người, bao gồm cả anh trai cô đều đã phát điên hết cả, có thể tháy thứ đó vô cùng đáng sợ, lẽ nào cô không sợ sao?”
“Không sợ!” Đường Mẫn trả lời lanh lảnh dứt khoát, ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt giáo sư Phương Tân, điệu bộ như ta đây là bậc cân quắc quyết không nhượng bộ cánh mày râu, cô nói như chém đinh chặt sắt, “Cháu chính là muốn đi xem thử, là thứ gì đã làm anh trai cháu…làm anh trai cháu ra nông nỗi ấy.” Nói tới đây, giọng cô dường như đã nghẹn lại.
Giáo sư Phương Tân nhất thời cũng không biết làm sao với cô bé mười mấy tuổi đầu, cứng không chịu, mềm không xong, nói khóc là khóc được luôn này. Trác Mộc Cường Ba cũng sớm đã được “thưởng thức” tính tình cổ quái ngang ngược của Đường Mẫn, biết cô là một công chúa được nuông chiều quen rồi. Lúc này, nghe Trương Lập bên trong nói: “Đừng tranh cãi nữa, mọi người nói đều rất có lý. Nếu luận theo điều kiện, chỉ sợ tất cả chúng ta ở đây đều không phù hợp điều kiện cả đó.”
Mọi người ngoảnh mắt ra phía cửa, chỉ thấy Trương Lập mặt mày nhăn nhó bước ra, nét mặt đó, giống hệt như lúc Trác Mộc Cường Ba từ trong phòng Đức Nhân lão gia đi ra vậy.
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Sao rồi? Bộ mặt đó là gì vậy?”
Trương Lập cười khổ nói: “Tôi vừa liên lạc với sư đoàn xong, đồng thời mang chuyện hôm nay chúng ta biết được từ chỗ Ba Tang kể sơ qua với đoàn trưởng.”
Trương Lập nói tới đây, khẽ nhếch môi, nhún vai xòe hai tay ra. Giáo sư Phương Tân nôn nóng hỏi: “Đoàn trưởng các anh nói thế nào?”
Trương Lập đáp: “Đoàn trưởng nói, nhận thấy tình hình quá đặc biệt, tạm thời ông ấy sẽ không nghĩ đến chuyện chi viện cho chúng ta lên núi.”
“A?!” Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân cùng kêu lên, không có sự ủng hộ của quân đội, cũng có nghĩa là bọn họ mất đi tất cả các cung cấp đặc biệt, bao gồm cả vũ khí, kênh thông tin quân dụng, vệ tinh định vị, cùng với các trang bị khác, lớn thì như xe thiết giáp, nhỏ thì một con dao găm, tất cả đều không có nữa.
Trương Lập lại bổ sung: “Có điều, đoàn trưởng chúng tôi có nói, ông ấy sẽ thương lượng với Đức Nhân lão gia trước đã.”
Trác Mộc Cường Ba giờ mới thở phào một tiếng, bởi vì cho dù một con dao găm, đem so sánh đồ quân dụng với thứ bán trên thị trường, cũng đã là khác nhau một trời một vực, càng không cần nói đến những thứ vật tư khác làm gì. Chỉ có Đường Mẫn là bĩu môi nói: “Hừ, có gì giỏi đâu chứ, không hỗ trợ thì không hỗ trợ, anh trai tôi chưa bao giờ dùng thứ gì của quân đội cả.”
Trác Mộc Cường Ba tiếp: “Đồ bán trên thị trường, đại đa số đều chỉ đẹp mắt, nói đến tính thực dụng, e rằng vẫn phải có vật tư quân dụng.”
Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: “Anh trai cô chưa dùng đồ của quân đội sao? Anh ta chỉ ít dùng vật tư quân dụng trong nước sản xuất mà thôi. Anh ta thám hiểm khắp nơi trên thế giới, có thứ trang bị nào là không mua ở chợ đen chứ. Anh ta chẳng những dùng đồ của quân đội, mà còn tập trung tất cả tinh hoa trang thiết bị quân sự trên thế giới lên người nữa. Một chút thường thức căn bản cũng không có, còn muốn cùng đi với chúng tôi nữa, ôi…”
Đường Mẫn nghe giáo sư Phương Tân nói vậy, lại càng bĩu môi dẩu lên tới tận trời, cô giậm chân nói: “Cháu…cháu vốn cũng chẳng muốn đi đâu, nếu giáo sư đã nói như vậy, cháu lại càng không thể không đi được. Hứ, nói cho mọi người biết, cháu tới đây, vốn là để nói với mọi người con đường đi tới nơi đó…”
 
 
Chú thích:
(1)   Chó kéo xe Bắc Cực
(2)   Một quần đảo gồm 99 hòn đảo ( trong đó 5 hòn đảo chỉ lộ ra khi thủy triều xuống) ở Biển Andaman, cách đất lienf 30km từ bờ biển Tây Bắc Malaysia.
Chương 4
Chuyến đi Khả Khả Tây Lý

Ngọn lửa bập bùng trong bóng đêm,chiếu hồng gương mặt ba người , gió cấp bảy mang theo cả băng lẫn tuyết, ầm ập thốc vào mặt......

Chuyến đi Khả Khả Tây Lý

"Gì hả?!" "Gì hả?!" Bốn người có mặt ở đó, vây lấy Đường Mẫn vào giữa,đều kinh ngạc tròn mắt lên nhìn cô, tin tức này đối với bọn họ, quả là quá sức tưởng tượng.

Đường Mẫn chống tay vào cằm, giả bộ như đang suy tư,"Ồ, nói thế nào nhỉ, phải nói là , tôi biết cách tìm được đường đi tới nơi đó. "
"Không thể nào!" Giáo sư Phuơng Tân phủ định, "Hiện nay những người đã từng tới đó mà chúng tôi biết chỉ có ba người , hơn nữa không phải là điên thì cũng mất trí nhớ cả rồi ,làm sao cô biết được cách tới đó chứ! "

Đường Mẫn khẳng định chắc chắn : "Nếu cháu nói ra được cách ấy, có phải giáo sư sẽ đồng ý cho cháu tham gia đòan lữ hành hay không? "
Giáo sư Phương Tân nói :"Đã bảo với cô bao nhiêu lần rồi, đây không phải đoàn lữ hành ! Đây là một hành động cực kỳ nguy hiểm. " Ông thở dài một tiếng, giọng nói cũng mềm mỏng đi đôi phần, : "Có điều , trước mắt thời cơ xuất phát của chúng ta vẫn chưa chín muồi, người dẫn đường còn chưa có , trang bị cũng không biết nên sắp xếp thế nào, điều kiện sức khoẻ không biết có thể chịu nổi hay không. Tình hình thực tế và tưởng tượng ban đầu của chúng ta thực khác nhau quá xa."
Trác Mộc Cường Ba nói :" Được rồi, Mẫn Mẫn, đừng đùa nữa, nếu em thật biết cách tới được nơi ấy, vậy mau nói ra đi. Em nói ra rồi, chúng ta mới suy nghĩ những chuyện khác được."
Đường Mẫn gật đầu :" Được rồi, nếu mọi người đã nôn nóng thế , vậy thì để em nói. Thực ra, anh trai em , anh ấy luôn có thói quen viết nhật ký!"
....

Không khí trong khoảng sân nhỏ như trầm xuống , nếu có ghi chép hành trình, đây đích thực là một sự trợ giúp mang tính quyết định đối với việc tìm ra nơi đó , mấy người bọn giáo sư Phương Tân đều cảm thấy tim mình đập gấp hẳn lên. Giáo sư tức khắc hỏi ngay :"Cuốn sổ ghi chép đó đang ở đâu?"

Đường Mẫn ra hiệu tỏ ý nhắc giáo sư đừng vội nôn nóng, mỉm cười nói tiếp :
" Tôi nhớ anh ấy có một cuốn sổ ghi chép bằng ngần này.Anh ấy đi tới đâu , gặp phải chuyện gì, đều ghi chép lại rất cẩn thận trong đó."
Trác Mộc Cường Ba xông lên truớc, nắm chặt hai tay Đường Mẫn , run run kích động :" Vậy , thứ đó ở đâu? Thứ đó đâu? "
Đường Mẫn dẩu môi lên nói :" Nhưng mà, lần này khi anh em được đưa về từ trạm cứu hộ Khả Khả Tây Lý, em không thấy cuốn sổ đó đâu. Mới đầu em không để ý lắm, nhưng về sau kiểm lại hành lý của anh trai , đúng là không tìm thấy cuốn sổ đó, em đang nghĩ...."
"Cuốn sổ đó đã rơi trên đường rồi!" Trác Mộc Cường Ba lại thất vọng ỉu xìu.

Đường Mẫn lắc đầu :" Không phải, em nghĩ cuốn sổ đó có lẽ đang ở chỗ đội kiểm lâm hoặc trạm cứu hộ Khả Khả Tây Lý , bởi cuốn sổ đó luôn luôn ở bên mình anh trai em. Tất cả áo ngoài của anh ấy đều có một cái túi trong, chính là để thiết kế riêng cho cuốn sổ đó."
Trương Lập xen vào :"Liệu có khả năng trong lúc hoảng loạn tháo chạy, đã rơi ở nơi mà chúng ta cần đến đó không?"

"Không thể nào,"Đường Mẫn nói ,"lúc tôi đi đón anh ấy, máy ảnh, thiết bị leo núi, cả chân đỡ máy ảnh cũng vẫn còn nguyên không thiếu thứ gì. Cũng có nghĩa là , anh tôi rời khỏi nơi đó, hoàn toàn không phải đột nhiên bỏ chạy, anh ấy có thời gian chuẩn bị đầy đủ , không có lý do gì lại để rơi thứ quan trọng như thế. Hơn nữa khi phát hiện ra anh trai tôi, tuy rằng anh ấy đã chạy đến sức cùng lực kiệt, nhưng áo ngoài lại không bị rách gì mấy, sau đó tôi đã kiểm tra lại , cái túi để cuốn sổ đó vẫn còn nguyên, chỉ là không thấy sổ đâu. Vì vậy cuốn sổ đó nhất định là được lấy ra trong lúc cấp cứu rồi quên trả về,em nghĩ như vậy đấy."
Trác Mộc Cường Ba vỗ tay nói :” Được rồi,nếu là vậy, chúng ta sẽ đi Khả Khả Tây Lý một chuyến ! Nói không chừng sẽ có thu hoạch bất ngờ cũng nên.”
La Ba nói :” Vậy tôi sẽ nhân thời gian này để thuyết phục Ba Tang giúp mọi người.”
Giáo sư Phương Tân tiếp: “Được rồi , khoảng thời gian này tôi sẽ nhờ bạn bè làm luật sư nhanh chóng giúp Ba Tang được bão lãnh.”
Trương Lập nói:” Vậy có phải tôi tạm thời trở về….”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu :” Không, anh làm giúp tôi một chuyện khác đi. Ngày mai sẽ nói với anh. “ Dứt lời, gã cười hì hì, khoác vai Đường Mẫn đi vào trong. Trương Lập cũng xoay người đi về phòng.
Giáo sư Phương Tân nhìn theo dáng lưng thân thiết của hai người , nói khe khẽ :” Tuổi còn nhỏ, mà mồm miệng lanh lợi, suy nghĩ mẫn tiệp, tôi thật lo lắng cho cuộc sống sau này của Cường Ba quá!”
La Ba nói :” Tôi thấy thiếu gia và cô Đường cũng hòa hợp lắm đấy chứ .”
Giáo sư Phương Tân lắc đầu :”Lúc này giữa Cường Ba và Đường Mẫn, ngoài tình cảm giữa tình nhân ra, còn có một phần tình cảm của cha và con gái, chuyện gì cậu ta cũng nhường nhịn Đường Mẫn , nhưng đến một ngày , khi cậu ta nhận ra quan hệ của hai người lại không như cậu ta vẫn tưởng tượng ….giữa hai con người đều rất mạnh mẽ này , xung đột mà bạo phát thì sẽ rất kịch liệt . Hà ….”
La Ba mỉm cười nói :” Dùng Phật điển để nói, đó là một người một duyên pháp.”
Ngày hôm sau, sáng sớm Trác Mộc Cường đã nói với Trương Lập :”Tôi muốn mời anh cùng chúng tôi đi Thanh Hải.”
“Tại sao?” Trương Lập rất ngạc nhiên, nhiệm vụ của anh ta là tiếp đãi giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba ở Tây Tạng , đến trạm cứu hộ ở Khả Khả Tây Lý không còn thuộc phạm vi chức trách của anh nữa.
Trác Mộc Cường Ba cười cười nói :”Tôi nói chuyện với đoàn trưởng của anh rồi. Anh ta cũng đồng ý . Khả Khả Tây Lý chắc anh cũng biết , môi trường không tốt lắm, tôi sợ sức khỏe của Mẫn Mẫn không chịu nổi , thêm một người là thêm một phần chăm sóc . Hơn nữa,mấy ngày nay, tôi cảm thấy anh lái xe rất giỏi , tôi đã chuẩn bị cho anh một chiếc xe xịn rồi .” Gã vỗ vỗ lên vai Trương Lập , tựa như rất ung dung đi lướt qua anh ta ,kỳ thực chẳng qua chỉ là không muốn Trương Lập nhìn thấy tia bất an hiện lên trong mắt .
Trác Mộc Cường Ba có chút sợ hãi , điều này đối với gã là chuyện xưa nay chưa từng có , nhưng đúng là gã đã hơi sợ hãi , đôi mắt khiến gã rợn cả xương sống đó , ánh mắt lạnh băng như rắn độc khiến lòng gã bất an . Một thứ trực giác học được từ loài ngao , làm gã cảm thấy bị uy hiếp , đặc biệt là khi dẫn theo cả Đường Mẫn cùng tới nơi đó , ai biết được sẽ xảy ra những chuyện gì . Vì thế, để một người tinh anh trong quân đội như Trương Lập ở bên cạnh mình, ít nhiều cũng có thể thêm phần trợ giúp .
La Ba chạy ra, cầm một tấm thiếp mạ vàng đưa cho Trác Mộc Cường Ba ,nói :” Cường Ba thiếu gia, lão gia bảo tôi đưa cái này cho cậu . Mọi người phải đến Lhasa đáp máy bay mà , lão gia có nói, hãy mang tấm thiếp này giao cho chấp sự La Tang Đức Ni của Bố Lạc La cung, mời ông ấy nhất thiết phải tới đây ngay .”
Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc nói :” Chấp sự Đức Ni không phải chỉ có thứ ba đầu tiên của tháng đầu tiên mùa xuân hằng năm mới tới nhà ta sao ?” Từ nhỏ Trác Mộc Cường Ba đã biết La Tang Đức Ni , giờ đang quản lý điện kinh văn trong Bố Lạc La cung, trước đây là thầy giáo của Đạt Lai Lạt Ma , phụ trách giảng giải lịch sử và văn hóa Tây Tạng , có quan hệ rất mật thiết với cha gã , mỗi năm đều tới nhà gã một lần , hai ông già cùng đọc kinh văn, cùng giải Phật lý .
La Ba mỉm cười nói :” Lão gia nói rồi, thiếu gia cứ làm theo là được. Chuyện này quan hệ với việc thiếu gia xuất hành có thuận lợi hay không đấy.”
Trác Mộc Cường Ba đến Lhasa giao thiếp cho chấp sự Đức Ni , tìm một chiếc trực thăng bay từ Lhasa , hạ cánh ở huyện thành Trị Đa . Ba người ăn cơm trưa ở huyện thành được xem là huyện đầu nguồn sông Trường Giang này ,rồi chuẩn bị tiến vào khu vực không người .
Trương Lập hỏi :”Không phải anh nói đã chuẩn bị cho tôi một chiếc xe xịn sao ? Xe đâu ?”
Trác Mộc Cường Ba chỉ tay ,nói :” Ở kia.”
Giật tấm vải buồm to tướng phủ bên trên xuống , một chiếc xe việt dã, mạnh mẽ to lớn, sơn màu rằn ri ngụy trang hiện lên trước mắt , hai mắt Trương Lập sáng bừng ,lập tức nhảy vồ tới vuốt ve thân xe, cẩn thận kiểm tra từng bộ phận nhỏ của chiếc xe, “Động cơ V8 6,5 lít ,gầm treo dạng xoắn , cách mặt đất ít nhất đến một thước rưỡi trở lên , bốn họng thải khí ! Hai …khoang dầu ẩn !” Trương Lập xem xong một chỗ lại kinh ngạc thốt lên một câu, cuối cùng hỏi ,” Đây …đây là xe việt dã sao ? Hay là xe đua hỏa tiễn vậy ?”
Trác Mộc Cường Ba cười cười nói :” Lên xe xem cho kỹ rồi hãy nói .” Vừa nói gã vừa mở cửa xe cho Trương Lập, Đường Mẫn cũng ở bên cạnh nói :” Chiếc xe này , cũng chỉ to hơn xe việt dã thông thường một chút , bẹp bẹp hơn một chút, có gì đặc biệt đâu chứ .”
Trương Lập vừa nhìn bánh lái, đã không nén được mà liệt kê ra :” Hệ thống phòng cứng phanh ABS(1) ,hệ thống khống chế ổn định phân tán động lực điện tử EBD(2),hệ thống khống chế ổn định động thái DSC(3) ,hệ thống hỗ trợ phanh khẩn cấp EBA(4),…”
Trác Mộc Cường Ba ngồi chung với Đường Mẫn ở ghế sau, nói với Trương Lập :” Chiếc xe này là Kiêu Long của Trung Quốc sản xuất, mới ra thị trường , đã được cải tiến vài chi tiết . Xi lanh động cơ tăng lên gấp đôi , ống xả khí từ một tăng thành bốn , thùng xăng dự trữ cũng tăng thêm một ,còn có một số hệ thống gì đó , đây đều là số liệu các kỹ sư bảo với tôi , tôi cũng không hiểu rõ lắm ,anh lái thử xem thế nào.”
Trương Lập giậm lên chân ga, cả chiếc xe liền lao vút đi như tên rời khỏi cung, mà sự ổn định của thân xe vẫn tốt đến không còn gì để nói .Trương Lập nhìn đồng hồ tốc độ ,kinh ngạc nói :” Từ lúc khởi động đến khi đạt tốc độ 100km/h ,chỉ mất có hơn ba giây ! Chiếc xe này ít nhất cũng phải tới bốn trăm mã lực , trời ơi , đây rốt cuộc là xe gì vậy chứ !”
Huyện Trị Đa nổi tiếng vì nằm ở đầu nguồn sông Trường Giang , được xưng là “vạn lý Trường Giang đệ nhất huyện”. Được ca tụng là “nguồn của Trường Giang, tổ của trăm sông, đất của bò lông,quê của ca vũ,ngọn nguồn sinh thái, vương quốc động vật,cổ đạo Đường-Phiên(5)” và “nhất giang cửu hà thập đại than”. Từ huyện Trị Đa đi về phía Tây, sẽ tiến vào khu không người ở Khả Khả Tây Lý ,thực ra cũng có thể nói huyện Trị Đa này là một bộ phận của Khả Khả Tây Lý .
Chiếc Kiêu Long chạy trên thảo nguyên mênh mông với tốc độ 80km/h , trong xe không hề cảm thấy một chút rung lắc , đây là lần đầu tiên Trương Lập được lái một chiếc xe vừa nhanh lại vừa ổn định như vậy. Đường Mẫn nhìn một vùng xanh mướt nơi chân trời , nói khẽ :” Khả Khả Tây Lý , rốt cuộc ngươi là thiên đường hay địa ngục ,rốt cuộc ngươi xinh đẹp hay tàn nhẫn đây ?”
Trác Mộc Cường Ba dịu dàng nhìn cô công chúa nhỏ trong vòng tay mình, hỏi :”Khả Khả Tây Lý chẳng phải là sa mạc sao, có gì đẹp đâu chứ ?” Môn địa lý gã hơi dốt một chút .
Đường Mẫn cười cười nói :” Khả Khả Tây Lý là tiếng Mông , ý nghĩa của nó chính là thiếu nữ xinh đẹp, cũng có thể giải nghĩa là sườn núi màu xanh , đều là để hình dung cái đẹp .Nhưng khu vực không người Khả Khả Tây Lý mà chúng ta nhìn thấy đây , lại thâu tóm cả một vùng gần tám mươi nghìn cây số vuông ,được gọi là khu không người ở lớn thứ ba thế giới , và lớn nhất Trung Quốc . Hiện giờ đang là thảo nguyên rộng lớn gần huyện thành , đi tiếp về phía trước , tiến vào sâu thêm , anh sẽ thấy mặt chân thực của nó liền, Khả Khả Tây Lý còn có một cái tên nữa là cấm khu của sự sống đó !”
Trương Lập nhìn quanh bốn phía, xung quanh đều là thảo nguyên , lúc này đã không còn thấy dấu tích hoạt động gì của người hay thú nữa rồi , mà bọn họ thì mới rời huyện Trị Đa chưa được mười phút đi xe , anh ta lo lắng hỏi :”Cô Đường, cô thật nhớ được vị trí của trạm cứu hộ đó chứ ? Lái xe trong phạm vi rộng thế này là dễ lạc đường nhất đấy.”
Đường Mẫn nói :”Yên tâm đi . Chỉ cần phương hướng không sai, trước khi trời tối chúng ta sẽ đến được trạm bảo vệ thiên nhiên đầu tiên ,ở đó bổ sung các thứ cần thiết rồi xuất phát theo hướng Tây Bắc, dọc đường thuận lợi ,chỉ cần bốn năm ngày là có thể đến trạm cứu hộ rồi . Các trạm cứu hộ hay bảo vệ thông thường đều có cờ tín hiệu hay bóng bay, có thể nhìn thấy cách đó mười mấy cây số cơ.”
Trương Lập gật đầu :”Vậy thì tốt rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn Đường Mẫn nói :” Em biết nhiều thật đấy .”
Đường Mẫn nói :”Đều là anh trai em trước đây ghi trong sổ cả. Anh ấy đi Khả Khả Tây Lý và khu vực Áp Tử Hà xa hơn về phía Bắc nữa không phải một hai lần đâu , đã rất quen thuộc rồi .”
Trác Mộc Cường Ba nói :” Phải rồi, cuốn sổ đó rốt cuộc trông như thế nào vậy ?”
Đường Mẫn đáp :”Ồ , đó là một cuốn sổ bìa da màu đen ,bên ngoài còn có một bao da ngừa nước , dày thế này này.” Đường Mận đưa ngón cái và ngón trỏ ra minh họa , đại khái cũng khoảng hai ngón tay chồng lên nhau .
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên nhớ ra gì đó, vội vàng hỏi :”Đúng rồi, vì để tìm anh, nên em mới đi Mông Hà kiếm người điên đó phải không ?”
Đường Mẫn gật mạnh đầu :”Ưm. Anh vừa rời khỏi Mỹ, em liền nhớ ngay ra chuyện cuốn sổ ghi chép đó , lúc ấy đi tìm khắp nơi , mới phát hiện thì ra cuốn sổ đó không ở trong đống đồ vật của anh em . Vì vậy em muốn nói cho anh biết, nhưng điện thoại di dộng của anh gọi mãi mà không được, đành phải dựa theo địa chỉ mà anh nói để đi tìm người điên kia . Em nghĩ, nếu anh đã đi tìm người điên kia rồi, biết đâu anh ta có thể nói ra được điều gì , không ngờ anh ta lại chẳng biết gì hết .”
Trác Mộc Cường Ba cười hì hì nói: “Đã là người điên thì làm sao có thể đối xử như người bình thường được chứ . Đúng rồi, sau đó em có đi tìm người điên đó nữa không ? Hay là em có kể với người nào khác về hành trình tới đây lần này không ?”
Đường Mẫn chớp chớp đôi mắt to , thắc mắc :” Không có đâu. Em chẳng hỏi được gì từ người điên ấy , Mông Hà lại hẻo lánh , nên đi thẳng về Lhasa luôn . Em cũng chưa bao giờ nhắc với ai những chuyện này cả. Sao thế anh ?”
Trác Mộc Cường Ba ậm ừ nói :” Ừm, vậy thì tốt . Không có gì cả.” Dự cảm chẳng lành lại ập tới lần nữa, nếu Đường Mẫn không đi tìm người điên kia nữa,vậy thì người đã bắt anh ta đi ….gã lại nghĩ đến thân hình to lớn và ánh mắt như loài rắn độc kia !
(1).Anti.lock braking system.
(2).Electronic brakeforce distribution.
(3).Dynamic stability control.
(4). Emergency brake assist.
(5).Con đường nối liền Trung Quốc (thời Đường) với các nước phía Tây (gọi chung là Phiên bang.)


Chiến đấu sinh tử

Chiếc Kiêu Long giữ tốc độ 90km/h , vững chãi lướt đi trên thảo nguyên Khả Khả Tây Lý hoang sơ ,mặt trời gần lặn, mảnh trăng sớm đã lơ lửng dâng lên khỏi đường chân trời , treo trên bầu trời phía Đông , còn mặt trời vẫn chưa tắt hẳn, đỏ rực phiêu du trên trời Tây. Mặt trời buổi hoàng hôn không chói mắt , mà hiện lên trong một thứ màu tựa san hô, giống như một trái cầu pha lê màu đỏ , sắc thái biến ảo, đẹp đẽ mê ly . Đường Mẫn nhìn lên bầu trời một lúc lâu, bầu trời nơi đây lúc gần hoàng hôn không phải màu hoàng kim, mà là màu lam, bầu trời xanh thẳm, từng đám mây trắng tựa như những nét bút tùy tiện do bàn tay thượng đế vô ý quẹt lên , trở thành lý tưởng mà các họa sĩ nhân loại vĩnh viễn theo đuổi .
Bóng tối dần buông , bầu trời xanh lam pha lẫn đôi phần sắc lục , mây trắng nhuốm ráng chiều càng trở nên mê đắm lòng người hơn, trời xanh mây trắng, mặt trời đỏ hồng, vầng trăng câu màu trắng bạc và sao Hôm mới mọc cùng trăng, cả bức tranh hoàng hôn đủ khiến người ta rung động đến rơi lệ. Dưới bầu trời kia , còn có thảo nguyên hoang dã mênh mông và những rặng núi ca ca phủ trắng tuyết. Núi ở Khả Khả Tây Lý thuộc về nhánh phía Nam của dãy Côn Luân , khác với núi ở Tây Tạng , núi ở Tây Tạng là vỏ trái đất bị ép chặt rồi gồ lên thành núi,từng ngọn từng ngọn san sát như đao thương kiếm kích chọc thẳng lên trời cao ; Khả Khả Tây Lý thì thế núi thấp bằng, hầu hết đều là những triền thoai thoải, nhìn từ xa lại , trông giống như một tấm chăn bông khổng lồ chất đống trên mặt đất . Ngoài ra, là đường chân trời rộng mênh mông , màu xanh dưới đất tựa như muốn cùng bầu trời thăm thẳm màu lam đo tài khoe sắc .
Dọc đường, có lũ lừa hoang đang nhởn nhơ gặm cỏ ,có cảnh lừa mẹ âu yếm liếm đầu lừa con , dưới ánh sáng còn sót lại của vầng dương buổi xế , bóng chúng bị kéo ra thật dài ; bỗng nhiên lại có hai chú gấu ngựa nhỏ đáng yêu đùa giỡn tung tăng ; phía sát đường chân trời , một con bò lông Tây Tạng đang đứng sững sững một mình trong chỗ khuất , mặt trời màu đỏ sẫm đang ở sau lưng ,những người ở trên xe chỉ thấy một bóng đen khổng lồ , cơ hồ như đang cảnh giác dò xét những kẻ xâm nhập kì quái .
Mỗi chỗ đều là cảnh sắc hoàn mỹ , mỗi bước đều là cảnh tượng mới , vẻ đẹp của thiên nhiên , nhưng đó là bức tranh mà các học sĩ khao khát thể hiện nhưng lại vĩnh viễn không thể nào thể hiện được hoàn chỉnh , đó là bài thánh thi mà các thi nhân khát khao đọc lên mà vĩnh viễn không thể nào đọc hết . Đường Mẫn thực lòng tán thưởng :” Đẹp quá đi mất, thật đẹp quá . Lái tới chỗ đó một chút đi , có máy ảnh ở đây thì hay quá , tôi muốn chụp lại tất cả chỗ này .”
Nhưng Trương Lập lại lái xe đi xa khỏi hướng đó . Đường Mẫn không vui nói: “Ồ ? Sao anh lại lái xe đi xa hơn thế ?”
Trương Lập bận lái xe , không đáp lời cô . Trác Mộc Cường Ba vội giải thích: “Không thể lại gần được , bò Tây Tạng là động vật sống theo bầy đàn , những con đi riêng thường rất hung hiểm . Bọn chúng không phải con đầu đàn già bị đuổi khỏi bầy đàn thì cũng con vật khiêu chiến thất bại , sau khi rời khỏi bầy tính tình sẽ trở nên cực kỳ cô độc,điên cuồng tấn công bất cứ con vật nào lại gần .Con quái vật nặng hơn một tấn đó, nếu bị nó tấn công , hậu quả e rằng rất đáng sợ ! Cặp sừng sắc nhọn của nó thậm chí còn có thể lật ngửa cả xe con đấy.”
Đường Mẫn lè lưỡi , không dám nhắc đến yêu cầu quá đáng kia nữa .Để không mất phương hướng , xe chạy dọc theo dòng sông cạn , thỉnh thoảng lại có những con thú hoang chạy băng qua, ráng chiều nhuộm cả bầu trời, vầng dương đã từ từ chìm vào sau dãy núi . Đường Mẫn không ngừng kinh ngạc mừng rỡ với những phát hiện mới, những cảnh tượng mới ,trong khi đó bàn tay Trác Mộc Cường Ba đặt trên vai cô gái lại càng lúc càng lạnh buốt , lặng lẽ quá, yên bình quá , tất cả những cảnh quan trước mắt đều không hề phù hợp với cảm giác của gã . Từ khi rời khỏi Trị Đa , Trác Mộc Cường Ba đã cảm thấy một thứ áp lực từ phía sau bọn họ , nhưng đến giờ vẫn chưa có bất cứ phát hiện gì , gã cũng hy vọng nỗi lo của mình chỉ là thừa , thế nhưng lúc này , cảm giác khiến gã lạnh cả người ấy lại càng lúc càng rõ rệt hơn .
Đột nhiên , thân xe lao về phía trước một cái ,rõ ràng Trương Lập đã bắt đầu tăng tốc , anh ta lạnh lùng nói :”Ngồi cho vững!”
Trác Mộc Cường Ba, ngược lại , như cảm thấy tảng đá đè nặng trong lòng đã rơi xuống ,thầm nhủ “Rốt cuộc cũng xuất hiện rồi sao ?”
Đường Mẫn kinh ngạc thốt lên : “Sao vậy ?”
Trương Lập đáp : ‘Có đuôi . Hình như chúng ta bị theo dõi rồi .”
Đường Mẫn quay đầu lại quan sát ,nói :”Lấy đâu ra chứ ? Sao tôi không thấy gì vậy ?”
Trương Lập gật đầu : “Không sai , rất khó phát hiện . Lấy con bò Tây Tạng bên trái làm cột mốc , cách phía bên phải của con bò ấy hai bàn tay,ở giữa hai ngọn núi ấy , có nhìn thấy gì không ?”
Đường Mẫn nói: “Làm gì có , có mỗi một tảng đá lớn thôi .”
Trương Lập lại hỏi : “Còn phía sau tảng đá đó ? Đã nhìn thấy gì chưa?”
Đường Mẫn ngước mắt quan sát , bỗng nhiên thốt lên :”Ồ ? Có khói , sao lại có khói nhỉ ?”
Trương Lập giải thích : “Đó có lẽ là một chiếc xe đã được ngụy trang , từ đầu vẫn giữ cự ly với chúng ta ,ở ngoài phạm vi mắt thường có thể phát hiện được ,giờ có lẽ nó đang tăng tốc .Khsoi kia là đất bụi bị xe chạy với tốc độ cao hất văng lên . Hơn mười phút trước ,tôi đã trông thấy tảng đá lớn phía sau ấy rồi ,lúc đó chỉ coi nó như đường nét của núi xa ,ở nới thế này, những ngọn núi nhìn có vẻ không lớn lắm ấy, đi mấy trăm cây số cũng hệt như vậy , vì thế tối không hề chú ý . Nhưng giờ đi lâu như vậy rồi ,mà nó ngược lại còn càng lúc càng gần chúng ta hơn nữa.”
Đang nói chuyện ,thì Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đều nhìn thấy, một tảng đá nhỏ màu xám ở phía xa vỡ tung ra , để lộ bộ khung sắt mạnh mẽ bên trong ,dù cự ly rất xa, Trác Mộc Cường Ba thoạt nhìn đã nhận ra ngay , đường nét góc cạnh đó rõ ràng là một chiếc Hummer H1 .
Trương Lập cũng đã nhìn thấy qua kính chiếu hậu ,lẩm bẩm nói :” Không phải là Hummer đấy chứ ? Sao lại khéo vậy được, chỉ trong hai ngày ngắn ngủi đã thấy hai chiếc Hummer rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nói :” Không phải khéo, đó là cùng một chiếc xe ,chỉ đó điều đã tháo biển số ra mà thôi .” Gã chỉ không hiểu nổi ,tại sao người đó làm được như thế ,nếu người kia không biết gã đi đâu , vậy thì có lẽ đã thuê máy bay ở Lhasa đi theo gã , cả xe cũng chở theo luôn, đồng thời lại ngụy trang hết sức khéo léo . Rốt cuộc là người nào, tại sao có khả năng lớn như vậy, tại sao lại theo dõi gã, trong lòng Trác Mộc Cường Ba nổi lên quá nhiều nghi vấn .
Đường Mẫn sợ hãi nói :” Liệu có phải bọn cướp không ?”
Trương Lập đáp: “Không phải cướp , cướp thì không lái loại xe như vậy, xe của chúng đều là loại bất cứ lúc nào cũng có thể vứt bỏ không thương tiếc . Hơn nữa, ngụy trang khéo léo , không nôn nóng ra tay ở nơi có người , mà đợi chúng ta đi sâu vào chốn không người mới động thủ , xem ra không chỉ nhằm vào chúng ta , mà còn sớm đã có âm mưu từ trước . Rốt cuộc là đã xảy ra vấn đề ở điểm nào vậy ,Cường Ba thiếu gia ?”
Trác Mộc Cường Ba không trả lời được , chỉ lẩm bẩm :”Tôi cũng không biết nữa, rốt cuộc là chuyện gì nhỉ ?”
Đường Mẫn kêu lên : “ Họ đuổi tới gần rồi !”
Trương Lập nhìn chằm chằm vào kính chiếu hậu ,trầm giọng nói :” Sao có thể được ! Theo tôi biết, tốc độ cao nhất của Hummer cũng không tới 130km/h ,chúng ta đã chạy 135km/h rồi , lái xe việt dã với tốc độ này ở Khả Khả Tây Lý đã là lấy mạng ra đùa giỡn , bọn họ lại còn nhanh hơn cả chúng ta nữa hay sao !”
Đường Mẫn khinh thường nói : “Có gì giỏi đâu chứ , anh trai tôi trước đây cũng chơi xe việt dã ,tốc độ đều trên 150km/h cả.”
Trương Lập thầm nhủ: “Tiểu thư của tôi ơi, anh trai cô vốn là một tên không cần mạng rồi.” Nhưng ngoài miệng vẫn nói : “Cô Đường , ưu thế của xe việt dã không phải ở tốc độ, mà là ở khả năng vượt qua khảo nghiệm của mặt đường và thời gian . Vì là xe bốn cầu , lực bám ma sát vượt lên xe hai cầu rất nhiều , nên có thể vượt đèo leo núi ở những nơi không có đường công cộng , đi tới những nơi xe bình thường không thể đi được .Vì địa hình chạy phức tạp ,nên lái xe việt dã cần nhất là cẩn thận ,bình quân tốc độ cao nhất của nó chỉ là 80km/h , loại xe có tốc độ cao nhất đạt hơn hơn cây số giờ như Hummer đã là đạt đến cực hạn của động lực rồi , chỉ cần sơ sẩy một chút là lật xe chết người như chơi .”
Trác Mộc Cường Ba hỏi : “Còn tăng tốc được không ?”
Trương Lập lắc đầu: “Không được , đây là tốc độ cực hạn rồi , cũng may giờ đang chạy trên địa hình bằng phẳng ,nếu không sớm đã lật xe lâu rồi .”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Xe phía sau đuổi kịp chúng ta rồi .”
Trương Lập cũng nhìn thấy, tấm kính chắn gió của xe Hummer phía sau trông giống như một đôi mắt khổng lồ, nhìn chòng chọc vào chiếc Kiêu Long của họ, thân xe bèn bẹt còn lớn hơn xe họ một bậc , tình cảnh này , giống như một con sư tử đang đuổi theo một con báo săn vậy . Lúc này, Trương Lập kinh ngạc phát hiện ra , cửa sổ xe Hummer đã được kéo xuống , một người che mặt đeo kính đen thò cả nửa người ra ngoài , sau đó, hai tay từ trong cửa sổ rút ra,cầm một khẩu các bin to tướng !
Trương Lập vội ngoặt sang trái ,chiếc Hummer cũng xoay theo, căn bản không thể thoát được, Trương Lập hoảng hốt kêu lớn: “Mau nằm xuống ! Nguy hiểm !”
Sau lưng chiếc Kiêu Long tóe lên hoa lửa , súng các bin lè lưỡi lữa khủng khiếp, bắn vào sắt thép phát ra những tiếng “keng keng keng”. Trương Lập lại xoay gấp một góc chín mươi độ , Đường Mẫn ngồi trong xe bị hất cho ngã nghiêng ngả, cũng may có Trác Mộc Cường Ba ôm chặt lấy cô , bằng không chắc cô đã bị hất văng ra ngoài xe mất rồi .Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh nói :” Đừng hoảng hốt .Cứ lái cẩn thận .Xe này chống đạn được .”
Trương Lập giờ mới thở phảo một tiếng , phía sau lại tóe lên những bông hoa lửa ,xem ra đạn đã bị kính chống đạn làm bật ra . Trương Lập không hiểu thắc mắc: “Cường Ba thiếu gia, xem ra anh đã chuẩn bị từ trước rồi ?”
Trác Mộc Cường Ba giải thích: “Là dự cảm chẳng lành .Khi chúng ta còn ở Lhasa , tôi đã lờ mờ cảm thấy , lần hành động này chỉ sợ không được thuận lợi ,không ngờ đã ứng nghiệm thật .”
Trương Lập lẩm bẩm nói : “Rốt cuộc là chuyện gì ? Trong biên giới Trung Quốc ,bọn họ cũng kiếm được vũ khí .”
Đường Mẫn rúc vào lòng Trác Mộc Cường Ba nói: “Bọn chúng định giết chúng ta sao ? Tại sao vậy ?”
Trương Lập nói :” Xem ra bọn chúng không có ý định đó, chỉ là muốn bắt sống chúng ta mà thôi , nguy thật , bọn chúng nãy giờ vẫn nhằm vào bánh xe ,nếu để bắn trúng ….”
Trác Mộc Cường Ba điềm đạm nói: “Không cần lo lắng, lẽ nào anh không nhận ra, bánh xe chúng ta là loại đặc ruột ,hai bình xăng cũng được giấu rất kín trong gầm xe ,có thể nói là như vậy , trừ phi là chẹt phải mìn , còn không chiếc xe này không dễ bị phá hoại đâu .”
Trương Lập vẫn bất an nói: “Nhưng mà , tốc độ của chúng nhanh hơn chúng ta , làm sao thoát được đây?”
Người cầm súng trên xe Hummer hình như cũng nhận ra tấn công không mấy hiệu quả , lại thụt vào trong , chiếc xe liền tăng hết tốc lực đuổi theo ,Trương Lập cũng dận ga hết cỡ . Hai chiếc xe việt dã lao đi trên thảo nguyên mênh mông vô tận ,chỉ để lại hai làn khói nhạt . Đường Mẫn căng thẳng đến nỗi không dám thở mạnh , Trác Mộc Cường Ba không nói tiếng nào ,sợ làm Trương Lập phân tâm ,với tốc độ thế này,chỉ cần sơ sẩy một chút , vận mệnh ba người rất khó nói .
Trương Lập thỉnh thoảng lại liếc nhìn bầu không phía trên ,sắc trời mỗi lúc một tối xám đi , còn đường dưới chân thì bắt đầu từ thảo nguyên biến thành sa mạc , đất mùn mềm mại rắn lại ,khắp nơi đều là cát sỏi lạo xạo ,gió thổi cát chạy ,bụi khói mù mịt . Nếu trời tối hẳn , chạy xe trên đường thế này cực kỳ nguy hiểm .Chiếc Hummer phía sau dường như cũng biết điều này, không lâu sau lại có người từ cửa sổ thò đầu ra ,hai tay đón lấy thứ được đồng bọn đưa cho , gác một cái ống tròn trên vai . Trương Lập khó khăn nuốt nước bọt đánh ực một cái , nếu anh ta không nhìn lầm,thì đó là một khẩu hỏa tiễn Cannon không giật ,thầm kêu lên: “Trời ạ ! Cường Ba thiếu gia , rốt cuộc chúng ta đang bị đám người nào đuổi theo vậy ? Rốt cuộc là anh không biết hay giả bộ không biết vậy ?”
Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn rõ ràng cũng đã nhìn thấy , Đường Mẫn kinh hãi thốt lên :” Hỏa tiễn ! Súng phóng hỏa tiễn ! Bọn chúng có súng phóng hỏa tiễn !”
Đôi tay Trác Mộc Cường Ba ôm Đường Mẫn càng chặt hơn, gã bình tĩnh nói :” Đừng ồn Mẫn Mẫn ,hỏa tiễn cũng không có gì” . Nhưng bản thân gã cũng nghe được giọng mình đã có chút gượng gạo , lại vỗ nhè nhẹ lên ghế ngồi của Trương Lập ,chua chát nói: “Dựa cả vào anh thôi !”
“Bụp” Hỏa tiễn vạch một làn khói cong tuyệt đẹp trên không trung , trong khoảnh khắc ánh lửa lóe lên ,Trương Lập gắng hết sức ngoặt vô lăng sang bên trái, đồng thời sử dụng cả phanh tay lẫn phanh chân , hệ thống ABS và EBA sớm đã bị tắt hết , kết quả của việc này là thân xe gần như đứng yên tại chỗ xoay một góc 180 độ ,sau đó lao bắn về hướng khác như mũi tên rời cung . Vừa quay đầu, đã nghe tiếng hỏa tiễn rít vù lên bay vọt qua nóc xe ,kế đó là một tiếng “ầm” ,sóng xung kích mạnh mẽ hất tung đất đá lên ,vô số mảnh đá vụn bắn đập vào thân xe ,cộng với lực ép của chất nổ ,làm cả xe chao đảo không ngừng , Trương Lập vận hết sức toàn thân , mới khiến xe không bị lật nhào .
Thoát khỏi một nạn, ba người trong xe đều xanh mét mặt mày ,chỉ nghe tiếng động cơ nổ ầm ầm . Trương Lập biết rõ ,đối phương cố ý không bắn vào thân xe , chúng chỉ muốn bắn đất đá bay lên hoặc làm lật xe của họ ,khiến họ không thể hành động được mà thôi . Anh ta thầm nhủ: “Dùng cách này để hạn chế hành động ,khẳng định không phải bạn bè rồi ,quan trọng nhất là Cường Ba thiếu gia cũng không biết đây là chuyện gì. Phải nghĩ cách thoát khỏi đám người này mới được, bằng không sẽ cứ bị động mãi thôi.”
Đột nhiên, ánh mắt Trương Lập nhìn chằm chằm vào lòng sông cạn lổn nhổn đá ,hét lên một tiếng: “Ngồi cho vững!” Chiếc xe liền lao về phía lòng sông !
Đá trên bãi sông mỗi lúc một nhiều, sắc nhọn, hướng lên trời, tảng to tảng nhỏ,chiếc Kiêu Long vừa đi vào đó là bắt đầu rung lắc dữ dội ,người trong xe như đang ngồi trên con thuyền nát trong bão tố ,Trương Lập giảm tốc độ xuống còn 100km/h ,nếu còn giữ tốc độ 130km/h ,xe sẽ lập tức bắn lên không trung ,lộn nhào mấy vòng chẳng sai . “Soạt” Qủa hỏa tiễn thứ hai rơi ngay bên phải xe, tiếng nổ đinh tai nhức óc mang theo vô số đá vụn bắn về phía chiếc Kiêu Long. Trương Lập hoảng hốt phát hiện, kính chống đạn đã bị chấn động đến nỗi xuất hiện những vệt nứt , chỉ sợ thêm một quả hỏa tiễn nữa là vỡ tan .
Thấy chiếc Hummer bám sát theo sau, Trương Lập cuối cùng cũng nhe ra một nụ cười phẫn nộ ,quay ngoặt vô lăng, chiếc Kiêu Long bắt đầu chạy men theo hai bờ lòng sông cạn thành hình chữ “z”. “Bọn chúng đã bám chặt thế này ,tức là không biết rốt cuộc chúng ta muốn chạy theo hướng nào ,nhất định sẽ bám sát phía sau, trừ phi bánh của chúng cũng là loại đặc ruột như của Kiêu Long ,bằng không chỉ thêm vài lượt nữa ,đá trên bãi sông sẽ phá nát bánh xe của chúng ra .” Trương Lập nghĩ như vậy ,điều khiển chiếc Kiêu Long di chuyển trên bãi sông đầy đá nhọn , gặp phải tảng đá nào lớn ,thậm chí anh còn chuyển hướng vòng qua,bên dưới bánh xe,khói trắng và bụi đất cùng bốc tung lên .
Nhưng Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn ngồi ghế sau thì phải chịu khổ ,mấy lần xe đã suýt lật ,toàn bộ đều dựa vào kỹ thuật lái xe của Trương Lập giữ cho vững lại .So sánh ra ,người lái xe Hummer kia không ngờ còn lão luyện thành thục hơn ,cũng vẽ một đường hình chữ “Z”,tốc độ của chiếc Hummer ít nhất phải nhanh hơn Kiêu Long đến 20km/h .Trương Lập không khỏi thầm thán phục. “Kẻ lái xe phía sau, nhất định là một tên dã nhân!”
Người thò ra ngoài phía sau dường như định bắn hỏa tiễn lần thứ ba ,lần này dường như không còn bắn vào tảng đá, mà trực tiếp nhắm thẳng tới Kiêu Long .Trương Lập hết lắc bên trái rồi nghiêng bên phải , trước sau cũng vẫn không thoát nổi khẩu súng phóng hỏa tiễn, họng súng đen ngòm vẫn hiện lên trong kính chiếu hậu.

Câu Chuyện Của Trác Mộc Cường Ba
Đường Mẫn kinh hãi kêu lên: “Lần này bọn chúng không bắn xuống đất nữa ,chúng ngắm vào xe của mình kìa!”
Trương Lập không nói lời nào, đạp ga, phanh xe, xoay vô lăng, đạp ga lần nữa, xoay vô lăng ngược lại,giậm mạnh lên bộ ly hợp, anh hiểu rất rõ, có thể tránh được hay không, trông cả vào lần chuyển hướng gấp này .Vòng qua một tảng đá lớn cao bằng người ,lợi dụng khói bụi phía sau xe, hy vọng có thể che khuất tầm nhìn của người lái xe Hummer ,nếu bọn chúng đâm phải tảng đá là tốt nhất ,nếu không đâm phải thì ít nhất hỏa tiễn cũng không ngắm trúng được xe bọn họ .
Chiếc Hummer thản nhiên xông qua màn khói bụi ,ổn định tựa như đang phi trên đường cao tốc. Đồng tử Trương Lập bắt đầu co dãn ,đối mặt với một địch thủ như vậy ,quả thực đã vượt quá sức tưởng tượng của anh ta, anh đã nhìn thấy ánh lửa lóe lên !
Một tiếng "Bụp" vang lên cùng lúc với ánh lửa ,không phải tiếng hỏa tiễn bắn ra ,mà là tiếng nổ của lốp xe, trong khoảnh khắc quan trọng này ,cuối cùng bánh xe Hummer cũng không chịu nổi lực ma sát với mặt đất đầy đá nhọn, lốp nổ tung ! Quả hỏa tiễn bị lệch hướng đúng vào khoảnh khắc rời ống phóng ,bay vọt qua nóc chiếc Kiêu Long ,không biết đã bay tới đâu ,chỉ để lại trên không trung một làn khói xoắn .
Qua kính chiếu hậu ,Trương Lập thấy rõ ,chiếc Hummer phía sau nghiêng sang một bên, lộn hai vòng dưới lòng sông cạn ,rồi mới dừng lại được , có điều cũng đáng đời chúng lắm .Trương Lập lao khỏi lòng sông ,tăng hết tốc lực ,động cơ rú lên phóng vút đi ....
Cửa xe Hummer bị đá bật ra ,một người đàn ông tóc vàng cao lơn vững vàng bước xuống ,đế giày quân dụng bọc đồng nghiến lên đá vụng dưới chân kêu "lạo xạo". Hắn bực bội dựa vào đầu xe ,bỏ kính râm xuống ,lộ ra đôi mắt chim ưng ,nhìn theo làn khói bụi bốc lên phía xa xa ,mỉm cười nói : "Thằng nhóc lái xe cũng không tệ , lần sau chúng ta so tài tiếp ."
Tiếng loảng xoảng vang lên ; một tên che mặt chật vật lăn xuống xe ,dùng thứ tiếng Anh không lưu loát lắp ba bắp bắp nói :"Ông chủ ,hệ thống định vị vệ tinh của chúng ta bị hỏng rồi,không thể tiếp tục theo dõi chiếc xe đó được nữa ."
Người đàn ông tóc vàng bừng bừng nổi giận ,gân xanh trên mặt gồ lên ,hai tay đặt vào tấm chắn đầu xe ,gầm lớn một tiếng ,nhấc bổng cả đầu chiếc Hummer khổng lồ lên, rồi thả mạnh xuống ,mặt đất bốc lên một lớp bụi mù mịt .Một tên che mặt khác vẫn còn trên xe sợ đến bủn rủn cả ngừoi ,hắn biết rõ ,ông chủ lại nổi giận rồi .Nhưng, gã đàn ông tóc vàng lấy lại bình tĩnh rất nhanh ,khóe miệng hiện lên một nụ cười bí ẩn ,ung dung đốt thuốc ,dùng thứ tiếng Trung không đươc sõi lắm của hắn lẩm bẩm :"Trác Mộc Cường Ba ,ông chủ Trác ,dù không đuổi được mày ,tao cũng có cách tìm ra Bạc Ba La thần miếu trước mày thôi . Cứ chờ xem ."
Chiếc xe Kiêu Long chìm trong không khí im lặng nặng nề một lúc lâu ,dù sao thì tử thần cũng vừa lướt sát qua cả bọn , ai nấy đều cảm thất tim mình vẫn đập dồn dập ,mãi vẫn chưa thể bình lặng trở lại ,đặc biệt là Trương Lập , lúc này tay anh vẫn còn đang khẽ run . Trác Mộc Cường Ba là người trấn tĩnh nhất trong ba người ,nhưng lúc này có hỏi gã rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì ,gã cũng không thể nói được .
Trương Lập hỏi :"Bọn chúng tạm thời không đuổi kịp chúng ta nữa ,giờ phải làm sao đây ?"
Đường Mẫn nói :"Tôi nhớ là đi vòng qua ngọn núi trước mặt ,chắc sẽ nhìn thấy bóng bay tín hiệu của trạm kiểm lâm đấy ."
Trương Lập nhăn mặt cười khổ nói :"Cô Đường hình như quên mất tình cảnh vừa rồi của chúng ta rồi thì phải ?"
Trác Mộc Cường Ba lên tiếng :"Bỏ đi cậu Trương ,cô ấy không hiểu ,đừng trách cô ấy .Mẫn Mẫn ,hoàn cảnh của chúng ta lúc này không lạc quan như em nghĩ đâu .Chiếc xe phía sau hư hỏng không nặng lắm ,hiệu năng kháng chấn của xe việt dã rất lớn ,nói không chừng bọn chúng chỉ cần thay lốp xe là sẽ đuổi kịp chúng ta ngay đây thôi."
Trương Lập bổ sung :"Một tay tổ lái chuyên nghiệp ,chỉ cần không đầy năm phút để thay lốp xe ."
Trác Mộc Cường Ba nói : “Vì vậy ,nếu chúng ta đến trạm kiểm lâm hoặc dừng lại nghỉ ngơi đâu đó, bằng như cho chúng cơ hội đuổi kịp bọn ta . Hiện giờ chúng ta cần làm là chọn một con đường chúng không thể nghĩ tới ,hoặc là mau chóng tìm một nơi an toàn ,khiến chúng không dám sử dụng vũ khí.Nay đã vào đến giữa Khả Khả Tây Lý ,muốn tìm nơi an toàn như vậy e là không có khả năng ,chỉ còn cách chọn con đường chạy thẳng đến trạm cứu hộ nơi đã phát hiện anh trai em ,tìm cuốn sổ ghi chép đó ,rồi mau mau chóng chóng trở về thôi ."
Đường Mẫn ngơ ngác nói :"Nhưng trong phạm vi rộng thế này ,làm sao bọn chúng tìm ra mình chứ ?"
Trương Lập đáp :" Có thể là sử dụng hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu GPS ,trên cao nguyên không khí rất loãng ,tầng khí quyển thấu quang rất tốt, nếu bọn họ có thể sử dụng vệ tinh gián điệp của Pháp, Mỹ, thì cả con châu chấu dưới đất cũng trông thấy được ,chứ nói gì đến chiếc xe lớn thế này. Có điều, trời có lẽ sắp tối mịt rồi , muốn sử dụng thứ đó trong đêm không phải chuyện dễ dàng gì. Đây cũng là một trong những nguyên nhân bọn chúng muốn bắt kịp chúng ta trước khi trời tối ."
Trác Mộc Cường Ba hỏi :"Còn nguyên nhân nào khác nữa ?"
Trương Lập đáp :" Sau khi trời tối, ở chốn sa mạc khắp nơi đều là đá với hố sâu này,phụ thuộc vào khoảng cách có thể nhìn được và khoảng cách có thể phanh,không ai dám lái xe với tốc độ quá 50km/h ,ưu thế về tốc độ của chiếc Hummer coi như mất hết . Cho dù chúng dò ra được vị trí của chúng ta , nhưng dù gì vẫn phải cách chúng ta một khoảng không thể rút ngắn được ."
Trác Mộc Cường Ba quay sang hỏi Đường Mẫn :"Mẫn Mẫn ,trạm cứu hộ mà em nói ,cách trạm kiểm lâm này bao xa nữa?"
Đường Mẫn nói : "Còn mấy trăm cây số ,nhưng đường rất khó đi ,mấy tiếng đống hồ khó lòng mà tới nơi được. Nếu đi nửa đường mà xe hết ắc quy hay hết xăng,vậy thì chúng ta ..." Nói đoạn, cô ủ rủ lắc đầu, tỏ ý không ổn .
Trác Mộc Cường Ba đáp: "Yên tâm,chiếc Kiêu Long này đã được cải tạo ,có hai thùng xăng ,phía sau cũng có xăng dự trữ ,nhiên liệu không thành vấn đề ,anh nghĩ hệ thống máy móc động cơ cũng không có vấn đề gì , ngoại trừ người lái ra.” Gã đưa mắt nhìn Trương Lập.
Trương Lập gật đầu nói : "Trong đêm vốn không thể lái xe ở nơi nguy hiểm như vậy ,nhưng đây cũng là chuyện bất đắc dĩ ,chỉ đành vậy thôi .Hy vọng không gặp phải tảng đá nào lớn hay rơi xuống rãnh sâu."
Trác Mộc Cường Ba nói : "Được,vất vả cho ảnh rồi. Chúng ta cứ đi thẳng về hướng Tây Bắc ,hai người thay nhau lái vậy ."
Trương Lập giảm tốc độ xuống còn 50km/h , đèn pha cực mạnh phía trước rọi xuống mặt đường sáng lấp lóa ,anh lại nhịn không được buột miệng hỏi : "Cường Ba thiếu gia, rốt cuộc là ai đã giúp anh cải tạo chiếc xe này vậy ?"
Trác Mộc Cường Ba đáp : "Không biết, trả tiền nhờ người ta làm thôi, sao vậy ?"
Trương Lập nói :" Kỹ thuật của người này thật quá sức cao minh ,nếu có cơ hội nhất định phải đến gặp anh ta để học tập. Cả đèn pha phía trước mà cũng cải tiến tốt như vậy. Xe này dùng đèn xê nông loại H4 của Nhật ,người cải tiến đã điều khiển cho ánh sáng tập trung , nay thông lượng ánh sáng của đèn xe ước khoảng ba nghìn bảy lumen ,nhiệt độ màu(1) từ năm nghìn bảy trăm đến sáu nghìn ba trăm độ K ,đèn bên trái tụ sáng song song với mặt đất ,đèn bên phải cao hơn 4,6 độ , không làm ảnh hưởng đến độ rộng của quầng sáng khuyếch tán sang hai bên , lại nâng được khả năng chiếu xa lên cực hạn .Mỗi một bộ phận được cải tạo của chiếc xe này đều khiến tôi hết sức thán phục đấy." Nói tới đây ,Trương Lập không khỏi hổ thẹn trong lòng, thầm nhủ: "Nói ra thì, kỹ thuật của người lái chiếc Hummer kia mới thật khiến tôi hết sức thán phục.Tôi lái chiếc xe đã được cải tạo ưu việt thế này ,vậy mà vẫn hoàn toàn dưới tay hắn ta ,cái thằng cha ấy!"
Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn ngồi trên xe ăn trước một ít đồ ăn nhanh, sau đó Trác Mộc Cường ba đổi chỗ lái thay Trương Lập , hơn trăm cây số sau đó, hai người cứ luân phiên lái xe .Càng đi sâu vào Khả Khả Tây Lý ,thời tiết càng lạnh giá ,trải qua một ngày vất vả, Đường Mẫn nằm rúc vào chiếc áo khoác Trác Mộc Cường Ba trải xuống cho cô ,mệt mỏi chìm sâu vào giấc ngủ .Trương Lập và Trác Mộc Cường Ba trầm mặc một lúc lâu ,không khí dường như cũng đông đặc lại .Đêm lặng lẽ và tĩnh mịch ,chỉ nghe tiếng động cơ khe khẽ ,bánh xe nghiến lên đá vụn ven đường ,thinth thoảng lại phát ra những tiếng động nho nhỏ .
Trăng sáng trời sao ,Trương Lập nhìn mặt đường phía trước ngọn đèn xe ,đột nhiên thấy thèm hút thuốc ,mặc dù anh ta chưa bao giờ hút lấy một điếu. Chuyện xảy ra hôm nay tưởng chừng như một giấc mộng ,lại thêm cảm giác bối rối lặng lẽ lúc này ,khiến Trương Lập không thở nổi , anh cảm thấy bị đè nén, đột nhiên rất muốn bạo phát ,hét lớn lên vài ba tiếng :"Rốt cuộc tôi đến chỗ này làm quái gì ?" "Đây rốt cuộc là nơi quái quỉ gì vậy !" " Rốt cuộc còn phải đi bao lâu nữa mới thấy người đây!"
Cuối cùng Trương Lập cũng không chịu nổi nữa ,khe khẽ nói với Trác Mộc Cường Ba đang ngồi bên cạnh :"Cường Ba thiếu gia."
"Ừm?" Trác Mộc Cường Ba cơ hồ đang trầm tư sực tỉnh . Trương Lập nói: "Nói chuyện gì đó đi,Cường Ba thiếu gia ,bằng không chắc tôi ngột ngạt chết mất ."
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười :"Nói gì bây giờ ? Bình thường tôi không thích nói chuyện lắm !"
Trương Lập lắc đầu : "Vậy thật không tốt chút nào,Cường Ba thiếu gia .Hình thể của anh vốn đã cao lớn như vậy ,lại không ưu nói chuyện ,sẽ gây cho người khác áp lực rất lớn.” Thứ áp lực này, phải sau khi ngồi cạnh Trác Mộc Cường Ba ,anh ta mới cảm nhận được .
Trác Mộc Cường Ba hỏi : "Thật vậy sao ? Anh cũng biết đấy, cha tôi là một bậc trí giả ,quy củ trong nhà rất nhiều . Từ nhỏ tôi đã bị yêu cầu không được nói năng bừa bãi ,sau này thành thói quen luôn , tôi không thích nói chuyện với người khác lắm." Gã ngoảnh đầu lại nhìn Đường Mẫn đang say giấc nồng , thầm nhủ :"Cô bé này thì là ngoại lệ ."
Trác Mộc Cường Ba hạ kính cửa sổ xuống, hít hà mấy hơi không khí trong lành, sau đó đóng cửa lại ngay, rồi quay đầu lại xem Đường Mẫn có bị giật mình tỉnh giấc hay không ,gã thấy Đường Mẫn dường như vẫn ngủ rất ngon ,mới yên tâm ,tiếp tục nói khẽ :"Nhưng ,anh cũng biết mà,trẻ con thường hay có rất nhiều thắc mắc ,rất nhiều điều muốn nói .Vì vậy, lúc ấy tôi rất thích nói chuyện với các động vật nhỏ ,ở quê tôi ,động vật nhỏ khác thì rất ít ,chỉ có...."
Trương Lập tiếp lời :"Chó con thì rất nhiều."
Trác Mộc Cường Ba cười cười, nói :"Ừm,đúng vậy .Anh có biết không ,chỉ số thông minh của chó tương đương với một đứa bé bốn tuổi ,chúng có thể hiểu và nhớ được khoảng hai nghìn đến ba nghìn từ đơn ,không nghi ngờ gì nữa,chúng cũng có thể hiểu được một số từ và câu đơn giản ,đồng thời dựa vào cơ thể và mùi cơ thể tiết ra để cảm nhận được tình cảm của con người : buồn bã, vui vẻ, phẫn nộ .Tôi thấy mình rất hạnh phúc vì đã chọn chúng làm bạn ,tôi chưa thấy loài vật nào có nhiều ưu điểm như chúng cả ,chúng trung thành ,thông minh, hữu hảo ,dễ thuần ,đã nhận chủ nhân thì cả đời cũng không thay đổi .Không ít chó con sau khi ra đời chẳng được bao lâu đã bị tách khỏi mẹ ,vì vậy chủ nhân trong mắt chúng , chính là mẹ . Bất kể mẹ giàu có hay nghèo túng ,thiện lương hay hung ác ,bọn chúng đều đi theo đến chết ,mãi mãi không rời xa ,trừ phi là chủ nhân muốn vứt bỏ chúng mà thôi."
Trương Lập nói : "Cường Ba thiêu gia hình như có rất nhiều cảm xúc thì phải ."
Trác Mộc Cường Ba nói :" Để tôi kể cho anh nghe hai câu chuyện nhỏ nhé ,đều là chính mắt tôi nhìn thấy cả .Tôi từng thấy một con chó ăn xin ở thị trấn nhỏ Barfu , nước Anh , đó là một con chó săn nòi Charles tên là Doro ,Doro không hề biết giá trị của mình ,đi theo một tên ăn mày tối ngày say khướt .Mỗi ngày khi tên ăn ngày ngủ ở đầu phố ,nó lại dùng hai chân trước nâng cái mũ rách rưới của hắn ta lên ,hai chân sau nhảy tưng tưng xin tiền người qua đường ,khi đôi mắt ấy nhìn vào anh,anh thật không thể nào từ chối nổi đâu . Nhưng ,tên ăn mày kia chỉ ném cho con chó mấy mảnh xương vụn ,hầu hết tiền xin được đều biến thành rượu ngon đổ vào bụng hắn ,thi thoảng hắn còn tay đấm chân đá con chó tội nghiệp nữa .Tôi vốn định trả giá cao mua con thú đáng thương đó về ,nhưng những người xung quanh nói với tôi ,con chó đó đã bị bán đi không biết bao nhiêu lần rồi ,lần nào tên ăn mày cũng bán được với giá rất cao,nhưng sau khi được chủ mới đưa về nhà ,con chó không ăn cũng không uống ,cứ rên ư ử ,chủ mới không còn cách nào ,đành đưa nó trở lại đây .Tôi đứng ở đầu phố, quan sát nó mấy tiếng đồng hồ liền ,mỗi khi nó mệt lại trở về cạnh tên ăn mày,lặng lẽ ngồi chồm hổm ,như thể chỉ cần nhìn thấy tên ăn mày đó đã là một thứ hạnh phúc với nó rồi . Mỗi lần nghỉ không đến mười phút, nó lại nhảy lên ,khó nhọc đi bằng hai chân sau,không biết mệt mỏi ,không oán không hận ,trung thành cả đời, mãi không rời xa ,đây chính là phẩm chất của chó ."
Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba trở nên kiên nghị ,quay sang nhìn Trương Lập ,Trương Lập không nói gì, gã lại tiếp lời : "Còn lần nữa ,là chuyện một thương gia người Pháp ,con chó chăn cừu Đức của ông ta bị thương ở chân ,không thể tham gia cuộc tuyển chọn cảnh khuyển thế giới được nữa , ông ta định mang con chó bẹc giê tên Thor đó đi hủy diệt nhân đạo . Nhưng Thor cao lớn khỏe mạnh , răng sắc cực kỳ,người bình thường căn bản không thể lại gần .Thương gia người Pháp đó đành đích thân trộn thuốc độc vào đồ ăn cuả Thor .Ông ta mang đồ ăn có thuốc độc cho Thor xong ,vì không nỡ nhìn thấy cảnh nó quằn quại đau đớn nên đã ra ngoài .Mười phút sau, khi ông trở vào nhà, mở cửa ra ,liền phát hiện con chó của mình đang giãy giụa ngậm dép lê đi trong nhà ra cho ông lần cuối !"
Trác Mộc Cường Ba bỗng nhiêm im bặt . Trương Lập đột nhiên cảm thấy sống mũi cay cay,như có thứ gì tắc nơi cổ họng, khiến nước bọt nghẹn lại không nuốt vào được ,anh thầm nhủ :"Mình bị sao thế này ? Chỉ là một câu chuyện bình thường thôi mà ?" Nhưng câu nói cuối cùng của Trác Mộc Cường Ba "con chó của mình đang giãy giụa ngậm dép lê đi trong nhà ra cho ông lần cuối" lại cứ không ngừng vang vọng mãi trong đầu Trương Lập ,dường như anh ta đã hiểu ra đôi phần , đây là một thứ tình cảm xưa nay mình chưa bao giờ được nếm trải, vì vậy nên rất dễ dàng bị nó làm cho xúc động .
Trác Mộc Cường Ba nói với giọng điềm tĩnh, nhưng lại ngập tràn thê lương :"Trong xã hội loài người , anh đã có người bạn nào như thế chưa? Trung thành, đối với loài người , chỉ là một từ vựng ,nhưng đối với loài chó, đó là lời thề mà cả đời chúng tuân thủ .Vĩnh viễn không phản bội , đến chết cũng không rời ,là thượng đế đã ban tặng loài vật này cho con người làm bạn ."
Kể hết chuyện, hai người lại trầm ngâm suy tư ,ngoài xe gió lạnh thồi vù vù ,Trương Lập dường như đã hiểu tình cảm của Trác Mộc Cường Ba với chó thế nào ,tại sao gã lại chỉ vì một con chó mà coi nhẹ sự an nguy của bản thân ,không hề chùn bước tiến về vùng đất hung hiểm phía trước .Một lát sau ,Trác Mộc Cường Ba lại hỏi :"Mấy giờ rồi ?"
Trương Lập liếc mắt xem đồng hồ trên xe :" Ba giờ bốn mươi ."
Trác Mộc Cường Ba nói : "Để tôi lái xe cho ."
Trương Lập lắc đầu : "Không cần, cứ để tôi lái đi .Giờ đến đoạn đường bị đóng băng rồi ,càng đi sâu về phía Bắc ,nhiệt độ càng thấp ,anh xem đoạn đường chúng ta vừa đi , mới đầu còn là thảo nguyên , về sau biến thành sa mạc,giờ đã đông cứng thành băng , đây là vùng băng nguyên chính cống rồi đấy . Chỉ hơi không lưu ý một chút , xe sẽ rất dễ bị trượt , trước đây tôi từng được huấn luyện cách lái xe trên băng tuyết , vì đường ngập tuyết ở Tây Tạng rất nhiều."
"Không đươc, giờ chính là lúc khả năng tập trung tinh thần kém nhất ,anh không thể lái xe trong lúc mệt mỏi." Thái độ của Trác Mộc Cường Ba rất rõ ràng.
"Được rồi." Trương Lập đang chuẩn bị giảm tốc độ ,nét mặt trở nên rất kì dị ,Trác Mộc Cường Ba trông thấy mười mươi , rõ ràng là Trương Lập đã xoay vô lăng sang trái ,nhưng chiếc xe vẫn không rẽ, mà cứ nhằm một tảng đá cao nữa mét phía trước ,tông thẳng vào đó.

(1) Nhiệt độ màu(color temperature): một đặc trưng của ánh sáng nhìn thấy được ,có ứng dụng rất quan trọng trong bố trí ánh sáng ,chụp ảnh ,quay phim và nhiều lãnh vực khác .Nhiệt độ màu của một nguồn sáng được xác định bằng cách so sánh độ kết tủa màu của nó với một vật đen bức xạ lý tưởng .Nhiệt độ màu của nguồn sáng,-thường tính bằng Kelvis(K) -là nhiệt độ mà vật đen bức xạ lý tưởng được làm nóng có màu trùng với màu của nguồn sáng.
Sinh tồn trên băng nguyên
Trác Mộc Cường Ba chồm lên trước ,giúp sức xoay vô lăng , nhưng dường như không có hiệu quả .Trương Lập chỉ nói một câu : "Chỉ sợ sẽ lật xe." Lời nói vừa dứt ,một bên xe đã nghiêng hẳn lên cao , kế đó liên như xe bay trong đoàn tạp kỹ ,trượt bằng hai bánh bên cạnh đi tầm mười mét, rồi cửa sổ xe phía bên Trương Lập đập xuống đất ,chiếc xe cứ thế trượt đi ,lại trượt thêm bốn năm mét nữa, thân xe lật ngửa lên, bốn bánh chổng lên trời , nóc xe trượt tiếp mười mét, húc mạnh vào một tảng đá khác , xoay chuyển mấy vòng tại chỗ,rồi mới dừng lại.
Đường Mẫn đột nhiên bị giật mình tỉnh giấc , ngái ngủ lẩm bẩm :"Sao vậy ? Bọn chúng lại đuổi kịp rồi à ?"
Trương Lập nằm trong chiếc xe bị lộn người, vừa gắng sức mở cửa ra, vừa nói :"Tại tôi sơ suất, mặt băng dưới đất bị bánh xe bắn lên, tan thành nước trong ở trục , chạy lâu không rẽ , nước lại đóng thành băng, khiến ổ trục bị trượt ,ủa?Đây là gì vậy ?"
Tay Trương Lập dường như cảm thấy có gì chảy ra , quẹt tay một cái, đưa lên mũi hít ngửi , kinh hoàng thốt lên :"Là xăng !Chảy xăng rồi!"
Lúc này ,dây điện trên các đồng hồ xẹt lửa tung tóe làm Trác Mộc Cường Ba đầm đìa mồ hôi lạnh , gã kêu lên . "Mau chạy ra!" Một tay ôm lấy Đường Mẫn vẫn cuộn mình trong áo khoác , tung chân đá bay cửa xe bên phải ,ném Đường Mẫn ra ngoài trước ,kế đó cũng lao ra khỏi xe ,còn Trương Lập thì lăn ra từ xe bên trái .
Ngọn lửa cuồn cuộn trong đêm tối ,chiếu đỏ gương mặt ba người,gió cấp bảy mang theo băng và tuyết ,ầm ập bổ thốc vào mặt ,phun vào từng lỗ chân lông trên cơ thể .Bốn giờ sáng ,nhiệt độ không khí trên băng nguyên chỉ có âm mười độ ,cùng với gió lạnh cấp bảy ,có ba vị anh hùng bị khốn đốn giữa khu không người Khả Khả Tây Lý rộng tám mươi nghìn kí lô mét vuông .
Trương Lập cười khổ ,bình xăng có lẽ đã bị đá vụn bắn lên khi bọn người kia dùng hõa tiễn tấn công làm hỏng ,nhưng vẫn chưa bị chảy xăng hoặc chỉ chảy rất ít xăng ,nếu Trác Mộc Cường Ba không giúp sức xoay vô lăng ,bánh trước lướt qua tảng đá băng cao nửa mét kia chưa chắc đã nghiêng hẳn một bên như thế, nếu không đụng phải táng đá phía sau kia ,bảng điều khiển trên xe cũng không xẹt lửa ,một loạt những sự kiện trùng khớp liên hoàn khiến người ta không thể tưởng tượng ,đã khiến chiếc xe việt dã tính năng ưu việt này tiêu tùng như vậy .Trương Lập đúng trên đồng hoang vắng lặng, ngoại trừ cười khổ ra , anh ta thật không nghĩ ra chuyện gì có ý nghĩa hơn nữa .
Trác Mộc Cường Ba thẫn thờ đứng trước xe ,đồ ăn ,nước uống ,lều bạt,mồi lửa ,tất cả từ từ tiêu tan trong ngọn lửa phừng phừng kia ,bản thân gã lại không thể làm gì ,chiếc xe được cải tiến đến đạn hỏa tiễn còn không hủy đươc ,lại vì không thể tránh một tảng đá cao nửa mét mà bị thiêu hủy sạch sẽ . Nếu dựa vào đôi chân, ở chốn hoang nguyên nhiệt độ thất dưới không độ này có thể đi được bao xa ? Bao giờ mới tìm thấy trạm cứu hộ ? E rằng phải đợi kỳ tích xuất hiện mới xong .
Đường Mẫn ôm mặt khóc tu tu , cô không dám tin đây là sự thật , bổ nhào vào người Trác Mộc Cường Ba ,nức nở : "Đều tại...đều tại người em không tốt. Em...hức, em không nên để anh tới chỗ này...hức..."
Trác Mộc Cường Ba gượng gạo an ủi cô : "Đừng buồn nữa , thế này thì có đáng gì, chúng ta đã đi sáu bảy tiếng đồng hồ rồi, có lẽ cũng cách trạm cứu hộ không xa nữa, nói không chừng đến khi trời sáng, chúng ta có thể thấy cờ tín hiệu của trạm cứu hộ cũng nên.” Trong lòng gã lại tự hỏi bản thân: "Trạm cứu hộ ? Rốt cuộc còn bao xa nữa ? Hà,có trời mới biết ."
Trương Lập từ bên kia chiếc xe bước tới , đùa cợt nói : "Hai người từng nghe chưa ,ở Khả Khả Tây Lý có một câu ngạn ngữ : xe hơi không đi nhanh bằng chân người . Giờ chúng ta có thể dùng chân rồi ,so với xe hơi còn nhanh hơn nhiều đấy. Giờ nghỉ ngơi một lát cho lại sức rồi lên đường ."
Trác Mộc Cường Ba cười cười đáp :"Vậy cũng tốt, ít nhất chúng ta còn có lửa sưởi ấm ."
Ông trời không cho bọn họ đãi ngộ đặc biệt như thế ,đến cả ngọn lửa cũng tắt rất nhanh ,trên đồng hoang băng tuyết thống trị tất cả này, cơ hồ như ngọn lửa cũng không thể chiến thắng cái lạnh .Lửa còn chưa tắt hẳn ,Trác Mộc Cường Ba đã ôm chặt Đường Mẫn trong chiếc áo khoác rộng ,vỗ nhẹ lên vai cô ,rồi xông thẳng tới chiếc xe ,làm Trương Lập đứng bên cạnh cuốn quýt kêu lên : "Cẩn thận lần nổ thứ hai!"
Trác Mộc Cường Ba không còn nghĩ ngợi được nhiều vậy nữa, gã hiểu rõ trong lòng, ngọn lửa bùng cháy trong thời gian ngắn như vậy,nhất định sẽ để lại thứ gì đó, đồ ăn, lều bạt, hay là xăng, bất kể là cái gì,còn lại một chút cũng tốt, nhất định phải tìm thấy !
Trác Mộc Cường Ba mặt mũi nhem nhuốc trở lại, gã lục lọi được trong xe mấy gói mì ăn liền đã bị đốt cháy như than củi , điều khiến người ta thất vọng là lều bạt đã bị đốt thành một miếng nhựa dẻo ,điều làm người ta mừng rỡ là ,Trác Mộc Cường Ba cầm ra một thùng xăng dự trữ vẫn còn nguyên vẹn.
Lửa ,trước sau vẫn luôn khiến người ta cảm thấy ấm áp, đặc biệt là trong đêm ở nơi hoang vắng không một bóng người này .Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập bàn bạc một lát ,kết quả kết luận thế nào cũng phải cầm cự đến trời sáng mới đi ,đêm tối thật sự không thích hợp để lên đường .Bọn họ tìm một vách đá chắn gió ,ba người vây quanh đống lửa,gắng sức sát lại gần nhau hơn một chút .
"Đừng ngủ ! Mẫn Mẫn ! Không được ngủ ." Trác Mộc Cường Ba không ngừng nhấn mạnh.
Đường Mẫn tỏ ra rất mệt mỏi , lẩm bẩm nói : "Em mệt quá."
Trác Mộc Cường Ba đặt bàn tay to bè lên trán cô , hoảng hốt nói với Trương Lập : "Trán cô ấy nóng quá!"
Trương Lập nhìn Trác Mộc Cường Ba, cũng lộ ra vẻ lo lắng, nhưng anh cũng không biết phải làm sao mới tốt ,ở nơi hoang dã không người này , cả nước và đồ ăn cũng không có ,nói gì đến thuốc men .Hai người đàn ông và một cô gái nhỏ ,phải làm thế nào ,cả hai gã đàn ông to lớn đều bó tay chịu chết.
Trác Mộc Cường Ba không nhẫn nại được nữa ,gã nói :"Không được, tôi phải đưa cô ấy đi ,trạm cứu hộ biết đâu lại ở gần đây cũng không chừng ."
Trương Lập chầm chậm lắc đầu ,thấp giọng nói :" Ít nhất cũng phải một trăm cây số nữa .Đi như vậy , chỉ khiến cô ấy càng thêm khó chịu ."
Trác Mộc Cường Ba kêu lên : "Nhưng cũng không thể bỏ mặc cô ấy thế này được !"
Trương Lập không lên tiếng nữa, những lúc thế này, ngoại trừ chờ đợi ra ,dường như không còn chuyện gì có thể làm được nữa .Trác Mộc Cường Ba cũng dần dần bình tĩnh trở lại ,gã nhìn chằm chằm vào đống lửa , khoác tấm áo da lên người mình , cả thân mình Đường Mẫn được bọc trong áo da, hòa với gã làm một .Cánh tay ôm Đường Mẫn của Trác Mộc Cường Ba đã chặt nay càng thêm chặt ,gã thật sự không còn nghĩ gì được .Đường Mẫn nằm trong lòng không ngừng khe khẽ gọi tên gã :"Cường Ba, Cường Ba , đừng bỏ rơi em .Anh đã hứa với em, sẽ không bỏ rơi em mà ."
Trương Lập nghe mà không nhẫn tâm nhìn nữa , nhưng Trác Mộc Cường Ba lại vẫn điềm tĩnh khoan thai,gã luôn miệng nói : "Không đâu. Không phải anh đang ở đây sao ? Ngủ một giấc đi ,sáng mai tỉnh lại chúng ta sẽ cùng lên đường .Mẫn Mẫn ,ngày mai tìm được cuốn sổ của anh trai em, anh đưa em cùng đi kiếm Tử Kỳ Lân, có được không ?"
Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn trải qua một đêm trong những lời rì rầm lẩm bẩm như vậy .Trương Lập thỉnh thoảng lại đứng dậy thêm xăng cho ngọn lửa, sau đó nhanh chóng nép vào bên kia Trác Mộc Cường Ba ,vùng đất này quả thật rất lạnh giá .
Trời vừa lờ mờ sáng , Trác Mộc Cường Ba lại đưa tay sờ trán Đường Mẫn ,thấp giọng nói :"Không được ,chúng ta phải kiếm được đồ ăn ,cô ấy yếu quá."
Trương Lập cắn một miếng mì ăn liền đã cháy thành than ,vốc một vốc tuyết dưới đất cho lên miệng, vì anh ta thấy Trác Mộc Cường Ba cũng ăn như vậy. Nhưng Trương Lập đảo chiếc lưỡi bị lạnh đến tê dại ,hàm hồ nói :"Nhưng mà, anh không thể đặt cô ấy xuống được đâu."
Trác Mộc Cường Ba nói : "Tôi biết , chuyện này cũng dễ thôi." Đoạn nhờ Trương Lập giúp đỡ, gã cõng Đường Mẫn lên lưng , buộc eo hai người lại với nhau ,sau đó khoác áo khoác lên ,tựa như địu trẻ sơ sinh vậy , rồi một tay xách chiếc thùng dép đựng xăng nặng hai mươi cân , ba người bắt đầu bước đi trên con đường mờ mịt phía trước.
Trời đông đất giá, gió Bắc rú gào ,hai người bước cao bước thấp trên cách đồng mênh mông không có đường. Trương Lập hai tay trống không , cũng phải trầy trật lắm mới theo kịp tốc độ của Trác Mộc Cường Ba ,cuối cùng anh cũng hiểu được cái gì gọi là thần lực trời sinh. Chỉ ăn có một miếng mì ăn liền cháy thành than ,đến khi mặt trời lên đỉnh đầu cũng không ăn thêm gì khác , một chút nhiệt lượng trong cơ thể sớm đã tiêu hao sạch sẽ ,Trương Lập lúc này chỉ thấy muốn nhấc chân lên cũng vô cùng cực nhọc ,cơ hồ đó không còn là chân mình nữa, căn bản chỉ là hai khúc chỉ. Đường Mẫn lúc tỉnh lúc mê ,miệng không ngừng lẩm bẩm nói linh tinh.Trác Mộc Cường Ba thì từ đầu chí cuối vẫn nhìn theo hướng mặt trời,sải chân tiến bước , không hề có ý định dừng lại nghỉ ngơi ,gã biết rõ, dừng lại một phút , Đường Mẫn sẽ nguy hiểm thêm một phần, nhất định phải tới được trạm cứu hộ kia càng sớm càng tốt!
Giữa trưa ,Trương Lập cảm thấy trước mắt hoa lên ,loạng choạng ngã bịch xuống đất ,anh chống tay gượng dậy ,đạp chân mấy lần mới thành công ,nhưng cuối cùng cũng chỉ có thể quì một chân dưới đất , thở hổn hển nói :" Không được rồi, tôi phải nghỉ một lúc."
Trác Mộc Cường ba dừng bước ,khó khăn ngoảnh đầu lại,gã biết , thể lực đã tiêu hao đến cực hạn rồi ,mà bốn bề vẫn chỉ là một vùng trắng toát. Nhưng Đường Mẫn đang ở trên lưng ,gã còn có thể cảm nhận được hơi thở gấp của cô , không thể dừng lại, phải làm sao bây giờ?
Trác Mộc Cường Ba vắt óc ra nghĩ cách ,nhưng ký ức của gã chỉ là một vùng trắng mênh mông , chưa bao giờ gã trải qua chuyện như vậy , đến giờ Trác Mộc Cường Ba mới cảm thấy , kiến thức sinh tồn nơi hoang dã của mình thì ra lại nghèo nàn đến thế.
Mười tuổi gã đã một mình đi vào núi ,không sợ dã thú và bóng đêm ; mười bốn tuổi gã bắt đầu ra khỏi Tây Tạng ,tranh thủ tất cả thời gian nghỉ ngơi đi du lịch khắp Trung Quốc ,mang theo một trái tim thành kính , kiếm tiền lộ phí bằng những công việc tạm bợ ,cũng từng ăn gió nằm sương ; mười chín tuổi gã kiếm được món tiền đầu tiên trên thương trường ,gã là người đầu tiên mang các đồ trang sức nhỏ đặc sắc của người Tạng tới khu cải cách mở cửa Thâm Quyến bày bán ; hai mươi tư tuổi, gã lần đầu tiên trở về Tây Tạng đoạt danh hiệu Khố Bái , ba lần tiếp sau đó , gã không bỏ qua lần nào ; hai mươi bảy tuổi ,công ty của gã thành lập ,gã bắt đầu quản lý ba nghìn công nhân viên phân bố ở mười mấy thành phố. Gã chưa từng sợ hãi thất bại ,mỗi lần thất bại đều khiến gã trở nên mạnh mẽ hơn ,biển kinh doanh chìm nổi ,lòng người gian trá ,gã chưa bao giờ biết sợ là gì ,chỉ vì gã biết ,nỗ lực là sẽ chiến thắng được bọn họ. Nhưng còn lần này ,Trác Mộc Cường Ba cảm thấy một áp lực xưa nay chưa từng có ,người gã yêu thương gục trên lưng ,gã lại bó tay không còn cách nào ;đồng hoang mênh mông, gió Bắc phần phật ,thiên nhiên vĩ đại này là đối thủ dù gã có nỗ lực đến đâu thì không không thể chiến thắng nổi.
Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba hướng về phía bãi cỏ khô trông có vẻ rậm rạp cạnh đó ,cọng cỏ rất nhỏ, có cọng cao đến ngang lưng Trác Mộc Cường Ba ,gã đưa tay nhổ một khóm lên ,vừa dài vừa cứng ,Trác Mộc Cường Ba đưa tới trước mặt Trương Lập, ôm tia hy vọng cuối cùng , hỏi :"Ăn được không?"
Trương Lập cười cười lắc đầu ,anh lật người ngồi xuống mặt tuyết ,nói :" Là cỏ tranh hoa tím , có thể sinh trưởng tốt thế này trên băng nguyên cũng chỉ có mỗi nó thôi. Nhưng ngoài cung cấp sợi ra ,nó chẳng còn tác dụng gì cả ,chúng ta cần đồ ăn có thể cung cấp năng lượng. Giờ bắt được con vật gì thì hay nhất."
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên "Ồ" lên một tiếng ,nói "Hình như đến rồi."
Quả nhiên , sau đám đá lởm chởm , phảng phất như có gì đó động đậy ,hơn nữa âm thanh còn hướng thẳng về phía này,Trương Lập nhỏ giọng nói : "Nghe tiếng động ,hình như là một con thú to ,đủ cho ba người chúng ta ăn một bữa rồi. Phải cẩn thận , chúng ta không thể để nó chạy mất được. " Không biết lấy đâu ra sức lực , anh đứng dậy trở lại được.
Trác Mộc Cường Ba lấy áo khoác cẩn thận bọc Đường Mẫn vào ,đặt cô ở một nơi tương đối an toàn ,sau đó nấp sau một tảng đá lớn, gã đưa tay sờ thanh đao Tây Tạng giắt nơi lưng ,cảm giác máu trong người lại sôi lên sùng sục.
Gần rồi, càng lúc càng gần rồi....Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập cùng nấp sau một tảng đá ,đợi con vật kia xuất hiện.
"Xoẹt" một tiếng , Trác Mộc Cường Ba rút thanh đao, đang chuẩn bị nhảy ra đâm con vật kia ,hòn đá trong tay Trương Lập cũng đã giơ lên , nhưng hai người vẫn chưa ra tay, bởi vì, con thú đó quả thật quá lớn, khiến cả hai không dám động thủ !
Một con gấu ngựa trưởng thành ,lắc lư cái đầu to tướng đi qua tảng đá lớn ,vừa thấy có thứ dám chặn đường mình , hai chân trước liền đập mạnh một cái "vù",đứng bật dậy! Loại thú khổng lồ bị các thợ săn già gọi là "gấu mù" này có sức phá hoại rất lớn, nghe nói ở trong rừng sâu, cả hổ cũng phải nhường nó ba bốn phần.
Trác Mộc Cường Ba ở trước con quái đứng thẳng cao gần hai mét này ,đột nhiên cảm thấy mình thật nhỏ bé , tay gã nắm chặt thanh đao ,nhất thời ngơ ngẩn thất thần. Trương Lập phản ứng nhanh, lập tức buông hòn đá trên tay xuống, sức lực lúc nãy vừa có được bỗng nhiên hoàn toàn tan biến, nằm đờ ra dưới đất.
Trác Mộc Cường Ba không thể nằm xuống ,tuy gã cũng biết , nghe nói nằm xuống nín thở giả chết, thông thường có thể tránh được gấu ngựa tấn công, nhưng trong giờ phút này,nếu không có thức ăn, Đường Mẫn nói không chừng sẽ.....gã buộc phải một mình đối diện với con dã thú khổng lồ , cao hơn mình một cái đầu, nặng tới mấy trăm cân này. Thanh đao Tây Tạng của gã không thể chọc vào lớp da xù xì thô ráp của con gấu ,sức mạnh của gã dường như cũng không thể nào mạnh hơn con quái này,còn con vật to tướng này, chỉ cần tát một cái là có thể đập nát cái đầu của gã , đây là một trận chiến không có bất cứ phần thắng nào dù là nhỏ nhoi nhất.
Lòng bàn tay Trác Mộc Cường Ba ướt đẫm mồ hôi ,tim đập nhanh hơn bất cứ lúc nào ,nhưng đôi mắt gã,hiện lên tinh thần không sợ hãi ,nhìn chằm chằm vào mắt con gấu ngựa ,một người một gấu ,cứ thế đối diện với nhau. Nghị lực này,cũng là do chó ngao dạy gã ,mọi người gọi ngao là "to béo ngốc", chính vì chúng có tinh thần không sợ không hãi , không e ngại bất cứ sinh vật nào hình thể to hơn chúng gấp bội. Nếu đem loài chó với gấu nhốt chung một chuồng, chỉ có ngao mới dám xông tới cắn xé với gấu ,trên người chúng dường như thiếu mất cảm xúc sợ hãi vậy.
Sinh tử chỉ được quyết định trong nháy mắt đó , thật bất ngờ là,con gấu ngựa lớn đối mặt với Trác Mộc Cường Ba, không ngờ là thua sút khí thế , nó không tát cho Trác Mộc Cường Ba một cái bay người đi ,ngược lại bổ thụp xuống đất ,dùng cả bốn chân mà chạy theo hướng khác.
Trương Lập nghe tiếng động, lật người bò dậy , kinh ngạc nhìn Trác Mộc Cường Ba ,trong mắt lộ rõ vẻ sùng bái , hỏi :"Đi rồi sao? Sao mà anh làm được vậy?"
Trác Mộc Cường Ba cất dao vào vỏ mới phảt hiện,mình cầm cán dao chặt quá,các ngón tay cầm đao đã không thể nào duỗi thẳng được,gã cũng không hiểu tại sao con gấu kia bỏ chạy. Đang không biết trả lời thế nào , đột nhiên thấy sau lưng mát rượt, một luồng gió mạnh thốc tới , suýt chút nữa thì làm gã ngã vật xuống đất , một cái bóng khổng lồ soi trên mặt đất, lướt qua người Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập. Hai người nhìn thấy gương mặt trở nên tối sạm của nhau ,sắc mặt đều trở nên rất khó coi , chỉ trông cái bóng dưới đất cũng có thể tưởng tượng được đó là một con quái to lớn thế nào rồi. Hai người cùng lúc ngẩng đầu nhìn lên ,Trương Lập đờ đẫn nói : "Đại Kim Điêu " Trác Mộc Cường Ba cũng "a" lên một tiếng.
Đại Kim Điêu, ở Tây Tạng còn gọi là đại điêu dê vàng,là một loài mãnh cầm hình thể rất lớn, một con đại kim điêu trưởng thành sải cánh có thể rộng tới ba mét, sức nó dễ dàng cắp cả con dê vàng nặng mấy chục cân , cái tên đại điêu dê vàng cũng từ đây mà ra. Loài chim này giờ số lượng ít đến đáng thương ,chỉ còn lại một ít ở sâu trong rừng núi Khang Ba, một thời gian ,lại có học giả từng tuyên bố đại kim điêu đã tuyệt chủng. Trong Tạng giáo , đại kim điêu cũng là đại bàng , không chỉ là linh thú của Phật tổ , mà là mắt xích cuối cùng trong chuỗi thức ăn nữa.
Trương Lập gượng cười nói :"Con gấu ngựa to tướng lúc nãy , không phải là anh dọa chạy đấy chứ nhỉ?"
Trác Mộc Cường Ba cũng cười cười :"Ừm, tôi cũng đang thấy kì quái,giờ thì biết nguyên nhân rồi." Nhưng trong lòng Trác Mộc Cường Ba lại không cảm thấy như vậy ,vừa rồi khi con gấu ngựa đứng trước mặt gã ,dường như gã đã nhìn thấy gì đó ,chỉ là lúc ấy tâm trí hoảng loạn ,không nhìn kỹ được mà thôi.
Trương Lập nói :" Con quái kia cũng rất đáng thương ,vốn có thể xưng bá một phương, không ngờ đụng phải mắt xích cuối cùng trong chuỗi thức ăn ở chốn này."
Đại kim điêu đảo một vòng trên không ,đột nhiên thu cánh,biến thành một mũi tên,bổ nhào xuống con gấu ngựa kia.
(1) Nhiệt độ màu (color temperature): một đặc trưng của ánh sáng nhìn thấy được, có ứng dụng rất quan trọng trong bố trí ánh sáng, chụp ảnh, quay phim và nhiều lĩnh vực khác. Nhiệt độ màu của một nguồn sáng được xác định bằng cách so sánh độ kết tủa màu của nó với một vật đen bức xạ lý tưởng được làm nóng có màu trùng với màu của nguồn sáng.
Bá chủ băng nguyên
Một trăm mét,năm mươi mét, hai mươi mét, mười mét, đại kim điêu cách gấu ngựa mỗi lúc một gần. Trác Mộc Cường Ba biết kiểu tấn công của chúng với các động vật cỡ lớn ,móng vuốt hai chân lợi dụng đà lao cắm đứng vào xương sống vật săn chuẩn xác không sai , đó là nơi kém chịu lực nhất của động vật bốn chân, bị chụp phải chắc chắn sẽ gãy, xương sống mà gãy, vật săn sẽ mất đi hành động và phản kháng. Sau khi thành công, con điêu sẽ thu móng vuốt lại, giữa các móng vuốt trước sau của chúng có cấu tạo như lẩy lò xo ,chỉ cần chụp trúng sẽ giống như ổ khóa ,khóa chặt vật săn lại.
Con gấu ngựa dĩ nhiên cũng không cam tâm để mặc cho đối thủ chém giết , đợi đại kim điêu tới gần , nó đột nhiên quay ngoắt đầu lại ,há miệng đớp ngay,con mãnh cầm không hoảng không loạn,hai cánh mở rộng, thân thể sừng sững lại trên không , luồng gió tạo nên làm cát bay đá chạy. Con gấu ngựa đang "gừ gừ" gào rú , đại kim điêu sớm đã ung dung bay lên cao lưng chừng trời, tìm kiếm cơ hội tiếp tục tấn công, trên vùng băng nguyên này, con gấu ngựa thân thể to lớn căn bản không có nơi nào ẩn nấp.
Con gấu ngựa chạy về phía Tây được mấy chục mét , hình như lại cảm thấy gì đó không ổn ,bèn chuyển hướng chạy ngược trở lại ,đại kim điểu thấy cơ hội hiếm có, lập tức bổ nhào xuống. Con gấu ngựa ngẩng cao đầu,chuẩn bị phản kích lần nữa ,nhưng lần này đại kim điêu không cho nó cơ hội , tay cao thủ lợi dụng động lực không khí này khẽ đạp cánh trái, thân thể lập tức chuyển hướng , móng vuốt chụp xuống cần cổ gấu ngựa, kế đó là một cú mổ, đoạt đi con mắt bên phải của đối thủ.
Con gấu ngựa nếm phải đòn đau, gầm rú, thân thể lại đứng dựng lên, lần này thì Trác Mộc Cường Ba đã nhìn rõ, con gấu ngựa lớn này ,không ngờ khắp mình mẩy đều có vết thương, vết máu lốm đốm, có chỗ vẫn còn đang rỉ máu , nhưng những vết thương đó đều không phải do đại kim điêu gây ra , dường như bị loài gì đó cắn xé vậy.
Móng vuốt đại kim điêu quặp lại , quắp chặt trên lưng con gấu ngựa, nó đạp mạnh đôi cánh, định nhấc cả con gấu ngựa khỏi mặt đất, tiếc rằng con gấu quá nặng, mặc cho đại kim điêu có cố gắng thế nào cũng không thể nhấc lên được. Con gấu ngựa lại gầm vang dậy trời dậy đất , hai tay không ngừng tự đập trên lưng, nhưng đập thế nào cũng không trúng được con chim lớn đang bám trên đó. Hai con thú lớn cứ giằng co như vậy , không con nào chịu nhường , đại kim điêu không ngừng mổ xuống tấn công phần đầu gấu ngựa , nhưng xương đầu con gấu lại quá cứng, dường như mọi đòn tấn công đều vô hiệu. Con gấu ngựa đã phát cuồng, hai chi trước vừa chạm đất liền chạy thục mạng, đại kim điêu bám trên lưng nó không ngừng tấn công, con gấu liền nhắm thẳng một tảng đá lớn lao hùynh huỵch tới , con đại kim điêu đã khóa chặt được móng vuốt vào sống lưng đối thủ , dù thế nào cũng không chịu buông, liền cùng con gấu húc thẳng vào đá.
"Ùynh" một tiếng,con gấu ngựa đã húc đầu làm đổ ngửa cả tảng đá cao gần mét,đại kim điêu kịp thời đập cánh tránh được , lần này dường như không hề bị thương. Gấu ngựa da thô thịt dày, lần va chạm này chỉ làm nó ngây ngất mất vài giây,chớp mắt sau đã tỉnh lại,quay đầu lao vào một tảng đá lớn hơn. Đại kim điêu ra sức đập cánh, định quăng ngược con gấu ,nhưng gấu ngựa đã lên cơn điên, sức lực kinh hồn sao có thể kéo lại được. "Bình" một tiếng, con gấu húc vào một tảng đá lớn cao tới mấy mét, bị bắn ngược trở lại, đại kim điêu suýt chút nữa đã bị đè xuống đất, vội vàng thả lỏng vuốt thép, lao vút lên không giật theo một lớp da gấu, con gấu ngựa bên dưới gầm lên đau đớn !
Trương Lập nói :"Thắng bại đã phân, con quái to tướng kia không chịu nổi nữa rồi, Đại điêu dê vàng liệu có đối phó với chúng ta không nhỉ?" Anh quay đầu lại hỏi Trác Mộc Cường Ba.
Trác Mộc Cường Ba đáp :"Chắc không đâu.Con gấu ngựa đó đã đủ cho nó ăn cả mùa đông rồi ,chỉ cần chúng ta không tranh cướp của nó ,chắc nó cũng không tấn công đâu."
Trong lúc hai người đang nói chuyện ,đại kim điêu đập mạnh cánh, mang theo một luồng gió ập xuống , con gấu ngựa đứng thẳng dậy nghênh tiếp ,đại kim điêu không hề khách khí, hung hăng mổ thẳng xuống phần mặt đối thủ,lần này chiếc mỏ săc nhọn của nó mổ trúng mũi con gấu. Mũi gấu là phần mềm ,một đòn này gần như chí mạng ,chỉ nghe một tiểng rống thảm thiết, con gấu đổ vật xuống đất,không động đậy gì nữa.
Đại kim điêu đứng trước con gấu , đột nhiên quay đầu, nhìn Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập chằm chằm, Trương Lập giật thót mình , thấp giọng nói : "Con..con quái này nhìn chúng ta kìa."
Trác Mộc Cường Ba khẽ nhếch miệng, cố dồn cơ thịt lên mặt lại gượng gạo cười :" Chúng tao không có ác ý ,không cướp thức ăn của mày đâu. Ha ha , bọn tao biến mất ngay đây." Nhưng nét mặt gã lúc ấy thật sự còn khó coi hơn cả khóc nữa.
Con địa kim điêu kia không biết có phải hiểu Trác Mộc Cường Ba muốn nói gì hay không, nhưng đúng là nó đã bỏ qua hai động vật đứng thẳng này, bắt đầu ngoảnh đầu quanh quất ,đảo mắt nhìn khắp nơi, điệu bộ tỏ ra vô cùng cảnh giác.
Trương Lập nói :"Chuyện gì vậy? Nó đang nhìn gì vậy?"
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu , sực nhớ lúc đầu bọn gã nhìn thấy con gấu ngựa, con quái to tướng ấy hoảng hốt chạy ra từ sau đống đá, hơn nữa khắp mình đều có vết thương chi chít, rõ ràng là đang bị thứ gì đó đuổi giết, rồi sau đó mới gặp phải con đại kim điêu này. Giờ con gấu ngựa đã ngã xuống, thứ đuổi giết nó hình như cũng kịp tới đây, nên con đại kim điêu mới tỏ ra cảnh giác như thế. Gã thấp giọng hỏi Trương Lập : "Ở Tây Tạng, anh nghe nói thứ gì còn lợi hại hơn cả đại điêu dê vàng không?"
Trương Lập thoáng ngẩn người, không hiểu ý Trác Mộc Cường Ba định hỏi gì ,bèn đáp :" Chưa nghe bao giờ,có khả năng này sao?"
Trác Mộc Cường Ba nói : "Cứ xem đi. Tôi cảm nhận được rồi, dường như có một thứ gì đó khiến đại kim điêu cảm thấy bất an , đã ở gần xung quanh chúng ta đây rồi."
Trương lập không khỏi rùng mình ớn lạnh ,ngước mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba : " Anh...anh đang nói đùa phải không?"
Trác Mộc Cường Ba nghiêm giọng đáp :"Không sai đâu, nó tới rồi."
Trương Lập đảo mắt nhìn quanh, gió thổi vù vù, cỏ cây xào xạc, nơi đây là một vùng tĩnh lặng, vốn không có bất cứ điều gì dị thường, nhưng vừa lúc đó thì bụi cỏ rung lên.
Trong bụi cỏ, ló ra trước tiên là một cái mõm đen ngòm nhòn nhọn, cặp răng nanh nhọn hoắt,nước dãi lòng thòng, lưỡi đỏ như máu; kế đó là hai con mắt hình tam giác , tia nhìn hung hăng, chòng chọc chiếu vào đại kim điêu; đôi tai dựng đứng gắn hai bên đầu. Trươpng Lập không ngờ nổi lại chỉ có một con sói xám bình thường đi ra khỏi bụi cỏ đó. Trong lòng anh thầm nhủ :"Đây là chuyện gì vậy? Hai con vật này căn bản là không cùng một đẳng cấp mà, đối với đại kim điêu, con sói gầy gò này khác gì dê cừu đâu chứ? Con sói ngu đần này lại dám tranh thức ăn trong miệng của đại kim điêu nữa , xem ra đúng là đã đói đến mị đầu mị óc rồi."
Điều làm Trương Lập ngạc nhiên hơn nữa là, con sói thoạt nhìn thân hình nhỏ bé kia lại đang nhe răng trợn mắt, miệng phát ra những tiếng gầm gừ khe khẽ, như thể muốn cảnh cáo địa kim điêu, đó là vật săn của tao, mày đi xa xa một chút, còn đại kim điêu cũng đã quay hẳn mình lại, chuẩn bị tư thế liều chết quyết chiến một phen.
Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ : "Lẽ nào , con gấu ngựa kia lại do con sói này cắn bị thương? Sao mà nó làm được? Kích thước con gấu ấy ít nhất cũng phải bằng mười lần nó cơ mà."
Con sói xám chầm chậm tiến lên ,mỗi một bước hết sức bình tĩnh tự nhiên, nhưng lại ẩn chứa sát khí ,chân sau của nó, mỗi lần nhấc lên hạ xuống đều ấn sâu xuống mặt đất lạnh cóng, bất cứ lúc nào cũng có thể nhảy xổ lên. Đại kim điêu cũng kêu lên "khục khục quác quác"hai chân bới đất về phía sau như gà bới giun,nó tỏ ra hết sức khẩn trương,tư thế chiến đấu hoàn toàn khác khi đối phó với gấu ngựa vừa rồi.
Sói xám vẫn giữ nguyên nhịp chân , từng bước từng bước ép sát đại kim điêu ,hai mắt trợn trừng nhìn con chim lớn trước mặt, sát khí đằng đằng ,hòa theo tiếng kêu gừ gừ khủng bố khiến người ta khiếp sợ. Càng lại gần, sự khác biệt về hình thể giữa con sói và đại kim điêu càng rõ rệt, nhưng về khí thế lại là một chuyện hoàn toàn khác. Đại kim điêu ra tay trước , trải rộng hai cánh quạt một cơn gió mạnh, định gây nhiễu tầm nhìn đối thủ, nhưng con sói xám kia vẫn xông thẳng vào luồng gió ,mỗi bước đều hết sức vững vàng ,ổn định.
Trương Lập nói: "Chỉ dùng gió như vậy là có thể đuổi được con sói đi sao?"
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu : “Sai rồi, đại kim điêu đập cánh là vì đã thua về khí thế ,vì vậy không thể không ra tay trước.” Gã thầm nhủ “Tại sao lại cảnh giác cao độ như thế? Tại sao phải ra tay trước con sói? Lẽ nào trước đây con đại kim điêu này từng chịu thiệt thòi trước lũ sói rồi?"
Trương Lập không có ý kiến gì, chỉ nói : "Tôi không nghĩ như vậy."
Đại kim điêu đập cánh liên hồi , càng lúc càng nhanh, thậm chí còn nhảy tưng tưng tại chỗ, nó muốn bảo vệ thành quả thắng lợi của mình, nhưng lại phản kháng một cách cực kì yếu ớt , rất giống một thiếu nữ đang bảo vệ sự trong trắng của mình trước một tên hiếu sắc. Đã tiến vào phạm vi tấn công của sói xám, đại kim điểu bất đắc dĩ đành phải đập cánh bay thắng lên trời. Trương Lập nói : "Nhìn mà xem, từ trên không lao thẳng xuống, tất sẽ là một đòn chí mạng."
Đại kim điêu lượn trên không tìm kiếm thời cơ thích hợp nhất, con sói xám dường như không thèm để ý , mà đi thằng tới chỗ con gấu ngựa , Trương Lập lại nói : "Anh nhìn kìa, tôi đã bảo mà, con sói xám này đói đến mờ mắt rồi, chỉ vì một chút thức ăn,mà cả mạng cũng không cần nữa."
Đại kim điêu thu cánh lại, như mũi tên rời nỏ, vẽ trên không một đường cong tuyệt đẹp lao vút xuống , mục tiêu chính là con sói xám dưới đất. Con sói căn bản không buồn quay đầu lại nhìn, như hoàn toàn không hay biết nguy hiểm đến từ trên không vậy, thế nhưng khi con chim khổng lồ chỉ còn cách vài mét, nó liền đột nhiên lăn tròn một vòng dưới đất, ung dung tránh khỏi một đòn chí mạng của con đại kim điêu, rồi tức khắc đứng dậy, tiếp tục tiến về phía đồ ăn của mình. Con đại kim điêu lại đành phải bay vút lên lần nữa.
Trương Lập nhìn mà trợn mắt há hốc miệng, kêu lên thảng thốt : " Không phải chứ! Đây là sói gì vậy? Nhìn cũng không cần nhìn mà tránh được đòn tấn công của đại điêu! "
Trác Mộc Cường Ba nói : "Là gió ! Đại Kim điêu lao xuống tạo thành một luồng gió mạnh thốc vào lưng con sói trước ,nó dựa vào sức gió mà phán đoán vị trí của kẻ thù, vì vậy, đòn tấn công từ trên cao của con chim căn bản không thể gây uy hiếp nó."
Thấy con sói xám đã đứng ngay trước mặt con gấu ngựa lớn kia ,đại kim điêu quả thực không cam tâm để chiến lợi phẩm của mình bị nó đoạt đi như thế ,lại lao vút xuống mang theo một luồn gió mạnh . Con sói xám đứng thần ra phía trước con gấu, nhưng không vội vàng cắn xé ,mà dường như đang đợi cú tấn công của con đại kim điêu . Quả nhiên , khi con chim lao xuống nửa chừng , nó đột nhiên nằm ngửa ra , dùng phần bụng mềm mại đón lấy móng sắc cứng của đại kim điêu, cuộn mình lại thành một đám ,tư thế ấy , khiến Trác Mộc Cường Ba nghĩ đến một cánh cung đã căng lên hết cỡ .
Con đại kim điêu rõ ràng đã từng nếm thiệt thòi kiểu như vậy một lần ,vừa thấy sói xám uốn mình kiểu ấy ,liền tức khắc xòa rộng hai cánh , ra sức bay ngược trở lên ,nhưng khoảng cách không còn đủ cho nó bay lên nữa ,lực quán tính cực lớn vẫn kéo đôi vuốt sắc của đại kim điêu lao thẳng xuống chỗ con sói xám . Đúng lúc đó ,thân thể căng hết cỡ của con sói đột nhiên búng lên ,hai chân sau của nó không ngờ đá hết sức chuẩn xác , trúng ngay vào cẳng của con chim khổng lồ , cùng lúc ấy cái miệng nó cũng ngoác ra , nhìn tình hình này , cái cổ của con đại kim điêu ắt sẽ tự dâng vào miệng sói . Nhưng đại kim điêu cũng không phải là ngọn đèn cạn dầu ,nó lập tức rút cổ lại , dùng chiếc mỏ sắc nhọn mổ mạnh vào mũi con sói , chẳng ngờ cú mổ này , lại mổ trúng vào mình con gấu ngựa!
Thì ra , sói xám cuộn mình phía trước con gấu ngựa ,cái lưng cong của con gấu vừa hay lại giúp nó chặn đòn tấn công của đại kim điêu ,lợi dụng lúc mỏ con chim còn kẹt trên mình gấu ngựa ,con sói dùng sức quật mạnh đầu, há miệng cắn tới cổ kẻ địch, con chim này rút cổ lại cũng khá nhanh ,nhưng rốt cuộc vẫn bị sói xám giật mất một túm lông lớn .Đại kim điêu kêu rít một tiếng , đập cánh bay lên, nói thì chậm , tình cảnh diễn ra quả thật nhanh vô cùng,một bóng xám lao vút qua không trung, chỉ nghe con đại điêu kêu lên thảm thiết , lúc bay lên cao, ở đuôi đã mất một túm lông vũ lớn . Đại kim điêu hoàn toàn bại trận ,bay tít ra xa ,đường bay đã không còn oai phong như lúc đến ,mà tựa cánh diều đứt dây loạng choạng.
Trác Mộc Cường Ba thở hắt một hơi :"Thì ra còn có đồng bọn từ đầu vẫn nấp trong bụi cỏ ,đợi đến khi đại kim điêu giở hết chiêu số ,biến hóa tới lúc cuối cùng ,mới giáng cho kẻ địch một đòn mang tính quyết định ! Phối hợp thật tuyệt diệu !" Giờ gã mới hiểu ra , tại sao con gấu ngựa to tướng kia lại chạy thục mạng như vậy , phải đối diện với kẻ thù như bọn sói xám này ,ưu thế về hình thể của nó hoàn toàn không hề tồn tại nữa .
Hai con sói xám chiến thắng cọ cọ mặt vào nhau ,như để chúc mừng thắng lợi ,rồi một con chợt ngửa cổ hú lên một tiếng dài , cơ hồ như muốn tuyên bố với vùng đất băng tuyết này ,nó mới chính là bá chủ đích thực của nơi đây.
Trác Mộc Cường Ba quay sang nói với Trương Lập :"Tôi nói không sai mà ,Tiểu Trương .Cậu làm sao vậy ?Tiểu Trương?"
Chỉ thấy Trương Lập hơi cúi đầu , lẩm bẩm nói : "Một người xuất hiện ,thu hút và phân tán sự chú ý của kẻ địch ,quần đảo với kẻ thù cho tới khi cả hai đều sức cùng lực kiệt ;một người khác ẩn nấp, cho kẻ thù một đòn chí mạng ;nếu còn người thứ ba ,chắc sẽ phụ trách quan sát tình hình,nghiêm mật giám thị động tĩnh của những kẻ thù khác xung quanh đó ,bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng báo cho đồng bọn để kịp thời ứng phó !"
Hai người đờ đẫn quay đầu lại , trong đám cỏ sau lưng ,không biết lúc nào đã có một đôi mắt tam giác hung hăng tàn khốc ,đang nhìn chằm chằm vào họ .
Trác Mộc Cường Ba kinh hãi thốt lên :"Anh...làm sao anh biết được ?"
Mặt Trương Lập méo xệch như muốn khóc ,cười khổ nói : “Tôi không biết ,chẳng qua tôi chỉ đọc thuộc lòng giáo trình tác chiến của bộ đội đặc chủng của chúng tôi mà thôi . Sao lại như vậy được chứ ?" "Ực...ực.."ngần này tuổi rồi , đây mới là lần đầu tiên Trương Lập nghe thấy tiếng nuốt nước bọt của mình lớn đến như vậy .
Con sói đứng sau lưng hai người , hình như là con có hình thể nhỏ nhất trong ba con sói xám , nhưng Trương Lập không hề dám xem nhẹ . Cách tấn công tốc độ ấy, xẹt một cú giữa không trung như điện chớp ,quả thật quá đáng sợ . Ai biết được con sói này có tốc độ và sức mạnh như hai con trước hay không ? Cả hai vất vả quay đầu lại , thấy hai con sói kia không hề ung dung tự đắc chuẩn bị hưởng thụ thịt gấu ngựa như đại kim điêu, mà chỉ gầm gừ ra uy với con gấu đang nằm vật dưới đất . Một con còn ra cắn vào cái đuôi ngắn ngủn của con gấu, con kia thì nhe răng gặm chân trước của con mồi , dùng móng vuốt cào cào vào vùng bụng nó , một lát sau lại nhảy lên đầu con gấu phát ra những tiếng gầm đáng sợ .
Trương Lập không hiểu ,hỏi : "Nó...nó đang làm gì vậy ?"
Trác Mộc Cường Ba hạ giọng giải thích :" Nếu tôi đoán không lầm,con gấu ngựa kia chính là thức ăn tươi sống của chúng ."
"Thức ăn tươi sống ?" Trương Lập vẫn không hiểu .
Trác Mộc Cường Ba đáp :" Nếu bọn chúng từ phương Bắc xa xôi tới đây , muốn đi qua đồng băng hoang vu này ,mà không có đủ thức ăn thì không thể nào sống sót được .Nhưng giữa chốn trời băng đất tuyết này ,muốn bắt các động vật nhỏ đâu có dễ dàng ,còn muốn mang theo một lượng thức ăn lớn thì, một là sẽ có động vật ăn thịt khác tới cướp ,hai là cực kỳ bất tiện . Còn con gấu ngựa này thì vừa to vừa béo ,lại mới ăn no quay để chuẩn bị ngủ đông , mỡ và thịt của nó có thể cung cấp đủ năng lượng cho lũ sói chống cự với cái lạnh .Hơn nữa, hình thể con gấu lớn như vậy ,những động vật khác cũng rất khó tiếp cận , duy chỉ có con đại kim điêu ban nãy là ngoại lệ."
Trương Lập kinh hãi thốt lên:"Anh ...anh nói chúng đang lùa con gấu ngựa này đi qua đồng băng sao ?"
Trác Mộc Cường Ba gật đầu chậm rãi đáp :" Ừ ,đến khi trời đông đất đá ,không còn tìm được thức ăn nữa,gấu ngựa sẽ trở thành đồ ăn của chúng."
Quả nhiên, chẳng bao lâu sau ,con gấu ngựa đang nằm dưới đất kia như bị phù phép ,đột nhiên tỉnh lại , lật mình bậy dậy , rồi lại chạy về phía Tây , một con sói ung dung đi theo , không vội vã cũng không quá chậm rãi , còn con kia thì quay mình , cùng con sói phía sau hình thành thế gọng kìm hợp kích vây hai người Trác, Trương vào giữa. Trác Mộc Cường Ba nhìn con gấu ngựa đang hoảng hốt chạy về phía Tây , ánh mắt tội nghiệp lúc nó ngoảnh đầu lại khiến gã chợt nghĩ tới lũ lợn và bò trong lò sát sinh .
Trương Lập run run giọng nói :"Đây ...đây rốt cuộc là, là sói kiểu gì vậy ! Nó ...nó...nó đến rồi ! Chúng ta bị bao vây rồi sao ?" Anh ta không có dũng khí quay đầu lại nhìn,cơ hồ như một con sói khác đã ở sau lưng , anh ta thậm chí còn cảm thấy như chân trước của con sói đã đặt lên vai mình vậy .
"Chạy đi." Trương Lập nói với Trác Mộc Cường Ba , nhưng hai chân anh như đã mọc rễ , không thể nhấc nổi nữa dù chỉ một bước ,trong khi đó ,Trác Mộc Cường Ba lại có hành động khiến anh ta kinh hồn bạt vía .

Trác Mộc Cường Ba nhấc chân lên , chậm rãi tiến về phía con sói đang giám sát bọn họ ,con sói xám kia phát ra những tiếng "gừ gừ " ,túm lông cổ đã dựng ngược lên ,thân thể ngã về phía sau ,móng vuốt chân trước cào sâu vào nền đất đông cứng ,như sẵn sàng bổ tới cắn vào cổ họng Trác Mộc Cường Ba bất cứ lúc nào . Mỗi lần Trác Mộc Cường Ba bước lên một bước ,Trương Lập cảm thấy như tim mình đập dồn dập mấy chục lần ,anh định nói gì đó ngăn gã lại , nhưng lại không biết nên nói gì mới tốt , cứ như vậy trơ mắt ra nhìn Trác Mộc Cường Ba càng lúc lại gần con sói xám ,càng lúc càng lại gần....



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét