(Mật Tông )  
 
Tác giả: Solar Neko
Mandala có nguồn gốc từ “ Manda” có  nghĩa là “ tinh tuý” và hậu tố “la” sau này  được thêm vào đúng nghĩa là  “ chứa đựng”. Từ đó Mandala được giải thích  rõ ràng là “ chứa đựng  tinh tuý”. Hình ảnh Mandala biểu trưng cho thân  và tâm của Đức Phật. 
Trong
 đạo Phật bí truyền, nguyên lý về mandala là  sự hiển diện của đức  Phật
 trong mình nhưng không nhất thiết có sự hiểu  diện của những hóa  thần.
 Những hóa thần có thể được biểu trưng là một  bánh xe, cây cối  hoặc 
một đồ trang sức hay bất kỳ hiện thân mang tính  tượng trưng khác.
Sự hình thành : 
Mandala
  ban đầu chỉ là 1 dấu chấm, nó  đại diện cho sự vô hạn. Nó có nghĩa là 1
  hạt giống, là điểm bắt đầu  quan trọng nhất. Tâm điểm này đã thu hút 
tất  cả năng lượng của vũ trụ  bên ngoài, và trong vai trò là lực hút, 
năng  lượng cảu người tín tâm  được khai mở và cũng được hút vào trong 
đó. Vì  vậy, Mandala là biểu  trưng của tất cả không gian vũ trụ bên 
ngoài và bên  trong. Mục đích là  loại bỏ sự ngăn cách giữa vật thể và 
chủ thể.
Khi
  tạo nên Mandala , một đường thẳng  sẽ xuất hiện từ tâm sau đó lần lượt
  các đường thẳng khác xuất hiện cho  đến khi chúng giao nhau tạo thành 
các  hình tam giác. Hình tròn bao  ngoài biểu trưng cho ý thức đầy xung 
lực  của sự khởi đầu, hình vuông  biểu trưng cho thế giới vật chất hướng
 ra  bốn phương, ngoài ra còn có ý  nghĩa là 4 cánh cổng. Khu vực trung 
tâm là  nơi an trụ của hoá thần.  Trung tâm Mandala được coi là sự tinh tuý, và  đường tròn được coi là sự  bảo trì. Bởi vậy 1 bức tranh Mandala hoàn  chỉnh có nghĩa là bảo trì sự  tinh tuý.
Sự xây dựng : 
Trước
  khi một vị tăng được phép đảm  nhận công việc kiến lập mandala, vị sư 
đó  phải trải qua một thời gian  dài được đào tạo kỹ năng về nghệ thuật 
và  khả năng ghi nhớ, học cách vẽ  tất cả các loại biểu tượng khác nhau 
và  nghiên cứu những tư tưởng  triết học có liên quan. Ví dụ, tại tự 
viện  Namgyal thì thời gian này  kéo dài đến ba năm. Ở những giai đoạn 
đầu  tiên, những vị tăng phải ngồi  ở phần ngoài của chiếc Mandala cơ 
bản chưa  được phủ sơn, phải luôn  hướng mặt vào trung tâm Mandala.
Đối với những  Mandala cỡ lớn, khi  những vị sư vẽ được một nửa, họ phải đứng trên sàn  nhà và cúi người  xuống để rắc màu.
Theo
  truyền thống thì một Mandala  được phân chia thành bốn phần bằng nhau 
và  mỗi vị sư chịu trách nhiệm  một phần. Tại nơi những vị tăng đứng để 
rắc  màu, một người phụ việc sẽ  nối bốn phần lại với nhau. Những người 
phụ  việc này làm việc mang tính  hợp tác sẽ giúp bốn vị sư rắc màu vào 
bốn  phần trong khi bốn vị sư phác  những chi tiết khác.
Những
  vị sư sẽ nhớ lại tất cả những  chi tiết của một mandala giống như phần
  trong chương trình đào tạo tại  tự viện của họ. Một điều rất quan 
trọng  phải nhớ là một mandala hoàn  toàn dựa chính xác vào kinh điển. 
Khi kết  thúc mỗi phần công việc, chư  tăng hồi hướng bất cứ công đức 
tâm linh  hoặc nghệ thuật được tích lũy  được từ công việc này vì lợi 
ích của hết  thảy hữu tình.
Sự
  thực hành này được thực hiện trong  tất cả những tác phẩm nghệ thuật 
tâm  linh. Một lý do chính chư tăng  tập trung cực kỳ cao độ vào công 
việc  bởi họ thực sự đang truyền đạt  giáo lý của đức Phật. Mandala chứa
 đựng  những lời giáo huấn của đức  Phật để chứng đại giải thoát giác 
ngộ, động  cơ thanh tịnh và sự hoàn  hảo trong tác phẩm của họ tạo duyên
 cho những  người chiêm ngưỡng được  lợi ích cao nhất.
Mỗi
 chi tiết trong 4 phần  Mandala đều hướng mặt về  trung tâm, vì thế mỗi 
chi tiết đó đều hướng mặt  về nơi Bản Tôn an trụ  trong Mandala. Sự phối
 cảnh của Chư Tăng và những  người chiêm ngưỡng  đứng xung quanh Mandala
 thì những chi tiết ở phần  gần nhất với người  chiêm ngưỡng dường như 
bị đảo ngược, trong khi đó  những chi tiết trong  phần xa nhất thì đúng 
chiều.
Nói
  chung mỗi vị Tăng chịu trách  nhiệm phần của mình trong khi sơn rắc 
các  phần cung điện vuông. Khi sơn  những đường tròn đồng tâm, thì họ 
phải lần  lượt chuyển động xung quanh  Mandala. Họ đợi cho toàn bộ giai 
đoạn hoàn  thành trước khi cùng nhau  di chuyển ra ngoài.
Điều
  này đảm bảo cho sự cân bằng được  duy trì và cả bốn phần của Mandala 
đều  được hoàn tất cùng một lúc.  Việc chuẩn bị để kiến lập một Mandala 
là sự  nỗ lực về nghệ thuật nhưng  đồng thời nó cũng là một hành động 
đầy tôn  kính. Trong sự tôn kính này,  những tư tưởng và sắc tướng được 
kiến lập,  trong đó những trực giác  sâu sắc nhất sẽ được biểu đạt là 
nghệ thuật tâm  linh. Việc kiến lập  Mandala thường được thiền định là 
một chuỗi trải  nghiệm không gian mà  tinh túy của nó có trước sự tồn 
tại, điều này có  nghĩa là tư tưởng có  trước sắc tướng.
Ở
  dạng phổ biến nhất, Mandala chính  là hàng loạt vòng tròn đồng tâm. 
Mỗi  Mandala đều có một Bản Tôn hóa  thần riêng an trụ trong cấu trúc 
hình  vuông được đặt đồng tâm bên trong  những vòng tròn này.
Hình
 vuông hoàn  hảo của Mandala chỉ ra rằng không  gian tuyệt đối của trí 
tuệ vốn không  si ám. Cấu trúc hình vuông này có  4 cổng được vẽ rất tỷ 
mỷ biểu trưng  cho sự hội tụ của Tứ Vô Lượng Tâm  (Từ, Bi, Hỷ, Xả). Mỗi 
chiếc cổng được  trang hoàng bằng những chiếc  chuông, tràng hoa và các 
chi tiết trang trí  khác.
Hình
 vuông này xác  định kiến trúc của Mandala được miêu tả là một  cung 
điện hoặc một ngôi  chùa có bốn mặt. Là một cung điện bởi vì nó là  nơi 
an trụ của các Bản  Tôn chính trong Mandala, còn là một ngôi chùa bởi  
chứa đựng tinh túy  của Đức Phật Hàng loạt những đường tròn bao quanh  
cung điện trung tâm  theo một cấu trúc mang tính biểu tượng mạnh mẽ.
Bắt
  đầu với những vòng tròn bên  ngoài, bạn sẽ nhận thấy một vành lửa,  
thường được mô tả là một hình  trang trí có đường cuộn độc đáo.
Vành
  lửa biểu trưng cho quá trình  chuyển hóa mà những phàm tình chúng sinh
  phải trải qua trước khi nhập  vào miền Tịnh Độ linh thiêng bên trong. 
Kế  đến là một vòng Quyền Trượng  Kim Cương, chỉ ra sự không thể phá hủy
 và  kim cương giống như sự huy  hoàng rực rỡ của các cảnh giới tâm linh
 của  mandala.
Trong
 đường tròn  đồng tâm kế tiếp, đặc biệt là những mandala  đặc trưng của 
những Bản Tôn  phẫn nộ, bạn có thể nhìn thấy tám nghĩa địa  được sắp xếp
 trên một băng  rộng. Tám nghĩa địa này biểu trưng cho tám  yếu tố của 
thức loài người  trói buộc họ vào thế giới hiện tượng và vòng  sinh tử. 
Sau cùng, tại  trung tâm của mandala là tọa vị của Bản Tôn, nhìn  vào 
trung tâm Bản Tôn  của mandala thì sẽ biết được thuộc mandala nào.  
Người ta cho rằng  mandala có được quyền lực này là do chính Bản Tôn  
trong mandala.
Sự phân loại :
Một cách chung nhất là Bản Tôn trung tâm có thể là một trong ba loại dưới đây:
Bản Tôn Hiền Hòa : 
Một
  Bản Tôn hiền hòa biểu trưng cho  sự tiếp cận tâm linh và tồn tại đặc  
biệt riêng của mình. Ví dụ, một  hình ảnh Bồ Tát hay (Quán Thế Âm Bồ 
Tát)  biểu trưng cho lòng từ là  trọng tâm của trải nghiệm tâm linh; Bồ 
Tát  Văn Thù thì lấy trí tuệ làm  trọng tâm và Đức Kim Cương Thủ lại 
nhấn mạnh  tới lòng dũng cảm và trí  lực để tìm cầu trí tuệ thiêng 
liêng.
Bản Tôn phẫn nộ:
Những
  Bản Tôn phẫn nộ biểu trưng sự  đấu tranh mạnh mẽ để vượt qua sự xa 
lánh  ghét bỏ trong mỗi người. Bản  Tôn là hiện thân của tất cả phiền 
não bên  trong làm đen tối những tư  tưởng, lời nói và hành động của 
chúng ta và  ngăn cản chúng ta đạt đến  mục đích của đạo Phật là sự toàn
 giác.
Theo
  truyền thống thì những Bản  Tôn phẫn nộ được hiểu là những khía cạnh 
của  nguyên lý Từ Bi, chỉ đáng  sợ đối với những người thấy họ như những
 thế  lực bên ngoài. Khi nhận ra  được những khía cạnh của tự thân và 
được  thuần dưỡng với sự thực hành  tâm linh thì họ nhận ra pháp tướng 
bên  ngoài của các vị hóa thần này  rất thanh tịnh và từ bi.
Bản Tôn tình ái : 
Hình
  ảnh tình ái cho thấy quá trình  tích hợp nằm ở trung tâm của Mandala. 
 Nguyên tố nam nữ là không có gì,  nhưng biểu tượng của vô số các cặp từ
  trái nghĩa (ví dụ như tình yêu và  ghét, tốt và xấu, v.v.) là một 
trong  những kinh nghiệm về sự tồn tại  trần tục. Việc bắt đầu tìm cách 
ngăn  chặn sự tha hóa của mình hoặc  người kia, bằng cách chấp nhận và 
thưởng  thức tất cả mọi thứ như một  liền mạch, nối liền với nhau lĩnh 
vực kinh  nghiệm. Hình ảnh tình ái  cũng có thể được hiểu là một phép ẩn
 dụ cho sự  giác ngộ, sự hài lòng,  hạnh phúc, thống nhất, hoàn thiện.
Màu sắc : 
Nếu
  hình thể là cốt yếu của mandala  thì màu sắc cũng như vậy. Bốn phần 
của  cung điện mandala được phân chia  điển hình theo những hình tam 
giác cân  của màu sắc, bao gồm bốn phần  của 5 màu:
    - Màu trắng,
    - Vàng,
    - Đỏ,
   - Xanh lục,
   - Xanh sẫm.
Mỗi
 màu này đều có  liên quan tới một trong năm đức Phật siêu  việt, thêm 
nữa chúng cũng có  liên quan tới năm ảo tưởng của bản chất con  người. 
Những ảo tưởng này  che chướng bản chất chân thật của chúng ta,  nhưng 
thông qua việc thực  hành tâm linh, chúng có thể chuyển hóa thành  năm 
trí tuệ tương ứng với  năm đức Phật siêu việt, cụ thể là:
* Màu trắng – Vairocana (Đức Tỳ Lư Giá Na Phật): Ảo tưởng của vô minh trở thành Pháp giới thể tính trí.
* Màu vàng - Ratnasambhava (Bảo sinh Phật): Ảo tưởng của ngã mạn chuyển thành Bình đẳng tính trí.
* Màu đỏ - Đức Adi đà: Si mê của chấp thủ trở thành diệu quan sát trí
* Màu xanh lục - (Bất Không thành tựu Phật): Si mê đố kỵ trở thành Thành sở tác trí.
* Màu xanh sẫm - (Đức Asuc Bệ): Si mê của sân giận trở thành Đại viên kính trí Mandala
là phẩm vật cúng dường thiêng liêng
Vật hiến tế thần thánh : 
Bên
  cạnh việc trang trí và làm cho  những ngôi chùa, và nơi ở trở nên 
thiêng  liêng, đời sống sinh hoạt của  người Tây Tạng, theo truyền thống
 mandala  được cúng dường tới các bậc  Thầy khi thỉnh cầu các bậc Thầy 
truyền trao  giáo Pháp hay quán đỉnh -  họ dùng mandala để biểu trưng 
cho toàn bộ vũ  trụ, bày tỏ lòng tri ân  cao nhất đối với giáo pháp tôn 
quý.
Một
 lần  trong khung cảnh hoang sơ  của Ấn Độ, Đại Thành Tựu Giả Tilopa đã 
yêu cầu  Naropa cúng dường  mandala. Lúc bấy giờ ở đó không có sẵn chất 
liệu để  kiến lập một  mandala nên Naropa đã đi tiểu vào cát và tạo 
thành một  mandala bằng cát  ướt để làm phẩm vật cúng dường lên bậc Thầy
 của mình.  Trong một dịp  khác, Đức Naropa đã dùng máu, đầu và các chi 
của mình để  tạo một  mandala cúng dường. Bậc Thầy của Ngài đã hoan hỷ.
Kết luận:
Kết
  luận sự quán tưởng và cụ thể hóa  khái niệm mandala là một trong những
  đóng góp có ý nghĩa nhất của Đạo  Phật đối với tâm lý học tôn giáo.  
Mandala được coi là nơi linh thiêng,  bằng chính sự hiển diện của 
mandala  trên thế giới này đã nhắc nhở người  chiêm ngưỡng về nội tại 
của tính  thiêng liêng trong vũ trụ và tiềm  năng của nó trong bản thân 
mỗi người
Trong
 Đạo Phật mục đích của  mandala là chấm dứt sự đau khổ của con  người, 
để thành tựu giác ngộ, để  đạt được chính kiến về Thực Tại.  Mandala là 
một phương tiện để khám  phá ra phẩm chất siêu việt thông qua  sự chứng 
ngộ Mandala nơi tự tâm  của mỗi người.
Forum Energy Human and Spiritual  Diễn Đàn Nhân Điện và Tâm Linh
http://ue.vnweblogs.com
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét