1. Không phân biệt /L/ - /N/. Ví dụ:
- Dùng chữ “nên” (Nôm) để ghi âm “lên”, dùng “năm” (Nôm) để ghi “lăm” trong khá nhiều trường hợp:
Trẻ từ lên chín lên mười (4a, d6)
Trẻ lên bảy tám mới cho học hành (73b, d9)
Tuổi vừa lên bốn mặt nhìn vẻ vang (77a, d2)
Long Cán tuổi tuần lên ba (89b, d8)
Âu Cơ là hiệu tuổi ngoài mười lăm (3a, d3)
Mười lăm bộ lạc thửa chưng cõi bờ (4a, d6)
Mười lăm bộ lạc dương xưa (12b, d2)
Mười lăm bộ lạc sứ quân (54b, d4)
Mười tám năm trị, tuổi đầy năm lăm (78a, d1)
...
Trái lại, TNNL dùng chữ 蓮 “lên” (Nôm) để ghi “nên” trong những câu:
Tre già măng mọc để hòng gây nên (74b, d5)
Đông cung thái tử lập nên (86a, d2)
Dụ Tông vô tự triều đình lập nên (111a, d1)
Thăm tìm đế thất lập nên (125a, d6)...
Tuy nhiên, cũng có trường hợp ghi đúng, như dùng chữ 戼 “nên” trong câu:
Cửa nhà căn bản lập nên,
Thuở Hoàng thái tử Vệ vương,
Mới lên bảy tuổi khôn đương việc triều (16b, d3).
Trong sách Chỉ nam ngọc âm(5) cũng thấy dùng chữ 年 “niên” để ghi “lên” trong những câu:
Tiểu nhi con mọn tuổi còn lên ba (7b, d7).
Hậu tử là lên hột cơm (15a, d8)
...
Hoặc như trường hợp chữ 了 “nếu”, thông thường ghi bằng chữ 裊 “niểu”, nhưng trong nhiều trường hợp lại được viết thành (khẩu + liễu). Ví dụ:
Nếu mà khinh rẻ mẹ cha,
2. Không phân biệt /T/-/CH/ (quốc ngữ ghi là tr, ch). Ví dụ:
- Dùng 徵 “trưng” (vời đến, trưng cầu) để ghi “chưng”(từ biểu thị thời gian diễn ra sự việc được nói đến: thuở, đương, trong) ở những câu:
Đế vương chưng dấy trời đà giáng sinh (59a, d1)
Chưng khi khốn ở Nguyên quân (102b, d4)
Chưng khi ác thú xông càn (106a, da3)...
Hoặc trong Việt sử diễn âm:
Có người ở nước thánh nhân,
Tôn nàng làm chủ xem chầu Việt bang (2b, d6).
Mưa xuân hoa mọc chiều xuân (5b, d2)...
Sở dĩ có những cách ghi như trên, vì ở đây không có sự không phân biệt giữa hai phụ âm tắc đầu lưỡi và mặt lưỡi tr /t/ và ch /c/, chúng đều thành /c/. Hiện nay, khá nhiều nơi ở Bắc bộ phát âm những từ như “trăng sáng” thành “chăng sáng”, “đánh trống” thành “”đánh chống”, “trẻ con” thành “chẻ con”... Nói một cách khác, phụ âm tr/t/ chỉ còn tồn tại trong ý thức của người nói và được phân biệt trên chữ viết với phụ âm ch/c/ mà thôi. Tuy nhiên, trong cách mô tả của Từ điển Việt-Bồ-La đã cho thấy ở thế kỷ XVII ch/c/ là một âm tắc xát. Còn tr/t/ là một âm quặt lưỡi cũng đã có mặt nhưng nó còn đang tồn tại song song với bl, tl (bl, tl ở thuần Việt, tr ở Hán Việt) chứng tỏ nó đang ở trong quá trình chuyển hóa thành âm này. Đến khoảng cuối thế kỷ XVII thì /bl/ và /tl/ chuyển dần sang tr và gi. Dấu vết của sự chuyển biến này để lại trong tiếng Việt khá rõ, nhất là trong cách dùng chữ Hán phiên âm các tên Nôm như Từ Liêm (tlèm-trèm), Phù Lưu blầu- trầu, giầu)... /BL/ lại theo phương ngôn mà có thể chuyển thành tr hoặc gi, còn /tl/ thì chuyển thành tr hoặc l. Ví dụ: blời > trời, giời, blo > tro, gio, blai > trai, giai, blả > trả, giả, tlái > trái, lái, tlâu > trâu, tlíu tlo > líu lo, tlúc tlắc > lúc lắc(9) . Như vậy thì quá trình tr, ch nhập một cũng chỉ có thể diễn ra ít nhất vào khoảng sau thế kỷ XVII.
3. Không phân biệt S - X. Ví dụ:
- Dùng “xướng” (xướng ca) để ghi “sướng” (sung sướng):
Chơi lâu sướng dạ càn đua,
Nam tuần xảy gặp một người thiếu niên (1a, d7)
Kề triều xảy thấy một người (7b, d4)
Đi xa lo nữa xảy chân (71b, d5)
Xảy chân chẳng chấp, xảy lời chẳng chi (92a, d8)...
Những cách ghi như trên cũng chứng tỏ không còn sự đối lập trong cách phát âm giữa S - X nữa, chúng nhập làm một thành /s/ (quốc ngữ ghi: x). Nhưng trong Từ điển Việt - Bồ - La, S đã có mặt với tư cách là một âm riêng biệt, cách phát âm được mô tả là một âm xát quặt lưỡi như thường thấy ở miền Trung và miền Nam, còn X cũng có cách phát âm gần giống như hiện nay(10). Điều đó cho thấy hiện tượng nêu trên cũng chỉ xảy ra trong khoảng mấy thế kỷ gần đây.
4. Không phân biệt R - /z/ (quốc ngữ ghi là d, gi). Ví dụ:
- Dùng “dụng” (dùng) để ghi “rùng” trong câu:
Vua nghe thấy nói rùng mình,
Rao nhau gìn giữ tứ thành,
Cờ bay chấp chới dường sao,
- Dùng “du” (dầu) ghi “giầu” (trầu) trong câu”:
Ba đồng một mớ giầu cay,
Em về giã gạo ba trăng,
Như vậy, ở TNNL hầu như đã thể hiện được những đặc trưng về mặt ngữ âm của một số vùng thuộc phương ngữ Bắc bộ. Chữ Nôm là một thứ chữ ghi âm nên sự thể hiện những cách phát âm địa phương là một vấn đề tồn tại khách quan trong văn bản. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình cứ liệu mà ta hiện biết thì những hiện tượng vừa nêu trên cũng chỉ xảy ra cách đây chưa thật lâu khi đã có sự xóa mờ gianh giới đối lập giữa các âm uốn lưỡi và âm không uốn lưỡi tương ứng l-n, tr-ch, s-x, r-d, gi tại một số vùng địa phương ở miền Bắc, khoảng sau thế kỷ XVII. Những Chữ Nôm phản ánh những cách phát âm địa phương như trên tồn tại ở TNNL cũng là điều dễ hiểu, bởi đây là tác phẩm ra đời vào thời Lê nhưng văn bản được sao chép ra sớm nhất là vào đầu thời Nguyễn(15). Do đó trong văn bản, bên cạnh chữ Nôm thời Lê còn có cả những chữ Nôm xuất hiện sau thời kỳ sáng tác của TNNL. Những chữ Nôm thuộc loại thứ hai này rất có thể do người sao chép đời sau đưa vào tác phẩm. Có thể chúng không được thu thập vào trong bất kỳ một quyển từ điển, tự điển chữ Nôm nào, nhưng khi gặp chúng trong văn bản, người đọc cũng cần có một kiến thức nhất định về phương ngữ học thì mới có thể đọc hiểu và phiên âm một cách chính xác những trường hợp tương tự như chúng tôi vừa nêu. Cũng cần lưu ý thêm rằng, khi đi vào một tác phẩm Nôm cụ thể nào đó thì cũng nên chú ý một cách đúng mức đến vấn đề xuất xứ của văn bản. Bởi giống như con người, mỗi văn bản cũng thường có quê quán, lai lịch riêng, và việc đi sâu tìm hiểu những chữ Nôm phản ánh ngữ âm địa phương thể hiện trong đó có thể sẽ giúp ích ít nhiều cho việc phiên âm, chú giải một cách chính xác các văn bản Nôm mà chúng ta hiện có.
N.T.L
CHÚ THÍCH
1. Hoàng Thị Châu: Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb. KHXH, H. 1999.2. Trần Thị Thìn: Tiếng quê ta, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống số 10-1999, tr.5.
3. Thiên Nam ngữ lục. Nguyễn Thị Lâm phiên âm, chú giải. Nxb. Văn học & Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông-Tây, 2001.
4. Việt sử diễn âm. Nguyễn Tá Nhí sưu tầm, giới thiệu, biên dịch, Nxb. Văn hóa thông tin, H. 1997.
5. Chỉ Nam ngọc âm. Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải, Nxb. KHXH, H. 1985.
6. Từ lão tổ: tức Từ Đạo Hạnh, nhà sư nổi tiếng thời Lý.
7. An Nam dịch ngữ. Vương Lộc giới thiệu và chú giải, Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, 1995.
8. Nguyễn Tài Cẩn: Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nxb. Giáo dục, H. 1995, tr.86 và tr.108.
9. Nguyễn Ngọc San: Cơ sở ngữ văn Hán Nôm, tập 4, Nxb. Giáo dục, H. 1987, tr.267.
10. 11. Nguyễn Tài Cẩn: Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, sđd, tr.86, tr.108 và tr.114.
12. Nguyễn Tri Niên - Nguyễn Phan Cảnh: Sơ lược về tình hình phát âm phân biệt d và gi hiện nay. Nghiên cứu Văn học số 8-1961.
13. Nguyễn Thị Lâm: Chữ Nôm với ngữ âm địa phương Nam bộ, Tạp chí Hán Nôm số 2-1993.
14. Nguyễn Tài Cẩn: Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, sđd, tr.162.
15. Nguyễn Thị Lâm: "Về các văn bản Thiên Nam ngữ lục hiện còn", Tạp chí Hán Nôm số 4 - 1997./.
http://www.hannom.org.vn/web/tchn/data/0505.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét