Translate

Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

DANH HỌA TỀ BẠCH THẠCH



Tề Bạch Thạch (1863-1957)
 

















Ngày 23 tháng 11 năm 1863 (tức năm Đồng Trị thứ hai, đời Thanh) tại ngôi làng Tinh Đẩu, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam Trung Quốc, một bé trai đã chào đời trong một gia đình nông dân nghèo. Gia đình này bấy giờ đã có bốn người, gia chủ là ông Tề Quán Chánh (25 tuổi) và bà Chu (19 tuổi) cùng với song thân của gia chủ (56 tuổi và 51 tuổi.)
Người thành viên thứ 5 bé nhỏ trong gia đình này là niềm hạnh phúc biết bao cho gia đình gồm bố mẹ và ông bà nội. Tiếc thay, cậu bé thật yếu ớt, bệnh hoạn, thiếu ăn, tưởng chừng không sống quá 4 tuổi. Nhưng rồi cậu cũng giành được sinh mệnh của mình trên tay tử thần. Đó là cuộc tranh đấu thứ nhất trong đời, mở đầu cho biết bao cuộc tranh đấu khác sau này, cuộc đấu tranh cho đời sống tinh thần đầy ý nghĩa mãi đến phút lìa trần, 16-9-1957.
Tề Bạch Thạch 齊白石 tên thực là Tề Thuần Chi, tự là Vị Thanh, biệt hiệu Lan Đình. Năm 27 tuổi học vẽ, được thầy là Hồ Thâm Viên đặt tên cho là Hoàng (nghĩa là ngọc hình bán nguyệt), tự là Tần Sinh, hiệu là Bạch Thạch.
Ông còn vô số tên hiệu khác, chẳng kém gì hai đại danh họa Nghê Vân Lâm (đời Nguyên) và Thạch Đào Hòa Thượng (đầu đời Thanh.) Đại khái có thể kể như: Tề Đại, A Chi, A Trường, Mộc Nhân, Lão Mộc, Lão Mộc Nhất, Mộc Cư Sĩ, Ký Viên, Ký Bình, Lão Bình, Bình Ông, Ký Bình Đường Lão Nhân, Bạch Thạch Sơn Ông, Bạch Thạch Lão Nhân, Tá Sơn Ngâm Quán Chủ Giả, Tinh Đường Lão Ốc Hậu Nhân, Hạnh Tử Ô Lão Dân, Tam Bách Thạch Ấn Phú Ông...

Tề Bạch Thạch đã trải một tuổi thơ gian khổ như biết bao cậu bé khác chốn quê nghèo. Năm lên 8, cậu theo học ông ngoại, một ông đồ nghèo với dăm quyển Tam tự kinh, Bách gia tính, Thiên gia thi và Luận ngữ. Cậu nổi tiếng ngay, nhưng chẳng phải vì tài văn chương thi phú, mà vì tài năng hội họa. Năng khiếu hội họa của cậu đã bộc phát. Những hình ảnh, những đường nét ngẫu hứng vẽ ngư ông, điểu thú, thảo trùng... tuy còn non nớt nhưng cho thấy nhiều triển vọng sau này.
Nhưng cái thời gian hồn nhiên với sách vở và vẽ vời như thế chẳng được lâu là bao. Mùa thu 1870, cảnh nhà sa sút, cậu bèn bỏ học, ở nhà phụ cha mẹ những việc như gánh nước, trồng rau, bổ củi, chăn trâu... Một năm học nơi ông ngoại, tuy ngắn ngủi, nhưng chính là những ngày tháng hạnh phúc nhất trong tuổi thơ của cậu. Cậu bé vừa lên 9 thuở ấy đã sớm hiểu thế nào là kiếp nghèo, là số phận con nhà nghèo. Niềm ao ước đơn sơ của cậu là mỗi ngày được xong việc sớm để xem lại những trang sách cũ, để hồi tưởng lại những lúc vui đùa cùng với chúng bạn và để rồi mơ ước, ước mơ...
Theo cổ tục tảo hôn, cậu bé 12 tuổi này phải sánh duyên cùng cô bé Trần Xuân Quân, lớn hơn cậu một tuổi. Năm ấy cũng là năm ông nội cậu tạ thế. Gia cảnh càng ngày càng suy sụp, năm 13 tuổi cậu bắt đầu chân lấm tay bùn với việc đồng áng. Nhưng rồi vì thể lực yếu ớt, sau hai năm, cậu xoay qua học nghề thợ mộc nơi ông Tề Tiên Hựu, em ruột của ông nội cậu. Rồi công việc vất vả lao nhọc của nghề mộc cậu cũng không kham nổi, nên đeo đuổi được một năm cậu xoay qua học nghề chạm trổ gỗ nơi ông Chu Tử Mỹ. Sau 3 năm, thành nghề, cậu đủ khả năng gánh vác kinh tế gia đình. Năm ấy cậu 19 tuổi và bắt đầu làm lễ động phòng với vợ, cô Trần Xuân Quân, lễ này gọi là «Lễ Viên Phòng».
Chàng thợ chạm gỗ họ Tề dần dần được làng trên xóm dưới biết danh, họ gọi chàng là «Chi mộc tượng» (Thợ mộc tên Chi). Tề Bạch Thạch thể chất nhu nhược, nhưng thông minh đĩnh ngộ. Ông không mô phỏng những mẫu mã có sẵn. Những hình chạm gỗ kỳ lân, long, phụng, trạng nguyên vinh qui, hoa lá... đã được ông thông minh khéo léo cải biên, thay đổi, thêm đẹp mắt, khiến khách hàng phải trầm trồ khen ngợi.



 
Một hôm, tại nhà một thân chủ nọ, ông tình cờ thấy quyển Giới Tử Viên Họa Phổ – một bí kíp của người học vẽ. Ông bàng hoàng sửng sốt rụng rời, và cuốn sách danh tiếng này đã thay đổi cuộc đời của chàng thanh niên họ Tề từ đó. Ông mượn về và say sưa nghiền ngẫm. Phần họa luận và họa pháp cùng với những hình ảnh trong họa phổ đã khai tâm cho ông những qui tắc hội họa. Từ đó, ông áp dụng chúng vào nghề chạm gỗ, thế là tài nghệ đã tinh xảo lại càng tinh xảo hơn. Năm đó ông 20 tuổi. Cuộc sống gia đình bắt đầu khá giả hơn, gia đình đông vui hơn. Bấy giờ toàn gia đình có 14 người, riêng anh em ông có cả thảy 9 người: 6 trai, 3 gái. Danh tiếng của «Thợ mộc Chi» đã lẫy lừng, vượt qua mấy nương dâu, ruộng lúa, vươn qua mấy lũy tre xanh lan đến những thôn làng xa xôi. Có người tin cậy đến nỗi đặt ông vẽ tranh. Ông không dám nhận lời, nhưng điều này gợi ý cho ông bước vào lĩnh vực hội họa.
Ông bắt đầu học vẽ tranh chân dung và bồi tranh nơi ông Tiêu Hương Cai. Năm ông 27 tuổi, một người đồng hương của ông tên là Hồ Thâm Viên – một họa sĩ chuyên về công bút vẽ hoa điểu thảo trùng – đã nhận ông làm đệ tử, đồng thời khuyên ông nên vẽ và bán tranh mưu sinh. Ông Hồ Thâm Viên mời thêm danh sĩ Trần Thiếu Phồn về dạy cho Tề văn chương thi phú. Ông Hồ Thâm Viên đặt tên cho Tề là Hoàng, tự là Tần Sinh. Vì gia đình ông ở gần phố Bạch Thạch nên ông lấy tên là Tề Bạch Thạch và Bạch Thạch Sơn Nhân... Dưới sự dạy dỗ tận tụy của hai lương sư Hồ và Trần – một hội họa, một thi phú – Tề Bạch Thạch tiến bộ rất nhanh. Rồi ông thầy họ Hồ lại nhiệt thành giới thiệu đệ tử ruột của mình theo học vẽ sơn thủy nơi một người bạn của thầy nữa. Thế là sau một thời gian khổ luyện, Tề Bạch Thạch bắt đầu sống bằng nghề vẽ và bán tranh, năm đó ông 30 tuổi. Ngoài các tranh thờ, ông còn vẽ phong cảnh (tranh sơn thủy), hoa điểu, nhân vật... ông vẽ thiếu nữ rất đẹp cho nên thiếu nữ trong tranh được người đời mệnh danh là «Tề Mỹ Nhân» (Người đẹp họ Tề.) Ngoài việc vẽ tranh, ông còn ngâm thơ vịnh phú với mặc khách tao nhân. Ông cùng 6 người bạn thành lập Long Sơn Thi Xã, và xưng nhóm là «Long Sơn Thất Tử» (Bảy Thi Nhân của Long Sơn Thi Xã). Năm 33 tuổi ông lập thêm nhóm La Sơn Thi Xã, tạo thêm dịp ngâm vịnh với bạn bè. Đến năm 34 tuổi, ông bắt đầu học thư pháp (viết chữ đẹp), đặc biệt chuyên tập luyện kiểu chữ Lệ và chữ Triện, đồng thời quyết tâm học nghề khắc ấn triện.

Tên tuổi Tề Bạch Thạch đã vượt qua các thôn làng và lan đến huyện Tương Đàm. Một người trên huyện mời ông đến nhà để vẽ tranh. Thế là năm 35 tuổi, ông mới có dịp đi xa, từ Tương Đàm, rồi tiếp đó là Trường Sa, Nam Nhạc... Nhờ du lịch nhiều, ông kết giao được nhiều danh sĩ, nhiều bậc quyền thế như Vương Tương Y, Đàm Diên Hạp, anh em Trạch Khải và Vương Tương Y. Họ cực kỳ ái mộ Tề, hết lòng ca ngợi Tề bất cứ đâu có dịp, thành thử danh tiếng ông càng lan xa và địa vị xã hội càng được nâng cao thêm. Năm 43 tuổi, ông nhận ra rằng không thể nào cứ sao chép cổ nhân mãi, từ đường nét đến ý tứ. Thế là ông bỏ lối công bút (tức là lối vẽ công phu tỉ mỉ) mà theo lối ý bút (lối vẽ phóng khoáng, tả ý) đồng thời quyết định phải du lãm thật nhiều để tìm ý tứ mà sáng tác cũng như để làm giàu kinh nghiệm sống. Đúng lúc đó, một vị quan họ là Hạ mời ông đến Tây An làm gia sư. Thế là ông rời Hồ Nam đi Thiểm Tây. Tại Tây An, ông kết giao với đại thi nhân Phàn Phàn Sơn được chừng 3 tháng, vì quan họ Hạ phải thuyên chuyển về Bắc Kinh, Tề Bạch Thạch cũng đi theo, tiếp tục làm gia sư cho họ Hạ.
Trên đường về Kinh đô, phong cảnh núi non sông nước hùng vĩ và hữu tình đã khơi nguồn sáng tạo đầy hứng khởi say mê cho ông. Tại Bắc Kinh, vị quan họ Hạ và đại nho Phàn Phàn Sơn hết lòng tiến cử ông vào làm họa sư của triều đình. Nhưng ông từ chối, cam chịu đạm bạc, không thích quan tước, bèn quay về cố hương là Hồ Nam.
Bước phiêu lãng của Tề Bạch Thạch từng qua Hoa Sơn, Tây Nhạc, Trung Sơn, Tung Sơn, Lư Sơn, Nam Xương, Quảng Đông, Quảng Tây, Quảng Châu, Quế Lâm, Nam Kinh, Tô Châu, Giang Tây, Thiểm Tây, Giang Tô, Chiết Giang, Thượng Hải, Hương Cảng... Năm 1907, ông sang Việt Nam, và ghi lại sông núi hoa gấm của nước Nam qua tác phẩm Lục Thiên Quá Khách. Năm 45-46 tuổi ông sống tại Quảng Châu, mưu sinh bằng nghề khắc triện. Tại đây ông hân hạnh kết giao với các danh họa gia Bát Đại Sơn Nhân, Từ Thanh Đằng, Kim Đông Tâm ... Sau 5 năm giang hồ phiêu lãng, từ năm 43 đến 48 tuổi, ông về quê cũ, chuyên rèn luyện cổ văn, thi từ, đồng thời soạn lại những bút ký và họa cảo qua các cuộc viễn du, viết thành tác phẩm Tá Sơn Đồ Quyển gồm 52 bức họa và 24 bức chuyên vẽ đá.
Sau cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) ông cư gia bất xuất, tự tay trồng cây, hoa kiểng, và nuôi cá quanh nhà. Tháng 5 năm 1914, ông mang một cái tang đau đớn nhất: vị ân sư của ông là họa gia Hồ Thâm Viên lìa trần. Tình nghĩa sư đệ sâu dày như non cao bể thẳm, Tề Bạch Thạch nuốt lệ ngậm ngùi. Trong giây phút sinh ly tử biệt não nề, ông chọn 20 họa phẩm đắc ý của ông – cũng là những tác phẩm mà thầy từng khen ngợi – đem đốt trước linh sàng, mượn làn hương bay khói tỏa minh chứng lòng tri ân thành kính bậc tôn sư đã nhiệt tâm giáo huấn tài bồi.
Năm 1917, tức năm Dân Quốc thứ 6, giặc giã loạn lạc nổi lên. Ông đơn thân đi Bắc Kinh. Nhân dịp này ông kết giao với những danh họa gia như Trần Sư Tăng, Trần Bán Đinh, Vương Mộng Bạch, Dao Mang Phu. Lúc trở về quê, đau lòng trước cảnh quê hương điêu linh, cửa nhà bị thổ phỉ cướp sạch, ông di tản gia đình về chân núi Từ Kinh Sơn. Bấy giờ cha ông 81 tuổi, mẹ ông 75 tuổi. Nhưng ông chẳng ở chung với gia đình lâu, được vài tháng lại lên đường về Bắc Kinh. Năm sau vợ ông cũng theo về Bắc Kinh và chủ trương lấy vợ lẽ cho ông. Cô vợ lẽ mới 18 tuổi, tên Hồ Bảo Châu, người huyện Phong Đô tỉnh Tứ Xuyên, lúc đó Tề Bạch Thạch đã 57 tuổi.
Năm 58 tuổi, ông kết giao với Từ Bi Hồng, Lâm Cầm Nam, Mai Lan Phương... Nhân dịp này, vâng lời khuyên của Trần Sư Tăng, ông cải biến họa pháp và tự sáng chế lối vẽ «Hồng Hoa Mặc Diệp» (Hoa đỏ, lá đen) rất độc đáo.
Hai năm sau, 1922, ông lại vâng lời Trần Sư Tăng, cùng với họ Trần đi Paris tham gia cuộc triển lãm tranh. Trở về cố quốc, ông viết hồi ký «Tam Bách Thạch Ấn Tề Ký Sự» (Ký sự của gã họ Tề, biệt hiệu Tam Bách Thạch Ấn.) Cũng chính năm đó người bạn tri kỷ của ông là Trần Sư Tăng qua đời. Quả là một tổn thất lớn lao. Trong đời ông, chỉ có Từ Bi Hồng và Trần Sư Tăng là kẻ tri kỷ, thân thiết tâm giao. Đó là hai cố vấn tối cao trong đời ông, nay mất một làm sao không đớn đau đứt ruột.
Hai năm sau, 1924, ông bị bệnh thập tử nhất sinh, mê man 7 ngày 7 đêm. Nhưng một lần nữa, ông lại giành được sinh mệnh của mình trên tay tử thần. Rồi năm sau, ông trở về quê cũ viếng thăm cha mẹ để rồi chẳng bao lâu chứng kiến đấng sinh thành ra đi trong cùng một năm (1926): mẹ chết hồi tháng 3, thọ 82 tuổi, đến tháng 7 thì cha cũng ra đi, thọ 88 tuổi.
Đến năm 1927 thì danh tiếng Tề Bạch Thạch lẫy lừng chốn đế đô. Ông được mời giảng dạy tại Quốc Lập Bắc Kinh Nghệ Thuật Chuyên Môn Học Hiệu (năm 1928, trường đổi tên là Mỹ Thuật Học Viện.) Nhân dịp này ông xuất bản «Tá Sơn Ngâm Quán Thi Cảo Ấn Phổ». Tề Bạch Thạch nổi tiếng không kém đại danh họa tiền bối là Ngô Xương Thạc, bấy giờ người đời xưng tụng câu «Nam Ngô Bắc Tề» (phương Nam có Ngô Xương Thạc, phương Bắc có Tề Bạch Thạch) đủ thấy thanh thế của ông uy chấn giang hồ thế nào. Nhưng họ Ngô tạ thế trong năm 1927 này, thọ 84 tuổi. Thành thử chỉ còn «Bắc Tề», bấy giờ 65 tuổi, lừng lẫy một phương.

Nhưng đó chỉ là cái thế giới hội họa, nhìn ra xã hội, Trung Quốc đang phân loạn điêu linh do ảnh hưởng của Đại Chiến Thế Giới thứ nhất (1914-1918), thực dân Tây phương nhiễu nhương xâm lấn, chiến tranh Quốc-Cộng, Nhật Bản xâm lược... Nhân dân lầm than trước cảnh thù trong giặc ngoài, bọn Hán gian đầy rẫy, chánh ngụy bất phân. Thành thử quá ngao ngán chán chường, ông đóng cửa tạ khách, lúc đó 70 tuổi (1932). Năm 1933, Hoa Bắc rơi vào tay bọn quân phiệt Nhật, nhân dân đã lầm than lại thêm lầm than, đã thống khổ lại càng thống khổ. Tề Bạch Thạch bỏ dạy học hẳn, bế môn bất xuất, chỉ ngâm thơ vẽ tranh, khắc ấn triện, cự tuyệt bán tranh. Để tránh sự dòm ngó theo dõi của giặc Nhật Bản và bọn Hán gian, ông treo trước cửa nhà mấy chữ «Bạch Thạch Lão Nhân tâm bệnh phục phát, đình chỉ kiến khách» (Tâm bệnh của Tề Bạch Thạch tái phát, miễn tiếp khách) và bốn chữ «Đình chỉ mại họa» (Ngưng bán tranh). Trong lúc đất nước điêu linh, nhân tâm điên đảo, và tự lượng sức già nhu nhược, ông đành chọn thái độ bất hợp tác, vừa giữ được tiết tháo kẻ sĩ phu vừa ngầm tỏ tinh thần phản kháng. Nhưng bọn sĩ quan Nhật và bọn tay sai biết danh tiếng ông, vẫn ghé luôn, vừa mua tranh vừa mua chuộc. Ông thẳng thắn từ khước. Năm ấy ông 75 tuổi (1937). Ở đây tưởng cũng nên nhắc một chi tiết mà các nhà nghiên cứu mỹ thuật Trung Quốc thường sơ ý, chẳng hạn báo ảnh Liên Xô số 9 năm 1984, bài của tác giả L. Smôticôva viết rằng: Tề Bạch Thạch (1860-1957). Thật sự, ông sinh năm 1863, đến năm 1937 (Dân Quốc thứ 26) do tin tưởng số mệnh, ông tăng hai tuổi, tức là 77 tuổi. Tính đến năm ông mất 1957, hưởng thọ 97 tuổi (thực tế là 95 tuổi). Vì không rõ chi tiết này nên tác giả L. Smôticôva đã tính ngược lên và viết năm sinh của ông là 1860.

Ngày 14-8 năm Ất Dậu (1945) quân Nhật đại bại, Tề Bạch Thạch sung sướng đến nỗi không ngủ được, ông liền mở cửa bán tranh và khắc ấn triện trở lại. Năm ông 86 tuổi (1946), ông đi Nam Kinh tổ chức triển lãm. Đợt triển lãm này do Trung Hoa Toàn Quốc Mỹ Thuật Hội đỡ đầu. Toàn bộ tranh của ông đem triển lãm được chiếu cố nhiệt liệt và bán sạch. Tiền bạc và danh vọng ở cái tuổi gần đất xa trời này có làm ông vui chăng? Chúng ta không rõ. Có điều, cậu bé èo uột thuở nào chung cuộc lại trường thọ và biết bao lần bi thương tống biệt những người thân thiết nhất của mình, ông bà, bố mẹ, con cái, thê thiếp và cả bằng hữu văn thơ, những trần ai tri kỷ nữa. Năm lên 12, ông nội mất. Năm ông 39 tuổi, bà nội qua đời. Năm ông 51 tuổi, cậu con trai thứ mới 20 tuổi đã yểu mệnh. Tiếp ngay năm sau, thêm cái tang ân sư Hồ Thâm Viên. Năm ông 54 tuổi, lại vĩnh biệt bạn tri kỷ Vương Tương Y. Rồi năm ông 61 tuổi, thêm một bạn trần ai tri kỷ nữa ra đi: Họa gia Trần Sư Tăng, người mà Tề Bạch Thạch hết lòng yêu mến thâm giao cũng như Từ Bi Hồng. Nỗi đau chưa nguôi thì 3 năm sau ông chịu luôn hai cái tang của mẹ rồi đến cha. Hai năm sau, người em trai thứ năm cũng theo bước phụ mẫu mà đi. Hai năm nữa, người em trai thứ hai lại ra đi nốt, lúc bấy giờ ông 68 tuổi. Và đúng một năm sau, thi hữu rất mực thân thiết là Phàn Phàn Sơn qua đời. Năm ông 77 tuổi, gánh luôn cái tang của thi nhân Trần Tam Vị, cha của người bạn thân là Trần Sư Tăng, rồi năm sau ông lại đau đớn tiễn biệt đứa con trai thứ sáu đoản mệnh mới có 5 tuổi. Năm ông 80 tuổi, con mất được hai năm, nỗi bi thống chưa tan thì phải khóc vợ là Xuân Quân qua đời. Rồi đúng 3 năm sau, kế thất là Hồ Bảo Châu cũng lìa trần. Năm ông 86 tuổi, cô con gái mới 19 tuổi đã vội theo mẹ về nơi miên viễn.
Bi thống chập chùng bi thống, thương đau nối tiếp thương đau, và ngày 16-9-1957, Tề Bạch Thạch đã ra đi mãi mãi, để lại nỗi thương tiếc ngậm ngùi trong lòng thân bằng quyến thuộc cũng như người ái mộ bốn phương.
Tề Bạch Thạch là một tấm gương vươn lên từ nghịch cảnh. Ông có một tuổi thơ vất vả gian lao chốn điền dã nghèo nàn. Thời gian học tập của cậu bé họ Tề quá ngắn ngủi, độ một năm. Dù là học nơi ông ngoại, cậu cũng không có cơ hội đeo đuổi sách đèn, bởi lẽ cảnh nhà suy sụp đã đẩy cậu đến chỗ lam lũ ruộng đồng, gánh nước, bổ củi, chăn trâu... Nhưng tâm hồn Tề Bạch Thạch đã phong phú thêm, ông đã biết thưởng thức cái đẹp lúc bình minh hay bóng xế chiều hôm, cảnh vật thiên nhiên bốn mùa thay đổi, cảnh nước chảy hoa trôi, cây cỏ thảo trùng. Chính sự tiếp cận với thiên nhiên trong cảnh hòa âm điền dã đã giúp ông sớm có nhận thức khách quan về cuộc sống và thẩm mỹ trước khi bắt đầu vào ngành hội họa. Và chính cái cảnh ngộ nghèo khó đã giúp ông thông cảm sâu sắc với đại chúng bình dân. Thành thử đề tài trong tranh ông bao giờ cũng gắn liền với thiên nhiên, với cuộc sống của dân quê, và toát ra vẻ dung dị mộc mạc rất gần gũi đời thường.

Tề Bạch Thạch là tấm gương hiếu học. Ông luôn học hỏi ở bạn bè, ở thầy, và ở quần chúng xung quanh. Ông đã từng phiêu lãng giang hồ để mở mang nhãn kiến, từng sao chép tranh của các danh gia kim cổ như Thạch Đào, Bát Đại Sơn Nhân, Từ Vị, Kim Đông Tâm, Ngô Xương Thạc, Trần Sư Tăng, Từ Bi Hồng... để phân tích lối vẽ của các nhà danh họa trên đồng thời biết thoát ra khỏi khuôn mẫu có sẵn để độc sáng một họa pháp riêng. Ông đã từng trồng hoa cá kiểng, từng nuôi tôm cua, v.v... để nghiên cứu mà tải được tinh thần của thảo trùng hoa điểu vào trong tranh. Tranh ông đơn sơ mộc mạc mà linh động đầy sức sống, đặc biệt loại tranh về cua, tôm, cá, v.v... Nhờ ông chuyên tâm rèn luyện nơi các đại nho, danh sĩ, cho nên những tư tưởng và đạo đức truyền thống Trung Quốc đã góp phần hình thành nhân cách ông, giúp ông đủ trí tuệ để biện minh phân biệt, đủ lòng nhân ái bao dung với quần chúng nhân dân, đủ ý chí quật cường không khuất phục quyền uy vũ bạo cường. Khi đất nước điêu linh ly loạn, đủ tự trọng để giữ tiết tháo kẻ sĩ trong cảnh nguy vong, đủ khiêm nhường lấy hư tâm mà thỉnh giáo mọi người, đủ tự tin để vượt qua nghịch cảnh và đủ tự do để thoát khỏi những mô thức, những định kiến cũ kỹ mà khai phóng một con đường nghệ thuật riêng, không ảnh hưởng bất cứ ai.

Nhờ vậy, ông đã cứu lấy môn hội họa truyền thống ra khỏi biển chết. Bởi lẽ mấy ngàn năm trôi qua, người sau cứ bắt chước cổ nhân, từ bút pháp đến ý tưởng, thành thử mọi đề tài đều đã quá cũ, mọi ước lệ đều quá sáo mòn. Người họa sĩ luôn lúng túng tìm một hướng sáng tác riêng, bởi tất tất mọi thứ thì cổ nhân đã sáng tác quá nhiều rồi, không còn gì mới lạ nữa. Tề Bạch Thạch đã nhận ra điều này, và ông đã từ bỏ lối công bút nô lệ cổ nhân đi để chuyên lối ý bút đầy sáng tạo. Cái họa pháp tả ý của Tề Bạch Thạch phần nào gần gũi với lối vẽ của tranh Thiền mà D.T Suzuki gọi là «bút pháp một góc» (one-corner style), bút pháp này chừa một khoảng trống thoáng cho tranh và rất là gợi ý. Tranh ông vẽ như đùa, nguệch ngoạc dăm ba nét, phóng bút mấy dòng thơ, nhưng xem chữ viết của ông đề «Bạch Thạch Lão Nhân, 80-90 tuổi», mới biết nét bút nguệch ngoạc ấy là cả một quá trình điêu luyện mấy mươi năm trời. Dường như ở cái tuổi gần đất xa trời hơn thì con người chất phác hơn, đã bỏ đi thói hoa mỹ giả dối chăng? Những giác ngộ nào về cuộc sống, về kiếp người, đã khiến ông từ bỏ những đường nét cầu kỳ lòe loẹt hoặc khuôn sáo giả dối, để mà trực nhập vào chân lý vi diệu, đối diện cuộc đời? Chính họa pháp độc đáo của Tề Bạch Thạch làm giới phê bình mỹ thuật ở Tây phương phải kinh ngạc. L. Smôticôva, nhà phê bình mỹ thuật của Liên Xô, nơi Báo Ảnh Liên Xô (số 9-1984) nhận định về Tề Bạch Thạch như sau: «Sống giữa hai thế kỷ, khi nhiều họa sĩ Trung Quốc quay sang nghệ thuật Châu Âu, Tề Bạch Thạch đã chọn những người thợ dân gian lão luyện làm thầy. Và kết quả thật ngược đời: Không liên quan tới một khuynh hướng hội họa mới mẻ nào, thế nhưng ông đã trở thành họa sĩ hiện đại một cách lạ kỳ, tên tuổi của ông đã trở thành vốn quý của nền văn hóa thế giới.» Một nhà phê bình khác thì bảo: «Khi người ta còn yêu hòa bình, mặt trời, và vẻ đẹp của thiên nhiên thì nghệ thuật của Tề Bạch Thạch còn cần cho con người.» Xin mượn lời trên để kết thúc bài viết này.


           © http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org  Lê Anh Minh
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét