Ngày
21/9/2002, Báo Kinh Tế và Xã Hội đã đăng một bài về sự phát hiện trên
sông Tô lịch, phía cửa Tây của La Thành, một hiện tượng chấn yểm của
người xưa.
Hiện tượng này đã gây xôn xao dư luận
của Hà Nội và cả nước về những kỳ bí đang xẩy ra vào đầu thế kỷ 21 – Khi
mà KHKT đang phát triển như vũ bão.
Tóm lược sự
việc như sau : Vào ngày 27/9/2001, đội thi công số 12 -Thuộc Công ty xây
dựng VIC, trong khi nạo vét sông Tô Lịch,thuộc địa phận làng An Phú –
Phường Nghĩa Đô – Quận Cầu giấy – HÀ NỘI đã phát hiện được di vật cổ rất
lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành
một đa giác đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng
giữa các cọc gỗ đó. Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình
Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi, Ngựa, dao, tiền đồng.
Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy
các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt -Hà tây (là nơi nghĩa trang chôn cất
chung của TP.Hà nội), thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra.Nào là
các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự
nhiên lao xuống sông. Nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã
lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn
toàn mất tư thức trong nhiều giờ. Địa tầng của cả khu vực thi công tự
nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu. Thử đưa la bàn vào khu
vực đó thấy kim la bàn quay tít.
Một năm sau
sự việc trên,có hàng loạt sự kiên ngẫu nhiên xẩy ra ,gây kinh hoàng cho
toàn đội xây dựng số 12, là đội đã trực tiếp thi công khu vực trên. Bản
thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt
hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc
như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43
người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số
đó nhiều người không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng
ra họ được hưởng.
Ngày 9/10/2001 những người thợ đã mời
một thày theo đạo Tứ phủ đến giải thich, theo nhận định của Thày thì đây
là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời để chấn yểm Long
mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục mời Thượng tọa
Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn
tràng, làm lễ Hàn lại Long mạch.Theo một số người nói lại (tôi không có
điều kiện kiểm tra): chỉ hơn 1 tháng sau, Thượng tọa Thích Viên Thành
đã bị bệnh chết.
Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ
bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và
khắc phục các sự việc trên.
Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như
sau: Trước đây, cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa
(Thăng Long Tứ trấn) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến Sinh. Như vậy đây
là cổng thành phía Tây của La thành. Thông qua tính tương đối thống
nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ gốm cho thấy niên đại của địa
điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14, thuộc vào thời Lý -Trần Việt
Nam hay thời Tống của Trung Quốc.
Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng
sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau, đã tạo ra một lễ trấn
yểm, trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng. (Ở
đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong
chuyện cổ tích Việt nam – người viết). Đó là một phần của những gì đã
đăng tải trên tờ báo. Gần đây,một người bạn của tác giả có cho biết :
Đài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên
trạng di vật như lúc ban đầu.
Người viết bài này lại có ý kiến khác
hẳn : Theo thiển ý của người viết, đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm
cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí. Ai đã chấn yểm vị trí này và
mục đích sự chấn yểm này để làm gì ? Theo thiển ý của người viết : Đây
là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước
thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người viết xin được chứng minh như sau :
Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng; người viết cũng đồng ý
rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch, song không chỉ căn cứ vào niên
đại của một số đồ gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý –
Trần. Nếu theo Truyền thuyết “Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên Phù
hẹp lại” hay truyền thuyết “sự tích Ông Dầu bà Dầu”, tác giả của sự việc
trên là các vị Vua nhà Lý, nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu, thì
không có sự việc sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay
chỉ còn là một con sông nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội.
Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới
thuyền, là trục Giao thông chính thủa ấy. Mặt khác thời Lý Trần có rất
nhiều nhà Phong Thủy Việt nam tài giỏi như : Thiền sư Định không làng Cổ
pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tư 808 ), Sư La chân Nhân (852 -936 ),
Sư Vạn Hạnh…
Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để
cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô Lịch và Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô
Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu
về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi
qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.
Theo Việt sử lược : Thành Đại La được
xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường
khánh (Nhâm Dần -822 ), Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan
đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành
có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ. Thầy bói nói rằng :
Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao
đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ .
Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873 ), Cao
Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa
hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là
một nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn
lại cho hợp Phong Thủy vào các năm : 866, 867, 868. Theo truyền thuyết,
khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện
tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và
một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công
viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.
Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết
khác của dân tộc Việt nam. Đó là “Truyền thuyết Thành Cổ Loa” Tương
truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa, An Dương Vương cũng xây mãi mà
thành vẫn bị đổ. Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái
móng chân, lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong.
Về mặt địa lý, La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa (Theo đường chim bay chỉ vài chục km).
Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi :
Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp đất của Thành Cổ loa, sự sụp đất của
thành Đại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trình
nạo vét sông Tô Lịch ?.
Qua hai truyền thuyết trên, bỏ qua các
sự việc có tính chất dị đoan, chúng ta phải chấp nhận một sự thực là:
Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa – Đông Anh HÀ NỘI
là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ
rằng : Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây
Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH,
SƠN LA, LAI CHÂU… Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch xuất
phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ
sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu
sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng
xuống, các đỉnh núi cao là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự
việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ
núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài
qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nước), chạy
qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông
Hồng), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa -Đông Anh – HÀ NỘI và còn
theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp .
Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền
phải vô cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều
tryền thuyết về Cao Biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long
mạch này. Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao Biền liên quan đến
các khu vực của Long mạch này : Đầu tiên là truyền thuyết Cao Biền chấn
yểm núi Tản Viên, hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để
chấn yểm núi Tản viên. Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp
đất nung đó tại khu vực Hà nội. Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng
hơn 4 tấn sắt, đồng…chôn để chấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô
Lịch trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim
loại : sắt, đồng, vàng, bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch.
Theo sử sách, Cao Biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô
Lịch.
Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị đại sư
tài ba lỗi lạc, hiểu biết rất giỏi về Nho,Y, Lý số và thuật Phong Thủy
đã hóa giải sự trấn yểm của Cao Biền bằng phép Huyền môn. Các đại sư
thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì, hay ở đền
BẠCH MÃ, dùng những hiểu biết về Phong Thủy để chấn áp bùa phép của Cao
Biền.
Trở lại, đạo bùa tìm thấy trên lòng sông
Tô Lịch, có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng : Đó là tác phẩm
của Cao Biền, chứ không phải là của các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là của
Cao Biền đời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức là trước thời các nhà Lý
khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ). Nếu xét về niên đại của cổ vật
tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay
đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất liền
rớt xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biền trấn yểm.
Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao
Biền khi trấn yểm sông Tô Lịch. Cho tới tận giờ phút này, khi các bạn và
tôi đang ngồi bên máy vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật : Châm
cứu, điện chẩn, xoa bóp, bấm huyệt … để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật
đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch, huyệt, lạc trong cơ
thể con người. Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong
cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta dùng
kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông
sâu khác nhau. Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm
huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử
động, hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được. Ta vẫn biết
rằng :THIÊN ĐỊA NHÂN là hợp nhất. Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều
phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải nói
dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng, trên Trái đất này cũng
phải có những đường kinh mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người.
Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như
nhiều người vẫn nghĩ. Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một
điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào đó, có thể ngăn, bế
hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này
người xưa gọi là trấn yểm.
Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau :
1. Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô
Lịch là của Cao Biền -Tiết độ sứ của nhà Đường, dùng để chấn yểm long
mạch, khi tiến hành xây dựng thành Đại La vào thế kỷ 9. Đó là 1 trong 19
nơi mà Cao Biền đã thực hiện trấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải
do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu, bà Dầu
khoảng 200 năm sau khi Cao Biền thực hiện chấn yểm.
2. Chấp nhận có một Long mạch rất lớn
xuất phát từ phía Tây của thành Đại La (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa
Bình, Sơn La, Lai Châu, và gần nhất là dãy núi Tản Viên); Long mạch này
đi qua thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô Lịch, qua khu vực Hồ Tây,
kéo dài sang Cổ Loa – Đông Anh – HÀ NỘI; Long mạch này còn kéo dài tới
dãy Yên Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là nhánh
Thanh Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin
chứng minh tiếp.
3. Cao Biền đã thực hiện biện pháp chấn
yểm Long mạch, nhằm bế dòng khí của Long mạch này. Thủ thuật trấn yểm
tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học.
Đến đây,ta lại tiếp tục đặt ra câu hỏi :
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn
đã xẩy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12. Bản chất hiện
tượng đó như thế nào ?
2. Tại sao sau khi Cao Biền trấn yểm
sông Tô Lịch, kể từ đó tới tận ngày hôm nay, trong lịch sử ta không còn
nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ trường hợp trên sông Tô Lịch đã
nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc trấn yểm lên.
3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên
sẽ như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả
khu vực HÀ NỘI, các vùng phụ cận nói chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối
với Long mạch đi qua thành Đại la ?
4. Biện pháp khắc phục sự việc trên như
thế nào ? Người ta có thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa Thích Viên
Thành đã thực hiện hay không ?. Trường hợp khôi phục lại Bùa chấn yểm đó
xấu hay tốt ?.
Người viết bài này xin mạo muội lý giải
các câu hỏi trên. Vì tình yêu đối với HÀ NỘI, quê hương của người viết,
vì trách nhiệm một người Việt nam đối với quê hương rất mong được cùng
các bạn trao đổi, hầu tìm ra những giải pháp khắc phục hiện tượng kể
trên. Đó là trách nhiệm chung của chúng ta không chỉ phải của riêng ai.
Người viết xin được lần lượt lý giải các vấn đề trên như sau :
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn
xảy ra cho các Công nhân trong đội xây dựng số 12 -Bản chất của hiện
tượng đó như thế nào ?.
Trong thuật Phong Thủy, Khí là một hiện
tượng rất khó giải thích, nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật
Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu
của Phong Thủy. Theo quan niệm Á đông, Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời
đất vạn vật. Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hình mà còn
tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất Linh
thiêng gọi là Linh Khí của Vũ trụ. Người xưa có câu : Tụ là hình tán là
Khí. Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí, gọi là
Plasma sinh học, các dạng đó có thể đo, đếm được. Trong Đông Y học người
ta phát hiện Hệ thống Kinh, Mạch, Huyệt là đường vận hành của Khí từ
rất xa xưa. Người ta phát hiện rằng : Khí vận hành trong Kinh, Lạc như
một dòng nước, chỗ đi ra gọi là Tĩnh, trôi trảy gọi là Huỳnh, dồn lại
gọi là Du, đi qua gọi là Kinh, nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh không đơn
giản là một ống dẫn vật chất nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí
Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan, bộ phận của một Tạc tượng. Ngoài ra
người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời
châm vô cùng chính xác là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp. Đó là
trên cơ thể con người,còn trong Phong Thủy ,người ta quan niệm rằng
Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự như hệ thống mạch, huyệt trong Đông
Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước, nước giúp Khí di chuyển, nước
đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng. Sinh
Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước (nơi các dòng sông hội tụ
chẳng hạn). Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí, dùng cho việc
chứng minh luận điểm của mình, còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng, vô
tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người
chết đối với người thân thích còn sống như thế nào ?. Theo Giáo sư
Nguyễn Hoàng Phương: Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp
xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn
sống, nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào.
Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống,
dòng họ. Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết
về Nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là
bội số của Tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái
huyết thống.
Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô
Lịch: Người viết cho rằng : Long mạch đã nói ở phần trên bị Cao Biền
trấn yểm đúng Huyệt vị, đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo Bùa chấn yểm.
Hậu quả của đạo Bùa này làm cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo
hành trình vốn có của nó, làm cho vùng đất dọc theo Long mạch sau khi bị
chấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn. Bằng chứng là về sau này ta
không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa. Ta có thể
hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu, bị cột lại
một đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa. Các bộ phận cơ
thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô, teo đi.
Ta cũng để ý một điều rằng :Thành phố Hà nội ngày nay có rất nhiều hồ
nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Ha Le …Mặt
khác sông Tô Lịch và Thiên Phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là
con mương nhỏ dẩn nước thải cho TP.HÀ NỘI. Ở đây có một câu hỏi thú vị
là : Nếu như Cao Biền (vốn được coi là tổ sư của Phong Thủy) đã quyết
tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô Lịch thì sao cho đến tận bây giờ
sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại (mặc dù chỉ là con mương nhỏ). Theo người
viết, nếu Cao Biền trấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên
của nó qua lịch sử. Đến đây người viết khẳng định : Cao Biền có sự sai
lầm trong việc chấn yểm. Nguyên nhân sự sai lầm của Cao Biền chính là sự
hiểu biết vô cùng chính xác của các vị Vua Hùng – Tổ tiên của người
Việt chúng ta trong thuật Phong Thủy nói riêng và trong Thuyết Âm Dương,
Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được các sự việc sẽ xẩy ra, sau khi
mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của Thuyết Âm Dương
Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên
nhân của sự việc xẩy ra cho công nhân đội xây dựng số 12. Theo người
viết như sau : Tại chỗ có đạo Bùa, Nguyên Khí bị bế lại lâu năm, khi
tháo gỡ đạo Bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu, Nguyên khí
bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh. Ta chưa
xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một
điều rằng : Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung
quanh chỗ đường Khí được giải phóng. Chính vì vậy những người Công nhân
đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu.
Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả
năng hoạt động Thần kinh. Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công
nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng của Quy luật
“Đồng thanh tương ứng – Đồng Khí tương cầu”, hay là hiện tượng cộng
hưởng Harmonic mà Thân nhân, dòng họ của những người công nhân đội xây
dựng số 12 phạm phải, mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công trường.
Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu.
Có điều nguy cơ tiềm ẩn ở đây là : Nơi
dòng Khí thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với TP.HÀ NỘI ? Đây là
một vấn đề quan trong cần có sự nghiên cứu nghiêm túc.
2. Trả lời cho câu hỏi : Tại sao sau khi
có sự chấn yểm của Cao biền,vùng đất dọc theo Long mạch kể từ chỗ bị
trấn yểm trở nên cứng và ổn định hơn và từ đó về sau này ta không còn
nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực dọc theo Long mạch tương tự
nữa,ngoại trừ trường hợp đã xẩy ra trên sông Tô Lịch, khi đạo Bùa trấn
yểm đã được nhổ lên ?.
Tiếp tục phát triển tính nhất quán của
phần trên : Khi đường Khí của Long mạch đã bị bế lại, nguyên Khí không
thể tới được các vùng đất ở sau chỗ trấn yểm được nữa, và Nguyên Khí
luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng đó cũng bị giảm đi. Kết
quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên, và kết cấu của Địa tầng,
địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng đất đã có địa tầng địa,
chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công
trình tự nhiên mất đi. Đó là một sự việc không có gì là bí ẩn trong
nghệ thuật xây dựng hiện nay. Tại công trình nạo vét sông Tô Lịch, khi
đạo Bùa chấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên khí bị phong tỏa ùa thoát ra
ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn, làm cho đất, đá của cả
khu vực nhão ra như bùn, trở nên mất ổn định cục bộ. Ở đây ta cũng cần
lưu ý rằng : Khi Nguyên khí thâm nhập vào lòng đất quá nhiều thì không
chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn khác đều trở thành
bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính chất của nước. Ta
cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không có vùng đó sẽ trở
nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là trường hợp của các
sa mạc, hoang mạc trên trái đất. Tại núi Ngự bình ở Huế cũng có trường
hợp tương tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự bình
song đều thất bại.
Như vậy, ta có thể kết luận rằng : Trong
quá trình xây dựng Thành Đại la, Cao Biền gặp một vùng đất có kết cấu
không ổn định nên đã thực hiên việc trấn yểm kể trên với mục đích làm
cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực hiện là dùng thủ pháp
điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt trong đông Y.
Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long mạch, các huyệt phát
Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây nên
sự trấn yểm không được trọn vẹn. Bằng chứng là Sông Tô Lịch vẫn còn tồn
tại và chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt dã giành được độc lập. Một
dải Long mạch đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con người nổi tiếng,
những vùng đất địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên tử, Đền Kiếp
Bạc… Một nguyên nhân nữa sau này, đã phá hoại sự linh thiêng của Long
mạch là các việc san lấp của người Pháp, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Không biết vô tình hay hữu ý, khi xây dựng TP.HÀ NỘI, người Pháp đã cho
lấp mất khúc sông Tô Lịch, nơi đổ ra sông Hồng – Nay là các phố Hàng
Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ… Và Nhà thờ lớn HÀ NỘI hiện nay đặt trên nền của
Tháp Báo Ân ngày xưa…
Một dân tộc đã được thiên nhiên ưu đãi
về Địa linh về Sinh khí phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ
và khai thác sức mạnh tâm sinh khí đó. Chúng ta cần phải có các chương
trình đào tạo các bậc anh hùng, hào kiệt, những bậc hiền tài cho Đất
nước, những vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các bậc Thánh Đế,
Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với non sông, đất nước.
3. Tôi xin
tiếp tục lý giải câu hỏi thứ 3 : Hậu quả của việc rút bỏ Đạo Bùa đối với
khu vực dọc theo sông Tô lịch nói riêng và cả HÀ NỘI nói chung. Số phận
của Long mạch sẽ như thế nào ? Đây là một câu hỏi hết sức khó vì tính
chất phức tạp của nó. Người viết xin mạo muội lý giải và rất mong được
các bậc hiền tài trong và ngoài Diễn đàn góp ý, bổ khuyết hầu có thể tìm
ra biện pháp tốt nhất khắc phục được hậu quả của Lịch sử. Tôi coi đây
là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng ta.
Trước hết,ta xem xét hậu quả của việc
Trấn yểm của Cao biền và những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối
với khu vực sông Tô lịch và các vùng phụ cận. Hiện nay, tôi không có tài
liệu nào chính thức về các biện pháp Trấn yểm đất của bộ môn Phong
thủy. Chỉ biết rằng từ xa xưa đã có các hiện tượng trấn yểm của Mã viện
(Trụ đồng Mã viện); các hiện tượng trấn yểm của Cao biền;các biện pháp
dùng Bia đá để trấn yểm nhà,các tấm Bài ếm ở quanh khu vực Thất sơn (Cái
ếm ở Bài Bài, thuộc làng Nhơn hưng -Tịnh biên -Châu đốc, cây ếm ở núi
Nước)…
Để có thể hiểu rõ tính chất và hậu quả
của việc trấn yểm,ta cần phải biết rõ lý thuyết trấn yểm và từ đó mới có
thể khắc phục được tác hại của nó. Từ xưa, việc trấn yểm được coi là
Thuật bí truyền của các thày Địa lý, không được tiết lộ ra ngoài, sợ lộ
Thiên cơ. Do vậy mà lý thuyết về sự trấn yểm đến tận giờ phút này vẫn
được coi là một cái gì đó huyền bí, ma thuật, không có tài liệu nào được
truyền ra. Tuy nhiên theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân là một, ta có thể
dùng Lý thuyết của Đông Y để tìm hiểu vấn đề này.Mặt khác,Thuyết Âm
Dương,Ngũ hành với cơ sở là Hà đồ,Lạc thư là một công thức siêu Vũ trụ
có thể lý giải tất cả các vấn đề từ Vi mô tới Vĩ mô,nó là Công thức Tổng
quát của Vũ trụ mà khoa học ngày nay đang ao ước, tìm kiếm. Tôi sẽ xin
trở lại vấn đề này khi có dịp. Bây giờ ta trở lại Lý thuyết của Đông Y
về Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc là một sự ứng dụng rất cụ thể và phong phú của
Thuyết Âm Dương,Ngũ hành. Lý thuyết của Đông Y về Kinh, Mạch, Huyệt,
Lạc rất phức tạp và có từ rất lâu đời,cuốn sách đầu tiên có thể là cuốn
Hoàng đế nội kinh,có thời điểm khoảng 5000 năm. Tôi chỉ xin dẫn giải
những gì cần thiết để chứng minh cho luận điểm của mình.
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét