Translate
Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013
SƠ LƯỢC VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU VÀ TAM,TỨ PHỦ - PHẦN III
Mẫu Đệ Tam Thuỷ Cung, Xích Lân Công Chúa
Mẫu Đệ Tam Thuỷ Cung, Xích Lân Công Chúa ,hay còn có danh hiệu khác như “Động Đình Công Chúa Ngọc Hồ Thần Nữ”,”Thuỷ Tiên Công Chúa”,”Thuỷ Cung Thánh Mẫu”.Sự tích của Thánh Mẫu được thể hiện rõ trong bản văn Mẫu Thoải, ngoài ra còn có tác phầm “Liễu Nghị truyền thư” (Truyện Liễu Nghị) bên Trung Hoa.Bản văn Mẫu Thoải nói về sự tích của Thánh Mẫu: Ngài vốn là Con gái của Vua Thoải Quốc Động Đình được gả cho Kính Xuyên một gia đình lệnh tộc dưới thuỷ cung.Kính Xuyên có người vợ lẽ là Thảo Mai.Thảo Mai giáo dở vu oan cho Tiên Chúa ,Kính Xuyên không xét trước sau mà đem đầy Tiên Chúa vào chốn rừng sâu mặc cho thú dữ ăn thịt. Tại nơi rừng sâu Tiên Chúa được sự yêu mến của muông thú,hoa cỏ lá cây.Cũng hay cho con tạo xoay vần mà Tiên Chúa gặp được Liễu Nghị trên đường lai kinh ứng thí đi ngang qua.Ngài đã viết chúc thư và trao cho Liễu Nghị kèm với một kim thoa nhờ chàng mang tới thuỷ cung.Liễu Nghị nghe theo lời Tiên Chúa chỉ đường mà tới Bể Đông, dùng kim thoa gõ vào cây ngô đồng như đúng lời dặn.Bỗng dưng nước rẽ làm đôi đón Liễu Nghị vào tới thuỷ cung,ở đây chàng đã tâu trình bức thư phong mà Tiên Chúa gửi gắm.Đọc xong lá thư Vua Thoải Quốc nổi giận sai Trưởng Tử Xích Long Hầu đi đón Tiên Chúa hồi cung và đem trừng phạt Kính Xuyên và Thảo Mai.Trong đoạn văn Mẫu Thoải có đoạn kết rằng:
Đã nên đấng anh linh liệt nữ
Trách chi người vụng xử chấp nê
Bằng nay tiên chúa sinh chi
Giá đem sau trước mà suy sự lòng
Rũ sạch không những niềm tân khổ
Nương uy trời tế độ sinh linh
Đời đời nức tiếng thơm danh
Biển vàng ghi tạc sử xanh dõi truyền
Kiêm ngũ phúc dâng lên cõi thọ
Nước trị trường thánh chúa hưng long
Mẫu về chắc giáng điện trung
Khuông phù đệ tử hưng long thọ trường
Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên, Sơn Lâm Công Chúa
Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên, Sơn Lâm Công Chúa còn có các danh hiệu khác như Diệu Tín, Diệu Nghĩa Thiền Sư; Lê Mại Đại Vương,Bạch Anh Công Chúa quản trưởng sơn trang triều mường,Bà Chúa Sơn Trang,Bà Chúa Thượng Ngàn,Mẫu Thượng Ngàn….
Mẫu Thượng Ngàn là vị thần cai quản núi rừng,Có nhiều sự tích gắn với Mẫu Thượng Ngàn như La Bình Công Chúa (con gái Sơn Tinh Đại Vương); Quế Hoa Mỵ Nương....Thánh Mẫu đã nhiều lần khuông phù cho các đời vua Lê che chở cho muôn dân nhất là trong các vùng rừng núi.Sự tích Mẫu Thượng Ngàn có trong Đông Cuông Công Chúa Văn;Thượng Ngàn Thánh Mẫu Văn…Tuy nhiên đa phần các sự tích đều mở ảo không rõ ràng về lai lịch của bà.Những nơi nào có rừng núi người ta đều thấy sự hiện thân của Bà Chúa Sơn Trang.Những đền thờ bà ở rất nhiều nơi như Đền Đông Cuông,Đền Bắc Lệ, Đền Suối Mỡ….Trong văn Mẫu Thượng Ngàn có đoạn viết
Khắp đâu đâu nức danh đều biết
Chúa Thượng Ngàn lẫm liệt thần cơ
Tụ Long Bảo Lạc Tam Cờ
Sông Thao sông Cả sông Bờ sông Dâu
Khắp các châu nức danh thần nữ
Tự Lê triều quốc sử còn ghi
Danh thơm Nam Bắc Trung kì
Bảo dân hộ quốc độ trì tứ phương
Sắc Lê Mại Đại Vương trường trị
Đông Cuông từ đích vị danh lam
Chim kêu vượn hót trên ngàn
Tả thời bạch hổ hữu đoàn thanh long
Muôn dân đều trông đợi nơi Thánh Mẫu sự an lành ,mạnh khoẻ :
Hiển thánh tích lưu truyền vạn đại
Sắc tặng phong Lê Mại Đại Vương
Thông minh chính trực khác thường
Ra tay sát quỷ bốn phương thái hoà
Khắp trong nước trẻ già trai gái
Đội ơn bà mạnh khoẻ sống lâu
Muôn dân lễ bái kêu cầu
Sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm
Phần 2: NHỮNG BẢN VĂN CHẦU TỨ PHỦ
CÔNG ĐỒNG TỨ PHỦ VĂN
Bỉ cách
Bảo nhang phước úc khởi tường yên
Thụy khí xung đằng thấu cửu thiên
Nhang giảo chí thành,đăng bảo an
Nguyện cờ đệ tử đắc bình an
Miễu cách:
Việt Nam thuở nền an vương thất
Chuyển pháp luân Phật nhật tăng huy
Kim niên, kim nguyệt, nhật thì.
Đệ tử tâu quy Phật thánh mười phương
Nức khói hương chiên đàn giải thoát
Thoảng mùi hoa ưu bát thơm bay
Nam mô Phật ngự phương Tây
Sen vàng choi chói hiệu nay Di Đà
Ngự trước tòa lưu ly bảo điện
Phật Thích Ca ứng hiện tự nhiên
Tiêu thiều nhã nhạc dưới trên
Cửu Long phún thủy quần tiên ca đàn
Đức toà thị ngại vàng rờ rỡ
Phóng hào quang rực rỡ vân yên
Quan Âm ngự trước án tiền
Tả hữu bồ tát tăng thiền, già na
Đức Hộ Pháp Vi Đà thiên tướng
Vận thần thông vô lượng vô biên.Thổng cách:
Tận hư không giới thánh hiền
Dục giới sắc giới chư thiên đều mời
Vua Đế Thích Quản cai thiên Chủ
Vua Ngọc Hoàng thiên Phủ chí tôn
Dương phủ ngũ nhạc thần vương
Địa phủ thập điện Minh Vương các tòa
Dưới thoải cung giang hà ngoại hải
Chốn Động Đình Bát Hải Long Vương
Tam nguyên, tam phẩm tam quan
Quản chi tội phúc nhân gian cầm quyền
Ngôi Bắc Cực trung thiên tinh chúa
Tả Nam Tào chua sổ trường sinh
Hữu quan Bắc Đẩu thiên đình
Thập nhị bát tú cửu tinh huy hoàng
Khắp tam giới bách quan văn vũ
Hội công đồng tứ phủ vạn linh
Cửu trùng Thánh Mẫu thiên đình
Bán thiên công chúa quế quỳnh đôi bên
Hội bàn tiên khăn điều áo thắm
Chốn Quảng Hàn cung cấm vào ra
Thỉnh mời Quốc Mẫu Vua Bà
Công đồng Thánh Mẫu tam tòa chúa tiên
Đền Sòng Sơn -Địa Tiên Vương Mẫu Phú nói:
Đất phủ Giày nổi dấu thiên nhan
Thỉnh mời Thánh Mẫu Đệ Tam
Xích Lân Long Nữ ngự đền Thủy Cung
Tướng uy hùng năm quan hoàng tử
Lĩnh sắc rồng cai ngự bốn phương
Quyền cai sơn thoải đại giang
Đông Cuông Tuần Quán thượng ngàn tối linh
Khắp tam giới đình thần tứ phủ
Hội Công Đồng văn vũ bá quan
Tả mời thái tuế đương niên
Hữu quan đương cảnh thành hoàng quản cai
Tiền hậu lai Lê Triều Thái Tổ
Lệ tùy tòng thừa sự hôm mai
Thỉnh mời Tứ Phủ Khâm Sai
Thủ Đền Công Chúa đáng tài thần thông
Thỉnh tam thập lục cung tiên thần nữ
Quản chư tào thừa sự sớm khuya
Pháp vân Pháp vũ uy nghi
Pháp lôi Pháp điện hộ trì phi phong
Tướng thiên cung mão đồng đai giáp
Lốt thủy tề năm sắc phi phươngDọc cách:
Thỉnh mời bát bộ sơn trang
Bên thời thập nhị tiên nương chầu vào
Các bá quan cơ nào đội ấy
Giáng bản đền lừng lẫy uy nghi
Thổ Công Thổ Địa thần kỳ
Ngoại Giang Hà Bá sơn kỳ thần linh
Sắc cẩn thỉnh thiên binh lưc sĩ
Ngũ Hổ thần vạn vị hùng binh
Thỉnh mời liệt vị bách linh
Binh tùy binh tiếp hùng binh đáo đềnDồn:
Phép tự nhiên thiên trù tống thực
Thập biến thiên vạn ức hà sa
Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ rô chỉ đế
Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng
Án tông tông tông tông tông thủy luân nhũ hải
Biến trần trần sái sái giai sung
Nhất nghi lục cúng viên thông
Ân cần phụng hiến công đồng như lai
Nguyệt vân lai cầu an bảo tọa
Đại từ bi hỷ xả tri tâm
Cứ trong một tháng đôi tuần
Dâng hoa cúng quả cầu trăm tuổi già
Hội tam đa , trình tường ngũ phúc
Độ cho đồng hưởng lộc thiên xuân
Thỉnh mời Phật giáng lưu ân
Công Đồng lưu phúc thiên xuân thọ trường
Ghi chú :Đoạn dị bản của bỉ cách
Dị bản 1: CÔNG ĐỒNG TỨ PHỦ VĂN
Thần kim ngưỡng khải tấu chư tôn
Toạ thượng dương dương nghiễm nhược tồn
Nguyện thỉnh pháp âm thi huệ lực
Tuỳ cơ phó cảm nạp trần ngôn
Dị bản 2:
Sâm sâm hạt giá ,tòng không hạ
Hiển hiển loan dư ,mãn toạ tiền
Bất xá uy quan phu thần lực
Chứng minh công đức lượng vô biên.
Dị bản 3:
Một nén hương thơm thấu cửu thiên
Kính thiên kính địa kính phật tiền
Chữ rằng nhất niệm thông tam giới
Cầu cho trăm họ đắc bình yên
Dị bản 4 :
Nhất kính tâm hương thấu cửu trùng
Công đồng văn vũ chốn tiên cung
Đàn duyên sớ điệp nay cầu đảo
Giáng thần vô lượng vận thần thông
Dị bản 5:
Phật thánh tòng không lai gíáng hạ
Vạn linh thánh chúng ngự dương toà
Tuỳ phương ứng hiện lai chứng giám
Nguyện kỳ phúc lộc tựa hà sa
VĂN CÔNG ĐỒNG (Dị bản)
Lòng tin tâu kính Phật Trời
Mười phương chư Phật,độ tôi những là
Nam mô Đức Phật Thích Ca
Cùng Đức Thánh Mẫu, Phật Bà Quan âm
Tiếng đồn náo nức xa gần
Ai ai cũng đến ân cần xin con
Cầu bà :bà độ có con
Có nam có nữ vuông tròn tốt thay
Đức Phật hoá phép nghìn tay
Tô mặt vẽ mày hình thể tốt tươi
Thỉnh Đức Thượng Thiên trên trời
Giáng xuống hạ giới,cứu người trần gian
Nhà giàu cho tới nhà quan
Ai ai cũng đến kêu oan cửa Bà
Cứu người phúc đẳng hà sa
Phép thiêng dân lạc, thịnh hoà yên vui
Trống tôi đã thỉnh ba hồi
Đầu tôi đội trời, miệng niệm Như Lai
Đức Phật tôi đã thỉnh lai
Mời khắp Tam phủ, giáng lai đền Rồng
Phật Thánh hoá phép thần thông
Uy linh cảm ứng, hộ trì thế gian
Chiêu tài tiếp lộc muôn vàn
Ngự đồng cứu độ thế gian lạ thường
Đồng tôi tâu đến Ngọc Hoàng
Giá ngự ngai vàng, lồ lộ kiều cung
Thượng Thanh giá ngự phương Đông
Thái Thanh đã ngự đền Rồng thiêng thay
Ngọc Thanh giáng ngự phương Tây
Tản Viên Thánh Cả, ngự rày bàn loan
Triều thần văn vũ bách quan
Ai ai là chẳng tấu lên thiên đình
Nam Tào cầm sổ chua sinh
Bắc Đẩu chua lộc, phân minh thay là
Bao nhiêu hạ giới người ta
Nam nữ trẻ già sổ đã chép ghi
Chữ rằng: “thiên võng nan tri”
Đạo Trời lồng lộng, phép thì thiêng thay
Phúc lành đưa đến chưng đây
Đệ tử tôi rày: có số thiên cung
Sắc vàng choi chói vua phong
Dâng trước ngai rồng, cầm bút chua phê
Lại tâu bản thổ thần kỳ
Cùng quan Hà Bá, tức thì đệ lên
Quỳ tâu Tam Thánh: Tản Viên
Huyền Đàn, Độc Cước dâng lên tức thì
Lại tâu Quốc Mẫu đan trì
Ban bổng lộc về cho đệ tử nay
Lộc này lộc thánh tốt thay
Ai khéo hầu hạ ban nay lộc nhiều
Thiên trù tống thực vua yêu
Niên nguyệt dập dìu tiền của chẳng vơi
Giàu sang số hệ bởi trời
Cầu được mạnh khoẻ yên vui trong nhà
Điều lành tôi dám tâu qua
Thế gian ai biết, trẻ già ai hay
Kẻ gian đâu biết sự này
Đồng tôi tâu bày tam phủ ba vua
Linh Tiêu Ngọc Hoàng đế đô
Thiên Địa Thuỷ Nhạc, các vua ngự toà
Động đình thuỷ tộc hải hà
Trên trời sấm động mưa sa vội vàng
Gió đưa mây phủ sáng quang
Tối tăm trời đất bên giang bao giờ
Sân rồng nổi đôi lá cờ
Tự nhiên phẳng lặng như tờ bốn phương
Bốn bề vằng vặc như gương
Bảng vàng hốt bạc bước sang ngự lầu
Vua ngự phượng các long lâu
Chư Tiên công chúa đứng đầu Thánh Vương
Trên trời bổng lộc toà vàng
Vua Cha ngự trước các Hoàng ngư sau
Đồng bộ đới cước vào chầu
Hai mươi bảy bộ đứng hầu đôi bên
Trước đền Thánh Mẫu Thuỷ Tiên
Con cả cầm quyền Hoàng cả Xích Lân
Phân minh nghị luận công đồng
Lưỡng ban văn vũ đều cùng quỳ tâu
Lòng thành khẩn nguyện sở cầu
Chúng dân phụng sự quỳ tâu đế đình
Mười phương chư Phật chứng minh
Cứu dân độ thế nhân sinh xa gần
Chữ rằng Thánh giáng lưu ân
Công Đồng lưu phúc thiên xuân thọ trường
Còn tiếp...
Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2013
SƠ LƯỢC VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU VÀ TAM,TỨ PHỦ - PHẦN II
MẪU ĐỆ NHỊ ĐỊA TIÊN-LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA
Tiên nhân Thần nữ cõi nam thiên
Tam thế giáng sinh sử dõi tuyền
Đại Yên,Vỉ Nhuế dòng Phạm Thị
Tiên Hương Vân Cát ấy lương duyên
Sòng Sơn Phố Cát phen đại chiến
Đông Thành Kẻ sóc nối dây duyên
Anh linh hiển hách phù Nam Việt
Chế Thắng tặng phong tối linh thiêng
Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên, Liễu Hạnh Công Chúa (Thánh Mẫu Liễu Hạnh) còn có các danh hiệu khác như Vân Hương Thánh Mẫu, Chế Thắng hoà Diệu Đại Vương, Mã Hoàng Bồ Tát….Thánh Mẫu ngoài danh hiệu Đệ Nhị Địa Tiên còn được tôn xưng là Thiên Tiên Thánh Mẫu.Ngài vốn là Đệ Nhị Quỳnh Hoa Công Chúa trên thiên cung, ba lần giáng sinh trần thế.Sự tích Tam thế của Thánh Mẫu được ghi chép trong sách “Cát Thiên Tam Thế Thực Lục” tại Quảng Cung Phủ Nấp (Nơi Thánh Mẫu giáng sinh lần thứ nhất).
Lần thứ nhất Tiên Chúa phụng mệnh giáng sinh tại làng Vỉ Nhuế, thôn Quảng Nạp, xã Trần Xá, huyện Đại Yên, phủ Nghĩa Hưng trấn Sơn Nam, trong nhà thái ông họ Phạm hiệu là Huyền Viên, thái bà hiệu là Thuần Nhất hai người cùng một quê. Ở đời này Mẫu cũng luôn giữ chữ Trinh, hiếu thảo thờ phụng cha mẹ, sau hết hạn trần gian có xe loan đón rước Mẫu về chốn linh tiêu.
Lần thứ hai do sơ ý đánh rơi chén ngọc mà Tiên Chúa bị giáng xuống cõi trần vào nhà thái công họ Lê tại thôn Vân Cát, xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng.Thái công họ Lê tên húy là Đức Chính, thái bà hiệu là Phúc Thuần. Tới tuổi trưởng thành Tiên Chúa kết duyên cùng chàng Đào Lang họ Trần ở thôn An Thái (sau đổi là Tiên Hương).Tiên Chúa sinh được một người con trai đặt tên là Trần Nhâm.Ở kiếp này Tiên Chúa tại thế hai mốt tuổi thì về trời.
Lần thứ ba Mẫu giáng trần tại Kẻ Sóc, lấy chồng họ Mai (là tái hợp với hậu thân của Đào Lang), sinh được một con trai (Có tài liệu nói là hai người con trai), được hơn một năm mẫu quay gót trở về thiên cung. Sau Ngọc hoàng ân chuẩn cho Mẫu được trắc giáng xuống cõi trần thường xuyên tiêu dao khắp nơi, được miễn vòng sinh tử luân hồi.Trong dân gian vẫn truyền tụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một trong tứ bất tử của dân tộc
Sự tích của Thánh Mẫu Liễu Hạnh được ghi chép trong nhiều tài liệu như trong sách “Cát Thiên Tam Thế Thực Lục”,”Vân Cát Thần Nữ”,”Nam Hải Dị Nhân”,”Tiên Phả Dịch Lục”,….Và đặc biệt là trong các bản văn chầu (Dùng để hát thờ vào ngày đản tiệc của Thánh Mẫu) như: Địa Tiên Thánh Mẫu Văn; Cảnh Thư Đường Văn; Mẫu Sòng Văn; Giáng Tiên kỳ Lục Văn…Nhưng hầu hết các văn bản đều chỉ viết từ lúc Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ hai tại Phủ Giày.Lần giáng trần lần thứ nhất được biết đến ít hơn.Trong đó có tác phẩm Vân Cát tam thế thực lục quốc âm viết về tam thế của đức Thánh Mẫu bằng các câu thơ Nôm lục bát được giới thiệu sau đây:
VÂN CÁT TAM THẾ THỰC LỤC QUỐC ÂM
---***---
Khi nhàn tựa án thảnh thơi,
Ngẫm xem tam thế luân hồi lạ thay.
Quả tu khéo tại lòng này,
Hoá sinh sinh hoá xưa nay ai tường.
Vẹn sao hai chữ cương thường,
Tiên nhân phật quả lưu phương dõi truyền.
Nhớ xưa ở huyện Đại Yên,
Xã là Trần Xá về miền Nghĩa Hưng.
Đương năm Cảnh Thịnh sơ hưng,
Cải làng Vỉ Nhuế phỏng chừng tam niên.
Thôn Quảng Nạp hiệu Huyền Viên,
Phạm gia tích đức bách niên đã nhiều.
Xưa làm Phó sứ thiên triều,
Khâm sai tra sổ phải điều bất công.
Bút son vâng mệnh đền rồng,
Giáng Trần Xá xã thôn trung đất lành.
Đất này tú khí chung linh,
Lâu đài cổ tích xung quanh cũng kỳ.
Chỉn e tử tức còn trì (chầy),
Trai đàn mong được sau khi nối đời.
Đêm ngày khấn phật cầu trời,
Kim tinh Thái Bạch tới nơi tâu rằng.
Có nhà rày ở dưới trăng,
Thái bà Phạm lão tin nhằm có thai.
Ngọc Hoàng mở sổ ra coi,
Phạm ông ngày trước vốn người thiên cung.
Bởi vì giữ phép không công,
Vậy nên giáng trích vào vòng nhân gian.
Một đời rồi lại tái hoàn,
Nay xin cầu tự thời bàn làm sao.
Có quan Bắc Đẩu Nam Tào,
Sổ cầm chu mặc ghi vào tính danh.
Tâu rằng xin chút gái lành,
Kẻo cơ nghiệp ấy sau dành cho ai.
Đức vua nghe nói êm tai,
Truyền đòi công chúa thứ hai lên chầu.
Khuyên con giáng thế ít lâu,
Hỡi quan văn vũ cùng nhau hiệp bàn.
Tâu rằng đội đức thiên nhan,
Non cao bể rộng khôn toan cưỡng lời.
Công chúa tâu lạy mấy lời,
Hóa sinh sinh hóa kiếp người kiếp tiên.
Kiếp này là kiếp tiền duyên,
Ghi lòng để dạ chép biên đời đời.
Thần thông biến hoá mọi nơi,
Trước Nga Hoàng giáng vốn người tiên cung.
Ngọc nữ thăng lệnh chỉ truyền,
Vâng lời tấu đến điện tiền vua cha.
Khấu đầu lạy trước thềm hoa,
Lạy bà Hoàng hậu chính toà vừa thôi.
Gửi truyền văn vũ mấy lời,
Thờ vua phải giữ lòng thời chỉ trung.
Còn tiên lạy trước ngai rồng,
Tâu rằng cho xuống độ vòng bao nhiêu.
Thấy con nói hết mọi điều,
Bút son đề chữ linh tiêu lên đầu.
Thông minh linh ứng dài lâu,
Tứ phương lai cộng phật đầu Dần niên.
Sênh ca đàn sáo đôi bên,
Dập dìu phượng liễn xuống miền dương gian.
Phạm ông khi ấy thanh nhàn,
Màng màng giấc mộng đoàn đoàn tiên nga.
Khí thiêng sực nức mùi hoa,
Sao mai thấp thoáng trời đà vầng đông.
Thái bà chuyển động tâm trong,
Quế lan ngào ngạt hát sen hồng nở hoa.
Huệ hương dâng khắp đầy nhà,
Giáng sinh mồng sáu tháng ba giờ Dần.
Nhãn quang lóng lánh tinh thần,
Mày ngang vành nguyệt da ngần vóc sương.
Má đào môi hạnh phi phương,
Giá so tố nữ tiên nương khôn bì.
Phú ông xem thấy dị kỳ,
Giáng thần ứng hiện đặt thì Tiên Nga.
Yêu như ngọc dấu như ngà,
Nâng châu rốn bể hứng hoa lưng trời.
Màn the trướng gấm thảnh thơi,
Thâm khuê dưỡng dục khác vời tiên cung.
Ngũ chu thiên tính đà thông,
Thử xem nề nếp cũng dòng phú gia.
Chạnh lòng nghĩ đến gần xa,
Nay tuy đã vậy sau đà sao đây.
Năm lên mười tuổi khôn thay,
Một niềm hiếu thuận nết hay ai tày.
Thung huyên sớm mỏng tối dày,
Quạt nồng đắp lạnh đêm ngày vào ra.
Tôn thân thượng mục hạ hoà,
Lời ăn tiếng nói nhu hoà khoan dung.
Đủ điều ngôn hạnh công dung,
So xem cốt cách khác trong trần này.
Đua chen kẻ tớ người thầy,
Ra vào hầu hạ đêm ngày tựa nương.
Tới tuần tam ngũ phi phương,
Bạn Tần khách Tấn ngổn ngang đầy nhà.
Thái ông ướm hỏi dò la,
Chiêu thân sớm định để già tâm khoan.
Nào ai dưới gối thừa hoan,
Nay con riêng phải lo toan việc nhà.
Chúa rằng đội đức sinh ra,
Ơn đà bể rộng nghĩa đà non cao.
Hổ con chút phận thơ đào,
Hình lâm tử tức tiêm vào phu quân.
Cuộc đời như thể phù vân,
Thân tiên buộc lấy duyên trần làm chi.
Nhớ khi nuôi nấng phù trì,
Nghĩ sao báo đáp ơn nghì cho phu.
Con xin dốc chí đường tu,
Triêu sớm ban tối di du vui cùng.
Mặc ai mối điệp tin ong,
Mặc ai lá thắm chỉ hồng bạn duyên.
Khi xưa phẩm cách người tiên,
Lẽ nào nỡ để hồng liên bùn lầm.
Thái ông nghe nói mừng thầm,
Hay là đức phật Quan âm thân tiền.
Thôi chi nói sự trần duyên,
Dù con trong sạch giá tiên mặc lòng.
Đào viên then khoá kín phong,
Giữ điều trinh tiết kính cung tiên đường.
Vá may canh cửi việc thường,
Rộng ơn thí xả bốn phương dân cùng.
Nền nhân xây đắp dốc lòng,
Khói hương thấu đến cửu trùng cho thông.
Dần dần nhị kỉ ngũ đông,
Thung đường phút đà xe rồng lên chơi.
Ngán thay dưới đất trên trời,
Một người mà gánh hai vai thâm tình.
Báo ơn tứ đức sinh thành,
Gần xa ai kẻ nức danh nữ tài.
Cư tang năm mới được hai,
Huyên đường hạc giá bay khơi lên ngàn.
Thân tiên bao quản tân toan,
Một mình khôn biết rằng bàn sao xong.
Bèn mời lân lý hương trung,
Kẻ thăm người viếng tây đông đầy nhà.
Thôn trung có kẻ lão già,
Thấy người thơ ấu nết na thương vì.
Năm thường dậy sớm luân di,
Hiếu trung hai chữ sau thì ắt nên.
Công chúa quì xuống thưa lên,
Trình rằng ơn nặng dám quên sau này.
Thôn trung thu xếp ra tay,
Hạ tuỳ thượng xướng việc nay chu toàn.
Đưa người yên xuống hoàng tuyền,
Mặc nàng coi sóc báo đền công xưa.
Chăm coi bao quản nắng mưa,
Gọi là chút báo tóc tơ sinh thành.
Thương thay thiên đạo bất bình,
Trăm năm để giận một mình khấu công.
Ba năm lòng những dặn lòng,
Nào ai khuya sớm đà cùng việc đây.
Đến tuần tứ cửu làm trai,
Đại đàn bố thí bẩy ngày bẩy đêm.
Lòng thành thấu đến cửu thiên,
Kim tinh Thái Bạch tâu lên ngai vàng.
Tâu rằng ở dưới dương gian,
Nơi bà công chúa Đại An tâu rày.
Cù lao chín chữ thương thay,
Trông ơn thượng đế xá rày siêu sinh.
Ngọc hoàng việc ấy đã minh,
Đem bộ trắc giáng đế đình mà tra.
Phán rằng đệ nhị Tiên Nga,
Bấy lâu sao vắng đại la quảng hàn.
Triều đình tâu trước thiên nhan,
Tâu còn kỉ nữ tái hoàn tiên cung.
Ngày nay tang tóc đã xong,
Một mình coi sóc ngoài trong xa gần.
Năm qua tháng lại lần lần,
Phong quang đã khác tiền nhân đó rồi.
Công chúa tỉnh giấc bồi hồi,
Tam tinh mộng thấy tới nơi doành doành.
Tâu rằng người ở động đình,
Vâng đem ngọc bảo kim tinh lai phù…
Thánh Mẫu Sự Tích Quốc Âm Ca
Nhiều nhà khoa bảng đã đề câu đối, đề thơ, dẫn lại sự tích thánh mẫu Liễu Hạnh để các thế hệ sau tiếp nối ghi nhớ đây là những bài thơ mang tính sử thi, đã nhập tâm nhiều người ở Phủ Dầy cũng như trong cả nước. Đây là bài thơ của cụ Phó Bảng Kiều Oánh Mậu, người xã Đông Sàng, huyện Phúc Thọ, Tỉnh Sơn Tây, cụ đỗ Phó Bảng năm Tự Đức 33 ( 1880 ) có đệ tam phòng ở xã Kim Thái huyện Vụ Bản tên là Trần Thị Oanh.
Thánh Mẫu Sự Tích Quốc Âm Ca
Làng Vân Hương giáng sinh Thần nữ
Cõi Nam thiên bất tử nổi tên
Vốn xưa đệ nhị cung tiên
Phong lưu công chúa ở trên thiên đình
Đương tiệc thọ khi mang chén ngọc
Quá lòng mừng bỗng chốc rời tay
Phép trời đâu có riêng tây
Hai mươi năm đó xuống đầy trần gian
Năm Thiên Hựu Lê Hoàng thứ nhất
Dấu Giáng Tiên Trần thất thác ra
Rõ ràng vóc ngọc vẻ hoa
Hoa mà biết nói ngọc mà có thơm
Tính linh tuệ cộng thêm nho học
Gồm cầm thi ca khúc đều hay
Hiếu trinh có một người đây
Lầu cao năm thước giá này ai ngang
Thông Giáp Nhị cũng lâng kề đó
Đuốc văn phòng bóng tỏ tình lang
Ba năm chăn gối vội vàng
Hạn kì đã hết thiên đình lại lên
Đường ân ái muôn ngàn xa cách
Lòng sắt son minh bạch còn tâu
Ngọc Hoàng soi sét trước sau
Trần gian lại xuống hoa lâu lại về
Công sinh dưỡng tình quê day dứt
Điệu sắt cầm duyên kết càng sâu
Đôi bên thung tạ huyền sầu
Đào hoa vắng mặt vân du đành lòng
Khi Lãng Uyển, Bồng Doanh xa tới
Khi cửa huyền rừng tía gần chơi
Khi góc bể, khi lên trời
Khi người lão ẩu, khi người mỹ nhân
Khi dưới nguyệt câu thần lẩy điệu
Khi trong hoa cuộc rượu mở hàng
Khi bài lá khi cung đàn
Khi ngay giũa quán khi ngang bên đường
Chùa tỉnh Lạng gặp chàng Phùng sứ
Cảnh Hồ Tây văn tự cùng ai
Đông kinh trở gót tiên hài
Đã nay ngoài phố khi mai trong thành
Khi xe Hạc hoàng đình tới đó
Khi Đông dương ngựa gió ghé qua
Khi Nghệ Tĩnh, khi Thanh Hoa
Khi vào Hoàng Lĩnh, khi ra Thạch Thành
Khi Phố Cát hiển linh đã rõ
Khi Sòng Sơn mới tỏ huyền cơ
Lắm khi hoạ phúc, uy quyền
Phép vua dẫu hiển, phép Tiên càng thần
Kìa Tuyết Lĩnh đẫ chân quy Phật
Nọ tường minh lại thực quy sư
Rộng đường hết sức tu trì
Cứu dân, giúp nước hằng ghi một niềm
Nhà vua thủa dẹp giặc khi trước
Cũng gắng công vì nước non ta
Đại vương có sắc ban ra
Chữ rằng Chế Thế Bảo Hoà Diệu phong
Triều ta lúc hỗn đồng Nam Bắc
Hiển anh linh ra sức âm phù
Gia Long thứ bốn hiệu vua
Tiên Hương tên xã dụ cho về làng
Trên chín bệ đã ban quốc điển
Dưới vạn gia đều hiển thần quyền
Dám xin trắc giáng ơn trên
Quốc dân tý hộ, trào lên xuân đài.
Trong các huyền tích về Thánh Mẫu Liễu hạnh có lẽ trận đại chiến Sòng Sơn là ly kỳ hấp dẫn nhất.Sau đây xin được trích dẫn phần truyện này:
SÒNG SƠN ĐẠI CHIẾN
Thời bấy giờ, công chúa Liễu Hạnh đang sống ở trần thế. Khi thì công chúa giả làm thiếu phụ qua đường, lúc làm cô gái bán hàng để trêu ghẹo thiên hạ. Ai trái ý công chúa đều bị hại. Dân chúng cả vùng Sơn Nam đều lấy làm sợ hãi.Sau đó công chúa đi vào Thanh Hóa, đến miền Sòng Sơn, thấy phong cảnh kỳ tú, bèn ở lại luôn đó. Ngay đêm công chúa giáng lâm, kỳ hào các làng trong vùng đều mộng thấy phải lập tức xây đền thờ công chúa, bằng không cả xứ phải chịu cảnh tàn hại. Tiếp đó, luôn trong năm ngày liền dân làng nhiều người vô cớ lăn ra chết. Người ta đành theo lời báo mộng lập đền thờ công chúa tại Sòng Sơn.Tại vùng này công chúa thường hóa làm một cô gái đẹp bán chè rong. Trai trẻ nho sĩ ai lỡ trêu ghẹo đều bị thiệt mạng. Vì thế trong khắp vùng không một ai dám cả gan tới gần đền thờ. Các hung thần ác quỷ kéo nhau đến làm thuộc hạ rồi thi nhau quấy nhiễu dân chúng. Ban ngày người ta nghe tiếng chiêng tiếng trống, ban đêm tiếng đàn tiếng hát vang lừng. Âm dương lẫn lộn, quỷ với người trà trộn .Trước tình cảnh này, các quan dâng sớ về Triều, nhà vua bèn sai các thầy pháp cao tay đến trừ khử. Song tất cả thầy pháp, chưa đi đến nơi cũng đã đều bị hạ. Triều đình cũng đành bó tay không có cách nào khác đối phó. Từ đó công chúa Liễu Hạnh càng lộng hành: treo ngược ông tiên chỉ lên cành cây bỏ đói đến chết, quẳng cả tượng hình Thành Hoàng xuống giếng. Khắp nơi, đêm ngày hễ nghe thấy tiếng động đáng ngờ là người người vội tránh xa, khép chặt cửa không dám hó hé nửa lời
Hồi bấy giờ, vua Lê, có chúa Trịnh theo hầu, ngự giá về thăm quê tổ tại Lam Sơn, Thanh Hóa. Tùy tùng cùng ông hoàng bà chúa, thể nữ cung tần theo xa giá rất đông. Khi xe vua tới ngang đền Sòng Sơn, công chúa Liễu Hạnh sai âm binh ra chăn đường. Các quan triều, cùng đám cung tần ai không xuống ngựa nghiêng lọng đều bị quật ngã chết giấc. Vua Lê chúa Trịnh, trước việc kỳ lạ, nổi giận nhưng cũng đành quay về kinh đô, rồi sai sứ loan truyền: bất kỳ ai trừ nổi ma quái thì cũng sẽ được ban thưởng vàng bạc chức tước. Nhiều người hưởng ứng lời sứ truyền, nhưng không ai thành công. Nhà vua than thờ: Bây giờ họa chăng có có Thượng Sư Nội Đạo tái sinh mới trừ nổi ác thần cứu nguy cho dân. Một vị cận thần tâu: Thượng Sư còn người con thứ ba, tên là Ngọc Quang, hiện đang tu luyện tại làng Từ Ninh, huyện Hằng Hóa. Vua bèn sai sứ gia mang chiếu chỉ tới mời. Ngọc Quang nhận lãnh chiếu chỉ, nhưng tỏ ý thoái thác nói rằng mình đang dốc lòng học đạo, không còn nghĩ đến truyện tranh đua, và cúi xin nhà vua chỉ định người khác.Bỗng một hôm, nhà vua năm mộng thấy hiện ra một vị thần tâu rằng: Ngọc Hoàng đã có chỉ thị cho phương sĩ phái Nội Đạo đi trừng phạt nữ quái Sòng Sơn, xin bệ hạ cho người đi triệu lần nữa. Tỉnh dậy, vua Lê sai vời chúa Trịnh đến, kể lại lời thần báo mộng. Chúa Trịnh tâu lên vua cử sứ giả vào Thanh lần thứ hai. Gặp Ngọc Quang, sứ giả tha thiết bày tỏ ý định của nhà vua: Vâng lệnh thánh chỉ, tôi vào đây mời ngài ra tay trừ hại cho dân. Nếu ngài từ chối lời vời của Hoàng Đế tức là ngài bỏ mặc dân sống chết trong tay của Nữ quái.Hôm sau Ngọc Quang cho hội họp môn đệ, thông báo lệnh hiệu triệu của nhà vua, rồi quyết định ngày lên đường ra kinh đô, cùng hai anh
Đến Thăng Long, ba anh em cùng vào cung chầu vua. Vua Lê cùng chúa Trịnh mở yến tiệc khoản đãi. rồi ban cho vàng bạc châu báu vàng lụa gấm vóc và mời ba người trổ tài. Ba anh em Ngọc Quang cùng chỉ gậy vào món đồ thưởng qúy giá, tức thì tất cả đều biến thành tro bụi, như khi thu gậy lại tất cả lại trở lại y như cũ. Sau mấy câu thần chú, triều thần bỗng thấy đồi núi trùng trùng điệp điệp hiện chuyển qua sân rồng, ròâi các món ăn mặên trên bàn tiệc biến thành món ăn chay. Vua chúa cùng lấy làm kính phục, tin chắc rằng phen này nhờ ba anh em Ngọc Quang mà nạn yêu quái hại dân sẽ tận diệt, và phong chức thượng tướng thống lãnh ba quân đi trừ yêu quái.Quân sĩ trẩy tới đèo Tam Điệp thì được lệnh hạ trại. Bóng cờ rợp trời, tiếng trống vang xa.Tuy nhiên dân chúng vẫn chưa hết lo ngại.Công chúa Liễu Hạnh nghe tin báo tự nhủ,:Ta là con gái Ngọc Hoàng, sợ gì người trần thế! Kẻ nào dám xúc phạm tới ta ta sẽ xuống tay giết hại không chút thương tiếc.Ngọc Quang cải trang làm khách qua đường, kiếm giắt sau lưng, cỡi ngựa trắng, một mình dạo đi dạo lại trước cửa đền Sòng Sơn. Công chúa Liễu Hạnh từ trên cao nhìn xuống, biết không phải người thường, trong lòng thoáng chút e ngại, bèn trở về đền, ngồi suy nghĩ, chưa vội ra tay.Ngọc Quang xuống ngựa, tuốt gươm vạch một lằn trước cửa đền, rôi dắt ngựa đến uống nước ở dòng suối thiêng. Công chúa Liễu Hạnh thấy thế bèn ra hỏi:
- Quý khách không quản ngại đường xa tới đây, ta hân hạnh đón tiếp một bậc xuất chúng, vậy xin mời người quá bộ vào trong đền
Ngọc Quang đáp : :
- Đã từng gặp nhau ở thiên đình, nay nghe công chúa sắp mắc nạn lớn, nên xin đến tiếp tay công chúa. Từ độ giáng trần, công chúa từng nhiều lần chứng tỏ quyền phép, công chúa trở tay đủ làm ma qủy thần linh kính phục, công chúa nhấc chân thì mây kéo mưa tuôn. Quả là một nữ thần quyền oai lừng danh xuất sắc. Chỉ tiếc là đôi lúc ra oai không chút nương tay, giết hại sinh linh không ít, khiến vua giận chúa tức phải vời đạo sĩ ra tay cự lại công chúa. Tôi e quả bất địch chúng, rồi lỡ xầy truyện không xứng ý vì tay người trần thì không khỏi có điều tai tiếng cho thượng giới. Cho nên tôi mới tới đây để thấy tận mắt phép thuật của công chúa, bằng như công chúa hỏi tới thì xin hết lòng phò trợ.
Công chúa Liễu Hạnh mừng rỡ đáp :
- Ta bị đầy xuống trần đã nhiều năm. Ý ta nào có muốn gây chết chóc khiến thiên hã sợ hãi đâu. Song người trần không rõ phép ta, nhà vua không vinh danh ta, khiến ta phải xuống tay tỏ rõ uy quyền. Giờ đây ta như người ngồi trên lưng cọp, như kẻ bơi giữa dòng sông, biết làm sao đây. Tai họa sắp tới, bằng đạo hữu có lòng trợ giúp, ta xin nghe theo, ơn ấy ta ghi xương khắc cốt. Biết được pháp thuật gì ta sẽ trình đạo hữu rõ, thiếu xót điều chi xin nhờ đạo hữu chỉ dẫn.
Nói rồi công chúa Liễu Hạnh vòng tay trổ các phép thần. Ngọc Quang lấy ra một vuông vải điều phủ lên hai tay của mình, ngầm thu hết phép của công chúa. Công chúa Liễu Hạnh thực lòng không ngờ, trổ tài xong, lên tiếng hỏi Ngọc Quang
- Đạo hữu xem với phép thuật ấy, liệu đủ chống lại thiên hạ không?
Ngọc Quang đáp:
- Phép thuật công chúa thật quả khôn lường! Tôi chưa từng thấy ai có pháp thuật tinh diệu đến mức ấy. Trên thế gian này quả không còn ai theo kịp nổi.
Công chúa Liễu Hạnh sai bày tiệc khoản đãi Ngọc Quang; lại gọi thể nữ ra múa hát giúp vui. Ngọc Quanh ngoảnh mặt nhìn đi, rồi vội vã đứng dậy cáo từ. Công chúa Liễu Hạnh, bỗng giật mình, đập tay xuống bán, đùng đùng nổi giận thét lên
- Ta bị gạt rồi.
Lập tức công chúa Liễu Hạnh ra lệnh cho triệu đủ mặt thần Sông thần Núi ở khắp ba cõi thế gian gấp về tề tựu chờ lệnh. Thế là sông núi thay hình đổi dạng, gió thúc ầm ầm, sông nước dâng cao.Nhật Quan và Nguyệt Quang đứng trên núi cao, thấy vậy cả cười. Ngọc Quang về tới trại, liền ban lệnh cho các thiên tướng đôn đốc quân sĩ, sắp thành hàng ngũ để ra trận. Bát Bộ Kim Cương chỉ huy cánh quân tiền đạo. Hắc hồ thống lĩnh tả quân, Bạch Xà chỉ huy hữu quân. Toán trung phong do các thần Lục Đinh Lục Giáp điều động. Mười hai vị thiên tướng theo sau hậu tập. Ba phát súng lệnh nổ vang, đại quân theo cờ tiến lên, vây chăt đền Sòng Sơn của công chúa Liễu Hạnh.Luôn trong ba ngày liền gió lớn không ngừng, mưa tuôn xối xả. Trên rứng cây cối trốc gốc. Dưới sông dưói biển sóng cuộn ngập trời. Trong làng trong xóm nhà cửa bị gió cuốn bay, Súc vật xổ chuồng tán loạn, người ngưòi hoảng sợ tìm chỗ ẩn núp. Sinh linh chết hại không sao kể xiết. Máu đỏ chẩy ngập sông hồ.Hàng quân tiền đạo của công chúa Liễu Hạnh tan vỡ. Các hung thấn ác quỷ chỉ huy bỏ trốn vào rừng sâu. Công chúa Liễu Hạnh và đám tùy tùng phải rút vào trong đền
Sáng ngày hôm sau, Ngọc Quang ngồi trên bành voi trắng chín ngà, cùng các thiên tưóng tiến lên áp công, dùng lưới sắt vây kín khu đền. Hai tiên nữ Quỳnh Hoa và Quế Hoa, hầu cận công chúa vượt vòng vây trốn thoát. Ba anh em Ngọc Quang ra lệnh thiêu hủy tất cả các đền miếu thờ công chúa Liễu Hạnh trên khắp nơi trong nước. Lửa cháy mười ngày mới tắt...Không còn biết trông cậy vào ai khác, công chúa Liễu Hạnh ngẩng nhìn trời rớt nước mắt. Tiếng chiêng tiếng trống thúc quân mỗi phút một gần. Công chúa Liễu Hạnh cải trang thành một nam tử vượt qua vòng vây chạy trốn. Quân lính đuổi theo. Kiệt sức công chúa Liễu Hạnh hoá thân thành một con rồng trốn xuống lòng giếng sâu.Ngọc Quang cho giăng lưới bít mọi lối thoát, rồi dùng móc đồng bắt được công chúa giải vèâ kinh đô. Ba anh em Ngọc Quang thân dẫn công chúa vào sân rồng. Đức Phật Nam Hải Quán Thế Âm thấy tình thế nguy ngập của công chúa Liễu Hạnh, bèn cỡi mây xuống cứu. Ba anh em Ngọc Quang thấy mây năm sắc trên trời vội vàng cúi chào. Từ trên xe mây, Đức Phật Nam Hải Quán Âm nhắn nhủ:
- Công chúa Liễu Hạnh vốn là con gái Ngọc Hoàng, lỗi lầm dầu nặng, nhưng vẫn còn phương hối cải, vậy lần này các ngươi hãy thả công chúa để công chúa theo ta tu tâm sửa tính để cải tà quy chánh
Công chúa Liễu Hạnh, tay chỉ Ngọc Quang mà tâu với Đức Quán Âm .
- Con chót lỡ lầm, từng có ý sám hối, nhưng người kia không chút động từ tâm, chứ con đâu dám ngang nhiên chống đối. Xin đức Phật Nam Hải Quán Âm đoái thương cứu con thoát khỏi vực sâu
Ngọc Quang nói:
- Công chúa quyết tâm như vậy, xin phát nguyện và xin Đức Quán Âm chứng giám.
Công chúa Liễu Hạnh tạ từ
- Ta xin cảm tạ người, Lầm lỗi chỉ một lần, từ nay ta sẽ náu mình nơi cửa thiền mà noi theo chánh đạo.
Ngọc Quang truyền dâng công chúa một tấm áo cà sa. Công chúa theo xe mây Đức Phật Quán Âm khuất dạng.
Ghi Chú:Phần truyện trên là huyền tích về Công Chúa Liễu Hạnh truyền miệng trong giáo chúng theo phái Nội Đạo.
Còn tiếp...
Thứ Hai, 20 tháng 5, 2013
SƠ LƯỢC VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU VÀ TAM,TỨ PHỦ - PHẦN I
1: TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU VÀ TAM,TỨ PHỦ:Đã từ lâu tâm linh, tín ngưỡng đã đóng vai trò rất quan trọng đối với người dân Việt.Trong đó tín ngưỡng thờ Mẫu là tập tục phổ biến và có từ lâu đời. Đó là tập tục thờ các vị nữ thần có từ thời nguyên thuỷ với các nữ thần đại diện cho thiên nhiên như Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Lúa… đến các vị nữ anh hùng , các vị Công Chúa, Hoàng Hậu, hay bà Tổ cô của dòng họ, bà Tổ nghề của một làng nghề… trong dân gian.Các vị nữ thần thường được nhân gian suy tôn là Thánh Mẫu .Đó vừa là vị thần có quyền năng màu nhiệm vừa là người mẹ bao dung che chở cho đàn con thơ, vừa huyền bí lại vừa gần gũi.
Trong tín ngưỡng thờ tam, tứ phủ thì Thánh Mẫu được tôn thờ là vị thần chủ quyền năng cai quản toàn vũ trụ.Theo quan điểm đó vũ trụ được chia ra làm ba miền (ứng với tam phủ) hoặc bốn miền (ứng với tứ phủ).Tam phủ gồm có thiên (trời) ,địa (đất) , thuỷ (nước).Tứ phủ thì có thêm 1 miền nữa đó là nhạc (núi rừng).Tương ứng với đó là bốn vị Thánh Mẫu :
1.Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên ,Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa
2.Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên, Liễu Hạnh Công Chúa
3.Mẫu Đệ Tam Thuỷ Cung, Xích Lân Công Chúa
4.Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên, Sơn Lâm Công Chúa
Sự sắp xếp theo thứ tự trên của các phủ ( Thiên, Địa, Thuỷ, Nhạc) có lẽ theo lịch sử xuất hiện của tam, tứ phủ.Theo quan điểm đó thì tam phủ có truớc và tứ phủ có sau với sự ra đời của nhạc phủ.Trong các khoa cúng và các bản chầu văn ngày nay hầu như đều ghi thứ tự tứ phủ là Thiên, Địa, Thuỷ, Nhạc.Song song với đó quan niệm tứ phủ với một trật tự khác cũng rất phổ biến đó là Thiên ,Nhạc ,Thuỷ , Địa với danh hiệu của bốn phủ như:
1.Đệ Nhất Thượng Thiên
2.Đệ Nhị Thượng Ngàn
3.Đệ Tam Thoải Phủ
4.Đệ Tứ Khâm Sai (Đệ Tứ Địa Phủ)
Quan điểm này ngày nay rất phổ biến và nhiều người không còn biết đến sự sắp xếp trật tự tứ phủ như xưa kia nữa.Quan niệm thứ tự của tứ phủ như vậy cũng rất hợp lý theo mặt không gian từ cao xuống thấp.Cao nhất là tầng trời (Thiên); sau đó đến vùng cao nguyên rừng núi ( Nhạc); sau đến vùng đại dương sông nước (Thuỷ hay còn đọc chệch là thoải),rồi mới đến vùng địa phủ.Tứ Phủ được đặc trưng bởi bốn màu :Màu đỏ (thiên phủ); Màu xanh (nhạc phủ) ; Màu trắng (thoải phủ) ; Màu vàng (địa phủ)Tín ngưỡng tam tứ phủ dưới ảnh hưởng của đạo giáo (Trung Hoa) gồm có rất nhiều vị thần như Vua Đế Thích, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thập Điện Minh Vương, Bát Hải Long Vương….Các vị thần được nhắc đến khá đầy đủ trong bản văn Công Đồng.Tuy nhiên với tín ngưỡng bản địa thờ các vị thần nước Nam thì các vị thần của đạo giáo cũng khá mờ nhạt, đa số người ta chỉ biết tới Ngọc Hoàng Thượng Đế (Vua Cha Ngọc Hoàng) và Bát Hải Long Vương (Vua Cha Động Đình).Còn lại các vị thánh đa số là các vị thần bản địa và được chia làm các hàng bậc rõ rệt như sau:
-Cao nhất Tam Toà Thánh Mẫu ( Nội dung chi tiết được trình bày ở phần sau)
-Hàng Quan Lớn
-Hàng Thánh Chầu (Chầu Bà )
-Hàng Thánh Hoàng (Ông Hoàng)
-Hàng Thánh Cô (Tiên Cô)
-Hàng Thánh Cậu (Cậu Hoàng)
Mặt khác tín ngưỡng thờ Mẫu Tam, Tứ Phủ còn chịu ảnh hưởng của Phật giáo, đa số các chùa miền Bắc đều có thờ Mẫu với quan điểm “tiền Phật, hậu Mẫu” .Ngoài ra tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ còn kết hợp thờ với các tín ngưỡng dân gian khác như tín ngưỡng thờ Trần Triều, thờ các vị thần địa phương (Chủ yếu là nữ thần), thờ ngũ hổ, thanh xà bạch xà,thổ công,thần núi, ….
Nói đến tứ phủ (cũng như tam phủ) là nói đến toàn vũ trụ.Vì thế khi nói Tứ Phủ Thánh Chầu,Tứ Phủ Thánh Hoàng….người ta liên tưởng tới toàn bộ chư thánh Chầu,Thánh Hoàng…chứ không phải đích danh chỉ một vài vị.Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn linh muốn nói đến toàn bộ chư thần, với sự linh diệu của tín ngưỡng thờ Mẫu
Như vậy tín ngưỡng thờ Tam, Tứ Phủ có một quan niệm rất bao quát, không chỉ thờ cố định số lượng các vị thần mà là tôn thờ toàn vũ trụ.Và tất cả cũng có khi đơn giản gần gũi đó chỉ là một vị thần ,đó là Thánh Mẫu.Thánh Mẫu là
người mẹ luôn che chở dạy dỗ, thương yêu muôn loài.Tuỳ vào căn duyên mà biến hiện ,hóa thân phù đời giúp nước.Vì thế khi đặt câu hỏi có bao nhiêu vị Thánh Mẫu thì chúng ta có thể trả lời có muôn vàn vị Thánh Mẫu, nhưng cũng có thể trả lời là chỉ có một vị Thánh Mẫu duy nhất ,đó chính là điều kỳ diệu của tâm linh, như năm chữ : vạn pháp duy tâm tạo vậy
Tam Toà Thánh Mẫu
Như đã trình bày ở trên tứ phủ có bốn vị thánh Mẫu
- Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên ,Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa
- Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên, Liễu Hạnh Công Chúa
- Mẫu Đệ Tam Thuỷ Cung, Xích Lân Công Chúa
- Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên, Sơn Lâm Công Chúa
Bốn vị Thánh Mẫu cai quản tam tứ phủ nhưng Tam Toà Thánh Mẫu lại chỉ có ba vị, vậy ba vị đó là những vị nào.Đó là điều mà chúng ta cần xem xét với các quan điểm khác nhau:
1.Quan điểm thứ nhất:
Cửu trùng Thanh Vân Công Chúa được thờ riêng ngoài trời với danh hiệu Mẫu Bán Thiên còn Tam Tòa Thánh Mẫu gồm ba vị :
- Mẫu Liễu Hạnh vừa là thiên thần vừa là nhân thần thông tri tam giới quản cai tiên cung , ngôi Đệ Nhất Thiên Tiên
- Sơn Lâm Công Chúa – Lê Mại Đại Vương quản trưởng sơn trang, ngôi Đệ Nhị Thượng Ngàn
- Xích Lân Công Chúa quản cai thuỷ cung Ngôi Đệ Tam
Đó là quan điểm phổ biến nhất trong việc thờ tự hiện nay Tam Toà Thánh Mẫu với ba ngôi vị được xếp theo thứ tự thiên nhạc thoải (Từ trên cao xuống thấp về mặt không gian)
2.Quan điểm thứ hai:
Tam toà Thánh Mẫu gồm ba vị :
- Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên ,Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa
- Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên, Liễu Hạnh Công Chúa
- Mẫu Đệ Tam Thuỷ Cung, Xích Lân Công Chúa
Mẫu Đệ Tứ Lê Mại Đại Vương được thờ riêng ở cung Sơn Trang đó cũng là quan điểm khá phổ biến, nhất là trong khi hát văn thỉnh Tam Toà Thánh Mẫu trong nghi lễ hầu bóng.
3.Quan điểm khác
Ngoài quan niệm tam toà là ba trong bốn vị Mẫu kể trên thì còn có quan niệm khác bao quát hơn.Đó là tam toà Thánh Mẫu chính là cả bốn vị Mẫu.Bởi lẽ, xét về tâm linh thì bốn vị Mẫu chính là đại diện cho một vị Thánh Mẫu duy nhất đó là người mẹ của tâm linh.Tam toà không chỉ nói về số lượng ,số đếm thông thường mà còn nói về sự bao quát, đầy đủ mà người xưa đã xây dựng.Số ba có thể nói là một số thiêng chúng ta thấy có Tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới), Tam thời (Quá khứ, Hiện tại, Tương lai), Tam vô lậu học (Giới, Định, Tuệ)…Ngoài ra thì người phương đông cũng thường dùng số lẻ mà không dùng số chẵn.Với quan niệm số lẻ là sự cân bằng âm dương (số lẻ là tổng của số lẻ và số chẵn)…
Xét về mặt lịch sử có lẽ tam toà Thánh Mẫu xuất phát từ tục thờ tam phủ ứng với ba vị Mẫu Thiên Địa Thoải, mặc dù tín ngưỡng sau này đổi thành tứ phủ nhưng tam toà Thánh Mẫu vẫn không đổi.Đó là biểu tượng của tam thân Thánh Mẫu, là biểu tượng của quyền năng thâu tóm toàn vũ trụ ,mà cũng có thể đơn giản đó là biểu tượng của người mẹ bất diệt trong lòng người dân Việt Nam
Ngẫm câu sinh ký tử quy
Chữ sinh kia có ra chi mới là
Sinh cứu được muôn nhà hạnh phúc
Tiếng thơm bay khắp cả nơi nơi
Sắc thân tuy đã qua đời
Tử mà bất tử muôn người ca vang
Pháp thân tựa hào quang sáng tỏ
Soi loài người soi cả càn khôn
Anh linh thác vẫn như còn
Ngàn năm bất tử cháu con tiên rồng
(Trích văn Mẫu Địa Tiên – Giáng Tiên Kỳ Lục)
MẪU ĐỆ NHẤT THIÊN TIÊN- THANH VÂN CÔNG CHÚA
Trong một khoa cúng Thánh Mẫu có đoạn cung thỉnh Mẫu
Cung thỉnh đệ nhất thiên tiên cửu trùng thiên thanh công chúa,
Lục Cung Vương Mẫu Công Chúa Ngọc Bệ Hạ
Trong bản văn Công Đồng có đoạn
Cửu Trùng Thánh Mẫu thiên đình
Bán Thiên Công Chúa quế quỳnh đôi bên
Hội bạn tiên khăn điều áo thắm
Chốn Quảng Hàn cung cấm vào ra
Hay trong văn Cửu Trùng Thánh Mẫu có đoạn
Lưng ong tóc phượng rà rà
Áo xông hương xạ hài hoa chân giày
Cửu trùng ngự chin tầng mây
Quản cai các bộ tiên nay thượng đình
Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên còn có các danh hiệu khác như Mẫu Thượng Thiên, Thiên Thanh Công Chúa, Thanh Vân Công Chúa, Cửu Trùng Thánh Mẫu (Mẫu Cửu), Lục Cung Vương Mẫu,Mão Dậu Công Chúa….,.Nhiều ý kiến cho rằng Cửu Trùng Thánh Mẫu được đồng nhất với Cửu Thiên Huyền Nữ (bên Trung Hoa).Cửu Thiên Huyền Nữ bên Trung Hoa được xây dựng với một hình tượng nữ thần Linh thiêng với các sự tích kì bí.Còn trong tâm linh người Việt, đơn giản Mẫu Cửu Trùng Thanh Vân là vị Thánh Mẫu ngự nơi chín tầng mây,là vị nữ thần quyền hành cai quản tiên cung, cai quản lục cung sáu viện (Lục Cung Vương Mẫu).Ngoài ra Mẫu Cửu Trùng Thanh Vân còn có danh hiệu khác là Bán Thiên Công Chúa (Mẫu Bán Thiên).Hầu hết các đền phủ hay những điện thờ tại gia đều có ban thờ Mẫu Bán Thiên ngoài trời.
Còn tiếp...
Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013
BÊN LỀ CỌC TRẤN YỂM SÔNG TÔ LỊCH - II
HỆ THỐNG KINH, MẠCH, HUYỆT, LẠC.
1/ HUYỆT : Là nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ. Là nơi tập trung các cơ năng hoạt động của Tạng phủ. Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh, Mạch, Lạc nằm ở những nơi cố định.Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt. Những Huyệt bình thường gọi là Huyệt. Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ từ trên xuống dưới,từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, trong toàn bộ cơ thể con người.Trong cơ thể có một mạch Nhâm,một mạch Đốc,12 đường Kinh chính,cộng thành 14 Huyệt Kinh. có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt. Hệ thống Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc tiếp nhận Thiên khí, Địa khí, Thời khí, có tính chất Âm Dương Ngũ hành. Nhờ hệ thống trên, ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận. Mỗi loại Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kích thích khi có bệnh.
2/ KINH : Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia. Các đường đó đi lắt léo, chồng chất qua rất nhiều chỗ; liên đới với các đường Kinh khác theo tính chất Âm Dương, Ngũ hành, liên vận đến cả với Trời đất mà biến động sự sống, tinh thần con người, vì vậy mà gọi là Kinh.
3/MẠCH : Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra. Nó đi khắp nơi, phân chia ra nhiều chỗ cần thiết, đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính Gốc.
4/ LẠC : Nó là các đường của Kỳ huyệt, nhiều hơn Kinh, Mạch, nhỏ hơn nhiều. Nó đi ngang, tắt, chằng chịt, chi chít, khó tìm hơn. Nó giúp cho con người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt, nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ, dùng để định Tâm, an Lạc. Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chử An lạc?
Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại.
* Nội kinh là phần kinh của 14 đường Kinh, Mạch chính,quan hệ với Tạng phủ, chuyển dần sang các chi nhánh, Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương. Nội Kinh liên quan đến các tương quan, phản xạ, phát sinh Ngoại giao cảm, giữa Linh hồn, Vía, Phách và thể xác.
* Ngoại Kinh : Là những kỳ huyệt để bổ xung cho các Kinh chính ,khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp. Ví dụ cụ thể như : có người đã bị chết lâm sàng, tiêm, chích thuốc theo Tây Y không được, nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm, day, châm, cứu Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được. Có rất nhiều kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể hút Linh hồn của người mới chết, trở về nhập vào cơ thể. Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể. Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén, rất công hiệu, có thể cứu mệnh con người, trong nhiều trường hợp nguy cấp. Đời thường từ xưa đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này, song họ vẫn cho đó là Thần bí.
Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm, Đốc; 12 đường Kinh chính, 15 đường Mạch Lạc, và vô số Huyệt.
Xin nói thêm về Huyệt : Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội,đó là các giao hội với các Kinh Dương và âm. Có các loại Huyệt là Du huyệt, Mộ huyệt, Nguyên huyệt, Lạc huyệt, Khích huyệt…
Trong Võ thuật còn truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật. Theo người viết được biết : Có 36 Huyệt đạo Kinh,nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người. Các Huyệt đó rất nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ. Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế, tật nguyền, rất khó chữa trị. Đây là yếu hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh. Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh hồn và cơ thể con người. Khi tác động vào tử Huyệt ,các yếu hại Huyệt chính là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh, Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh hồn và cơ thể con người. Các hệ thống khác như Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc, gắn kết lục phủ, ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn, mạnh thì dẫn đến tử vong, nhẹ thì dẫn đến tàn phế,tật nguyền, rất kho chữa trị. Thần đạo Võ thuật gọi là Huyệt đạo kinh có liên hệ đến các Luân xa. Theo nguyên lý “Con người là tiểu Vũ trụ” thì Âm Dương, Ngũ hành được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt. Các đường Kinh thứ nhất : Can -Đởm, Tâm -Tiểu trường,Tỳ -Vị, Phế -Đại trường, Thận -Bàng quang là năm cặp đại diện cho Ngụ hành.Ngòai ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam tiêu. Tổng cộng 12 Kinh gọi là đường Kinh chính. Hai đường Kinh Tâm bào và Tam tiêu không có thành phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình.
Mặt khác Kinh Tam tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương, còn Kinh Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm.
Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm. Kinh Tam tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa. Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu.
Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh :Nhánh trái thuộc Dương (đối ứng với Bán cầu não Phải),nhánh phải thuộc Âm (đối ứng với Bán cầu não trái).
Từ đó các Huyệt được chia ra :Huyệt phía trái thuộc Dương,Huyệt phía Phải thuộc Âm.
Từ Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân hợp nhất rút ra Lý thuyết trong Phong thủy áp dụng cho Long, mạch như sau :
Thuyết Phong thủy với cả hai phần Âm và Dương trạch quan niệm con người có quan hệ hữu cơ với Trời, Đất, cả khi sống và cả sau khi chết (Huyệt mộ có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này).
1/ Về Thiên : Chấp nhận có Sinh khí giáng xuống (gọi là Dương giáng ) trên các đỉnh núi cao. Thừa nhận ảnh hưởng của các Vì Sao ảnh hưởng đến con người. Sự tương tác của các lực vũ trụ ảnh hưởng theo thời gian, với con người khác nhau. Ảnh hưởng theo chu kỳ của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời, được đại diện bởi Cửu tinh đồ xoay chuyển theo Quỹ đạo của HÀ ĐỒ (không như quan niệm của cổ văn chữ Hán từ trước đến nay là theo quỹ đạo LẠC THƯ -Khi có điều kiện người viết xin trở lại vấn đề này). Phải chăng 9 Sao và Hạn (La hầu, Thổ tú, Thủy diệu, Thái bạch, Thái dương, Vân hớn, Kế đô, Thái âm, Mộc đức và Tam kheo, Ngũ hộ, Thiên tinh, Toán tận, Thiên la, Địa võng, Diêm vương, Huỳnh tuyền) ảnh hưởng tuần hòan theo chu kỳ sinh học của con người là Đại lượng đo lường ảnh hưởng sự tương tác của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời đối với con người. Còn Cửu tinh đồ là đại lương đặc trưng của sự tương tác các hành tinh trong Hệ Mặt trời với từng cuộc đất.
Ngòai ra còn ảnh hưởng của hệ Nhị Thập Bát tú tới từng cuộc đất.
2/ Về Địa : Chấp nhận có Sinh khí (Còn gọi là Long )chảy theo các mạch nước, tụ lại, và THĂNG lên (bởi lẽ Âm thăng,Dương giáng ). Ta thử suy luận một chút về danh từ THĂNG LONG :Đó là khí Âm thăng lên -THĂNG LONG. ĐÂY MỚI THỰC LÀ Ý NGHĨA CỦA DANH TỪ THĂNG LONG (chứ không như người ta đồn đại Vua Lý Công Uẩn thấy Rồng bay lên và đặt tên kinh đô là THĂNG LONG). Ta cũng nói thêm rằng Khí làm cho Kinh đô THĂNG LONG phát triển mạnh mẽ về sau này là Khí Âm – Địa khí .
3/ Về Nhân : Có thể xác định được Âm phần, Dương phần, Họa, Phúc, Mệnh, Thân của từng cong người.
Bây giờ xin các bạn nhìn lên Bản đồ Việt nam phần Bắc bộ.
Các bạn hãy đánh dấu vào các địa danh sau : Trước hết là các dãy núi cao vút của các tỉnh Lai châu,Sơn la, Hòa bình, tới dãy Tam đảo, dọc theo sông Tô lịch ngày xưa,đi tiếp tới Cổ loa, kéo dài đến sông Đuống,sông Thái bình, ra tới Quảng ninh và chìm xuống Vịnh Hạ long. Ta nối tất cả các điểm trên thành một đường. Đường cong đó chính là nhánh Thanh long của đồng bằng Bắc bộ. Theo phân tích ở phần trên ta biết rằng Thanh long thuộc Dương. Đây cũng chính là một Long mạch có hành Khí Dương. Các Huyệt nằm trên nhánh Thanh long đều có hành khí Dương.
Bây giờ ta tiếp tục đánh dấu những địa danh sau : Xuất phát cũng từ những dặng núi cao chót vót của các tỉnh Lai châu, Sơn la, Hòa bình, đi tới dẵy núi Ba vì, qua cầu Hàm Rồng, theo sông Lam và dẵy núi Hồng lĩnh đổ ra biển. Nối các địa danh đó lại thì đường cong đó chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh Bạch hổ thuộc Âm, do vậy Long mạch này có hành khí Âm. Các Huyệt nằm trên nhánh Bạch hổ đều có hành khí Âm. Đến đây ta đã có thể hình dung được hai nhành Thanh long, Bạch hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh Thanh long sau sự Trấn yểm của Cao biền và sau này là sự san ủi của người Pháp đã bị bế Khí rất nhiều. Tuy nhiên do sự sai lầm của Cao biền về độ số của cung Đoài nên sự trấn yểm đó không hoàn thiện. Theo các cổ thư chữ Hán, cung Đoài có độ số là 7 -ứng với phương Tây. Đây là độ số của Lạc thư. Chính vì vậy mà Cao biền mới Trấn yểm 7 cây cọc, theo đúng độ số của phương Tây.Tuy nhiên, theo hiểu biết của người viết và kết hợp với một số kinh nghiệm của một số tiền bối về Phong thủy ở vùng đất Phong châu ngày xưa (nay là tỉnh Phú thọ – Kinh đô của các Thời đại Hùng vương) thì độ số của phương Tây không phải là như vậy. Theo người viết, trong các vấn đề về Phong thủy thực hiện trên trái đất này phải dựa vào Hà đồ và độ số của Hậu thịên Bát quái mới chính xác. Khi đặt độ số của Hậu thiên Bát quái lên Hà đồ ta có một vòng tương sinh theo chiều thuận kim đồng hồ. Theo chiều từ phương Bắc, Đông Bắc, Đông, Đông nam,… tới Tây, tây bắc và trở lại về Bắc ta có các độ số như sau :1-8-3-2-7-4-9-6.
Ta vẫn biết rằng :
1 -là hành Dương Thủy.
6 -Là hành Âm Thủy.
8 -Là hành Âm Mộc.
3 -là hành Dương Mộc.
2 -là hành âm Hỏa.
7 -là hành Dương Hỏa.
5 – là hành Dương Thổ.
10 -là hành Âm Thổ.
4 -là hành Âm Kim.
9 -là hành Dương Kim.
Theo chiều thuận kim đồng hồ ta có các hành tương sinh với nhau như sau : Thủy (6-1) sinh Mộc (8-3) sinh Hỏa (2-7) sinh Thổ (10-5) sinh Kim (4-9) và lại trở về hành Thủy.Tôi không đi sâu vào việc chứng minh Lý thuyết trên vì nó khác với tất cả các cổ văn chử Hán từ xưa cho đến tận ngày hôm nay. Điều quan trọng là nếu Cao biền ngày xưa biết được điều này, thì giờ đây có thể chúng ta chỉ còn nghe danh sông Tô lịch trong Huyền sử.
Trở lại vấn đề trên sông Tô lịch, sau khi Cao biền Trấn,yểm dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại, kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này, dòng sông Tô, trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu, nay bị chặn lại từ khúc Thụy khê ra tới sông Hồng. Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng chẩy ngược lại. Hiện nay sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực Phường NGHĨA ĐÔ – QUẬN CẦU GIẤY – HÀ NỘI, theo thuận dòng chẩy (Ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy lâu có dòng Nghịch thủy) chẩy ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ ra lại sông Hồng. Như vậy hiện nay,dòng chẩy của sông Tô lịch đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên (Thay vì chẩy theo nhánh Thanh long như ngày xa xưa). Nhánh Thanh long thuộc Dương khí, đã bị ngăn, bế phần lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó.Ngược lại, nhánh bạch hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực hiện,ngòai trường hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh hóa,Nghệ an có một con rồng (Long mạch) nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm. Hai nhánh Thanh long và Bạch hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn, nay nhánh Thanh long bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường nhánh Bạch hổ. Theo nhận xét của người viết,kể từ đó về sau này, Thành Đại la bị mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là Thành Thăng long được xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch hổ. Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng : Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao biền, các vị Vua, tướng tài giỏi, các bậc hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc nhánh Bạch hổ mà ra.Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử.
Tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này,người viết tự nhận thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các Cao nhân,tiền bối trong và ngoài nước, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất nước. Các câu hỏi đó là : Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao biền lên, Nguyên khí bị thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô HÀ NỘI nói riêng và Đất nước này nói chung ??? Có thể hàn lại Long mạch như Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không? Khi Long mạch đã được phục hồi sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo ? Có thể lại xẩy ra hiện tượng sụt lở đất như ngày xưa không ?
Còn rất nhiều câu hỏi tiếp theo chủ đề này. Người viết xin tạm dừng ở đây và mong mỏi sự đóng góp của tất cả những người có lòng thương yêu Quê hương xứ sở, thương yêu Đất THĂNG LONG ngàn năm văn vật, là món quà có ý nghĩa mừng Sinh nhật 1000 năm THĂNG LONG -HÀ NỘI.
Trong bài viết, tôi có sử dụng một số Tài liệu của Gíáo sư NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG, ĐOÀN VĂN THÔNG, Ẩn sĩ PHƯỢNG – Nghệ an, Ẩn sĩ Lý Thiên Hương – Đức thọ Hà tĩnh và một số tài liệu của các Ẩn sĩ tỉnh PHÚ THỌ – Xin trân trọng cảm ơn! Tôi đã xác minh lại nguồn tin này: Theo Thượng tọa Thích HUỆ Xướng -Chùa Giác Lâm – Quận Tân bình – TP.HCM : Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã viên tịch khoảng hơn một tháng sau khi làm lễ cúng HÀN LONG MẠCH tại sông Tô lịch, nguyên nhân chết theo Y học là xuất huyết não. Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH là chủ trì chùa Hương.
(Nguồn: http://www.khongtu.com)
Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013
BÊN LỀ CỌC TRẤN YỂM SÔNG TÔ LỊCH - I
Ngày
21/9/2002, Báo Kinh Tế và Xã Hội đã đăng một bài về sự phát hiện trên
sông Tô lịch, phía cửa Tây của La Thành, một hiện tượng chấn yểm của
người xưa.
Hiện tượng này đã gây xôn xao dư luận
của Hà Nội và cả nước về những kỳ bí đang xẩy ra vào đầu thế kỷ 21 – Khi
mà KHKT đang phát triển như vũ bão.
Tóm lược sự
việc như sau : Vào ngày 27/9/2001, đội thi công số 12 -Thuộc Công ty xây
dựng VIC, trong khi nạo vét sông Tô Lịch,thuộc địa phận làng An Phú –
Phường Nghĩa Đô – Quận Cầu giấy – HÀ NỘI đã phát hiện được di vật cổ rất
lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành
một đa giác đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng
giữa các cọc gỗ đó. Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình
Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi, Ngựa, dao, tiền đồng.
Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy
các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt -Hà tây (là nơi nghĩa trang chôn cất
chung của TP.Hà nội), thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra.Nào là
các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự
nhiên lao xuống sông. Nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã
lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn
toàn mất tư thức trong nhiều giờ. Địa tầng của cả khu vực thi công tự
nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu. Thử đưa la bàn vào khu
vực đó thấy kim la bàn quay tít.
Một năm sau
sự việc trên,có hàng loạt sự kiên ngẫu nhiên xẩy ra ,gây kinh hoàng cho
toàn đội xây dựng số 12, là đội đã trực tiếp thi công khu vực trên. Bản
thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt
hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc
như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43
người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số
đó nhiều người không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng
ra họ được hưởng.
Ngày 9/10/2001 những người thợ đã mời
một thày theo đạo Tứ phủ đến giải thich, theo nhận định của Thày thì đây
là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời để chấn yểm Long
mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục mời Thượng tọa
Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn
tràng, làm lễ Hàn lại Long mạch.Theo một số người nói lại (tôi không có
điều kiện kiểm tra): chỉ hơn 1 tháng sau, Thượng tọa Thích Viên Thành
đã bị bệnh chết.
Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ
bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và
khắc phục các sự việc trên.
Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như
sau: Trước đây, cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa
(Thăng Long Tứ trấn) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến Sinh. Như vậy đây
là cổng thành phía Tây của La thành. Thông qua tính tương đối thống
nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ gốm cho thấy niên đại của địa
điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14, thuộc vào thời Lý -Trần Việt
Nam hay thời Tống của Trung Quốc.
Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng
sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau, đã tạo ra một lễ trấn
yểm, trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng. (Ở
đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong
chuyện cổ tích Việt nam – người viết). Đó là một phần của những gì đã
đăng tải trên tờ báo. Gần đây,một người bạn của tác giả có cho biết :
Đài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên
trạng di vật như lúc ban đầu.
Người viết bài này lại có ý kiến khác
hẳn : Theo thiển ý của người viết, đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm
cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí. Ai đã chấn yểm vị trí này và
mục đích sự chấn yểm này để làm gì ? Theo thiển ý của người viết : Đây
là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước
thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người viết xin được chứng minh như sau :
Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng; người viết cũng đồng ý
rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch, song không chỉ căn cứ vào niên
đại của một số đồ gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý –
Trần. Nếu theo Truyền thuyết “Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên Phù
hẹp lại” hay truyền thuyết “sự tích Ông Dầu bà Dầu”, tác giả của sự việc
trên là các vị Vua nhà Lý, nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu, thì
không có sự việc sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay
chỉ còn là một con sông nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội.
Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới
thuyền, là trục Giao thông chính thủa ấy. Mặt khác thời Lý Trần có rất
nhiều nhà Phong Thủy Việt nam tài giỏi như : Thiền sư Định không làng Cổ
pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tư 808 ), Sư La chân Nhân (852 -936 ),
Sư Vạn Hạnh…
Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để
cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô Lịch và Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô
Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu
về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi
qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.
Theo Việt sử lược : Thành Đại La được
xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường
khánh (Nhâm Dần -822 ), Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan
đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành
có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ. Thầy bói nói rằng :
Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao
đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ .
Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873 ), Cao
Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa
hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là
một nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn
lại cho hợp Phong Thủy vào các năm : 866, 867, 868. Theo truyền thuyết,
khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện
tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và
một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công
viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.
Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết
khác của dân tộc Việt nam. Đó là “Truyền thuyết Thành Cổ Loa” Tương
truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa, An Dương Vương cũng xây mãi mà
thành vẫn bị đổ. Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái
móng chân, lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong.
Về mặt địa lý, La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa (Theo đường chim bay chỉ vài chục km).
Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi :
Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp đất của Thành Cổ loa, sự sụp đất của
thành Đại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trình
nạo vét sông Tô Lịch ?.
Qua hai truyền thuyết trên, bỏ qua các
sự việc có tính chất dị đoan, chúng ta phải chấp nhận một sự thực là:
Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa – Đông Anh HÀ NỘI
là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ
rằng : Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây
Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH,
SƠN LA, LAI CHÂU… Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch xuất
phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ
sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu
sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng
xuống, các đỉnh núi cao là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự
việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ
núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài
qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nước), chạy
qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông
Hồng), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa -Đông Anh – HÀ NỘI và còn
theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp .
Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền
phải vô cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều
tryền thuyết về Cao Biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long
mạch này. Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao Biền liên quan đến
các khu vực của Long mạch này : Đầu tiên là truyền thuyết Cao Biền chấn
yểm núi Tản Viên, hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để
chấn yểm núi Tản viên. Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp
đất nung đó tại khu vực Hà nội. Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng
hơn 4 tấn sắt, đồng…chôn để chấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô
Lịch trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim
loại : sắt, đồng, vàng, bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch.
Theo sử sách, Cao Biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô
Lịch.
Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị đại sư
tài ba lỗi lạc, hiểu biết rất giỏi về Nho,Y, Lý số và thuật Phong Thủy
đã hóa giải sự trấn yểm của Cao Biền bằng phép Huyền môn. Các đại sư
thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì, hay ở đền
BẠCH MÃ, dùng những hiểu biết về Phong Thủy để chấn áp bùa phép của Cao
Biền.
Trở lại, đạo bùa tìm thấy trên lòng sông
Tô Lịch, có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng : Đó là tác phẩm
của Cao Biền, chứ không phải là của các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là của
Cao Biền đời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức là trước thời các nhà Lý
khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ). Nếu xét về niên đại của cổ vật
tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay
đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất liền
rớt xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biền trấn yểm.
Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao
Biền khi trấn yểm sông Tô Lịch. Cho tới tận giờ phút này, khi các bạn và
tôi đang ngồi bên máy vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật : Châm
cứu, điện chẩn, xoa bóp, bấm huyệt … để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật
đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch, huyệt, lạc trong cơ
thể con người. Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong
cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta dùng
kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông
sâu khác nhau. Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm
huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử
động, hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được. Ta vẫn biết
rằng :THIÊN ĐỊA NHÂN là hợp nhất. Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều
phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải nói
dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng, trên Trái đất này cũng
phải có những đường kinh mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người.
Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như
nhiều người vẫn nghĩ. Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một
điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào đó, có thể ngăn, bế
hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này
người xưa gọi là trấn yểm.
Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau :
1. Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô
Lịch là của Cao Biền -Tiết độ sứ của nhà Đường, dùng để chấn yểm long
mạch, khi tiến hành xây dựng thành Đại La vào thế kỷ 9. Đó là 1 trong 19
nơi mà Cao Biền đã thực hiện trấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải
do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu, bà Dầu
khoảng 200 năm sau khi Cao Biền thực hiện chấn yểm.
2. Chấp nhận có một Long mạch rất lớn
xuất phát từ phía Tây của thành Đại La (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa
Bình, Sơn La, Lai Châu, và gần nhất là dãy núi Tản Viên); Long mạch này
đi qua thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô Lịch, qua khu vực Hồ Tây,
kéo dài sang Cổ Loa – Đông Anh – HÀ NỘI; Long mạch này còn kéo dài tới
dãy Yên Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là nhánh
Thanh Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin
chứng minh tiếp.
3. Cao Biền đã thực hiện biện pháp chấn
yểm Long mạch, nhằm bế dòng khí của Long mạch này. Thủ thuật trấn yểm
tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học.
Đến đây,ta lại tiếp tục đặt ra câu hỏi :
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn
đã xẩy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12. Bản chất hiện
tượng đó như thế nào ?
2. Tại sao sau khi Cao Biền trấn yểm
sông Tô Lịch, kể từ đó tới tận ngày hôm nay, trong lịch sử ta không còn
nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ trường hợp trên sông Tô Lịch đã
nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc trấn yểm lên.
3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên
sẽ như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả
khu vực HÀ NỘI, các vùng phụ cận nói chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối
với Long mạch đi qua thành Đại la ?
4. Biện pháp khắc phục sự việc trên như
thế nào ? Người ta có thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa Thích Viên
Thành đã thực hiện hay không ?. Trường hợp khôi phục lại Bùa chấn yểm đó
xấu hay tốt ?.
Người viết bài này xin mạo muội lý giải
các câu hỏi trên. Vì tình yêu đối với HÀ NỘI, quê hương của người viết,
vì trách nhiệm một người Việt nam đối với quê hương rất mong được cùng
các bạn trao đổi, hầu tìm ra những giải pháp khắc phục hiện tượng kể
trên. Đó là trách nhiệm chung của chúng ta không chỉ phải của riêng ai.
Người viết xin được lần lượt lý giải các vấn đề trên như sau :
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn
xảy ra cho các Công nhân trong đội xây dựng số 12 -Bản chất của hiện
tượng đó như thế nào ?.
Trong thuật Phong Thủy, Khí là một hiện
tượng rất khó giải thích, nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật
Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu
của Phong Thủy. Theo quan niệm Á đông, Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời
đất vạn vật. Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hình mà còn
tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất Linh
thiêng gọi là Linh Khí của Vũ trụ. Người xưa có câu : Tụ là hình tán là
Khí. Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí, gọi là
Plasma sinh học, các dạng đó có thể đo, đếm được. Trong Đông Y học người
ta phát hiện Hệ thống Kinh, Mạch, Huyệt là đường vận hành của Khí từ
rất xa xưa. Người ta phát hiện rằng : Khí vận hành trong Kinh, Lạc như
một dòng nước, chỗ đi ra gọi là Tĩnh, trôi trảy gọi là Huỳnh, dồn lại
gọi là Du, đi qua gọi là Kinh, nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh không đơn
giản là một ống dẫn vật chất nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí
Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan, bộ phận của một Tạc tượng. Ngoài ra
người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời
châm vô cùng chính xác là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp. Đó là
trên cơ thể con người,còn trong Phong Thủy ,người ta quan niệm rằng
Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự như hệ thống mạch, huyệt trong Đông
Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước, nước giúp Khí di chuyển, nước
đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng. Sinh
Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước (nơi các dòng sông hội tụ
chẳng hạn). Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí, dùng cho việc
chứng minh luận điểm của mình, còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng, vô
tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người
chết đối với người thân thích còn sống như thế nào ?. Theo Giáo sư
Nguyễn Hoàng Phương: Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp
xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn
sống, nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào.
Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống,
dòng họ. Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết
về Nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là
bội số của Tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái
huyết thống.
Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô
Lịch: Người viết cho rằng : Long mạch đã nói ở phần trên bị Cao Biền
trấn yểm đúng Huyệt vị, đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo Bùa chấn yểm.
Hậu quả của đạo Bùa này làm cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo
hành trình vốn có của nó, làm cho vùng đất dọc theo Long mạch sau khi bị
chấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn. Bằng chứng là về sau này ta
không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa. Ta có thể
hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu, bị cột lại
một đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa. Các bộ phận cơ
thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô, teo đi.
Ta cũng để ý một điều rằng :Thành phố Hà nội ngày nay có rất nhiều hồ
nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Ha Le …Mặt
khác sông Tô Lịch và Thiên Phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là
con mương nhỏ dẩn nước thải cho TP.HÀ NỘI. Ở đây có một câu hỏi thú vị
là : Nếu như Cao Biền (vốn được coi là tổ sư của Phong Thủy) đã quyết
tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô Lịch thì sao cho đến tận bây giờ
sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại (mặc dù chỉ là con mương nhỏ). Theo người
viết, nếu Cao Biền trấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên
của nó qua lịch sử. Đến đây người viết khẳng định : Cao Biền có sự sai
lầm trong việc chấn yểm. Nguyên nhân sự sai lầm của Cao Biền chính là sự
hiểu biết vô cùng chính xác của các vị Vua Hùng – Tổ tiên của người
Việt chúng ta trong thuật Phong Thủy nói riêng và trong Thuyết Âm Dương,
Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được các sự việc sẽ xẩy ra, sau khi
mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của Thuyết Âm Dương
Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên
nhân của sự việc xẩy ra cho công nhân đội xây dựng số 12. Theo người
viết như sau : Tại chỗ có đạo Bùa, Nguyên Khí bị bế lại lâu năm, khi
tháo gỡ đạo Bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu, Nguyên khí
bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh. Ta chưa
xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một
điều rằng : Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung
quanh chỗ đường Khí được giải phóng. Chính vì vậy những người Công nhân
đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu.
Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả
năng hoạt động Thần kinh. Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công
nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng của Quy luật
“Đồng thanh tương ứng – Đồng Khí tương cầu”, hay là hiện tượng cộng
hưởng Harmonic mà Thân nhân, dòng họ của những người công nhân đội xây
dựng số 12 phạm phải, mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công trường.
Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu.
Có điều nguy cơ tiềm ẩn ở đây là : Nơi
dòng Khí thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với TP.HÀ NỘI ? Đây là
một vấn đề quan trong cần có sự nghiên cứu nghiêm túc.
2. Trả lời cho câu hỏi : Tại sao sau khi
có sự chấn yểm của Cao biền,vùng đất dọc theo Long mạch kể từ chỗ bị
trấn yểm trở nên cứng và ổn định hơn và từ đó về sau này ta không còn
nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực dọc theo Long mạch tương tự
nữa,ngoại trừ trường hợp đã xẩy ra trên sông Tô Lịch, khi đạo Bùa trấn
yểm đã được nhổ lên ?.
Tiếp tục phát triển tính nhất quán của
phần trên : Khi đường Khí của Long mạch đã bị bế lại, nguyên Khí không
thể tới được các vùng đất ở sau chỗ trấn yểm được nữa, và Nguyên Khí
luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng đó cũng bị giảm đi. Kết
quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên, và kết cấu của Địa tầng,
địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng đất đã có địa tầng địa,
chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công
trình tự nhiên mất đi. Đó là một sự việc không có gì là bí ẩn trong
nghệ thuật xây dựng hiện nay. Tại công trình nạo vét sông Tô Lịch, khi
đạo Bùa chấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên khí bị phong tỏa ùa thoát ra
ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn, làm cho đất, đá của cả
khu vực nhão ra như bùn, trở nên mất ổn định cục bộ. Ở đây ta cũng cần
lưu ý rằng : Khi Nguyên khí thâm nhập vào lòng đất quá nhiều thì không
chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn khác đều trở thành
bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính chất của nước. Ta
cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không có vùng đó sẽ trở
nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là trường hợp của các
sa mạc, hoang mạc trên trái đất. Tại núi Ngự bình ở Huế cũng có trường
hợp tương tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự bình
song đều thất bại.
Như vậy, ta có thể kết luận rằng : Trong
quá trình xây dựng Thành Đại la, Cao Biền gặp một vùng đất có kết cấu
không ổn định nên đã thực hiên việc trấn yểm kể trên với mục đích làm
cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực hiện là dùng thủ pháp
điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt trong đông Y.
Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long mạch, các huyệt phát
Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây nên
sự trấn yểm không được trọn vẹn. Bằng chứng là Sông Tô Lịch vẫn còn tồn
tại và chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt dã giành được độc lập. Một
dải Long mạch đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con người nổi tiếng,
những vùng đất địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên tử, Đền Kiếp
Bạc… Một nguyên nhân nữa sau này, đã phá hoại sự linh thiêng của Long
mạch là các việc san lấp của người Pháp, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Không biết vô tình hay hữu ý, khi xây dựng TP.HÀ NỘI, người Pháp đã cho
lấp mất khúc sông Tô Lịch, nơi đổ ra sông Hồng – Nay là các phố Hàng
Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ… Và Nhà thờ lớn HÀ NỘI hiện nay đặt trên nền của
Tháp Báo Ân ngày xưa…
Một dân tộc đã được thiên nhiên ưu đãi
về Địa linh về Sinh khí phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ
và khai thác sức mạnh tâm sinh khí đó. Chúng ta cần phải có các chương
trình đào tạo các bậc anh hùng, hào kiệt, những bậc hiền tài cho Đất
nước, những vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các bậc Thánh Đế,
Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với non sông, đất nước.
3. Tôi xin
tiếp tục lý giải câu hỏi thứ 3 : Hậu quả của việc rút bỏ Đạo Bùa đối với
khu vực dọc theo sông Tô lịch nói riêng và cả HÀ NỘI nói chung. Số phận
của Long mạch sẽ như thế nào ? Đây là một câu hỏi hết sức khó vì tính
chất phức tạp của nó. Người viết xin mạo muội lý giải và rất mong được
các bậc hiền tài trong và ngoài Diễn đàn góp ý, bổ khuyết hầu có thể tìm
ra biện pháp tốt nhất khắc phục được hậu quả của Lịch sử. Tôi coi đây
là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng ta.
Trước hết,ta xem xét hậu quả của việc
Trấn yểm của Cao biền và những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối
với khu vực sông Tô lịch và các vùng phụ cận. Hiện nay, tôi không có tài
liệu nào chính thức về các biện pháp Trấn yểm đất của bộ môn Phong
thủy. Chỉ biết rằng từ xa xưa đã có các hiện tượng trấn yểm của Mã viện
(Trụ đồng Mã viện); các hiện tượng trấn yểm của Cao biền;các biện pháp
dùng Bia đá để trấn yểm nhà,các tấm Bài ếm ở quanh khu vực Thất sơn (Cái
ếm ở Bài Bài, thuộc làng Nhơn hưng -Tịnh biên -Châu đốc, cây ếm ở núi
Nước)…
Để có thể hiểu rõ tính chất và hậu quả
của việc trấn yểm,ta cần phải biết rõ lý thuyết trấn yểm và từ đó mới có
thể khắc phục được tác hại của nó. Từ xưa, việc trấn yểm được coi là
Thuật bí truyền của các thày Địa lý, không được tiết lộ ra ngoài, sợ lộ
Thiên cơ. Do vậy mà lý thuyết về sự trấn yểm đến tận giờ phút này vẫn
được coi là một cái gì đó huyền bí, ma thuật, không có tài liệu nào được
truyền ra. Tuy nhiên theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân là một, ta có thể
dùng Lý thuyết của Đông Y để tìm hiểu vấn đề này.Mặt khác,Thuyết Âm
Dương,Ngũ hành với cơ sở là Hà đồ,Lạc thư là một công thức siêu Vũ trụ
có thể lý giải tất cả các vấn đề từ Vi mô tới Vĩ mô,nó là Công thức Tổng
quát của Vũ trụ mà khoa học ngày nay đang ao ước, tìm kiếm. Tôi sẽ xin
trở lại vấn đề này khi có dịp. Bây giờ ta trở lại Lý thuyết của Đông Y
về Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc là một sự ứng dụng rất cụ thể và phong phú của
Thuyết Âm Dương,Ngũ hành. Lý thuyết của Đông Y về Kinh, Mạch, Huyệt,
Lạc rất phức tạp và có từ rất lâu đời,cuốn sách đầu tiên có thể là cuốn
Hoàng đế nội kinh,có thời điểm khoảng 5000 năm. Tôi chỉ xin dẫn giải
những gì cần thiết để chứng minh cho luận điểm của mình.
Còn tiếp...Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013
CỔ LƯƠNG TỪ
Đền
Cổ Lương ở số nhà 28 phố Nguyễn Siêu, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm,
Hà Nội. Đền Cổ Lương thờ công chúa Liễu Hạnh hay Mẫu Liễu. Liễu Hạnh là
vị nữ thần được thờ phổ biến trong nhiều kiến trúc tôn giáo truyền
thống. Sự tích của Liễu Hạnh được lưu truyền rộng rãi ở nhiều vùng quê
trong nước, đặc biệt ở vùng Bắc bo. Mặc dù sự xuất hiện của nhân vật vào
thời Lê Trịnh, song bà chúa Liễu là một trong “Tứ bất tử” của thần điện
Việt Nam. Di tích thờ bà chúa Liễu thường là ở các đền phủ, đặc biệt
phổ biến trong điện mẫu các chùa.
Trong đền Cổ Lương hiện nay còn lưu giữ các tư liệu chữ Hán: văn bia, hoành phi, câu đối, sắc phong. Sách “Trích văn lục”, “Truyền kỳ tân phả” và “Vân cát thần nữ” cho biết: công chúa Liễu Hạnh là con gái vua cha Ngọc Hoàng, tính tình ngang bướng, phóng túng không chịu theo khuôn phép nhà trời. Vì đánh vỡ chén ngọc, nàng bị vua cha giáng xuống trần, đầu thai vào nhà Lê Thái Công (ở xã Vân Cát, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà) mang tên Giáng Tiên.
Khi lớn lên Giáng Tiên làm con nuôi một vị Hữu quan họ Trần, được học hành đầy đủ nên có tài văn chương, đàn sáo. Năm 16 tuổi, nàng lấy chồng là Đào Lang, con vị Hữu quan ở làng. Vợ chồng ăn ở với nhau được 5 năm thì nàng hết hạn đầy, vào ngày 3 tháng 3 (Âm lịch), không bị bệnh tật mà mất, để lại cho chồng hai đứa con: 1 trai, 1 gái.
Giáng Tiên về trời nhưng lòng trần chưa dứt, công chúa lại được vua cha cho xuống trần và đổi tên là Liễu Hạnh. Lần này với phép biến hoá huyền diệu, nàng gặp lại chồng con và bố mẹ nhưng sau đó lại bỏ đi. Với tính cách phóng túng, tung tích vô định, lúc làm bà già chống gậy, lúc làm cô gái thổi sáo, nàng đi khắp đất nước. Ở Lạng Sơn, nàng làm thơ ghẹo sư Đại Việt từ Trung Hoa trở về, ở Hồ Tây làm cô gái bán rượu, ngâm vịnh, dự tiệc cùng danh nhân Phùng Khắc Khoan. Sau đó, công chúa Liễu Hạnh vào Nghệ An, hiện thân là một phụ nữ trần gian, kết duyên với người học trò, hàng ngày làm thơ xướng hoạ, cùng chồng sau sinh được con trai, ở với chồng con được mấy năm, lại trở về trời.
Sau 3 năm ở thiên đình, vì nhớ cõi trần nên công chúa xin Ngọc Hoàng cho xuống trần một lần nữa, lần này bà mang theo hai tiên nữ là Quỳnh Hoa và Quế Hoa. Họ trú ngụ ở phố Cát (Thanh Hoá) dạy dân cày cấy xây dựng cuộc sống. Ở đây, người thường hiển linh: người lành được hưởng phúc, kẻ ác bị tai nạn, vì thế nhân dân đã lập đền thờ bà. Nhưng nhà vua không tin (lúc đó là đời vua Huyền Tông), cho là yêu quái, đã xuống chiếu huỷ đền. Bà chúa Liễu đã gây thiên tai, bệnh tật giết hại nhiều người để ra oai trả thù, nên nhà vua phải cho sửa lại đền và hàng năm cử quan đến tế lễ. Để trả ơn vua, bà chúa đã dùng phép thần thông giúp vua Lê đánh thắng Chiêm Thành, nên nhà được nhà vua ban tặng sắc phong là “Liễu Hạnh công chúa”, đến thời Nguyễn lại được suy tôn là “Mẫu nghi thiên hạ”.
Qua quá trình tồn tại trong lịch sử, Liễu Hạnh được tôn vinh trong tín ngưỡng dân gian cuối thời Trung cổ là “Tứ bất tử”, bởi vì một mặt Liễu Hanh tượng trưng cho tinh thần phóng túng tự do. Mặt khác, trong tâm thức dân gian, bà chúa có thể ban phúc cho mọi người.
Hiện tại, trong đền Cổ Lương lưu giữ các hoành phi, câu đối, ca ngợi công đức của Mẫu Liễu Hạnh. Bức hoành phi ghi: “ Thao thuỷ khôn tinh” (Đức kiên trung như nước sông Thao).
Đôi câu đối
Tây Hồ dạ nguyệt quy tiên hạc.
Sùng dĩnh xuân hoa ám khải vân.
Nghĩa là
Mẫu giáng xuống ở Sò Sơn
Đêm ngự ở Tây Hồ như tiên nữ.
Kiến trúc của ngôi đền hiện nay khá khang trang, sạch đẹp, quay hướng nam, gồm có cổng nhỏ, sân hẹp tiền tế và hậu cung. Kiến trúc đền Cổ Lương hiện còn lưu lại là kiến trúc nghệ thuật mang phong cách triều Nguyễn. Nội thất gồm 3 gian tiền tế và một hậu cung kiểu kiến trúc đơn giản: bộ khung bằng gỗ lim còn khá tốt; các đồ thờ cúng cùng các di vật còn khá đầy đủ, được bảo quản tốt. Phía cổng còn một cây bàng to, cành lá xum xuê làm tôn thêm phần cổ kính của di tích, đồng thời đó cũng là điểm dễ nhận ra nhất của di tích này.
Trong đền hiện tại lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị: 2 sắc phong Liễu Hạnh công chúa:
+ Sắc thứ nhất : có niên đại Duy Tân thứ 5 (8/6/1911)
+ Sắc thứ hai : Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật (năm Khải Định thứ 9).
+Các Sắc phong này hiện nay đã bị thất lạc( Theo TS Chu Xuân Giao)
Một quả chuông đồng to: “ Cổ Lương chung ký” (Bài ký trên chuông đồng Cổ Lương) được đúc vào nên hiệu Thiện Trị thứ 3 (1843).
Bài ký trên chuông ghi mục đích, ý nghĩa của việc đúc chuông để lại cho muôn đời sau, ghi tên những người đóng góp công đức để tu sửa đền và đúc chuông.
Trong đền còn bốn tấm bia đá thời Nguyễn. Bia “Cổ Lương hương đình ký” được làm ngày lành Tự Đức thứ 3 (1879) do tiến sỹ Vũ Nhị, hiệu Đông Hầu Đốc học Hà Nội biên soạn. Nguyễn Mặc Khanh viết bia ghi việc tu sửa đền: Trước đây lợp giang đơn sơ, nay dân làng sửa sang lại, cao ráo, sáng sủa, tô vẽ sơn son, thờ thần uy nghi, dân cư yên vui làm ăn là nhờ công đức của thần.
Bốn bức hoành phi gỗ, 6 câu đối nội dung ca ngợi công đức của Mẫu Liễu Hạnh.
Hai bắc cuốn thư gỗ, 3 ngai thờ, 18 pho tượng và đáng chú ý hơn cả là pho tượng lớn đặt trong khám thính tại gian chính giữa hậu cung: tượng mặc áo đỏ, khuôn mặt phúc hậu.
Ngoài ra còn một số đồ thờ khác: lọ hoa, cây nến, bát hương sứ, đồng, bộ bát bửu.
Với kiến trúc còn nguyên vẹn cùng cảnh quan bên ngoài khá đẹp, đền Cổ Lương nằm ngay rong khu phố cổ Hà Nội sẽ là điểm dừng chân lý thú cho khách tham quan trong và ngoài nước khi đến với thủ đô Hà Nội.
Trong đền Cổ Lương hiện nay còn lưu giữ các tư liệu chữ Hán: văn bia, hoành phi, câu đối, sắc phong. Sách “Trích văn lục”, “Truyền kỳ tân phả” và “Vân cát thần nữ” cho biết: công chúa Liễu Hạnh là con gái vua cha Ngọc Hoàng, tính tình ngang bướng, phóng túng không chịu theo khuôn phép nhà trời. Vì đánh vỡ chén ngọc, nàng bị vua cha giáng xuống trần, đầu thai vào nhà Lê Thái Công (ở xã Vân Cát, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà) mang tên Giáng Tiên.
Khi lớn lên Giáng Tiên làm con nuôi một vị Hữu quan họ Trần, được học hành đầy đủ nên có tài văn chương, đàn sáo. Năm 16 tuổi, nàng lấy chồng là Đào Lang, con vị Hữu quan ở làng. Vợ chồng ăn ở với nhau được 5 năm thì nàng hết hạn đầy, vào ngày 3 tháng 3 (Âm lịch), không bị bệnh tật mà mất, để lại cho chồng hai đứa con: 1 trai, 1 gái.
Giáng Tiên về trời nhưng lòng trần chưa dứt, công chúa lại được vua cha cho xuống trần và đổi tên là Liễu Hạnh. Lần này với phép biến hoá huyền diệu, nàng gặp lại chồng con và bố mẹ nhưng sau đó lại bỏ đi. Với tính cách phóng túng, tung tích vô định, lúc làm bà già chống gậy, lúc làm cô gái thổi sáo, nàng đi khắp đất nước. Ở Lạng Sơn, nàng làm thơ ghẹo sư Đại Việt từ Trung Hoa trở về, ở Hồ Tây làm cô gái bán rượu, ngâm vịnh, dự tiệc cùng danh nhân Phùng Khắc Khoan. Sau đó, công chúa Liễu Hạnh vào Nghệ An, hiện thân là một phụ nữ trần gian, kết duyên với người học trò, hàng ngày làm thơ xướng hoạ, cùng chồng sau sinh được con trai, ở với chồng con được mấy năm, lại trở về trời.
Sau 3 năm ở thiên đình, vì nhớ cõi trần nên công chúa xin Ngọc Hoàng cho xuống trần một lần nữa, lần này bà mang theo hai tiên nữ là Quỳnh Hoa và Quế Hoa. Họ trú ngụ ở phố Cát (Thanh Hoá) dạy dân cày cấy xây dựng cuộc sống. Ở đây, người thường hiển linh: người lành được hưởng phúc, kẻ ác bị tai nạn, vì thế nhân dân đã lập đền thờ bà. Nhưng nhà vua không tin (lúc đó là đời vua Huyền Tông), cho là yêu quái, đã xuống chiếu huỷ đền. Bà chúa Liễu đã gây thiên tai, bệnh tật giết hại nhiều người để ra oai trả thù, nên nhà vua phải cho sửa lại đền và hàng năm cử quan đến tế lễ. Để trả ơn vua, bà chúa đã dùng phép thần thông giúp vua Lê đánh thắng Chiêm Thành, nên nhà được nhà vua ban tặng sắc phong là “Liễu Hạnh công chúa”, đến thời Nguyễn lại được suy tôn là “Mẫu nghi thiên hạ”.
Qua quá trình tồn tại trong lịch sử, Liễu Hạnh được tôn vinh trong tín ngưỡng dân gian cuối thời Trung cổ là “Tứ bất tử”, bởi vì một mặt Liễu Hanh tượng trưng cho tinh thần phóng túng tự do. Mặt khác, trong tâm thức dân gian, bà chúa có thể ban phúc cho mọi người.
Hiện tại, trong đền Cổ Lương lưu giữ các hoành phi, câu đối, ca ngợi công đức của Mẫu Liễu Hạnh. Bức hoành phi ghi: “ Thao thuỷ khôn tinh” (Đức kiên trung như nước sông Thao).
Đôi câu đối
Tây Hồ dạ nguyệt quy tiên hạc.
Sùng dĩnh xuân hoa ám khải vân.
Nghĩa là
Mẫu giáng xuống ở Sò Sơn
Đêm ngự ở Tây Hồ như tiên nữ.
Kiến trúc của ngôi đền hiện nay khá khang trang, sạch đẹp, quay hướng nam, gồm có cổng nhỏ, sân hẹp tiền tế và hậu cung. Kiến trúc đền Cổ Lương hiện còn lưu lại là kiến trúc nghệ thuật mang phong cách triều Nguyễn. Nội thất gồm 3 gian tiền tế và một hậu cung kiểu kiến trúc đơn giản: bộ khung bằng gỗ lim còn khá tốt; các đồ thờ cúng cùng các di vật còn khá đầy đủ, được bảo quản tốt. Phía cổng còn một cây bàng to, cành lá xum xuê làm tôn thêm phần cổ kính của di tích, đồng thời đó cũng là điểm dễ nhận ra nhất của di tích này.
Trong đền hiện tại lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị: 2 sắc phong Liễu Hạnh công chúa:
+ Sắc thứ nhất : có niên đại Duy Tân thứ 5 (8/6/1911)
+ Sắc thứ hai : Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thập ngũ nhật (năm Khải Định thứ 9).
+Các Sắc phong này hiện nay đã bị thất lạc( Theo TS Chu Xuân Giao)
Một quả chuông đồng to: “ Cổ Lương chung ký” (Bài ký trên chuông đồng Cổ Lương) được đúc vào nên hiệu Thiện Trị thứ 3 (1843).
Bài ký trên chuông ghi mục đích, ý nghĩa của việc đúc chuông để lại cho muôn đời sau, ghi tên những người đóng góp công đức để tu sửa đền và đúc chuông.
Trong đền còn bốn tấm bia đá thời Nguyễn. Bia “Cổ Lương hương đình ký” được làm ngày lành Tự Đức thứ 3 (1879) do tiến sỹ Vũ Nhị, hiệu Đông Hầu Đốc học Hà Nội biên soạn. Nguyễn Mặc Khanh viết bia ghi việc tu sửa đền: Trước đây lợp giang đơn sơ, nay dân làng sửa sang lại, cao ráo, sáng sủa, tô vẽ sơn son, thờ thần uy nghi, dân cư yên vui làm ăn là nhờ công đức của thần.
Bốn bức hoành phi gỗ, 6 câu đối nội dung ca ngợi công đức của Mẫu Liễu Hạnh.
Hai bắc cuốn thư gỗ, 3 ngai thờ, 18 pho tượng và đáng chú ý hơn cả là pho tượng lớn đặt trong khám thính tại gian chính giữa hậu cung: tượng mặc áo đỏ, khuôn mặt phúc hậu.
Ngoài ra còn một số đồ thờ khác: lọ hoa, cây nến, bát hương sứ, đồng, bộ bát bửu.
Với kiến trúc còn nguyên vẹn cùng cảnh quan bên ngoài khá đẹp, đền Cổ Lương nằm ngay rong khu phố cổ Hà Nội sẽ là điểm dừng chân lý thú cho khách tham quan trong và ngoài nước khi đến với thủ đô Hà Nội.
http://www.hoankiem.vn/city_info/anzeige/news/aktuelles/show.cfm?region_id=70&keyword=&masterid=2404&id=2589
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)