Translate

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

TÍN NGƯỠNG TỨ PHỦ - NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HIỆN THỰC- 2

3. Tính cách các chân đồng:
Trong tín ngưỡng Tứ phủ, việc hầu bóng thường niên của các chân đồng dẫn đến một hiệu ứng tâm lý đặc trưng. Sống trong niềm tin mãnh liệt, đa số họ thường tự cảm nhận rằng mình là người có khả năng giao tiếp, thậm chí hóa thân thành các vị thánh trên điện thần, thay mặt thánh Mẫu đối thoại với thế giới trần gian. Sự “hóa thân” đó lại thường diễn ra trong sự ngưỡng vọng của đám đông các con nhang đệ tử. Điều đó dẫn đến một ảo giác, nhiều người tự cảm nhận mình như thế thiên, thế thánh hành đạo, được Mẫu cho quyền năng phán truyền, cứu độ, ban tài phát lộc cho nhân gian. Theo đó, tâm lý tự kỷ mình là “con cưng của Mẫu”, được các vị thánh yêu chiều nhất là một hệ quả tất yếu. Hiệu ứng đó giống hệt như những đứa con được cưng chiều trong một gia đình. Hơn thế, đây lại là một “đại gia đình quyền uy” trên “thiên cung”, “mẹ cha” đều là những bậc thánh nhân hiển linh cứu đời với vai vế trong một mô hình thiên đình tưởng tượng. Có thể đó là một chiều cạnh lý giải chữ ĐỒNG- con trẻ?! Những người lớn trong lốt “trẻ thơ” được “Mẫu yêu chiều” đó thường có những tính cách đặc trưng riêng, cái mà dân gian đã tổng kết từ bao đời nay bằng thành ngữ “tính đồng bóng”, kiểu “sớm nắng chiều mưa”! Hiểu được tâm lý “con cưng thánh Mẫu” trong “đại gia đình thiên cung”, mới có thể lý giải được những tính cách mạnh mẽ pha chút đỏng đảnh, khó tính khó chiều… của rất nhiều ông đồng, bà đồng.
Trong vấn hầu, các chân đồng bao giờ cũng lần lượt nhập vai từ dăm bảy đến trên dưới hai chục vị thánh, lúc biến thành thánh nam, lúc biến thành thánh nữ. Như thế các ông đồng sẽ thường xuyên phải “hóa thân” thành nữ thần và ngược lại, các bà đồng cũng thường xuyên “hóa thân” thành nam thần. Khi nhập vai, họ phải cố thể hiện những tính cách “khác giới” trong sự cổ vũ, ngưỡng mộ, “nịnh đồng” của cung văn và đám con nhang đệ tử đi theo. Trong một niềm tin tín ngưỡng lớn lao trước điện thần, lâu ngày, hiện tượng đó dần dà chi phối đời sống thực tại của các chân đồng, dẫn đến một sự pha trộn tính cách giới khá điển hình. Với những suy tưởng, những dư âm của sự “nhập vai” thánh thần, các ông đồng thì thường có chút mềm mại, dịu dàng, thậm chí yểu điệu kiểu nữ tính, còn các bà đồng thì hình thành tính cách mạnh mẽ, quyết đoán kiểu nam tính. Trên thực tế, hiệu ứng tâm lý đó là một hiện tượng có thật nhưng không phải ai cũng dám đề cập vì có nhiều phần nhậy cảm!
Mặt khác, trong hệ thống điện thần, sẽ thấy số lượng các vị thánh nữ vượt trội hơn so với các vị thánh nam. Hơn nữa, theo quan sát thực tế, đa số các giá đồng “được lựa chọn” để hầu lại chủ yếu là các thánh nữ. Đây hẳn là hiệu ứng tâm lý “ưu tiên” nữ thần, bởi bản chất của Tứ phủ vốn tôn thờ Thánh Mẫu ở ngôi vị cao nhất?! Theo đó, sự “hóa thân” của các chân đồng thiên về giới nữ nhiều hơn cũng là điều dễ hiểu. Ngoài ra, mỗi chân đồng còn tự cảm nhận số mạng của mình ứng với một hay vài vị thánh cụ thể, gọi là “căn đồng”. Có người ứng với căn ông Hoàng Bảy, có người ứng với căn Chầu Chín, Cô Bơ..v.v.. Điều đó cũng chi phối, ám ảnh những suy nghĩ và hành động của họ trong đời sống thực tại, tạo nên những tính cách đặc trưng riêng của giới con nhang đệ tử Tứ phủ.
Cũng xét trên bình diện dư âm của việc nhập vai thánh, sẽ thấy mỗi chân đồng tiềm ẩn năng lực của một diễn viên kiêm đạo diễn sân khấu. Nếu như vai diễn sân khấu đơn thuần là nghệ thuật thì vai diễn ở chiếu hầu đồng thực sự là một niềm tin tín ngưỡng lớn lao, chi phối toàn bộ đời sống tinh thần của người thủ vai. Về mặt hình thức, mỗi lần hầu đồng, việc liên tiếp ứng diễn nhập vai nhiều nhân vật khác nhau khiến các chân đồng hình thành một tính cách nhanh nhậy, linh hoạt và đặc biệt thích ứng tốt trong nhiều tình huống ứng xử ngoài đời. Bên cạnh đó, khả năng tổ chức, chỉ đạo xếp sắp những cuộc hành lễ trong môi trường tâm linh tín ngưỡng đã tác động mạnh mẽ, tạo thành một tính cách quyết đoán điển hình của các chân đồng trong cuộc sống. Điều này lý giải một phần tại sao đa số những chân đồng thường hoạt bát hơn người và rất tự tin trong đời thường. Đó hẳn là nguyên nhân khiến họ thường buôn may bán đắt, làm ăn phát đạt?! Ngoài ra, sẽ thấy việc “tự hóa thân” thường xuyên thành các vị thánh tối cao trên hệ thống điện thần là điều vô cùng độc đáo, dường như chỉ có ở tín ngưỡng Tứ phủ. Khi chân đồng nhập vai, đám các con nhang đệ tử nhất nhất ngưỡng mộ, coi chân đồng như một vị thánh thực thụ để mà chắp tay vái lạy, khẩn cầu. Đó thực sự là yếu tố hấp dẫn, thỏa mãn được nhu cầu thăng hoa của mỗi cá thể gia nhập. Thử tưởng tượng trong phút chốc, ta bỗng dưng được trở thành thánh nhân, đứng cao hơn cộng đồng mà phán truyền, dạy bảo, mà ban tài phát lộc, thật sung sướng và thú vị biết mấy! Mới hiểu tại sao người ta có thể bỏ ra hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đến bạc tỷ để tổ chức một vấn hầu đồng mỗi năm.
di tich chin gieng
Di tích chín giếng (Bỉm Sơn- Thanh Hóa)
4.Tính mơ hồ và những nghi vấn- Sự hồn nhiên của dân gian:
Trong tín ngưỡng Tứ phủ, thứ bậc các vị thánh được sắp xếp theo quan niệm vũ trụ với 4 ngôi cơ bản đầu tiên là:
+Ngôi thứ nhất -miền trời (thiên phủ)
+Ngôi thứ hai -miền rừng (nhạc phủ)
+Ngôi thứ ba -miền nước (thoải phủ)
+Ngôi thứ tư -miền đất (địa phủ)
Các thứ bậc còn lại được sắp đặt theo số đếm thứ tự, không theo một tiêu chí nhất định.
Như đã biết, trong tín ngưỡng dân dã, sự lựa chọn của cộng đồng nhiều khi rất hồn nhiên, không mang tính thuyết phục theo một trật tự hợp lý chung nhất. Tín ngưỡng Tứ phủ cùng vậy, việc lựa chọn cũng như sự sắp đặt thứ bậc trước sau của các vị thánh trên hệ thống điện thần dường như mang tính ngẫu nhiên nhiều phần(?) Ở đây, tại sao Ông hoàng Bảy, Cô Chín lại được xếp ở ngôi thứ 7, thứ 9? Hay tại sao Chầu Năm Suối Lân lại ở vị trí thứ 5 chứ không phải là một vị trí khác..? Xin chỉ ra một vài hiện tượng để chúng ta cùng suy ngẫm.
+Chầu Bát Nàn có đền thờ ở Thái Bình- tương truyền là nữ tướng của Hai Bà Trưng bị quân giặc chém làm 8 mảnh, dân gian ví như bát nạn (8 nạn), rồi sau đọc trại đi thành Bát Nàn. Ở đây, số 8 đó đã khiến dân gian xếp đặt đức thánh bà ở vị trí thứ 8 (Chầu Bát).
+Quan Lớn Đệ Tam thờ ở đền Lảnh Giang (Duy Tiên- HàNam) tương truyền được sinh ra từ cuộc giao phối giữa người đàn bà và giao long (Vua Bát Hải Động Đình). Bà đẻ ra cái bọc nở thành 3 con rắn, sau hóa ra 3 chàng trai lập công giúp vua Hùng đánh giặc rồi được lập đền thờ. Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Thái Thượng Đẳng Thần là sắc phong cho 3 anh em nhà ngài, dân gian gọi là Đệ Tam Quan lớn. Như thế, ngôi thứ ĐỆ TAM vừa có thể hiểu là ứng với miền thoải phủ nhưng đồng thời cũng có thể hiểu rằng 3 anh em nhà ngài được ứng với con số 3. Chữ “Tam” ở đây là 3 người chứ không phải một người.
+Cô Chín thờ ở đền Chín Giếng (Bỉm Sơn- Thanh Hóa) được xem như nữ tỳ theo hầu Thánh Mẫu. Đền thờ Cô nằm cạnh một vũng lớn bao gồm 9 mạch nước ngầm to nhỏ ở đầu nguồn -ứng với chín cái “giếng” tự nhiên. Vì thế nên Cô được dân gian xếp vào ngôi vị thứ 9.
+Chầu Cửu Tỉnh thờ ở đền Sòng (Bỉm Sơn- Thanh Hóa) cũng được gán với hiện tượng “9 giếng” và xếp thứ 9, tương tự như Cô Chín.
+Chầu Mười thờ ở Đồng Mỏ -Chi Lăng, một số người giải thích rằng sở dĩ thánh bà được xếp ở ngôi vị thứ 10 là bởi chi tiết10 năm tham gia kháng chiến chống quân Minh(?). Trong bản văn chầu có đoạn:
Mười năm lưỡi kiếm tung hoành
Dẹp tan giặc dữ triều đình phong công
+Ông Hoàng Bảy Bảo Hà (Lào Cai) vốn là con thứ 7 của nhà họ Nguyễn người Tày nên được xếp vào ngôi thứ 7.
+Ông Hoàng Đôi Triệu Tường tuy thờ ở Thanh Hóa nhưng chiến công phò Lê diệt Mạc lại ở miền rừng nên cũng được xếp vào ngôi thứ hai, bởi miền rừng ứng với Nhạc phủ.
Ông Hoàng Mười tương truyền là con trai thứ 10 của vua cha Bát Hải Động Đình. Không biết việc người ta xếp thánh ở vị trí thứ 10 là do ngôi thứ trong gia đình hay do ngày tiệc của ngài là 10/10 âm lịch? Xem ra ngài còn là anh em ruột của Quan Lớn Điều Thất, Quan Lớn Đệ Tam và Ông Hoàng Bơ (tất cả đều là con trai của vua cha Bát Hải Động Đình)!?
Có thể nói, sự gán ghép trật tự các ngôi thứ trước sau ở đây khá “phóng túng”, đại thể có mấy cách như sau:
+Một là căn cứ vào vị trí ngôi thứ của đức thánh trong gia đình ngài (là con thứ mấy).
+Hai là vin theo một yếu tố ngẫu nhiên nào đó biểu hiện ra con số nổi bật trong huyền tích hay ở nơi phụng thờ.
Bên cạnh hiện tượng sắp đặt ngôi thứ không theo tiêu chí thống nhất, trong tín ngưỡng Tứ phủ còn thấy nghi vấn về vấn đề phát tích các vị thánh hàng Chầu. Theo các tài liệu nghiên cứu đã tổng kết, 3 ngôi Chầu Bà đầu tiên là sự hóa thân của 3 ngôi Thánh Mẫu (Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam). Tuy nhiên, nếu căn cứ vào sự tích và các bản văn chầu, sẽ thấy còn nhiều điểm khá mơ mồ. Với trường hợp bản văn Chầu Đệ Tam[2] (Nam Định) và bản văn Mẫu Đệ Tam[3] (Hà Nội) phản ánh cùng một sự tích, khiến người ta liên tưởng Mẫu với Chầu chẳng qua là một nhân vật, chỉ khác nhau về tên gọi là Chầu hay Mẫu mà thôi. Với trường hợp Mẫu Đệ nhị (Thượng Ngàn) và Chầu Đệ Nhị thì khác hẳn. Hai thánh đều được thờ ở đền Đông Cuông (Tuần Quán- Yên Bái), các bản văn chầu 2 bà lại phản ánh những nội dung khác nhau. Ở đây, thật khó có thể biết được sự “hóa thân” giữa Mẫu và Chầulà như thế nào, bởi lúc thì trùng lặp như một, lúc thì lại như hai? Bên cạnh đó, còn tồn tại 2 sự lý giải nguồn gốc phát tích Mẫu Đệ Nhị. Thuyết thì cho rằng bà vốn là cô gái đức hạnh con một tù trưởng người Dao ở Đông Cuông, thuyết thì cho bà là công chúa La Bình, con gái Tản Viên Sơn Thánh (tức cháu ngoại vua Hùng). Ngoài ra, Thánh Mẫu Thượng Ngàn còn được cho là hóa thân thành Chầu Lục, Chầu Bé và Chầu Mười(?). Thêm nữa, người ta cũng lý giải rằng Chầu vừa là hóa thân của Mẫu, lại cũng vừa là… trợ thủ của Mẫu(!) Rồi Mẫu đệ nhất và Mẫu Địa (Đệ tứ) cũng chính là công chúa Liễu Hạnh, như một sự phân thân làm 2 ngôi thứ trong hàng Tứ vị Thánh Mẫu(?). Có thể nói, sự “hóa thân” vào nhiều vị trí cao thấp khác nhau khiến cho việc kiến giải tín ngưỡng nhiều khi trở nên khá mơ hồ, rối rắm và lẫn lộn. Không biết các Thánh Mẫu có thực sự “phân thân, hóa thân” và tự “trợ thủ” cho chính mình nhiều đến thế hay không!?
Cũng về thứ bậc các vị thánh, vùng tín ngưỡng Hà Nội thì quan niệm hàng Quan lớn cao hơn hàng Chầu bà, nhưng ở vùng Nam Định thì ngược lại, các Chầu bà được xếp trên hàng các Quan lớn. Theo đó, các chân đồng mỗi vùng sẽ hầu bóng theo 2 thứ tự lần lượt khác nhau. Đáng chú ý, trong hàng Quan Lớn, phổ biến quan niệm Ngũ Vị Tôn Ông (chỉ hàng 5 Quan lớn từ Đệ Nhất đến Đệ Ngũ). Nhưng riêng vùng Hải Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh thì lại xếp thêm Quan Điều Thất, thành cả thảy 6 vị.
Bên cạnh đó, cũng thấy hiện tượng “đa ngôi thứ” trong điện thần Tứ phủ, tức các vị thánh khác nhau được xếp cùng một thứ bậc. Có thể thấy những trường hợp sau đây:
+Ông Hoàng Đôi ở Cẩm Phả (là người Dao) và Ông Hoàng Đôi ở Thanh Hóa (Quan Triệu Tường).
+Ông Hoàng Bơ Thoải Cung và Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc.
+Cô Đôi Thượng ngàn và Cô Đôi Cam Đường.
+Cô Nhất Thượng Thiên và Cô Nhất Vân Đình.
+Cô Ba ThoảiCô Ba Bông, và Cô Ba Tây Hồ.
+Cô Chín Văn và Cô Chín Giếng.
Ngoài ra, hàng các Chầu Bé, Cô Bé, Cậu Hoàng cũng ứng với nhiều nhân vật khác nhau. Điều này cũng khiến cho việc nhận thức tín ngưỡng trở nên phức tạp hơn.
Với bản chất một tín ngưỡng dân gian, tính hỗn dung văn hóa trong tư duy hay những yếu tố “bất hợp lý” trên hệ thống điện thần Tứ phủ cũng là điều dễ hiểu. Ngay khái niệm “vua cha”, chí ít có tới 2 ngôi khác nhau là Vua cha Bát hải Động Đình (tiệc 22/8 âm lịch) và Vua cha Trần Hưng Đạo (tiệc 20/8 âm lịch). Hay việc trong khi tôn thờ nhiều Thánh Mẫu khác nhau, nhưng dân gian chỉ tính ngày giỗ Thánh Mẫu Liễu Hạnh là ngày giỗ quốc mẫu (3/3 âm lịch). Trong môi trường dân dã, niềm tin tín ngưỡng vốn dễ chấp nhận những yếu tố chắp vá, kết nối mang tính tự phát hay sự ngẫu nhiên phi lôgíc. Tín ngưỡng dân gian vốn hồn nhiên là vậy! Ở đây, điều đáng nói, biểu tượng “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ” đã thực sự trở thành một sinh hoạt tín ngưỡng chung của cả cộng đồng, chứ không chỉ giới hạn trong bản hội các con nhang đệ tử Tứ phủ. Điều đó một mặt thể hiện sự phát huy tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chung của dân tộc, một mặt thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của tín ngưỡng Tứ phủ trong đời sống tinh thần người Việt.
Xét trên góc độ thực dụng, con người rút cục chỉ cần một chỗ dựa niềm tin làm điểm tựa tinh thần để sinh tồn. Nói cách khác, bất cứ tôn giáo hay tín ngưỡng nào thực chất cũng có tác dụng cơ bản là tạo dựng niềm tin và xoa dịu nỗi đau của con người trần thế. Tín ngưỡng Tứ phủ cũng vậy, không cần một giáo lý cao siêu, không cần một hệ thống hợp lý tối đa, miễn sao đem lại sự thỏa mãn nhu cầu tâm linh, thế là đủ! Trong hệ tín ngưỡng dân gian, cũng không thấy làm lạ khi nhiều thành hoàng làng vốn chỉ là một tay chuyên nghề trộm cướp, hay một học trò nghèo lỡ hái trộm quả trong vườn ăn lót dạ, tất cả đều giống nhau ở chỗ bị đánh chết đúng… “giờ thiêng” nên hiển linh và được phụng thờ. Rồi có chuyện do đánh người ta trúng bộ hạ mà chết, nên khi phụng thờ kẻ xấu số làm thành hoàng, hàng năm dân làng đó phải nặn bánh trái theo biểu tượng… dương vật để mà cúng cầu an(!). Trong tâm thức dân gian, sự “bán tín bán nghi”, quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” luôn có những tác động nhất định tới từng cá thể. Đặc biệt dưới hiệu ứng tâm lý đám đông, ý thức đó rất dễ lan truyền tạo thành một áp lực mạnh mẽ. Từ nghìn đời nay, tâm lý đó hẳn là một nguyên nhân sâu xa khiến con người có thể dễ dàng chấp nhận dung nạp tất cả những gì gọi là bất hợp lý, thậm chí là nhảm nhí hoang đường. Huyền thoại và hiện thực, có thật và không có, hữu hình và vô hình vẫn luôn đan xen đồng hành theo suốt chiều dài lịch sử tâm linh loài người. Sức hấp dẫn vốn có của tôn giáo tín ngưỡng là vậy. Tồn tại là hợp lý, âu cũng là một cách kiến giải!
Nhìn trên toàn bộ và từng phần, sẽ thấy sự tích hợp các vị Thánh vào hệ thống điện thần Tứ phủ chắc chắn không phải một sớm một chiều mà được bồi đắp dần theo dòng chảy cuộc sống. Góp nhặt, chắt chiu từng sự tích nhân vật, hẳn cộng đồng các con nhang đệ tử đã có ý thức vun vén tạo một vị thế riêng cho tín ngưỡng của mình. Với một hệ thống điện thần phong phú và đa dạng, đặc biệt với sự góp mặt của nhiều nhân thần bản địa, tín ngưỡng Tứ phủ đã thực sự in dấu ấn sâu đậm trong tâm thức con dân Việt sau hơn 4 thế kỷ hình thành và phát triển. Cùng với vẻ đẹp quyến rũ của nhạc Chầu văn, những lễ hầu đồng hóa thân thực sự là những cuộc diễn xướng trang trọng và vô cùng hấp dẫn, góp phần tạo nên một niềm tin mãnh liệt vào các thần linh dân tộc, truyền đời không nhạt phai.
hoang trong kha
Cung văn lão thành Hoàng Trọng Kha (Hà Nội)
Bản chất của tín ngưỡng, tôn giáo nói chung là trao gửi, cầu xin đón nhận (theo trí tưởng tượng). Từ thời cổ xưa, các loại hình tín ngưỡng nói chung vốn được sắp đặt, tạo dựng theo niềm tin của loài người để những mong nhận được sự phù trợ từ những đấng siêu nhiên, sao cho cuộc sống được bình an, no đủ, tài lộc dồi dào… Như thế, về bản chất, việc sắp đặt vật phẩm cho các lễ thức khẩn cầu thánh thần là có tính nguyên tắc và không có gì xấu. Chúng tôi cúng thần linh con trâu, con gà… thì có nghĩa mong ước các vị phải phù trợ cho mùa màng tốt tươi, cuộc sống của chúng tôi được ấm no hạnh phúc. Sự trao gửi- đón nhận đó thể hiện như thế nào là hoàn toàn tùy thuộc vào lề luật của từng loại hình tôn giáo tín ngưỡng. Ở nước ta, đa số các tín ngưỡng hiện tồn đều trải qua quá trình dung hợp lâu dài, đại thể sẽ thấy các vật phẩm biểu trưng như hương, hoa, đăng, trà, quả, thực. Bên cạnh đó, tục đốt tiền âm phủ, vàng mã cũng đã xâm nhập vào nhiều hình thức tín ngưỡng từ bao đời nay. Niềm tin “hồn nhiên” của con người quan niệm càng trao gửi nhiều vật phẩm cúng bái, càng đón nhận được kết quả tương ứng từ thế giới thần linh. Điều này nhiều khi đồng nghĩa với việc người có tín ngưỡng vô hình chung đã biến các vị thánh thần trở thành những “quan tham” trong một cuộc “mua bán” tưởng tượng. Hiện tượng đó phần nào phản ánh đúng thực tại xã hội loài người- thế giới ảo tâm linh phản ánh đúng thế giới thật, kiểu “trần sao âm vậy”! Thật khó phản bác những ý kiến cho rằng việc cúng bái tốn kém quá mức đồng nghĩa với việc “buôn thần bán thánh”, thể hiện tính vụ lợi cá nhân thông qua việc thờ cúng. Thế nhưng trên thực tế, sự mê tín và tín ngưỡng lại vốn không có ranh giới rõ ràng. Chính điều đó ngày càng làm nảy sinh nhiều hiện tượng “cầu xin” mới với nhiều biến tướng khó có thể kiểm soát. Cùng là một lễ cúng bái, nếu làm giản dị nhẹ nhàng thì người ta dễ dàng chấp nhận đó là tín ngưỡng. Nhưng nếu vật phẩm được chất chồng quá mức, tốn kém lãng phí thì dễ bị coi là mê tín dị đoan, “buôn thần bán thánh”. Trong một xã hội văn minh, việc kiểm soát “mức độ niềm tin” của con người dường như là điều không thể thực hiện. Có chăng, chúng ta chỉ nên phổ cập giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng, khống chế trực tiếp bằng các điều luật được thống nhất, chia sẻ với những người đứng đầu cai quản các địa điểm thờ tự như đình, đền, chùa, miếu.

Chú thích:
[1] Việc dung nạp Đức Thánh Trần vào tín ngưỡng Tứ phủ là một hiện tượng mới. Hiện nay vẫn có nhiều ý kiến trái chiều của các chân đồng cựu về chuyện tích hợp này. Bởi ngài vốn được xem như chính thần trong một dòng đạo giáo Việt Nam- đạo Thanh đồng với pháp thuật sát quỷ trừ tà của các thầy phù thủy.

[2] Bùi Đình Thảo- Nguyễn Quang Hải, Hát Chầu Văn, NXB Âm nhạc, Hà Nội, 1996, tr.82.

[3] Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Đạo Mẫu ở Việt Nam, NXB Văn hóa –Thông tin, Hà Nội, 1996, tr.34.

Sưu tầm từ:  http://vnmusic.com.vn/p999-tin-nguong-tu-phu-nhung-gia-tri-va-hien-thuc.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét