Bùi Trọng Hiền
Sang đầu thế kỷ 21, thật không quá khi nói rằng niềm tin mãnh liệt về
thế giới âm hồn vĩnh hằng là sự nổi trội ở đời sống tâm linh người
Việt. Trong đó, việc thờ cúng tổ tiên vốn xuyên suốt chiều dài lịch sử
văn hóa tín ngưỡng nay càng được chú trọng hơn bao giờ. Thế nhưng ở đây,
việc xác định cơ cấu tổ tiên là điều cần phải được xét lại. Về
mặt logic, bao nhiêu đời được gọi là tổ tiên? Và cái gọi phần mộ tổ
tiên gia tộc liệu có thể chấp chứa bao nhiêu bộ hài cốt theo dòng lịch
sử bất tận? Thử làm một phép tính đơn giản, lấy một người làm đơn vị
phần tử đầu tiên, ngoài việc thờ cúng bố mẹ đẻ của mình (2 người), họ
còn phải thờ ông nội và bà nội, ông ngoại và bà ngoại (4 người). Cứ thế,
họ sẽ có 8 cụ nội ngoại, 16 kỵ nội ngoại..v.v.. Đây là dãy số tăng dần
theo cấp số nhân với công bội là 2:
1, 2, 4, 8, 16, 32, 64, 128, 256...
Đó là chưa kể đến các quan hệ thân tộc khác như anh chị em
ruột, anh chị em họ, cô, dì, chú, bác nội ngoại, các vai vế ngang hàng
với đời ông bà, với đời cụ kỵ nội ngoại..v.v.. Và tất nhiên cũng chưa kể
đến chuỗi họ hàng nội ngoại bên vợ (hay chồng) khi xây dựng gia đình.
Từ đó dễ thấy tính hữu hạn về số lượng của mỗi khu phần mộ gia tộc cũng
như số lượng giới hạn “tổ tiên ông bà” mà mỗi con người có thể nhớ được
trong đời. Theo đó, thường thì người ta chỉ có thể quy tập lượng ít ỏi
mồ mả, tính đến vài ba đời là cùng. Tất tần tật số còn lại bao gồm những
họ hàng nội ngoại dây mơ dẫy má cho đến những tiền nhân xa xưa sẽ
được... quên dần theo thời gian bởi sự bất tận của nó. Thực tế, người ta
sẽ chỉ thờ cúng mộ cụ A, B, C... đời tam đại (hoặc giả tứ đại) nào đó
mà chẳng thể đoái hoài đến bố hay ông hoặc cụ kỵ của cụ A, B, C... Có
nghĩa việc thờ cúng giỗ chạp tổ tiên nội ngoại thực tế không thể không
giới hạn trong khoảng 3 đời, bởi khả năng ghi nhớ lo việc giỗ kỵ toàn bộ
lớp lớp tiền nhân là điều không tưởng. Thế nên mới có lệ chia họ tộc
thành các chi, ngành cùng các khái niệm Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ hay Tiên Tằng Tổ Khảo để
chỉ tổ tiên chung chung, mơ hồ. Khi chia tách tộc họ, người khởi đầu
một chi ở vùng đất mới sẽ có thể được coi là cụ tổ mới, như một tiền
nhân còn được biết đến trong lịch sử gần nhất. Thực tế cho thấy, ngay cả
cụ tổ mới đó rồi cũng dần bị quên lãng theo thời gian. Như vậy, có thể
khẳng định khái niệm tổ tiên là hết sức tương đối trong vòng
cuốn chiếu luân chuyển theo từng lát cắt thế hệ. Không thể nhớ xa, chỉ
nhớ những gì gần với mình, đó chính là tính hữu hạn và phần nào thực
dụng của hệ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dòng tộc. Ở đây, tính hữu hạn
của khái niệm dòng tộccũng thể hiện phần nào ở chính bản thân sự giới hạn của ngôn ngữ. Cụ thể, thuộc tính họ nội, ngoại cũng
như giới (nam/nữ) cho các đại từ nhân xưng chỉ có thể xác định rõ ràng
đến thế hệ thứ 3 (cha/mẹ, ông/ bà). Còn từ hàng cụ trở đi thì chỉ gọi là
cụ, kỵ chung chung, khó xác định. Sẽ thấy càng lên cao, các khái niệm
nội/ ngoại càng trở nên rối rắm mơ hồ... Ví dụ, 2 cụ đẻ ra ông nội thì
hẳn là 2 cụ nội rồi, nhưng 2 cụ đẻ ra bà nội thì không biết gọi
là gì cho chính xác? Bởi đó là họ ngoại của bố, mà con lại theo họ bố/
ông nội. Giả sử nếu cũng gọi đó là 2 cụ nội thì sẽ không phân biệt được với 2 cụ đẻ ra ông nội, còn nếu gọi là 2 cụ ngoại, ắt sẽ lẫn sang họ bên mẹ. Không lẽ gọi đó là 2 cụ nội thuộc họ bên ngoại của bố?
Cũng vì sự dây mơ rễ má quá phức tạp mà trên thực tế, nhiều
cây phả hệ chỉ ghi danh những người thuộc họ nội, bỏ qua họ ngoại cùng
vợ/chồng của những người trong dòng tộc. Thế nhưng nếu coi “cây có cội,
nước có nguồn”, ắt không thể phân biệt đối xử nội/ ngoại bên trọng bên
khinh như vậy! Thế nhưng nếu ghi nhận ngọn ngành trọn vẹn thì lại là
điều quá sức với người đời. Bên cạnh tính hữu hạn đó, trong tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên ông bà nhiều khi còn nảy sinh lắm chuyện rắc rối ở việc
xác định nguồn cội. Như đã biết, thường thì bố mẹ, ông bà, cụ kỵ... của
cụ tổ coi như không được tính đến vì không xác định được danh tính.
Nhưng vấn đề đặt ra là nếu xác định được thì sao? Ví dụ lâu nay chúng ta
ghi nhận ngày giỗ quốc tổ Hùng Vương. Chuyện đó nghiễm nhiên dẫn đến
câu hỏi liệu có thờ cúng giỗ chạp bố quốc tổ (tức Lạc Long Quân), mẹ
quốc tổ (tức Âu Cơ), ông nội quốc tổ (tức Kinh Dương Vương), bà nội quốc
tổ (con gái vua hồ Động Đình)..v.v.? Rồi cứ lần theo những gì huyền sử
đã ghi nhận được thì câu chuyện xem ra khá rắc rối, hay đành lờ đi vậy!?
Cũng nói thêm về việc thờ cúng tổ tiên, bên cạnh tư tưởng
“uống nước nhớ nguồn” cũng cần xem xét mặt trái của vấn đề. Người Việt
vốn quan niệm hệ thống mồ mả ứng với thế giới vong hồn có tác động trực
tiếp lên thế giới người còn sống. Người ta tin rằng mọi hiện tượng
vui/buồn, sướng/khổ, phúc/họa nơi trần gian đều có tính hệ quả, chịu sự
chi phối mạnh mẽ từ thế giới âm hồn. Ai chăm sóc tốt phần mộ thì có thể
hưởng lợi, được tổ tiên ông bà phù hộ, ban phúc lộc, nếu không dễ bị
giáng họa... Các khái niệm mộ kết, mộ phát, động mồ động mả...
là ví dụ điển hình của niềm tin tín ngưỡng thể hiện sự ràng buộc sâu sắc
giữa dương gian và cõi âm. Như thế, trong sự cầu cúng tổ tiên, săn sóc
mồ mả, bên cạnh sự tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân là mục đích mưu cầu
lợi ích cho bản thân gia đình người còn sống. Nói cách khác, tính vụ
lợi/thực dụng luôn song hành cùng cái gọi “uống nước nhớ nguồn”, thể
hiện tính 2 mặt hiện hữu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Việt. Mới hiểu tại sao người ta có thể lao tâm khổ tứ đến vậy với chuyện
mồ mả. Như chuyện tại sao gia đình nọ chỉ lo chăm sóc xây dựng phần mộ
thế hệ cụ kỵ ở vùng quê xa xôi mà không quan tâm đến phần mộ thế hệ ông
bà ở vùng cư trú. Lý do hoàn toàn theo lời phán truyền của thầy bói, cho
rằng khu mộ cụ đang phát, không xây cất thì nhà sẽ gặp đại họa hay
không thể “ngóc đầu” mà ăn nên làm ra. Tương tự, không hiếm trường hợp
người ta chỉ chăm chăm bỏ tiền xây cất khu mộ phần thuộc chi họ nhà
mình, sẵn sàng hoành tráng hóa sao cho to hơn cả khu mộ tổ kế bên, như
để thể hiện sự vượng phát chi/ngành họ của mình nhằm hy vọng “hưởng lợi”
theo lời thầy bói. Hay chuyện đám con cháu chỉ lo chăm sóc phần mộ cụ
tổ bên nội mà không hề đoái hoài đến phần mộ bên ngoại, thường coi đó là
việc của dòng họ khác. Âu đó cũng là những hệ lụy tất yếu của quan hệ
chằng chịt họ hàng nội ngoại rối rắm, vốn quá sức với người còn sống.
Thời nay, với niềm tin về thế giới âm hồn vĩnh hằng, không hiếm những
người con khi cha mẹ còn sống thì vô tâm hay đối xử tệ bạc, nhưng khi
chết thì làm đám ma linh đình, rồi xây mồ đắp mả cúng tế hoành tráng,
như thể việc chăm sóc người chết tối quan trọng hơn người sống. Hoặc giả
người ta coi việc phụng thờ âm hồn là hoàn toàn có thể bù đắp, chuộc
lỗi cho mọi thiếu hụt, sai sót của thế giới trần gian vậy. Điều đáng chú
ý, tuyệt đại đa số mọi hành vi tín ngưỡng xoay quanh phần mộ tổ tiên
đều nhất nhất theo sự hướng dẫn của các thầy bói, thầy cúng, cô đồng,
phù thủy... Đến mức thời nay, nếu có nói đa số con người hiện đại đang
“sống và làm việc theo lời thầy bói” thì xem ra cũng không có gì quá
đáng. Thôi thì cưới xin, ma chay, cải táng, xuất hành.., nhất cử nhất
động đều phải thỉnh các loại ông thầy mà làm theo để đảm bảo thế giới âm
hồn tổ tiên luôn song hành phù trợ.
Xét trên góc nhìn
toàn bộ, đối tượng thờ phụng của các tín ngưỡng tôn giáo nói chung (như
Phật, Chúa, Thánh, Mẫu, thành hoàng...) là niềm tin tín ngưỡng có tính
rộng mở, bao phủ tâm linh, bảo trợ an sinh cho cả một cộng đồng lớn, cho
một dân tộc hay một quốc gia... Ngược lại, ngôi vị tôn thờ của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên luôn khu biệt trong từng dòng họ giới hạn, lấy
đơn vị gia đình cá thể làm cơ sở. Có nghĩa nó chỉ phục vụ đời sống tâm
linh riêng cho dòng họ đó mà thôi. Bởi thế, mọi hành vi, mục đích tín
ngưỡng đơn giản chỉ mang tính tư lợi cục bộ của từng tiểu cộng đồng nhỏ
lẻ, chủ yếu thúc đẩy sự cố kết nội bộ dòng tộc với tính gia trưởng, ganh
đua mang đậm chất tiểu nông, ít nhiều hạn chế sự đoàn kết, đồng tâm
hướng tới đức tin chung của cả cộng đồng lớn. Ở Việt Nam, nếu coi mỗi
ngôi từ đường như một đền thờ riêng của dòng họ thì nếu tính về số
lượng, hẳn sẽ vượt xa mọi cơ sở thiết chế của hệ thống các tín ngưỡng
tôn giáo khác như đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ Thiên chúa... Trong đó,
rất nhiều ngôi từ đường có kiến trúc bề thế không kém gì một ngôi chùa,
hay ngôi đình làng to lớn. Thậm chí thời nay có những ngôi từ đường còn
được dát vàng ròng nguy nga tráng lệ như một cung điện vua chúa, nhưng
tất cả rút cục cũng chỉ để phục vụ lợi ích tâm linh cho một dòng họ mà
thôi. Thử suy đoán, sẽ thấy rất có thể từ ngàn xưa, chính truyền thống
thờ cúng tổ tiên dòng họ vụn vặt đó đã khiến người Việt không thể xây
dựng được những tôn giáo lớn cùng hệ tư tưởng, triết thuyết phổ quát mà
đành phải du nhập từ bên ngoài?! Hiện nay, chỉ cần nhìn vào các nghĩa
địa tân thời, hệ thống các từ đường là có thể hiểu được cuộc đua tranh
dòng họ lớn như thế nào. Mộ tổ, từ đường dòng họ này phải cao hơn, to
hơn, cầu kỳ hơn, đắc địa hơn dòng họ kia, như một tấm gương phản chiếu
rõ nét những động cơ vụ lợi, ích kỷ cá nhân cùng những hệ lụy của nó.
Trong truyền thống lịch sử, có lẽ những câu chuyện ly kỳ về việc “táng
mả hàm rồng” mưu cầu đế vương, vinh hoa phú quý của người Việt là minh
chứng sống động nhất về hành vi thực dụng, vụ lợi của người sống với thế
giới âm hồn tổ tiên. Niềm tin, ước mơ hồn nhiên đó thậm chí còn được
chạm khắc khá nhiều lên những vì kèo đình làng Việt, như thể hiện một
khát vọng lớn lao của ông cha xưa. Điều đáng nói, cái niềm tin “đất cát
mồ mả đắc địa” đó vẫn được duy trì bảo lưu đến tận ngày nay với vai trò
dẫn dắt của lực lượng các thày phủ thủy, thày địa lý thế hệ mới (thường
gọi là nhà phong thủy). Vấn đề đặt ra ở đây là hành vi trục lợi
từ mồ mả, vong hồn tổ tiên liệu có đáng được xem như niềm tin “uống
nước nhớ nguồn”? Đã đến lúc phải xem lại mặt trái giá trị đạo đức ở hệ
tín ngưỡng này. Cũng xin nói thêm, hiện nay có rất nhiều người trong
chúng ta đang rất đỗi tự hào về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc,
coi đó như một sự thể hiện đạo đức “uống nước nhớ nguồn” của người
Việt. Thế nhưng cần phải thấy rằng trên thế giới, các cộng đồng, các dân
tộc không thờ cúng tổ tiên thì cũng không có nghĩa là họ không “uống
nước nhớ nguồn” như chúng ta!
Thời
nay, trong những hình thái tín ngưỡng được phục hưng, có lẽ phong trào
sôi nổi rầm rộ và phát triển mạnh mẽ nhất phải kể đến tín ngưỡng Tứ phủ.
So với thời xưa, có lẽ chưa bao giờ hình thái tín ngưỡng này lại đạt
một vị trí cao như vậy trong đời sống tâm linh người Việt. Sau cả phân
nửa thế kỷ bị cấm hoạt động, giờ đây sinh hoạt lên đồng có thể nói là nở
rộ như nấm sau mưa. Không còn lạ những chuyện người người lên đồng, nhà
nhà hầu thánh nữa. Về mặt lợi ích kinh tế, doanh thu của các đền phủ
thờ Thánh Mẫu thường ở vào thứ hạng cao hơn so với hệ thống chùa chiền,
đình miếu nói chung. Điều này hẳn là nguyên nhân khiến cho rất nhiều
ngôi đền, phủ nổi tiếng đều phải mở thầu cho chức thủ nhang đồng đền.
Như đã nói, có những nơi, vị thủ nhang phải nộp hàng tỉ bạc vào ngân
sách chính quyền địa phương mỗi năm. Có nơi, chính quyền tỏ ra khôn
ngoan hơn, cử hẳn các cán bộ phòng văn hóa đứng ra coi sóc đền phủ để
đảm bảo tận thu toàn bộ. Nói vậy để biết nguồn lợi từ sinh hoạt tín
ngưỡng lớn như thế nào. Với đặc tính thương mại tâm linh từ ngàn xưa,
mức giá chi phí cho sinh hoạt hầu đồng thời nay cũng leo thang theo mặt
bằng giá cả sinh hoạt xã hội. Hiện nay, ở Hà Nội, giá thành lễ mở phủ
trình đồng cho những người mới gia nhập tín ngưỡng dao động từ vài chục
đến hàng trăm triệu đồng. Tùy vào sự bề thế của đền to phủ lớn, tiền lệ
phí “giọt dầu” bắc ghế hầu thánh cũng tính trung bình vài triệu/ một vấn
hầu. Việc chi phí cho một vấn hầu cỡ hàng trăm triệu đã là chuyện không
hiếm. Cá biệt có những chân đồng giàu sang, sẵn lòng bỏ cả tỷ bạc mỗi
lần hầu thánh.Có lẽ trên thế giới, không có một tôn giáo tín ngưỡng nào mà người gia nhập lại phải tiêu tốn tiền của nhiều như vậy. Thế nhưng sự tốn kém đó không hề làm nản lòng những người được gọi là có “căn đồng”. Điều này có lẽ xuất phát từ bản chất của tín ngưỡng Tứ phủ, rất khác với các hình thái tâm linh nói chung. Đại thể những tín đồ của Phật giáo, Thiên chúa giáo hay Hồi giáo... thì không thể hóa thân thành phật Thích Ca, chúa Giêsu hay thánh Allah... nhưng với các chân đồng Tứ phủ thì ngược lại. Ở đây, các ông đồng bà đồng vừa đóng vai trò tín đồ, vừa có cơ hội hóa thân lần lượt để trở thành chính những vị thánh trên điện thần mà họ phụng thờ. Trong các vấn hầu của mình, người “bắc ghế” hầu thánh Tứ phủ luôn được đám đông tôn vinh cổ vũ trong trạng thái “nhập thần- hóa thánh” liên tiếp, hết giá này qua giá khác. Với những khoảnh khắc “thần tiên” đó, chân đồng được thụ hưởng mạnh mẽ cái cảm giác “thánh bề trên” trong giao tiếp ứng xử, khi phán truyền với đám đông người tham dự. Đây được xem như yếu tố vô cùng hấp dẫn với người trần mắt thịt. Có ai mà không cảm thấy sung sướng thăng hoa khi được cộng đồng phút chốc ngưỡng vọng như một vị thánh chính hiệu, lúc lúc xì xụp chắp tay vái lạy thành kính, lúc lúc hò la náo nhiệt cổ vũ.
Ảnh: Đoàn Kỳ Thanh
Trên thực tế, việc “nhập thần- hóa thánh” ở đây chính là sự diễn xuất
sân khấu của các chân đồng trong những vai diễn thần thánh. Mỗi giá
đồng thể hiện hình ảnh một vị thánh Tứ phủ, từ phục trang cho đến những
phong thái, tính cách cùng các hoạt động biểu trưng riêng như tựa gối
hút thuốc, uống trà, uống rượu, nghe thơ văn, múa gươm, múa đao, múa
hèo, múa cờ, múa quạt, múa mồi, chèo đò, quẩy gánh bán hàng.... Với đặc
điểm đó, chiếu hầu đồng được xem như một “sân khấu” văn nghệ tâm linh
với nhiều dáng vẻ hấp dẫn riêng của nó. Cả người bắc ghế hầu lẫn đám
đông tham dự được đắm chìm miên man trong trạng thái tâm lý tự sướng đa cảm xúc,
kết hợp giao lồng các yếu tố “nhập thần- hóa thánh”, diễn viên sân
khấu, diễn viên múa, trình diễn thời trang. Điều đặc biệt, mỗi giá đồng
trong các vấn hầu không thể thiếu được màn ban tiền phát lộc với sự biểu
hiện của 2 chiều cạnh tâm lý cho/nhận đồng thuận hả hê. “Thánh” thì
hưởng thụ cái cảm giác “bề trên quyền năng” ban phát, bố thí cho “chúng
sinh” trần gian khi vung tay tung tiền bạc, lộc lá vào đám đông. Còn
khán giả tham dự thì hỷ hả mãn nguyện với cảm giác sung sướng tràn trề
khi vớ được tiền thần, lộc thánh một cách dễ dàng tự nhiên như mưa sa
trên trời. Tất cả lại diễn ra trong không gian điện thờ linh thiêng,
trang hoàng lộng lẫy cùng phần đệm khi khoan thai tinh tế, lúc sôi động
náo nhiệt với tiết tấu vũ điệu cuồng say của dàn nhạc Chầu văn quyến rũ.
Có thể chính cái tâm lý tự sướng “thánh thần” đó lý giải việc tại sao
người ta phải đặt một tấm gương to dưới điện thờ, trước mặt người hầu.
Hẳn để các chân đồng trước nhất có thể nhìn thấy rõ trong gương hình
bóng “thánh hóa”- tức sự hóa thân của mình “hiện thực” như thế nào. Bên
cạnh sự thăng hoa lúc lên đồng, khi gia nhập tín ngưỡng, mỗi chân đồng
thường “tự vận” căn số của mình ứng với một vị thánh cụ thể nào đó như
căn Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bảy, Cô Bơ, Cô Chín, Chầu Năm, Chầu Bé... Hệ
quả là trong cuộc sống thường nhật, họ cũng thường ám thị tính cách bản
thân giống với “căn cốt” các vị thánh huyền tích, trong đó có cả tính
cách mà dân gian thường lưu truyền kiểu “Phật từ bi, thánh chấp từng
li”. Như vậy, cộng với cái căn cốt “con cưng” của Mẫu, việc tự kỷ “thánh
hóa” bản thân, cảm giác vị thế cao sang hơn người vừa trình bày có lẽ
là đặc điểm hấp dẫn mãnh mẽ của hình thái tín ngưỡng này. Và, những đặc
điểm đó cũng đồng thời tạo nên một tính cách đặc trưng riêng của các con
nhang đệ tử Tứ phủ, một tính cách đồng bóng đi mãi cùng các chân đồng theo năm tháng.Hơn 10 năm trở lại đây, tín ngưỡng Tứ phủ được một bộ phận giới chuyên môn nâng tầm, tôn vinh như một tôn giáo lớn có tính chất đại diện đời sống văn hóa tâm linh dân tộc- gọi là Đạo Mẫu. Có thể nói, chuyện đó đã tác động không nhỏ đến thái độ ứng xử của xã hội, khiến việc gia nhập tín ngưỡng ngày càng trở nên sôi nổi tấp nập. Từ già đến trẻ, từ sang tới hèn, từ quan chí dân.., giờ đây sinh hoạt hầu đồng đã phục hưng và phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ. Thậm chí, có trường hợp những cháu bé còn ở độ tuổi thiếu niên nhi đồng cũng được gia đình cho làm lễ mở phủ trình đồng hầu thánh. Xưa, chuyện “tiền Phật hẫu Mẫu” trong chùa Việt không mấy phổ biến. Nhưng thời nay, việc nhà sư cho xây điện thờ Mẫu trong khuôn viên chùa, kèm theo đó chấp nhận dung nạp sinh hoạt đồng bóng đã trở nên một hiện tượng quá ư bình thường. Thậm chí bây giờ, sẽ không hiếm gặp những nhà sư cùng tham dự lễ lên đồng, thậm chí cũng mở phủ trình đồng, gia nhập tín ngưỡng như các con nhang đệ tử chính hiệu. Trong bầu không khí đó, nhiều ngôi đình cũng nhanh chóng thức thời với việc xây thêm gian Mẫu phối thờ để thu hút khách thập phương. Hay thậm chí có ngôi đền nọ vốn thờ một đào nương lừng danh đã có công giúp vua Lê chống giặc Minh xâm lược, nay cũng được “Tứ phủ hóa” để làm nơi hầu đồng. Theo đó, ngôi đền được đổi tên thành đền “Mẫu đào nương”, bất chấp Luật Di sản văn hóa. Hiện nay, vị đào nương nghiễm nhiên được coi như một “thánh mẫu” phát sinh. Nói thế để thấy được tín ngưỡng Tứ phủ thời nay có sức phát triển mãnh liệt như thế nào.
Xưa, người ta lên đồng chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng tự thân. Thời nay, có nhiều ông đồng bà đồng còn kiêm nhiệm thêm cả vai trò thầy cúng, thầy bói. Điều này lý giải tại sao trong vòng hơn 10 năm trở lại đây, dạng lên đồng dưới hình thức hầu chứng ngày càng phổ biến hơn so với thời cổ truyền. Ở sinh hoạt dạng này, các gia đình có nhu cầu tâm linh sẽ phải cùng nhau góp tiền sắm sanh đồ lễ và chi trả toàn bộ thù lao cho các bên liên quan. Một quan thầy đồng cựu có uy tín được mời sẽ đứng ra nhận trách nhiệm hầu đồng đại diện, thay mặt các gia chủ mà “thông thiên” với thần linh để cầu tài cầu lộc, giải trừ tai ách, tà ma... Với nhà có người bệnh, chân đồng còn ban cho tàn nhang nước thải để uống, chén nước quết giầu để xoa chỗ đau hay đôi ba lá bùa trấn yểm... Khi nào xong việc, các gia chủ còn phải sửa lễ tạ, nhiều khi khá tốn kém. Có thể thấy, chính sự cấy ghép chức năng thầy cúng, thầy phù thủy... ở hình thức hầu chứng lại là một cách mở lối thu nhập cho các chân đồng. Bởi xưa nay, họ vốn chỉ đóng vai trò chi trả các khoản thù lao cho cung văn và thủ nhang đồng đền mà thôi. Âu đó cũng là một biểu hiện sống động về truyền thống hỗn dung tín ngưỡng của người Việt. Cũng trong sự “pha trộn” đó, thời nay trong các vấn hầu của mình, một số chân đồng còn lai cấy hành vi tín ngưỡng của các thanh đồng bên tín ngưỡng thờ đức Thánh Trần. Trong một số giá đồng, họ cũng xiên lình, thắt đai thượng, nuốt lửa hay rạch lưỡi “lấy dấu mặn” nhằm gây ấn tượng mạnh với đám đông tham dự. Đây có thể là hệ quả của việc lai cấy đức Thánh Trần vào điện thần Tứ phủ, một xu hướng mới phát sinh ở một bộ phận chân đồng thời nay, xuất phát từ quan điểm của một số nhà nghiên cứu văn hóa. Vì thế mà hiện nay rất nhiều ông đồng bà đồng bị ngộ nhận, thường tự gọi mình là thanh đồng. Ngoài ra, việc tự nhận “thanh đồng” cũng rất có thể xuất phát từ ý muốn “sang trọng hóa” danh từ, bởi những chân đồng xưa nay thường vốn chỉ được dân gian gọi là đồng bóng hay đồng cốt.
Ảnh: Đoàn Kỳ Thanh
Còn tiếp...
Sưu tầm từ: http://vnmusic.com.vn/p2218-lan-man-ve-truyen-thong-hon-dung-tin-nguong-cua-nguoi-viet-2.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét