TRÀ TÀU – TRÀ TRUNG HOA
LỜI MỞ ĐẦU
Uống trà tàu vốn dĩ phổ thông thời trước, đến nay đã trở thành hiếm hoi trong xã hội Việt Nam.
Thanh niên ngày nay chỉ mường tượng được cái hình ảnh đó qua những
truyện ngắn của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời (Những chiếc ấm
đất, Chén trà trong sương sớm). Sách vở viết về trà lại càng ít ỏi. Tại
Việt Nam
ngày trước, ngoài cuốn Vang Bóng một thời chỉ lác đác vài ba cuốn khác.
Trà đạo kiểu Nhật thì có bản dịch cuốn Trà Thư (The Book of Tea) của
Okakura Kakuzo của Bảo Sơn.
Một tiểu thuyết cũng viết nhiều về thú uống trà là cuốn Trà Thất của Minh Đức Hoài Trinh.
Ở
hải ngoại, cuốn Trà Kinh của Vũ Thế Ngọc là một biên khảo tương đối
công phu. Ngoài ra, thỉnh thoảng có một đoản thiên nghiên cứu về trà Tầu
hay ấm trà đăng rải rác trong tạp chí. Mới đây tôi được đọc một bài của
Phan Quốc Sơn về ấm Nghi Hưng rất thú vị.
Trong
tác phẩm Sống Đẹp Lâm Ngữ Đường cho rằng uống trà là một trong những
phát minh quan trọng nhất của đời sống. Trà là một phần và cũng là một
biểu tượng của sự nhàn nhã. Ông để hẳn một mục để bàn về Trà và Tình
Bạn.
Viết
về cách uống trà, thưởng thức trà thì Tây phương có hàng trăm cuốn
nhưng phần lớn viết theo cách nghiên cứu một loại thực phẩm. Người Trung
Hoa cũng có nhiều sách viết về trà, nghệ thuật uống trà, còn người Nhật
thì đưa hẳn lên thành một đạo sống (Trà Đạo). Riêng Việt Nam,
mặc dù uống trà rất thịnh hành nhưng lại ít ai để tâm nghiên cứu. Vũ
Thế Ngọc, tác giả cuốn Trà Kinh đã ngậm ngùi mà than rằng “viết về trà
thì gần như chưa có ai viết” hoặc “viết vô cùng sơ lược”. Nhận xét đó có
lẽ không sai. Và vì thế khi ông tự cho rằng cuốn sách ông soạn “là
quyển sách đầu tiên viết về nghệ thuật uống trà bằng Việt ngữ tương đối
đầy đủ hơn cả” thì cũng không ngoa.
TRÀ TẦU
Khi
nói về trà tầu thường là nói đến các loại trà xanh là những loại trà
người Trung Hoa xuất cảng. Nếu tính theo số người uống thì uống trà đứng
đầu trong ba loại ẩm phẩm -- trà, cà phê và nước ngọt.
Các
học giả Tây phương vẫn cho rằng Trung Hoa là nơi phát xuất cây trà. Thế
nhưng không phải cây trà chỉ mọc hoang trong vùng nam nước Tầu mà có
khắp vùng Đông Nam Á. Thành thử Việt Nam ta cũng là quê hương của cây
trà, và cũng có những cây trà cổ thụ. Vũ Thế Ngọc đã viết về cách uống
trà kiểu Việt Nam
như chè tươi, chè nụ, chè khô ... và cho rằng chúng ta đã biết uống trà
từ lâu đời nhưng vẫn giữ nguyên hình thái mộc mạc chứ không cầu kỳ như
người Tàu. Tục uống trà tươi, trà nụ ngày nay vẫn còn phổ biến, kể cả
một loại cây tương tự là cây vối cũng rất thông dụng tại miền quê nước
ta.
Trong
khi trà tầu -- cùng với kiểu cách của người Tầu -- chỉ hiện hữu trong
một tầng lớp thượng lưu ở xã hội, phương pháp uống trà tươi, trà vối lại
ở khắp mọi nơi. Nó đã trở thành đề tài cho văn học và nghệ thuật (Cái
ấm đất của Khái Hưng hay bản nhạc Cô Hàng Nước) và là một món giải khát
không thể thiếu của người nhà nông.
Trên
mặt kinh tế, rất có thể sự vươn lên của Trung Hoa trong thế kỷ 21 này
sẽ có một phần đóng góp không nhỏ của trà -- một loại nông phẩm độc đáo
-- và ấm tầu -- một dụng cụ và cũng là một loại nghệ phẩm đặc biệt. Cho
nên, khi nhìn vào phương thức chiếm lĩnh thị trường, sau thời kỳ sản
xuất những món hàng thông dụng rẻ mạt, tiếp đến phải là giai đoạn của
những sản phẩm đặc thù -- có một không hai, không có sản phẩm tương tự
để thay thế, hoặc không thay thế nổi. Trà tầu và ấm tầu có thể ở trong
thành phần đó. Độc đáo nhưng thông dụng, thượng vàng hạ cám, từ loại đắt
hiếm tới loại rẻ mạt, có khả năng sản xuất qui mô và thu hút một lượng
nhân công đông đảo là những yếu tố rất đáng kể trên mặt ngoại thương.
LỊCH SỬ
Theo truyền thuyết, trong một lần tuần thú phương Nam,
vua Thần Nông vô tình uống một nồi nước đun sôi có lá cây trà rơi vào.
Ông uống rồi khen là trà “làm cho cơ thể phấn chấn, tinh thần thoải mái,
sáng suốt”.
Một
câu chuyện khác thì lại viết rằng Đạt Ma tổ sư vì ngủ quên trong một
buổi tọa thiền nên bực tức cắt mí mắt vứt đi. Chỗ ông vứt mí mắt mọc lên
cây trà, và trở thành một thức uống thông dụng cho những nhà sư để tỉnh
táo khi tu tập. Từ chùa chiền, món uống này truyền ra dân gian.
Người
Nhật thì kể là về đời Chiến Quốc (300-221BC), có một danh y tinh thông
84,000 cây thuốc. Ông dạy cho con được 62,000 cây thì chết. Những tưởng
rằng kiến thức về 22,000 cây kia sẽ không còn tìm đâu ra. Nào ngờ trên
mộ ông mọc lên một cái cây, chứa đủ tinh hoa của 22,000 cây còn lại. Đó
là cây trà.
Lẽ
dĩ nhiên, những câu chuyện này chỉ là huyền thoại. Người Trung Hoa cái
gì không rõ nguyên do thường bịa ra một dật sự từ thời cổ sử gán cho
Thần Nông, Hoàng Đế ... cũng như người Việt bắt đầu một thần tích bằng
“ngày xưa, đời vua Hùng Vương thứ ...” để câu chuyện thêm li kỳ, vừa
khiến cho những chứng cớ đưa ra có chỗ dựa.
Chính
thức theo lịch sử thì trà chỉ mới được đề cập đến từ thời Tam Quốc, và
đến tận đời Đường, người Tàu vẫn chỉ dùng các loại trà mọc hoang chứ
chưa trồng và chế biến thức uống này. Trà cũng chỉ lưu hành trong giới
thượng lưu miền Nam Trung Hoa chứ dân dã cũng chưa uống và tục uống trà
chưa được coi như một thú thanh cao. Quả thực thời kỳ đó hai miền nam
bắc Trung Hoa đời sống cách biệt như hai thế giới. Đến đời Tùy nước Tàu
thống nhất thì những sinh hoạt mới lan truyền ra những vùng khác. Người
Tàu pha trộn cách uống trà với sữa của người Hồ (tức các dân tộc vùng
Tây Vực) là những dân tộc sống du mục. Tuy việc uống trà đã phổ thông
nhưng vẫn có một số đặc điểm khác ngày nay:
- Thứ nhất trà vẫn còn coi như một vị thuốc, chưa có mấy nơi coi như một thức uống.
-
Thứ hai trà do dân chúng vào vùng hoang sơn dã lãnh hái về chứ chưa
biết trồng thành đồi, thành vườn để sản xuất một cách qui mô.
- Thứ ba trà uống theo kiểu giản dị là hái lá vào đem nấu (như kiểu chè tươi của ta) chứ chưa kiểu cách như sau này.
Tới
đời Đường, khi Lục Vũ viết cuốn Trà Kinh thì trà mới trở nên phổ biến.
Từ đó trở đi, nơi nơi đều uống trà, trở thành một phong trào và sản xuất
trà cũng thành một lãnh vực kinh tế qui mô, đem lại một ngân khoản lớn
cho triều đình. Và kể từ Đường, rồi sau Tống, Nguyên, Minh, Thanh đời
nào cũng coi thuế đánh vào trà là một nguồn lợi chính.
Lục
Vũ, tự là Hồng Tiệm người đất Cảnh Lăng, Hồ Bắc được mệnh danh là trà
tiên của Trung Hoa. Vì chán ngán thời thế, ông từ quan, định theo Thái
Chúc hòa thượng ở chùa Thái Thường đi tu nhưng không được nên về ở ẩn
chỉ chuyên tâm nghiên cứu về trà. Ông bỏ công đi tham khảo với những
nông phu, tới tận nơi để xem xét cách chế tạo ngõ hầu có được kinh
nghiệm thực tế. Thành thử những điều ông viết ra đều có giá trị.
Đời
Đường, khu vực sản xuất trà bao gồm Giang Hoài, Lưỡng Chiết, Lãnh Nam,
Phúc Kiến, Kinh Tương và từ đó tới nay vẫn là những địa khu chủ yếu.
Theo Chu Trọng Thánh, việc phong thịnh đời Đường bao gồm ba nguyên nhân
chính: - Thứ nhất, thời Đường giao thông đã phát đạt, các phương tiện chuyên chở đã cải tiến nhiều
- Thứ hai, sau khi cuốn Trà Kinh của Lục Vũ viết ra, phong trào uống trà càng lên cao
- Thứ ba, thời kỳ đó Phật giáo và Lão giáo hưng thịnh và việc uống trà tại các chùa chiền, miếu mạo rất phổ biến.
Chính
cuốn Trà Kinh của Lục Vũ là một đóng góp lớn, vì sau khi ông viết ra
cuốn này, việc uống trà đã được nâng lên hàng nghệ thuật, cầu kỳ về cả
trà cụ lẫn trà thức. Tạ Triệu Triết đời Minh đã viết: Ở trên đời có đói ăn thiếu mặc thì còn chịu nổi nhưng mà thiếu nước uống trà thì không sao chịu được.
Ngô Khoan viết bài "Ái Trà Ca" ca tụng thú uống trà chẳng khác gì thi nhân đời trước ca tụng rượu.
Sau
khi Lục Vũ viết Trà Kinh, nhiều người khác cũng có những tác phẩm viết
về trà tuy không nổi tiếng bằng nhưng cũng lưu truyền sử sách. Riêng đời
Minh có đến 45 quyển, nay còn giữ được trên đưới 20 cuốn nhưng văn
chương cũng đã bị đời sau thêm thắt nhiều. Tuy nhiều hầu hết không qua
sáu mục mà Lục Vũ đã đề cập là trà, dụng cụ uống trà (khí), nước pha trà
(thủy), lửa đun trà (hỏa), người pha và uống trà (nhân), thời điểm uống
trà (sự).
Đời
Đường có Tô Dị (?) viết Thập Lục Thang Trà, Trương Hựu Tân viết Tiễn
Trà Thủy Ký. Đời Tống có Âu Dương Tu viết Đại Minh Thủy Ký, Phù Tra, Sơn
Thủy Ký, Sái Tương viết Trà Lục, Tống Tử An viết Đông Khê Thức Trà Lục,
Triệu Nhữ Lệ viết Bắc Uyển Biệt Lục, Hùng Phiên viết Tuyên Hòa Bắc Uyển
Cống Trà Lục, Tống Huy Tông viết Đại Quan Trà Luận, Hoàng Nho viết Phẩm
Trà Yếu Lục.
Đời
Minh có Hứa Thứ Thư viết Trà Sớ, Chu Cao Khởi viết Động Sơn Giới (?)
Trà Hệ, Phùng Khả Tân viết Giới Trà Tiên, Hùng Minh Ngộ viết La Giới Trà
Ký, Cố Nguyên Khánh viết Trà Phổ, Trần Kế Nho viết Trà Đổng Bổ, Trương
Khiêm Đức viết Trà Kinh, Đồ Bản Tuấn viết Mính Cấp, Điền Nghệ Hoành viết
Chử Tuyền Tiểu Phẩm, Từ Hiến Trung viết Thủy Phẩm Toàn Trật.
Đời
Thanh có Lưu Nguyên Trường viết Trà Sử, Dư Hoài viết Trà Sử Bổ, Mạo
Tương viết Giới Trà Vựng Sao, Lục Đình Xán viết Tục Trà Kinh.
Trong
tất cả những tác phẩm viết sau này chỉ Tục Trà Kinh là đáng kể, có hệ
thống và tài liệu dồi dào. Lục Đình Xán tự Phù Chiêu, hiệu Mạn Đình,
người huyện Gia Định, đất Tô Châu, từng làm tri huyện Sùng An, Phúc Kiến
thời Khang Hi là nơi có núi Vũ Di nổi tiếng trà ngon. Tục Trà Kinh phân
loại và sắp đặt các loại trà một cách mạch lạc, tài liệu minh bạch, dẫn
chứng đầy đủ và phẩm bình cũng rất xác đáng. Người ta đã bảo rằng nếu
ví Lục Vũ như Khổng Tử trong trà gia thì Lục Đình Xán công lao phải sánh
ngang Chu Hi.
DƯỢC TÍNH CỦA TRÀ
Theo
thống kê, mỗi năm người Mỹ uống khoảng 2.25 tỉ gallon trà dưới mọi dạng
thức -- nóng, nguội, bỏ đá, ướp hương, có đường hay không đường, thêm
mật ong, sữa, kem, chanh. Mỗi lượng trà uống trung bình chứa khoảng 40
milligram caffeine (bằng nửa caffeine trong cà phê). Thế nhưng đó chỉ là
con số chia đều chứ uống trà mỗi người uống một cách, đậm nhạt khác
nhau. Hiện nay trên thị trường có cả loại “decaffeinated tea” và nhiều
loại dược trà dùng các loại lá (lá ổi, lá hồng ...) để trị bệnh và làm
tan mỡ. Những thống kê kinh tế cho thấy người Mỹ chuyển dẩn từ uống nước
ngọt sang loại diet softdrink, sang nước lạnh (nước suối, nước cất ...)
và dần dần sang loại trà hay dược trà (herbal tea). Nếu quả như thế,
hóa ra Đông phương đã đi trước Tây phương một bước xa. Ông cha ta đã
uống nước lạnh và uống trà tươi hàng ngàn năm trước nhưng mãi đến bây
giờ nhân loại mới công nhận một cách khoa học là trà xanh (chưa biến chế
theo kiểu Nhật) và nước lã là tốt nhất cho cơ thể.
Nhiều
người cho rằng uống trà có tác dụng làm giảm đau cổ họng và bớt đầy
bụng. Một hóa chất trong trà là chất polyphenols có thể làm giảm nguy cơ
một số chứng bệnh kể cả bệnh cứng mạch máu (atherosclerosis) và một số
bệnh ung thư. Có người còn cho là uống trà sẽ gia tăng tuổi thọ.
CÁC LOẠI TRÀ
Trà
được chia ra làm ba loại chính là trà đen (tức hồng trà), trà xanh (lục
trà) và trà Ô long. Cả ba loại đều cùng từ một loại cây, tức cây trà mà
tên khoa học của nó là Camelia sinensis, thuộc họ Theacae, một loại cây
xanh lá quanh năm có hoa màu trắng. Nhiều người còn kể thêm hai loại
trà khác là trà ướp (hương) và trà bánh.
Cây
trà phải trồng khoảng năm năm mới bắt đầu hái là được và thu hoạch
trong khoảng 25 năm. Nếu để nguyên, cây trà có thể cao hàng chục thước
nhưng để tiện việc thu hoạch, người ta hãm chỉ để cho cây cao chừng một
thước, thước rưỡi là cùng. Khi cây già, người ta cắt ngang thân để cho
mầm non nảy ra cho mùa năm sau. Cứ như thế, cây có thể sống tới 100 năm.
Trà thường được bón bằng bã đậu nành và các loại phân hữu cơ chứ ít khi
dùng phân hóa học. Người ta cũng tránh không dùng thuốc trừ sâu bọ và
cây nào bị bệnh thường bị nhổ đi.
Trong quyển All the tea in China,
tác giả có kê khai vài chục loại ngôn ngữ Đông Tây đều có âm na ná như
trà hoặc chè. Chỉ vì cách sao tẩm, ủ trà khác nhau mà chia ra làm ba
loại nêu trên. Sau đây là một số yếu tố dùng để qui định phẩm chất và
giá cả trà:
1.Chủng loại cây trà
2. Địa phương trồng
3. Cao độ của vùng đất trồng
4. Điều kiện thời tiết trong mùa trà và khi hái trà
5. Thời kỳ hái trong năm
6. Giờ hái trà trong ngày
7. Tuổi của bụi trà
8. Cách lựa lá trên cây trà
9. Cách thức hái
10. Cách thức ủ trà
11. Dạng của lá trà (tùy theo cách cuộn lá mà trà sẽ ra hương vị khác nhau)
12. Cách sấy khô
13. Cách thẩm định và phân loại
Ngoài ra còn nhiều tiêu chuẩn khác nữa. Người
ta bảo rằng nước Tàu có đến hơn một nghìn loại trà (thực ra không phải
theo nghĩa 1000 chủng loại mà có nghĩa là nhiều lắm) nhưng chỉ có một số
đặc biệt được xuất cảng. Dẫu thế cũng đã có hàng trăm cái tên được mang
ra ngoài, không phải là người thực sành sỏi, không ai nhớ hết được.
Trà
được phân biệt do cách ủ (oxidation), lâu hay mau, mỗi cách sẽ cho
hương vị, màu sắc, tính chất khác nhau. Loại ủ ngắn hạn nhất là trà xanh
như trà Nhật Bản, Long Tỉnh (Lungching), Bích Loa Xuân (Pilochun). Loại
ủ vừa gồm có Bạch Hào Ngân Châm, Bao Chủng (nhẹ nhất) rồi tới Đông
Đính, Thiết Quan Âm, Thủy Tiên, Vũ Di, Ô Long (lục địa) (ủ trung bình),
và tương đối đậm thì có Ô Long (Đài Loan). Trà ủ hoàn toàn là loại trà
đen (hồng trà) người Âu Mỹ thường dùng. Mỗi loại trà lại mang theo nhiều
dật sự ly kỳ. Nhiều loại có tên rất lạ ít khi nghe tới. Cuốn sách viết
rất kỹ về từng loại trà danh tiếng là cuốn All the tea in China (Các
loại trà Trung Quốc) do Kit Chow và Ione Kramer soạn. Sau đây là 50 loại
danh chủng liệt kê trong sách:
Trân Mi: Chunmee (Chun Mei, Zhenmei)
Đại Phương: Dafeng
Đại Hồng Bào: Dahongpao
Phượng Hoàng Đơn Tùng: Fonghwang Tan-chung
Châu Trà, Bình Thủy Châu Trà: Zhucha, Pingshui(Gunpowder)
Hải Nam Hồng Trà: Hainan
Hoa Đính Vân Vu: ï Huading Yunwu
Hoàng Sơn Mao Phong: Huangshan Mao Feng
Huệ Minh: Huiming
Hương Phiến: Jasmine
Kính Đình Lục Tuyết: Jingting Luxue
Cưu Khanh: Jiukeng
Cửu Khúc Hồng Mai: Jiuqu Hongmei
Kỳ Môn hồng trà: Keemun (Qihong)
Cổ Lao: Kooloo
Lan Hương Lan: Hsiang (Lanxiang)
Lan Khê Mao Phong: Lanxi Maofeng
Chính Sơn: Zhengshan
Lệ Chi: Lichee
Lăng Vân (Bạch Mao): Lingyun (Baimao)
Lục Bảo: Liubao
Lưu Khê : Liuxi
Lục An Qua Phiến: Lu’an Guapian
Long Tỉnh: Lung Ching
Lô Sơn Vân Vụ: Lushan Yunwu
Mông Đính: Mengding
Bích Loa Xuân: Pi Lo Chun
Bao Chủng: Pouchong
Phổ Nhĩ : Pu-erh
Phổ Đà Phật Trà: Putuo Fo Cha
Tiền Cương Huy Bạch: Qiangang Huibai
Mai Khôi: Meigui (Rose)
Thủy Tiên: Shui Hsien (Shuixian)
Thái Bình Hầu Khôi: Taiping Houkui
Thiên Mục Thanh Đính: Tianmu Qingding
Thiết Quan Âm: Ti Kwan Yin (Tieguanyin)
Đồn Lục: Tunlu
Vi Sơn Mao Tiêm: Weishan Maojian
Bạch Hào Ngân Châm: Baihao Yinzhen
Vụ Nguyên Danh Mai: Wuyuan Mingmei
Tín Dương Mao Tiêm: Xinyang Maojian
Tây Sơn: Xishan
Anh Đức: Yingde
Ngân Châm, Ngân Phong: Yinzhen, Yinfeng
Dũng Khê Hỏa Thanh: Yongxi Huoqing
Vũ Hoa: Yuhua
Ngọc Lộ : Yulu
Vân Nam: Yunnan
Tử Duẫn: Zisun
SẢN XUẤT TRÀ
Tiết
Thanh Minh là thời điểm đánh dấu mùa hái trà. Khi đó, mùa đông băng giá
vừa qua, mùa xuân vừa tới, trà non vừa nẩy ra, thích hợp cả việc thu
hoạch lẫn việc sao tẩm.
Sau
khi mặt trời mọc, những giọt sương vừa khô thì từng đoàn người mang gùi
trèo lên đồi trà theo khu vực đã được qui định. Trà thường được trồng
trên sườn đồi theo từng bậc như bậc thang. Thợ chỉ ngắt đúng ba lá non
và một búp, nếu dùng làm trà Ô Long. Trà xanh lá thường rất non, nên chỉ
ngắt hai lá, Ô Long phải cần lá to hơn nên phải ngắt ba. Đến chiều thợ
đem trà đến cân để tính tiền.
Trước
hết trà được để hong ngoài trời cho héo đi. Sau đó đem vào ủ. Chuyên
gia phải kiểm soát luôn luôn để cho hương vị được đúng độ. Khi đã ủ đến
thì, người ta mới cho trà vào sấy. Trà được sấy nhiều lần nhưng phải
đúng cách để khỏi mất phẩm chất. Sau hai ngày biến chế, trà được gọi là
trà sống. Tiếp theo là sàng sảy, rây, nhặt cọng và phân loại thành từng
bậc khác nhau. Cũng nên thêm một điểm là dù mua trà đắt giá đến mấy,
thường dân chúng ta chỉ có thể thưởng thức những loại trà kỹ nghệ. Hiện
nay bên Tàu vẫn còn những vườn trà đặc biệt thuộc loại cấm kỵ, canh gác
ngày đêm không cho ai bén mảng tới. Tại đây có một bộ phận chuyên môn
hái và sản xuất những loại trà siêu phẩm, ngày xưa giành tiến vào cung,
nay để riêng cho Trung Ương Đảng và các loại cán bộ cao cấp. Tục truyền
rằng trà này không được chạm vào da thịt người nên những thợ hái phải
luôn luôn đeo bao tay dài bằng lụa. Trà chỉ đụng vào cơ thể con người
một lần duy nhất là khi đã pha xong, đụng vào môi bậc quân vương trước
khi uống vào ruột.
Mùa
hái trà tùy theo từng loại và tùy theo khí hậu. Ở ven Tây Hồ, Hàng
Châu, nơi sản xuất trà Long Tỉnh, người ta bắt đầu từ tháng ba kéo dài
đến tháng 10, tổng cộng 20-30 lần, mỗi lần cách nhau một tuần hay 10
ngày. Thành thử, uống trà Long Tỉnh ta sẽ thấy lá trà toàn là búp non.
Một
phụ nữ hái trà chuyên môn một ngày hái được khoảng 600 gram. Cứ bốn trà
sống thì được một trà chín nghĩa là một người một ngày chỉ hái được
khoảng 150 gram trà khô. Một ki lô trà Long Tỉnh cần khoảng 60,000 búp
trà. Nước Tàu được chia thành bốn vùng mà người ta đặt tên là Giang Nam,
Giang Bắc, Tây Nam và Lĩnh Nam. Giang Nam, Giang Bắc nổi tiếng về các
loại trà xanh, Lĩnh Nam có trà Ô Long, còn Tây Nam trồng nhiều trà đen,
trà bánh.
HỘI TRÀ ĐẠO TRUNG HOA TẠI VIỆT NAM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Việt Ngữ
1. Vũ Thế Ngọc, Trà Kinh, EastWest Institute Press 1987
2. Nguyễn Tuân, Vang Bóng Một Thời, Cảo Thơm 1972
3. Bảo Sơn, Trà Đạo (bản dịch cuốn The book of Tea của Okakura Kakuzo), Nhà Xuất Bản Tổng Hợp An Giang 1990
4. Phan Quốc Sơn, Thú Chơi Những Ấm Trà Đất Nung Cổ, Nguyệt San Y Tế 2/96 II. Anh Ngữ
1. Kit Chow và Ione Kramer, All the Tea in China, China Books and Peridicals, Inc. 1990
2. Roberta Stalberg, Shopping in China, China Books and Peridicals, Inc. 1988
3. Nhiều tác giả, The Book of Tea, Bản Dịch của Deke Dusinberre, Flammarion Paris
4. Arts of Asia, Yi Hsing and Inkstones, July/August 1971 5. Arts of Asia, Flaggstaff House Museum of Tea Ware 1984-1994, March/April 1994
6.
Lin Yutang, The Importance of Living, The John Day Company, 1937 (kể cả
bản dịch của Nguyễn Hiến Lê và bản chữ Hoa “Sinh Hoạt Đích Nghệ Thuật”)
7. Herbert E. Plutschow, Historical Chanoyu, The Japan Times, Ltd. Tokyo 1986
8. Hobson R.L., The wares of the Ming Dynasty, Charles E. Tuttle Company 1962
9. Tài liệu trong Internet
10. The K.S. Lo Cllection, Flagstaff House Museum of Tea Ware, Yixing, purple clay wares, Urban Council of Hongkong 1994
III. Hoa ngữ
1. Minh Đại Đào Từ đại toàn, Nghệ Thuật gia xuất bản xã, Đài Bắc 1989
2. Thanh Đại Đào Từ đại toàn, Nghệ Thuật gia xuất bản xã, Đài Bắc 1989
3. Chu Trọng Thánh, Bắc Tống Trà Chi Sinh Sản Dữ Kinh Doanh, Học Sinh Thư Cục, Đài Loan 1985
4. Lâm Vĩ Hạo, Lục Trà, Sinh Hoạt Y Học Thư Phòng, Đài Bắc 1995
5. Lưu Phi Bạch, Trung Quốc Công Nghệ truyền kỳ, Tinh Quang, Đài Bắc 1987
6. Ngô Trí Hòa, Trà Đích Văn Hóa, Hành Chính Viện Văn Hóa Kiến Thiết Ủy Viên Hội ấn hành, Đài Bắc 1987.
Sưu tầm từ:http://tradaotrunghoa.com/home/newsdetail.asp?iData=1260&nChannel=News
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét