Ngày ấy, tại Đại hội võ thuật toàn
quốc, với tiết mục Khẩu lợi công, ông đã làm cho cả giới võ lâm phải ngả
mũ kính phục. Vóc dáng thư sinh, gày còm (nặng 52 kg) nhưng khổ luyện,
với hàm răng như thép của mình, ông đã nâng bổng chiếc bàn bao gồm đỉnh
đồng, nến, hạc, ảnh thờ… nặng tới gần 80 kg. Hơn 20 năm đã trôi qua, vị
võ sư gây chấn động với công phu đặc dị năm xưa vẫn thế, vẫn vóc dáng
thư sinh, vẫn kiểu đi lại, nói năng hoạt bát và vẫn phương châm sống:
“Thần vượng không ham ngủ, khí vượng không ham ăn, tinh vượng không ham
sắc”…
Đặc biệt hơn, ông vẫn gây bất ngờ bởi những công phu siêu đẳng của mình.
Người luôn thức dạy từ 3 giờ sáng
Nội công thâm hậu của võ sư Nguyễn
Ngọc Nội (môn phái Vịnh Xuân) đã nức tiếng trong làng võ bấy lâu nay.
Ông đã từng đăng đài, để mọi người thẳng tay đấm vào bụng mấy ngàn quả
mà mặt chẳng hề biến sắc. Vậy nhưng, khi hỏi ông về những cao thủ trong
làng võ, đặc biệt về nội công, ông đã không ngần ngại giới thiệu cái tên
Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo. Theo võ sư Nguyễn
Ngọc Nội thì sự nghiệp võ công của người đồng đạo Nguyễn Văn Thắng đang
có những bước tiến bất ngờ.
Tuy có sự chỉ dẫn của võ sư Nội,
nhưng vất vả lắm tôi mới gặp được ông bởi ông bận túi bụi tối ngày. Thời
gian biểu cho một ngày làm việc của ông, ai thấy cũng đều phát hoảng.
Một ngày của ông bắt đầu từ 3 giờ sáng. Khi ấy, tiết trời thanh mát, khí
huyết lưu thông, ông lên sân thượng luyện khí công. Luyện khí đến 5
giờ, ông ra công viên Thống Nhất dạy khí công cho môn sinh cao tuổi. Bởi
đang làm Chủ nhiệm khoa Giải phẫu bệnh lý (Bệnh viện Thanh Nhàn) nên 7
giờ, ông vội vã đến cơ quan. Làm việc đến 4 giờ chiều, ông về dạy thêm
một lớp khí công ngay tại sân thượng nhà mình. Đến 7 giờ tối, lại tiếp
tục dạy một lớp võ thuật cũng ngay tại sân thượng ấy.
Hoàng Phi Hồng của... Việt Nam
Võ sư Nguyễn Văn Thắng là chưởng môn
đời thứ hai của Thăng Long võ đạo. Chưởng môn đời trước, cũng là sáng tổ
của môn phái chính là cha đẻ của ông, võ sư nổi tiếng Nguyễn Văn Nhân.
Nếu ai đã tận thấy những thế võ cận chiến tuyệt kỹ mà đặc công Việt Nam
vẫn sử dụng để hạ gục đối phương trong chớp mắt thì có thể hình dung ra
phần nào quyền cước siêu phàm của Thăng Long võ đạo bởi trước đây, lão
võ sư Nguyễn Văn Nhân là thầy dạy của rất nhiều đơn vị đặc công.
Cho đến tận bây giờ, làng võ vẫn bảo,
cố võ sư Nguyễn Văn Nhân là người may mắn, bởi ông được thừa hưởng một
“gia tài võ học” khổng lồ mà ông nội, ông ngoại của mình truyền lại. Ông
nội cố võ sư là một võ tướng của triều đình nhà Nguyễn, nổi tiếng với
Thiếu lâm nội gia, ông ngoại là cụ Cử Tốn, người chỉ nhắc tới tên, cao
thủ khắp nơi đều phải chắp tay bái phục. Cụ Cử Tốn là cử nhân võ thuật
cuối cùng của triều Nguyễn, khi giặc Pháp tấn công Hà Nội, cụ đã cùng
Tổng đốc Hoàng Diệu tử thủ trong thành.
Sau này, khi Hà thành thất thủ, Tổng
đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, cụ Cử Tốn lui về ở ẩn tại khu làng ngay bên
ngoài thành Hà Nội (phố Trần Quý Cáp bây giờ). Đau đáu nỗi nhục mất
nước, cụ bí mật mở lò dạy võ, những mong, khi cơ hội đến lại cùng các
môn sinh yêu nước của mình vùng lên chống giặc. Lò võ ấy một thời đã thu
hút được rất nhiều những môn sinh ưu tú như Mùi Đen, Sáu Tộ (Sáng tổ
môn phái Nam Hồng Sơn), Lý Đen, đặc biệt về sau này, người cháu ngoại
của cụ, võ sư Nguyễn Văn Nhân, với những tinh hoa võ thuật học được từ
cụ đã là rạng danh tiên tổ.
Cụ Cử Tốn nhiều giai thoại, hệt như
Hoàng Phi Hồng bên Trung Quốc, tinh thần thượng võ luôn song hành với
tinh thần ái quốc, thương dân. Bởi là nơi hội tụ những nhân vật kỳ tài,
quân Pháp coi lò võ của cụ chẳng khác nào cái gai trong mắt.
Đả hổ kiểu Võ Tòng
Có lần chúng bày gian kế hãm hại cụ
đến mù hai mắt. Không chịu khuất phục, cụ vẫn bí mật truyền dạy võ công
cho những đệ tử yêu nước của mình. Bất lực, giặc Pháp viện đến một âm
mưu quỷ quyệt, ấy là dùng giới võ lâm để triệt hạ lão võ sư cứng đầu ấy.
Chúng dựng võ đài, loan báo khắp Đông
Dương rằng, võ sư nào đánh hạ được thày trò Cử Tốn thì sẽ được trọng
thưởng Bắc Đẩu bội tinh và được trọng đãi hậu hĩnh sau này. Âm mưu ấy là
vô cùng thâm hiểm, sẽ gây cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn,
đồng thời, bởi ham mê danh lợi, nhiều người đã “bỏ quên” tinh thần yêu
nước, xoay mũi giáo vào chính… người nhà.
Hiểu rõ âm mưu ấy, cụ Cử Tốn hết đỗi
phân vân. Thượng đài thì khác nào mắc mưu quân cướp nước, không thượng
đài thì môn phái ô danh, quần hùng khinh rẻ. Sau cùng, cụ đã nghĩ ra
được một kế sách vẹn toàn.
Ngày ấy, ở sở thú Hà Nội có con hổ
cụt đuôi vô cùng hung dữ. Con hổ to lớn, hễ thấy người là lồng lên, bổ
nhào lên chuồng thép như muốn ăn sống nuốt tuơi. Cụ Cử Tốn muốn môn sinh
của mình diễn lại tích “Võ Tòng đả hổ” ngay trước mắt quần hùng để tạo
thanh thế. Người được cụ chọn sắm vai Võ Tòng là võ sư Mùi Đen, một đệ
tử có thân hình vạm vỡ.
Đúng hôm đăng đài, quần hùng tụ tập
mấy vòng xung quanh cùng đám sĩ quan Pháp và bè lũ sai nha, cụ Cử mới
nói rõ lý do tại sao lại thay màn tỉ thí võ công bằng màn đả hổ. Nghe cụ
nói, tất thảy đều cúi đầu im lặng, và nín thở chờ xem màn quần thảo mà
mới đầu ai cũng cho là chơi dại ấy.
Sau một hồi trống rộn rã, hai chuồng
cọp đã được mấy chục người khiêng ra, đặt ở hai đầu võ đài. Phía bên
trái là chuồng con cọp đực cụt đuôi đang gầm lên những tiếng kinh hồn,
bên phải là con cọp cái cũng đang nhe nanh, giương vuốt gầm gừ trông vô
cùng dữ tợn. Mùi Đen thượng đài, trông vô cùng hùng dũng.
Cứ thế, trước sự kinh hãi của mọi
người, ông thủng thẳng vào mở cửa chuồng con cọp đực. Hai bên quần thảo
vô cùng ác chiến, sau một giờ, bằng một đòn chí mạng, ông đã bẻ gãy cổ
con mãnh thú khát mồi ấy. Chẳng cần nghỉ ngơi lấy sức, túm gáy “kẻ thua
cuộc”, ông vác sang chuồng con cọp cái. Lại một màn kịnh chiến kinh
hoàng diễn ra.
Và, cũng chừng ngần ấy thời gian, con
cọp cái đã bị ông bẻ gãy bốn chân, nằm phủ phục, rên những tiếng thảm
thiết. Phía dưới, quần hùng không ngớt vỗ tay tán thưởng và nể cái trí,
cái dũng của thầy trò cụ Cử, chẳng ai còn dám thượng đài nữa. Thực dân
Pháp thì được một phen muối mặt, rẽ đám đông đang hân hoan với những lời
tán dương không ngớt chuồn thẳng.
Trốn nã bởi đánh võ đài
Thụ giáo những tinh hoa võ công từ
hai bên nội, ngoại, cố võ sư Nguyễn Văn Nhân đã nhanh chóng bộc lộ, và
phát huy năng khiếu võ học thiên bẩm của mình. Võ sư Nguyễn Văn Thắng
kể, ngay trước Cách mạng tháng 8, tuổi mới đôi mươi, cha ông đã là một
thầy võ nổi tiếng ở Hà Nội.
Thanh niên, bởi còn sốc nổi, cha ông
cũng hay đi đánh đả lôi đài. Thời ấy, đa phần các võ sĩ thượng đài ra
lời thách đấu đều do giặc Pháp giật dây, vậy nên các trận đấu đều vô
cùng kinh hãi. Kẻ thua trận nhẹ thì tàn phế, nặng thì bỏ mạng ngay tại
võ đài. Bởi thế, hầu hết các võ đài mà giặc Pháp dựng lên thời kỳ ấy bên
cạnh người võ sĩ thách đấu là chiếc quan tài được làm từ mây trông rất
đẹp.
Ai thua, tử trận thì nằm luôn vào
chiếc quan tài ấy. Một lần thượng đài, chàng trai trẻ Nguyễn Văn Nhân đã
vô tình quá tay, đánh trọng thương một võ sĩ đã đăng đài cả tháng mà
chưa ai đánh hạ.
Theo lời võ sư Thắng thì ngày ấy, sau
cú ra tay hơi mạnh đó, cha ông bị chính quyền thực dân truy nã. Sợ hãi,
ông đã bỏ trốn biệt tích. Sau ba tháng, nhớ nhà, ông về, nhưng chẳng
dám vào nhà. Ông trèo lên cây bàng cổ thụ ngay gần nhà mà nhìn vào
trong, nhìn ngó mọi người. Năm 1944, ông theo cách mạng.
Tuần lễ vàng do Cụ Hồ phát động, ông
đã đem tài nghệ của mình ra để biểu diễn quyên tiền cứu giúp nhân dân.
Đất nước thống nhất, với những tinh tuý võ công mà mình đã được học,
tinh luyện những phương pháp luyện tập võ thuật phù hợp với thể trạng
người Việt, ông đã sáng lập ra môn phái Thăng Long võ đạo.
Võ sư Văn Thắng kể, ông được cha mình
truyền thụ võ công từ năm 12 tuổi. Bởi là sĩ quan quân đội nên cha ông
dạy võ cho ông theo kiểu… kỷ luật thép. Bây giờ, ông vẫn nhớ như in cái
buổi đầu học võ… khổ sai ấy.
Trong gian nhà bếp chật hẹp, năm đầu,
cha ông chỉ dạy ông duy nhất một môn… đứng tấn. Tháng đầu tiên, cha ông
bắt ông mỗi buổi phải đứng tấn khi que hương cháy hết 1/3 mới thôi.
Tháng thứ hai tăng lên là 1 nửa, tháng thứ 3 là cả que nhang. Đứng im,
không nhúc nhích. Hễ động đậy là ngay lập tức chiếc roi trong tay cha
vút lên, đau điếng. Hết đứng tấn dưới đất lại đứng trên cọc nhọn, sau
một năm thì chuyển sang Ngoại ngạch công.
Cha ông bắt ông treo ngược chân lên
xà, rồi cứ thế, ngửa cổ xuống dưới nhấc những xô đá đổ lên xô to phía
trên. Xô đá mỗi lúc một đầy, một nặng thêm theo thời gian mà cha ông đã
định sẵn. Hai năm, khi thân hình đã dẻo dai, cứng cáp ông mới được cha
mình truyền thụ quyền cước.
http://giaoduc.net.vn/xa-hoi/40/5143.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét