Bạch Hạc Quyền có nguồn gốc từ Thiên Trúc và
được coi là môn võ cổ truyền của Thiếu Lâm , tuy nhiên không giống các
môn phái khác được lưu truyền nhiều nhánh và chi phái một cách rộng rãi
trong dân gian, Bạch Hạc Quyền chỉ lưu truyền trong giới Lạt Ma và được
Bồ Ðề Ðạt Ma truyền dạy tại Thiếu Lâm Tự . Vào cuối đời Tống và Minh,
các nhà sư Thiếu Lâm đã đưa quyền pháp ra ngoài với nhiều sáng tạo đa
dạng và phong phú .Từ đó Bạch Hạc quyền được truyền từ chùa Nam Thiếu
Lâm Phước Kiến , huyện Vĩnh Xuân , thuộc thành phố Phước Châu, tỉnh
Phước Kiến . Môn phái Bạch Hạc có nhiều cách phát âm qua nhiều phương
ngữ Trung Hoa : Bạch Hạc quyền (Pai Hao Q’uan, Peh Ho Kuen , Bai He
Q’uan), Bạch Hạc (Peh Hok, Bak Hok, Pak Hok), và Hạc quyền (He Q’uan).
Bạch Hạc quyền cũng được biết dưới một tên khá phổ biến Ngũ Tổ quyền
(the Southern Five Elder Style hoặc the Five Ancestors Fist Style hay Wu
Zu Q’uan), và Vĩnh Xuân Phái (the Yong Chun Style) được phát âm theo
tiếng Quảng Đông là Wing Chun thường được dịch sang tiếng Việt là Vĩnh
Xuân Bạch Hạc quyền (Yong Chun Bai He quan, Wing Chun Bak Hok Kuen).
Bạch hạc là loài chim thuộc họ sếu , tiêu biểu là giống Grus antigone,
đầu và cổ dài có điểm lông đỏ , chân dài , dáng đi uyển chuyển mềm mại .
Mỏ nhọn , cứng , dài dùng để tấn công địch thủ . Với hình tướng cao lêu
nghêu , mảnh khảnh , hạc dễ bị tấn công , nhưng với khả năng bẩm sinh,
hạc luôn giử một khoảng cách an toàn với địch thủ ( bạch hạc dạ hành ) .
Hạc dùng những móng vuốt nhọn và sử dụng cánh để ngăn chận hoặc bung ra
chớp nhoáng để tấn công địch thủ . Hạc thể hiện nội lực tinh thần, trí
tuệ, sự nhạy bén. Thân mỏng trong bộ lông trắng muốt , hạc thật mảnh mai
, trông nó thanh cao như một người luống tuổi mà vẫn giữ được phong
cách ung dung. Hạc được coi là một con vật sống lâu cho nên người ta gọi
tuổi của các cụ là tuổi hạc. Một đặc tính khác của hạc là lãng đãng ,
chập chờn bay lượn nơi nầy nơi nọ , vui ở , buồn đi , phong thái ung
dung , phiêu hốt . Do đó hạc thường được ví với Ðạo của Lão gia , mang
cái tâm huyền không , vô trụ , vô sở . Tạo được cái tâm hư vô là tạo cho
mình một lực hút phi thường chứa đựng cả vạn pháp, giải thoát được cái
ắt có của không gian và thời gian . Ðó là Ðạo vô thuỷ vô chung . Lão Tử
nói cái gì trống không thì sẽ được lấp đầy ( oa tắc danh) . Trang Tử
cũng nói người đắc đạo cho mãi mà không cạn , thu mãi mà không tràn .
Các môn phái Hạc quyền mô phỏng các động tác và bộ hình của loài hạc để
sáng tạo ra các thế vỏ ung dung phiêu hốt có giá trị cao trong chiến đấu
. Có 5 phái Hạc quyền mà quyền pháp mô phỏng theo phong thái của loài
hạc: *Tung Hạc quyền (Zong Hequan , the Jumping Crane Boxing) mô phỏng
động tác con Hạc đang chuyển mình sắp sửa cất cánh bay lên (Hạc đang
nhảy nhót), loại quyền này vận động theo hình tròn, lỏng thân, mềm tay,
đòn ra duỗi thẳng, dùng lực toàn thân, kình phát rung bật, đàn hồi. *Phi
Hạc quyền (Fei Hequan, the Flying Crane Boxing) mô phỏng động tác con
Hạc đang nghiêng mình bay lượn. Phi Hạc quyền cũng vận động theo hình
tròn, lỏng thân, mềm tay, nhưng nhấn mạnh các động tác thủ chưởng (lòng
bàn tay) khi phát kình. Trước khi phát kình thường hay buông lỏng và
rung lắc thân hình phối hợp với eo lưng và mã bộ để xuất kình. * Minh
Hạc quyền (Ming Hequan , the Crying Crane Boxing) mô phỏng động tác con
Hạc đang gáy (đang hót), môn quyền này xuất tiễn có lực, chụp bắt mau
lẹ. *Túc Hạc quyền (Su Hequan, the Sleeping Crane Boxing mô phỏng động
tác con Hạc đang đứng nghỉ (ngủ). Môn quyền này khi luyện giống con Hạc
đang đứng ngủ, nhưng không phải ngủ, mà là để dụ địch, thoát ẩn mau lẹ,
thủ pháp nhanh như chớp. *Thực Hạc quyền (Shi Hequan , the Eating Crane
Boxing), mô phỏng động tác con Hạc đang ăn. Môn quyền này chú trọng thủ
hình, lấy trảo, chưởng, chỉ, câu và đơn châu quyền làm chủ; mã bộ vững
chắc, eo hông xoay như bánh xe. Bạch Hạc quyền cũng mô phỏng theo các
động tác trên của hạc, chủ yếu sử dụng hai thủ pháp mỏ và cánh hạc . Mỏ
hạc là dùng năm ngón tay chụm lại nhau để tấn công các điểm gần và mềm
của địch thủ như mắt , nhân trung , màng tang , yết hầu . Cánh hạc là
hai cánh tay thu ngắn hoặc vươn dài một cách uyển chuyển , mềm mại theo
những động tác thuận nghịch để tấn công liên tục vào thân mình và tay
chân địch thủ . Trước khi luyện tập Bạch Hạc quyền , môn sinh dùng hơi
thở để luyện thần .Tinh, Khí, Thần là căn bản của con người, không có
chúng thì chúng ta không thể tồn tại được. Tinh là Nguyên Khí - tinh
chất cốt lõi của con người, do Âm Dương của cha mẹ truyền lại, vì vậy,
Tinh là nguồn mạch của sự sống, nó duy trì tính chất di truyền . Khí là
nguồn năng lực nội tại luân lưu trong các Kinh Mạch và Tạng Phủ với chức
năng điều hòa và tăng cường cho sức mạnh của Kinh Mạch và Nội Tạng.
Thần là chủ đạo của não. Thần có liên quan mật thiết với Tâm, nên mới
nói “Tâm tàng Thần”. Ðan điền của Thần đóng ở Ấn Ðường và phía sau là
Bách Hội (đỉnh đầu) . Tóm lại, Tinh là gốc của sự sống, được nuôi dưỡng
hàng ngày bởi Khí . Thần là tinh hoa của Khí . Mục tiêu tối hậu của Khí
Công là luyện Tinh thành Khí , luyện Khí thành Thần . Hơi thở điều hòa
tư tưởng, tư tưởng dẫn khí, khí dưỡng thần. Về hơi thở thì phải thâm
(sâu), trường (dài), quân (đều), tĩnh (êm), khai khoát tự nhiên (thoải
mái tự nhiên). Thần khí có thể kết tụ ở đôi mắt, hoặc ở tay chân . Ðôi
khi tư tưởng vượt ra ngoài thân xác thì đó chính là lúc môn sinh giác
ngộ biết được bản tính chân thực của sự vật. Ðây là lý do môn đồ Bạch
Hạc thường luyện thần trước gương dưới ánh sáng mờ ảo của ngọn bạch lạp.
Ta thấy ta đó, nhưng chưa hẳn là ta mà là bóng. Bóng và ta nhập nhòa ,
phân tranh, tiến thối, đến một lúc nào đó môn sinh không còn phân biệt
ta và bóng , thật và giả, tức là đạt đến tâm thức an định. Thần thức (tư
tưởng) sẽ an nhiên tự tại và làm chủ được mình, điều khiển được những
đường kinh khí, lục phủ ngũ tạng, vì tư tưởng đi đến đâu thì khí đến đó -
khí là sự trôi chảy liên tục của tư tưởng, khi tư tưởng bế tắc thì khí
nghẽn . Lúc bấy giờ môn sinh sẽ điều động được thân tâm một cách nhịp
nhàng , thân thủ tiến thoái liên hoàn. Một khi đã làm chủ được thần thức
thì môn sinh đã "quy căn phục mạng" tức là trở về cái thanh tịnh tuyệt
đốị , hay là trở về Tâm Hư , không còn điên đảo , ly tán vì ngoại giới
hữu hình . Ðó là cách phục hồi chân khí , theo Ðạo gia là nguồn gốc của
sinh mạng : ngủ thì nhắm mắt ( dưỡng thần ) , tai không nghe (dưỡng
tinh) , miệng không nói ( dưỡng khí) , tức lòng đã được Hư Vô . Các yếu
pháp, yếu lý, quyền lý trong nền móng khí công Bạch Hạc được coi là có
nguồn gốc từ Thiền tông qua tác phẩm Trung luận hay Trung quán luận của
Phật giáo với các yếu chỉ về điều thân - điều tức - và điều tâm. Về mặt
võ công, có thể nói đây là cuốn sách võ công thượng thừa mà các nguyên
lý triết học và phép biện chứng của Phật giáo không thể hiểu dễ dàng
trên các phạm trù chân như, hư không. Môn sinh muốn đạt đến Tâm Hư , khi
đi không biết mình đi, khi ngồi không biết mình ngồi, nhằm đạt đến
chiều sâu nhất của tâm và chứng ngộ cái sống thật sự của nó thì không có
cách nào khác hơn là đạt một tự tâm lắng đọng sâu xa ngay trong những
hoạt động của mình. Hình thức của Bạch Hạc quyền nhấn mạnh vào khái niệm
không thách thức. Những người cố gắng theo đuổi vẻ đe dọa bên ngoài của
động tác sẽ không bao giờ phát triển được trong môn võ này. Các sư tổ
của môn phái thường khuyên môn sinh hãy mang cái tâm sơ khởi đầy nghi kỵ
bất trắc của mình ra đối mặt với đòn thế mỗi ngày. Hãy để nỗi sợ hãi tự
bộc lộ và tìm hiểu nó thật kỹ. Hãy theo dõi nó tồn tại và phát triển
mỗi ngày, và sau cùng hãy diệt nó đi như khi ta trừ một cây độc phải nhổ
tận gốc . Thôi Hiệu có câu thơ : "Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản Bạch
vân thiên tải không du du." (Hạc đã bay đi rồi không bao giờ trở lại,
Sao ta mãi như gợn mây trời nghìn năm thẫn thờ trôi? ) Vì sao ? Vì ta
khi có sở đắc thì ta lại trụ, mà trụ thì bị mất chứ không phải còn ! Mất
trong sự hiểu biết nông cạn của lý trí, dĩ nhiên là ta mất luôn vì lẽ
sự hiểu biết vốn dĩ hạn hẹp. Còn hạc, vốn không biết, vừa mới biết đã
mất, thì cái mất đây hoà nhập theo sự trường tồn của vũ trụ. Hạc vỗ cánh
về đâu ? Còn tổ để về hay đã mất ? Vẫn không bắt gặp chút tình nào của
nhà thơ, nhưng ta thấy thấp thoáng đang cùng chim hạc, vỗ cánh lưng trời
. Giữa cái hư thực đó môn sinh sẽ cảm nhận như mình đang tọa thiền.
"Năm chầy đá ngủ lòng khe Lưng trời cánh hạc đi về hoàng hôn.” ( Thị
Ngạn) Chỉ cánh hạc lưng trời kia biết mà thôi. Mơ hồ quá, cánh hạc lưng
trời đưa chiều dần vào tối, rồi hạc chìm mất trong bóng đêm hay hạc đã
hóa thân thành đá, im lìm ngủ dưới lòng khe ? Lại cũng chỉ hạc biết và
đá biết mà thôi. Và hạc cũng như đá dường như chỉ có mặt để nhận biết
không gian, vạn hữu mà không hề bị không gian, vạn hữu đó vướng mắc. Ðó
là triết lý vi diệu của Thiền mà cũng là tinh yếu của môn phái Bạch Hạc
quyền .
LÊ TẤN TÀI
Sưu tầm từ:Vườn Thiền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét