Tôi muốn đứng ra, nghểnh cao cổ, hò hét bênh đàn bà
cũng không được. Vì tìm đến nửa ngày cũng không kiếm
đâu ra chữ để chửi bọn đàn ông. Thử xem nào : đồ
đàn ông đĩ ngựa. Nghe không ổn . Đồ lẳng lơ.
Cũng không nghe ra tai. Cuối cùng tìm ra được vài
chữ đáng đời : Đồ súc sinh và một chữ dấm da
dấm dớ : Đồ cha căng chú kiết. Thật đến là
tức, tự nhiên xổ ra được một lô chữ cho hạ hoả :
đồ du côn du kề, đồ ăn mày ăn xin, đồ gì nữa
nào.. đồ lính tráng. Cái may của phụ nữ miền Bắc là
vào đến trong Nam, họ đã không bao giờ còn bị ai
diếc móc như thế nữa.
Than vãn hay dọa nạt :
Đã nói thì phải nói hết. Bên
cạnh đó, ở mức độ chừng mực vừa phải dễ dung nhận
được là các lối nói than vãn, hăm đe. Trong lối nói
này, người ta tỏ ra một oai quyền, một sự khôn ngoan
già dặn, một sự từng trải, sự
hiểu đời, cái hơn người. Chẳng hạn : Các người
đừng có vội tí ta tí toét, cứ ỉm đi, cứ im thin
thít, thời buổi nhiễu nhương, trắng đen lẫn lộn, hơi
đâu mà, có dỗi hơi, kêu giời kêu đất, tôi vội vàng
mát mẻ nói, đừng có bắt bí nhau, liệu cái thần hồn,
bà truyền đời cho mà biết, cứ tẩn cho nó một trận
đến lòi tù và ra, vả vào miệng cho tôi, cái giống
nhà mày, không có tao thì cả họ mày
ăn bùn, nó bôi tro trát
trấu vào mặt, mấy đứa kia thì
đáng vật một nhát cho chết, nó lo xanh mắt và thức
suốt đêm, hừ ngỡ là gì, hóa ra hắn nằm vạ, (10) giận
cá chém thớt, bà truyền đời báo danh cho mày biết,
tôi biết tỏng tòng tong trong bụng ông nghĩ gì, chớ
nói gở nó vận vào mình, e xúi quẩy đấy.
Người miền Nam nghe những câu trên là sùng rồi :
rắc rối tổ mẹ, cái gì mà ví von qua không hiểu.
Qua nói thiệt, qua có sao nói dzậy. Còn mấy cha nội,
nói dzậy mà không phải dzậy. Có ngon ra đây, kiểu gì
qua cũng chơi ráo trọi. Kiểu gì nó cũng chơi thì né
đi cho được việc, giở sách
thánh hiền ra đã có câu thánh dậy : tránh voi chẳng
xấu mặt nào.
Phong kiến qua lối xưng hô bị dẹp bỏ.
Có lẽ không ở đâu, không ở nước nào cách xưng hô lại
phức tạp lầy nhầy như miền Bắc. Mới đây, trong một
chương trình Vidéo, người viết thấy một cô ca sĩ trẻ
được người điều khiển chương trình phỏng vấn.. Lúc
phải trả lời, cô lúng ba, lúng búng, vì không biết
phải xưng bằng anh, chú, bác hay nhà văn với người
điều khiển chương trình. Bác có vẻ già quá, anh thì
có vẻ hơi sỗ
sàng. Ông thì xa lạ. Cậu tớ thì xấc quá.
Trong cái cách học ăn, học nói của người Bắc thì bài
học vỡ lòng là học cách xưng hô. Trẻ con nào mà
không được bố mẹ dạy phải xưng hô tùy theo tuổi đã
đành, theo quan hệ họ hàng, theo chức vụ và theo xã
giao nữa.
------------------------------------------------------------
(10) Tục nằm vạ là một tục lệ đặc biệt của miền
Bắc. Bùi Hiển đã viết một cuốn chuyện về vấn đề Nằm
vạ này. Chí Phèo của Nam Cao cũng đã ăn vạ để bắt bí
nhà giầu.
------------------------------------------------------------
Những tiếng thầy bu, thầy u, thầy đẻ, thầy me,
cậu mợ, đằng ấy, cậu tớ, người nhớn, con nọ, con
kia, huynh, đệ, quan bác, thằng cu, con đĩ, mẹ đĩ
nhà tôi, nhà con, ông mãnh, thằng trời đánh thánh
vật, thằng chết băm chết bằm tùy trường hợp mà
dùng. Nhưng bắt chước người Tầu, ta còn có chữ
Gia phụ, Gia Mẫu, Gia Huynh, chỉ bực bề trên hay
xá đệ, xá muội chỉ bực dưới. Bấy nhiêu lối
xưng hô vào đến miền đất mới như lạc lõng , thi nhau
bị "cáp duồn" hết. Không ai nói nữa. Do sức ép hay
do tự mình cảm thấy lỗi thời, thấy dởm, thấy cầu kỳ,
thấy rắc rối, thấy "không giống ai" thấy cần phải
bỏ. Có lẽ thấy cái không giống ai là lý do của sự ra
đi không trở lại của các cách xưng hô trên.
Các chữ dùng để gọi, xưng danh quan tước chức sắc
cũng nhiều lắm. Cũng phiền lắm. Nhiêu khê lắm. Không
xưng đúng danh phận, có thể bị trách, bị giận, bị
trù ếm nữa(11). Nhiều không đếm xuể. Hầu hết, việc
hài chức vụ có dụng ý, tâng bốc nịnh nọt. Nó đã dần
biến mất khi vào đến trong Nam. Nó biểu tỏ một xã
hội phong kiến, đẳng cấp, trên dưới không thích hợp
ở miền Nam. Người dân miền Nam cũng là di dân, có
cái may mắn không thừa hưởng di sản của một xã hội
phong kiến, hủ lậu. Xã hội đó lo kiếm miếng ăn, làm
giầu, không nghĩ đến chữ nghĩa thánh hiền, cũng
chẳng bận tâm đến kẻ trên người dưới.. Xã hội vừa ổn
định, chưa mọc ra những mầm mống của thứ ổn định
kiểu trên đè dưới, quan lại, thứ dân, giai cấp thống
trị. Làng xã mở toang, không hàng rào vây kín.. Xã
hội cũng mở toang mọi phía mà dân là chính, dân là
chủ. Sự xưng hô vì thế giản tiện và tuỳ tiện, đáp
ứng nhu cầu thực tiễn. Ba má thì là ba má.
Khi cần gọi chung là ông già bà già. Nội việc
xưng hô cũng thấy miền Nam đuợc cởi trói nhiều theo
tinh thần tự do, dân chủ. Người Bắc từ xa tới, lẽ
nào không thấy cái hay đó. Lẽ nào không theo, tự ý
theo. Để gọi một người ở, người trong Nam chỉ gọi
chung chung là người làm, vừa
giản dị, vừa không có khinh miệt, rẻ rúng. Vì
thế, nếu còn ai gọi cụ đốc thì thay vì là một
trân trọng, nó đã biến thành trò cười, mai mỉa. Hóa
cho nên, chữ nghĩa có cái thời của nó, thời để sống
và thời để chết.(12)
------------------------------------------------------------
(11) . Người Hànội có một thói quen khá kiêu
sa (Theo Vũ ngọc Phan trong
Nhà văn hiện đại) là thay vì gọi tên một người, họ
lại hài chức vị người đó ra mà gọi. Gọi như thế vừa
là cách vinh danh người được gọi. Phần người gọi cảm
thấy hãnh tiến vì có quan hệ quen biết với người
được gọi. Chẳng hạn : ấy quan đốc nhà tôi,
hay ngon hơn nữa : ấy anh Huyện X. Chữ nhà
tôi, tự bầy tỏ cái huyênh hoang , hãnh tiến,
thấy sang bắt quàng làm họ. Thật đáng ghét.. (12) Đã
là đốc học, đốc tở mà còn kèm theo chữ cụ hoặc chữ
quan nữa thì rõ ràng là xu nịnh : quan đốc tờ,
quan đốc học, cụ Nghị, cụ Hàn, cụ cử, cụ ký, cụ
Thượng, cụ Tú, thầy đội xếp, thầy cai, cụ lang ta,
cụ bang tá, thầy quản, anh Khóa, anh cung văn ( thư
ký riêng của các gia đình giầu có), thầy đồ, sinh đồ
hay cống sĩ, quan hiệu, quan châu, quan phủ doãn,
hiến ty, dề điệu, quan thừa sứ, ông Hiến binh, ông
Trùm, ông Chánh trương, ông hậu, ông Hàn, ông cửu,
cụ Thượng, ông Lý, cụ Chánh.
------------------------------------------------------------
Cách làm ăn có khác, chữ nghĩa cũng đổi khác
Cũng là xứ nông nghiệp, nhưng cách làm ruộng, cách
sinh sống cũng khác miền Bắc nhiều lắm. Chữ nghĩa
cũng vì thế cũng đổi theo. Rất nhiều chữ, từ miền
Bắc , vào Nam không ai dùng nữa, vì đời sống kinh
tế, xã hội đã thay đổi. Nghề hàng xáo ( xay
giã gạo. Trong Nam không có nghề này ), Ruộng
chân nhất đẳng, nhị đẳng, ruộng mật điền (Ruộng
tốt nhất ) gian buồng, khóa dãy, rau muống lợn,
đi đong gạo, dậm lại mái nhà, hòm gian ( Hòm to
để đựng đồ trong nhà ), nhà pha (nhà tù),
nhà giây thép, xe hòm ( Xe hơi sang trọng )
ngày con nước, đi lưới, cái niêu, nồi đất, chỉnh
dầu, rổ rá, dao quay, dao nhựa, một bồ, vuông thóc,
giây lạt, dùi đục, cái cũi, đóng cũi, cái cưa xẻ,
cái gáo, cái chum, cái lọ độc bình, cái phên nứa,
bát chiết yêu, đi bể ( biển), tậu 3 mẫu
ruộng, vác thúng, đèn măng xông, cái lồng ấp, cái
hỏa lò than. Chữ sau đây cũng xưa lắm rồi, nhưng
đến là hay : nhà xí. Nay thi nguời ta văn
minh hơn gọi là nhà vệ sinh, trong Nam gọi là nhà
cầu, siêu đun nước, cái áo quan, cái nhị tẩu
( tẩu hút thuốc phiện), khay đèn, quạt lông,
tràng biên (thân thế một người), đèn ló, cái
sập, cái phản, quần nái (quần dệt bằng một thứ
hàng tơ tầm sợi thô, nhuộm đen), cái bình phong,
con thò lò, đỉa phải vôi, giọng kẻ bể, cái trõng
che, cót lúa, một bồ, vuông thóc, gạch bát tràng,
gạch lát bổ cau (Lát xiên và dựng nghiêng viên
gạch ) gạch vồ, cái mả , rồi có cải mả, đề lao,
cái lọ. Tỉ dụ : xách
hai cái lọ đi kín nước.
Chữ kín nước nghe thật hay, nhưng cũng ít
được ai dùng tới nữa. Cái màn (mùng).
Rồi từ đó thay vì nói đi ngủ, người ta còn nói
vào màn . Thợ ngõa.
------------------------------------------------------------
Những chữ dùng để chỉ kẻ hầu người hạ đã tùy hoàn
cảnh mà thay đổi. Trong nhà đạo, khi dùng chữ Kẻ
tôi tớ chỉ là lối nói khiêm tốn của kẻ bậc dưới
với kẻ bậc trên như cuối lá thư thường viết *kẻ
tôi tớ hèn mọn *. Chữ con nhài, nàng hầu tương
đối lâu đời nhất được dùng trong các nhà quan. Sang
đến thời Pháp thuộc có chữ con sen, chị vú, anh
phu xe, rồi anh tài xế.. Những chữ
để chỉ việc gái chời bời như : đi nhà thổ (me
dông de te ), nhà chứa, me tây, làm đĩ..Trong
Nam giản dị gọi chung là Gái điếm. Những chữ
chỉ nhà nó ( chỉ vợ hoặc chồng). Chữ người
(chê bai). Nguời khó tính lắm
ạ đòi phải mua rau lấy Người mới xơi được (
trích trong Chiểu Chiểu của Tô Hoài ). Quan anh (
ý nịnh bợ) có tắm không, mở bôn chục trai nước
suối Viten đổ vào thùng rồi pha nửa chai cô lôn để
cụ giội lại, dọn cái buồng Thổ Nhĩ Kỳ để chớp bóng
đấy nhé (Trích Giông Tố của Vũ trọng Phụng ).
Thêm một chữ cô ả cũng
mất tiêu không ai dùng nữa. Một số chữ của nhà đạo
cũng không được dùng nữa : Thầy cả, cụ, cố, thầy
kẻ giảng, ông bõ. Nam Cao đã viết riêng một
chuyện nhan đề : tư cách mõ. Nhà văn cho biết
tại sao gọi là mõ, rồi lềnh, rồi
Sãi. Chữ ông Trùm, ông Chánh Trương cũng không ai
dùng nữa. Một số chữ bên Phật giáo như ông
Bụt, ông sư, ông vãi, bà vãi, chú tiểu cũng ít ai
dùng nữa. Có nhiều người muốn phục hoạt lại chữ
Bụt, ông Sư như chủ trương của thầy Nhất Hạnh.
------------------------------------------------------------
Người miền Bắc chân lấm tay bùn, làm ăn vất vả. Miền
Nam, ruộng thẳng cánh cò bay, làm chơi ăn thật.
Đi mút mùa lệ thủy không thấy nhà thấy cửa, nhất
là không thấy tháp chuông nhà thờ, không thấy đình,
thấy chùa. Cái nhìn về con người, về đời sống, về
cách sinh hoạt làm ăn của người Bắc đã đổi khác.
Chẳng mấy chốc cái ngậm ngùi lúc ra đi nay quên hết.
Cứ gì chữ nghĩa bỏ quên, đất lề quê thói, phong tục,
tập quán, đạo nghĩa cứ thế mà rơi rụng dần dần. Thay
vì so đo, khép kín, bảo thủ, giữ lời ăn tiếng nói,
giữ phép nhà bắt đầu buông thả. Thay vì chiếu trên ,
chiếu dưới, có phép có tắc.. nay ăn nói thả
giàn, chả kiêng nể gì nữa.
Con gái, con đứa nay tụm năm
tụm ba đàn đúm, hát xướng, thích thì ra rặng trâm
bầu tán tỉnh, mọi chuyện hạ hồi phân giải.
Thành trì cuối cùng :
văn minh miệt vườn đối đấu với văn hóa miền Bắc.
Người miền Nam,
chữ nghĩa chỉ vừa đủ dùng, nếu không nói là còn sơ
sài lắm so với miền Bắc. Nó là thứ văn minh miệt
vườn không đủ để ba hoa trên trường văn trận bút.
Cái điều đó đã được nhà học giả Phạm Quỳnh nhận xét
một cách khá bất công trong cuốn Một Tháng ở Nam Kỳ
:
"Chữ Quốc ngữ thì đã thông dụng lắm rồi, đàn bà
con trẻ thường biết đọc, biết viết cả.. Nhưng đến
văn Quốc Ngữ thì xem ra cái trình độ Quốc Văn đại để
hãy còn kém"
Nhận xét đó, có lẽ người trong Nam chả bao giờ quên
và thành kiến đó người Bắc cũng chả bao giờ thay
đổi. Cho đến giờ phút này, cái văn minh miệt vườn
đó, cộng với 20 năm văn học miền Nam đến sau 75 vẫn
chưa được nhìn nhận.(13) Thành ngữ hay lối nói miền
Bắc là vốn liếng ngôn ngữ của một dân tộc. Nó tích
lũy, thải loại kết tinh những đặc thù, những sắc
cạnh của ngôn ngữ, của vốn liếng hiểu biết truyền
thừa. Nó không thừa, không thiếu, nó vừa đủ. Nó được
sử dụng trong đời sống hằng ngày như kim chỉ Nam, nó
đưa ra những tiêu chỉ đời sống, phán xét, nhận định
phải trái tốt xấu. Nó là thứ ngôn ngữ đã được đãi
lọc, được truyền thừa của sự khôn ngoan, thu gọn
lại. Phải là người địa phương, nhuần nhuyễn sắc thái
văn hóa bản địa mới có thể sử dụng đúng cách, đúng
trường hợp. Người ngoại cuộc, nhất là người ngoại
quốc, dù có ở lâu năm tại đất nước đó,
------------------------------------------------------------
(13)Trong cuốn Chân dung và tác phẩm của Trần
đăng Khoa, cuốn sách phê bình Văn học . Không một
chữ đả động đến các nhà văn miền Nam. Mới đây nhất,
qua giới thiệu của T.S Lê văn hảo, có bộ Tổng tập
Văn học VN, dày cả vài chục ngàn trang. Đã có phần
dành 4000 trang cho VH Cách Mạng rồi, chỗ đâu cho
những mảnh VH khác.. Bao giờ cái mảng VH miền Nam
mới được nhìn nhận trong cái khung của một thời kỳ
đi khai phá, có những nét đặc thù, bất chấp những
tiêu chuẩn khách quan của Văn học. Vấn đề là nó có
mặt, ở một thời kỳ nhất định, có những sắc thái cá
biệt. Vậy đủ rồi
------------------------------------------------------------
chưa dễ giầu gì nắm bắt được tình ý, nội dung hàm ẩn
của những thành ngữ đó. Miền Bắc, cái nôi văn hóa
lâu đời cả nước giầu dân tộc tính nhờ những lối nói,
lối viết đó. Nó chuyên chở cả thời kỳ 1000 năm thủ
đô Hànội, văn hoá Thăng Long, văn hóa cho cả nước
với không biết bao tên tuổi lẫy lừng. Nó không phải
tự cao rao, quảng cáo vô bằng. Người và chứng tích
văn học còn đầy ra đấy. Viết ngàn trang giấy cũng
chưa đủ.
Vậy mà lên khỏi tầu há mồm, cập bến Nhà rồng.. Tất
cả những thứ đó đổ xuống sông hết. Bài chiếu Lý công
Uẩn dời đô không lẽ mang ra dọa .. Lý Thường Kiệt,
bà huyện Thanh Quan cất đi cho rồi vì chóa mắt với
xe cộ chạy hà rầm..
đường phố rộng thênh thang, tấp nập người qua lại,
xe gắn máy ba bánh nổ bành bạch điếc con ráy.
Xe thổ mộ lách cách vui tai thong thả dời chợ Bến
Thành đi Ngã Ba ông Tạ, hay đi chợ Bà Chiểu. Chú lái
xe thổ mộ ngồi nghiêng bên thành cán xe ngựa
thò chân xuống đất, mồm kêu toóc toóc như dục chú
ngựa ráng tý nữa, ráng tý nữa đi cưng. Hoa
trái bầy la liệt mua một chục ê hề đủ loại.
Bà bán hàng ra giá mua một chục có đầu.,
nghĩa là chục có thể 11, 12 đến 13,
14 trái tùy theo thỏa thuận. Nội thế thôi,
mua bán kiểu kỳ cục Nam Kỳ cũng thấy đủ sướng rồi.
Thật đến là kỳ lạ cái xứ Nam Kỳ. Chẳng ai bảo ai,
ngay cả đám sĩ phu Bắc Hà, đám trí thức thành thị
cũng rứa. Quên hết chơn, hết chọi.. Câu
chuyện văn hóa ngàn năm chẳng chống đỡ nổi một ngày.
Người Hà nội, người di cư có văn hóa cao, hoặc các
nhà văn thường sử dụng chúng một cách nhuẩn nhuyễn
trong lúc giao tiếp, viết lách. Nói văn hay chữ tốt,
nói có văn hóa đương nhiên phải biết sử dụng thành
ngữ đó, lối viết đó như một thuật ngử, nói ít hiểu
nhiều. Miền Bắc có những nhà văn tiêu biểu sử dụng
vốn liếng các thuật ngữ này như Trần Tiêu, Vũ trọng
Phụng, Tô Hoài, Vũ Thư Hiên, Nguyễn khắc Trường. Đọc
họ cũng lý thú lắm.
Vậy mà chữ nghĩa đó vào đến trong Nam đã bị gạt ,
thải loại không chừa một chữ nào. Không muốn nghe,
nghe thì gạt đi, muốn nói cũng không được.. Nói ra
thì nó đớ đờ đờ. Có duyên, được kính nể ở ngoài Bắc,
trong Nam trở thành vô duyên, không ngửi được. Đã
thế, chữ nghĩa để có cơ tồn
tại, nếu nó được các nhà văn dùng..thì đỡ biết mấy.
Chính các nhà văn di cư vào Nam như nhóm Sáng Tạo
cũng quăng thùng rác không thương tiếc. Chúng bơ vơ
, lạc lõng , đầu đường , góc nhà, góc phố, nơi từng
nhóm người rồi biến dạng. Không có đám ma. Không kèn
không trống. Cái này không phải hoàn toàn lỗi người
bản địa mà chính tại người dân du nhập không muốn
giữ. Hình như có một thói quen xấu, có mới nới cũ..
Ít ai muốn nhắc nhở, bàn , viết về những chói sáng
văn học miền Bắc.
Có lẽ cái mất lớn nhất của dân di cư là mất lối nói,
lối viết, nếp sống văn hoá thành ngữ đã bị biến
dạng. Nếu còn một thứ văn hoá gì là thứ "Văn hóa
chảy" Chảy tuốt luốt. Với cái độ nóng trung bình 35
độ, cái gì cũng có thể chảy được. Bù vào chỗ đó, họ
phải đi tìm một hướng viết mới, mới có nghĩa là khác
với tiền chiến, khác với Tự lực Văn đoàn. Mới thực
sự thì chưa biết là thế nào, chưa biết hình thù nó
ra sao, nhưng điều rõ rệt là dứt bỏ truyền thống,
cái cũ, trong đó có các thuật ngữ cũ của miền Bắc..
Họ không thích ngồi lau đồ đồng, đánh bóng chữ cũ mà
đùa cợt mầu mè, son phấn với chữ nghĩa cho là mới,
kêu rổn rảng, lặp đi lặp lại đến lập dịõ. Chữ nghĩa
đó mà phần đông họ nói để họ nghe hoặc dành cho một
thiểu số trí thức thành thị vốn chẳng đại diện cho
cái gì, ngay cả cho chính họ. Chữ nghĩa đó gặp lần
đầu thấy lạ thì muốn làm quen. Quen rồi thì chán
ngấy muốn lỉnh , vì chẳng nói được điều gì. Chính ở
chỗ đó, chữ nghĩa văn minh miệt vườn trở thành nhu
cầu tinh thần của đa số dân miền Nam. Cả cái văn hoá
miền Bắc đưa vào bị cháy rụi chỉ còn trơ lại ít cột
kèo đen thui. Không ai đếm xỉa đến nữa.
Phần người viết, bắt gặp lại nó thấy gần gũi như
người bạn cố tri lâu ngày gặp lại. Tự nhiên chẳng
khác gì thấy người bạn đầy những tính tốt mà trước
đây đã không lưu ý tới. Phải nói nó hay lắm, đượm
mầu sắc dân tộc, quê hương, xứ sở
------------------------------------------------------------
(14). Chẳng hạn : Nó tẽn tò, sợ vãi đái, nhịn
như nhịn cơm sống. Mấy từ này lâu lâu gặp một bà
Bắc kỳ đặc dùng lại nghe cũng sướng cái lỗ tai.
Ăn uống vốn là lẽ sinh tồn
của nguời dân Bắc nên được sử dụng tràn lan như :
ăn phải đũa, ăn cơm khoán, ăm cơm tứ chiếng, ăn
chực, ăn ba vực như trong câu : ăn chẳng bao nhiêu,
ăn vạ hay nằm vạ. Tuyền là thứ đặc sản cả. Quý lắm
đấy. Thứ thiệt, thứ ròng chính hiệu con nai. Nào là
bữa lưng bữa vực, rồi bà thổ ra, chả mấy khi, thế mà
cấm khinh người, ông ta chúa pha trò, ông bỏ lỗi cho
tôi, tôi nói khí không phải, khắc xong. Mấy từ
này dùng đến là đắc ý. Nó đứng một mình thì chả có
gì đáng nói, nhưng nó đứng trong toàn cảnh một câu
nói thì thật hay. Khí không phải vừa có vẻ nhún
nhường, nhưng đầy thách đố và sẵn sàng đối đầu không
thương nhượng. Này, lại tiếp một lô chữ nữa ghi lại
kẻo quên : Con đàn cháu đống, ốm thập tử nhất
sinh, cứ chõ mồm vào, le te chạy vào, bà đã mà cả mà
cập, rõ mồn một, việc lớn ta tính theo việc lớn, còn
việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong (
trích trong Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi
) Về muộn mấy, vào chơi cái đã nào, người chết như
ngả rạ, quái nhỉ, quái nó đi đâu, tối bức như lò
than, người con gái trắng lôm lốp, ra sự rằng mình
dỗi, giãy lên như đỉa phải vôi, ngã lộn tùng phèo,
lớn phổng phao, con đi đằng này, đằng này là đằng
nào, trả lời mà như không trả lời ( Không cho biết
là đi đâu, có ý dấu, có thể là nói dỗi) u hỏi làm gì
những việc ấy, mặc con, không đủ mặc thây, cái đám
ma cũng đường trường lắm, con đẻ rứt ruột ra còn
thế, lời chửi rủa thì bao giờ cũng thừa bứa tứa tát,
thở rít lên như tiếng bễ, gà gà mắt lên như người
say thuốc lào, nhà cũng hoàn cảnh lắm ( Chữ này có
thể là chỉ được dùng sau 54), khối anh, ông đã diện
oách, một tay bốc trời, nói khe khẽ, cô suýt bật
cười, nào bác cả ra đây, đàn ông đàn ang có biết gì
đâu, giặt giũ cơm nước chợ búa, trêu ngươi ai, cài
toang xong ( đóng cửa truồng trâu ), ngã xiểng
liểng, nó khó bảo, đi đong chịu, khi cần tiền vẫn
giựt nóng, cái ngữ đó, cái cơ ngơi, Nói đến hơi
hướng cái danh ông Dề, tao úp được con chó rồi, đi
húi tóc, ra sự rằng mình dỗi, đi ở trọ, mẹ hờ con (
ru con, chữ cũng hay lắm đấy chứ ) suốt đêm, giã đám
(rã), tuổi mụ, cầm bằng ông ta
mà giận không che chở cho nhà ta để nhà binh Nhật
xung công tất cả thì cứ xung công ( trích trong
Cửa Biển của Nguyên Hồng ), nhưng nay mới tường
mặt ( rõ mặt ), hàng bồ chuyện, bồ chữ, kíp
thợ, đi đóng đáng, (
Trích những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi ),
xách ná thun đi bắn nó, làng vào đám, thổi mòi rơm,
trâu làng tôi mót đâu ỉa đó, chú Lựu quẩy hai gánh
đi mót cứt trâu trên đường. Hai chữ mót
dùng trong một câu mang hai nghĩa khác nhau. (
Chuyện ở tỉnh lỵ của Vũ thư Hiên). Châm đóm, thông
điếu, xe đíếu, nõ điếu, quán đỏ đèn suốt sáng,
bắt rận, bắt chấy, cứ bỏ rẻ, ra ao tắm, ta
nhắm vài miếng, mâm cỗ, bà ấy hay ốm lửng ( Giả vờ
ốm ), chẳng biết đâu mà lần, bật hồng là gì nào, đốt
đuốc đấy, tôi chạy ù xuống bếp, chú nghiêng đầu dòm
ông , có như vậy, nhược bằng không, gì chứ cái ấy
không được, cô Gái là người vắt mảnh sành ra nước,
nhưng cái khoản rượu bao giờ cũng biện đủ, tháng
chạp còn gọi là tháng củ mật ( tháng trộm cướp như
rươi ), phóng * bút chì *. Không phải cái bút
chì để viết đâu ( ùng cái mai
buộc vào một sợi thừng dài dùng để phóng vào đối
thủ), có ăn phải có trả, sợ cô quở, đi biệt tăm
tích, mời ông xơi, con mắt cùi nhãn, chơi đánh chắt,
những chùm quả lúc lỉu trên cành, chơi đố lá, đời
thủa nhà ai, nhựa sung được dùng vào vô khối việc,
sạch như ly như lau, mời ông đưa cay, những ngày rau
lụi ( hiếm rau), tôm he giã lấy nước đánh
lòng đỏ trứng gà giả làm yến ( Trích Thời xa
vắng, Lê Lựu ), lại gắp vài miếng , từng rủa không
thiếu một lời, giỗ sống rồi, nói không ngoa, được
mấy nả, không có cái chân đảng trong làng, ông đứng
chân chủ họ, ông Phúc đã đánh trúng huyệt, trong
việc làng, phần đầu gà má lợn , hôn nhân điền thổ,
vạn cố chi thù, đã có người lân la hỏi chuyện gia
cảnh, thế là cạch không ai dám hỏi, cạch đến già, có
những tiếng thật hay như : có tiếng ai hờ khóc ngoài
xóm lọt ra, thế mới biết sông có khúc, người có lúc,
trống đánh đến hỏng dùi, đã trót phải
trét, tôi đã trót đẻ ra ông,
chữ trót đi liền với đẻ ra ông mới diễn tả được nỗi
thất vọng như thế nào của ông bố ( Tả trong một
trận đấu tố), rửa qua quít, rán cá, thịt nạc kho
rim, ăn uống húp háp xì xoạp, chửa xong, đánh chén,
cơm đèn, cơm đóm, cơm sáng trăng, có khi ăn cơm khan
chỉ chan nước mưa, nước vối, động thớt, hễ bên đó
đụng đũa, động bát là biết ngay, muốn ăn thì lăn vào
bếp, lên ăn boóng được nhiều bữa nhờn môi . Thật
hay. Ăn giả miệng, không dè,
cái đói giáp hạt, nấu cháo độn rau tập tàng, không
dư dật, mấy ông uống nước cả cặn, ăn tợm lắm, con tì
con vị được đánh thức, cứ nhao nhao lên như chào mào
ăn dom, con nào cũng lành chanh, lành chói, mồm năm
miệng mười, Biện là tên cúng cơm , chỉ có hai bữa
cơm đèn, làm ăn giật gấu vá vai, nó vác rá đến xin
ăn trước cũng túng, bóc ngắn cắn dài,
rách như tổ đĩa, người từ dưới xuôi, người
trên mạn ngược, ăn hại đái nát, họ lùa ra sân, lùa
bát cơm vào mồm. Hai chữ lùa đều có nghĩa
khác nhau. Khóc như mưa như gió, sắc như tiếng
dao cạo vào tinh nứa, nghe đến ghê cả mình. Có
chữ nghe đến lạ : dù có mùa đông rét chết chim,
hay * máu gái đẻ * nó bất thường lắm hay vợ dậy lau
lưỡi ( lần đầu tiên người viết thấy dùng như vậy )
và xi con đái ( cũng đắt lắm
) phải lai ( đèo sau xe ) vợ đến sở, anh của Tuyên
đã đánh xe đi đón, những cái hắn sợ là hão cả, thế
nào là mềm nắn rắn buông, ngồi chắp chân bằng tròn,
chỉ nhớ ang áng, người đã thất cơ lỡ vận, thì ra già
néo đứt giây, những thằng tứ cố vô thân giết đi thì
dễ, anh bứa lắm, mỡ gầu lực xực, không chanh cốm,
một thời đã xa lắc xa lơ, con có nói gian thì trời
tru đất diệt, chúng cháu
không dám chắc lép, nhưng quả là ít vốn, Bá Tứ ngồi
rười rượi nhảy xuống trẫm mình, anh với Châu cọc
cạch ( độc thân, ám chỉ
như ế vợ ) quá, bà bón cơm cho cháu, bà ăn cả thể
nhá, sao im ắp đến thế, cái máy ảnh cà khổ, xin dành
cho chị tất, cái ô tô phanh đến két một cái, bộ
rui mè, có gì không nên không
phải bảo nhau, sợ thọt dái lên cổ, thôi ta ăn khan
một cái, thế hệ chém to kho nhừ ( lấy ăn no làm
vui rồi ), có ông chồng hâm, chị vẫn gọn gàng như
người son rỗi, gạo vừa đỏ vừa dớn, dáng chừng chị cả
mấy lần nhấp nhỏm định nói, cái cạp sổ ruột, quanh
năm hết dật tạm lại vay nóng, làm lắm thì chầy vẩy
ra chứ ăn thua gì, những thứ ấy chẳng kiếm được mấy
nả tiền, bác Tú Mỡ ngày ngày chăm chút lau xe đạp
rồi buộc thừng treo lên, ngồi xuống chiếu, xếp bằng
tròn, không để bánh xe chịn đất, quay đi quay lại,
làm chân điếu đóm điếu
------------------------------------------------------------
Thay lời kết luận :
Nhà văn trước hết là người sử dụng ngôn ngữ như một
người đầu bếp dùng rau cỏ, thịt thà, gia vị nấu món
ăn. Làm văn không nhất thiết là sáng tạo từ mới, chữ
mới. Chùi đồ đồng, đồ cổ không nhất thiết là nhai
lại. Bởi vì, cùng một từ, một chữ được dùng đúng
trong từng cảnh huống, nó vẫn có chỗ đắc địa. Rất
tiếc là trong tất cả các nhà văn miền Bắc di cư vào
Nam đã tự mình cắt cái đuôi quá khứ mở ra một lối
viết mới. Hay cũng có, mà dở cũng không thiếu. Tuy
không vay mượn vốn cũ, vay mượn cái cũ của người làm
cái mới của mình thì tự nó vẫn là vay mượn, vẫn là
cái cũ, vẫn là đi chùi đồ cũ. Cho đến nay, những suy
tư, những trăn trở hiện sinh về sự tồn tại, về ý
nghĩa đời sống của các nhà văn ấy, sau 54, xét ra
cũng chẳng có đất sống nữa. Chẳng nói đâu xa, lối
viết, lối suy nghĩ của trí thức thành thị, trưởng
giả vay mượn, đượm không khí phòng trà với cà phê,
thuốc lá, ánh đèn mầu, tiếng nhạc xập xình tự nó đã
không có đất đứng nữa sau biến cố Phật giáo 63. Từ
đó, chiến cuộc leo thang, lối viết hưởng thụ, suy tư
trưởng giả về ý nghĩa đời người, về cái đáng sống
hay dư thừa nhường chỗ cho lối viết nhập cuộc, dấn
thân. Các nhà văn thời buổi 54-55 một lần nữa trượt
dốc, bơ vơ, lạc lõng trong cuộc đu dây
chữ nghĩa. Cuộc di cư năm 1954 đáng nhẽ là một cuộc
hành trình chữ nghĩa, tiếp nối cái sợi giây văn hoá
nối dài hai miền, tự nó đánh mất đi khúc ruột liền
sản sinh ra một thứ văn chương không gốc. Lẽ dĩ
nhiên, cạnh đó, nhiều trào lưu tư tưởng, văn học
cũng góp vào các dòng chảy chung đó. Người viết gợi
lại những chữ nghĩa của thời xa xưa miền bắc, có
những chữ tự nó cũng không còn được dùng nữa ở miền
Bắc. Điều đó thật tự nhiên và dễ hiểu. Nhưng phần
đông, chúng vẫn là cái vốn liếng văn hóa của đất
nước, của dân tộc nói chung vượt lên trên những đối
lực chính trị vốn lúc nào cũng là kẻ thù của văn
hóa. Nghĩ như thế mới thấy vai trò và sứ mệnh nhà
văn quan trọng đến bực nào. Bài viết này, đã hẳn
chưa đầy đủ, vì còn rất nhiều chữ bị bỏ quên chưa
được nhắc tới, lại chưa hệ thống hóa đúng mực, nhưng
trong chừng mực của một bài báo, thiết tưởng cũng là
một hoài niệm của những người di cư nay di tản ra xứ
người để có dịp nhâm nhi, dịp nhớ lại và hồi tưởng
về một dĩ vãng đã qua. Và có lẽ đó là mục đích chính
của bài nầy theo cái nghĩa : Vang bóng một thời
của chữ nghĩa.
|
Bác Chim dạo này chuyển qua ngiên cíu chữ hả bác, chán chùa chiền rồi hả bác.
Trả lờiXóaBác rỗi, biên hộ em Phập ít đường hầu đồng đi bác, thanh bác trước.