Năm 1954, người ta nói đến
cuộc di cư người, thật ra
còn có cuộc di cư chữ nghĩa
nữa. Người đi, chữ cũng đi
theo. Chữ nghĩa miền Bắc
cũng lềnh kềnh, lếch thếch
nối đuôi nhau lên tầu há
mồm. Chuyến đi gian nan của
nguời di cư thế nào thì chữ
nghĩa cũng vậy. Chữ ở lại,
chữ ra đi, chữ nào còn, chữ
nào mất. Chẳng ai còn tâm
trí đâu để lưu tâm tới điều
đó. Chữ được di cư vào miền
Nam, chở đi rồi, bao nhiêu
chữ đã rơi rụng, vung vãi
dọc đường. Bao nhiêu chữ đã
sống còn sau khi đã hội nhập
với chữ bản địa.
Phải đợi đến sau ngày 30
tháng tư 1975, người ta mới
có thể biết được sự còn mất
này một phần nhờ so sánh chữ
nghĩa giữa hai miền. Hình
như cũng ít ai để ý đến cái
mất, cái còn của chữ nghĩa,
vì có quá nhiều cái mất cái
được được lớn hơn. Cái mất
lớn hơn đó để người khác lo,
người viết lạm bàn về số
phận chữ nghĩa người di cư
sau 1954 và nếu có dịp về
chữ nghĩa của người di tản.
Phần 1.- Chữ mòn theo
thời gian.
Cho dù không có cuộc di cư,
chữ nghĩa cũng cách này cách
khác bị xói mòn. Sự mất còn
này trước hết là do sự xói
mòn của thời gian . Chữ
nghĩa như một vật dùng một
lần thì còn ngon, nhưng dùng
nhiều lần thì mòn hay cùn
đi. Như cái kéo cắt mãi cũng
phải cùn. Dao băm mãi cũng
lụt đi. Khen đi khen lại đâm
nhàm tai. Yêu nhau lắm, cắn
nhau đau, hay ít ra cũng
chán. Đùa dai hoài đâm nhạt
như nước ốc. Hình như chữ
nghĩa dị ứng với cái lập đi
lập lại. Tất cả những ngữ
nghĩa trên chỉ ra một điều:
Thời gian và sự đi lập lại
có thể làm xói mòn, hoen rỉ
chữ nghĩa. Tâm lý con người
lại ưa chuộng cái mới, cái
lạ. Như trong tình yêu, dùng
chữ đó với nhau lần đầu,
trọng lượng của chữ nặng
lắm, thấm thía lắm, cảm động
lắm. Dùng lần thứ hai thấy
nhẹ đi rồi. Phải tăng cường
độ nghĩa bằng những chữ lắm,
nhất, số một. Có khi cả bằng
tay chân vẫn chưa đủ. Tăng
lời thề.. Hình như vẫn hụt.
Trong văn chương, ta cũng
gặp cảnh ngộ tương tự. Nhất
là trong lãnh vực thơ .
Thơ là khơi nguồn cho
sáng tạo chữ mới, văn ảnh
mới, biểu tượng mới. Còn
nhớ, hồi thơ Nguyên Sa xuất
hiện đúng lúc khi mà cuộc di
cư đã hoàn tất. Chữ nghĩa
thơ của ông còn nóng hổi,
thơm phức như bánh mì mới ra
lò. Nhiều cô cậu, ghi ghi
chép chép để dùng lại :
Áo nàng vàng, tôi về yêu
hoa cúc. Áo nàng xanh, tôi
mến lá sân trường.
Chữ nghĩa đó được truyền
tay, đến người cuối cùng có
thể chỉ là chiếc bánh mì
nguội. Cứng như đá. Thật ra,
thơ đó có một vài văn ảnh
mới. Mới với người đọc thôi.
Nguyên Sa đã gợi nguồn cảm
hứng từ người tình là cô Nga
( sau này là bà Trần Bích
Lan) . Có thể lúc mà thơ đó
mới ra lò, đối với ông, thơ
văn đó chả có ấn tượng gì
nữa. Nhưng mới người cũ ta.
Có lẽ vì vậy mà nhà thơ suốt
đời mang cái nghiệp phải
sáng tạo cái mới. Sáng tạo
không ngừng.
Số mệnh chữ nghĩa mỏng manh
như số phận con người. Thời
gian như thước đo chiều dài
ngắn của chữ nghĩa, đồng
thời cành báo về cái hữu hạn
của nó. Sự sợ hãi của Nguyễn
Du phải chăng cũng từ đấy mà
ra.
Chữ có thế vắn số nên có
nhiều chữ đã trở thành chữ
cổ ít ai nhắc tới. Còn nhớ,
hồi mới di cư vô Nam, người
Bắc sửng sốt nhất, nghe lạ
tai nhất là chữ Mã Tà. Mã tà
thời tây là gọi là Hiến
Binh, sau này trong Nam gọi
là Cảnh sát, ngoài Bắc gọi
là Công An. Không biết vì lý
do gì, chữ Mã tà sau khoảng
hai năm gì đó, không còn
nghe ai nói nữa. Cũng vậy,
theo sách vở (1), chữ manh
nghĩa là nhỏ mọn. Người đời
chỉ còn nhớ váng vất khi nó
đi với chữ khác như mong
manh, tan manh, chiếu manh,
manh áo, manh mún. Một chữ
khác như chữ Khem,
nghĩa là kiêng cữ. Nếu nó
không cặp bạn với chữ Kiêng
thì người ta không còn nhận
ra nó như Kiêng khem ra
nắng, ra gió. Chữ khác như
chữ Lụn, nghĩa là hết,
người ta cũng chỉ dùng trong
một số trường hợp hiếm hoi :
Tim lụn có nghĩa tim đèn
cháy hết, lụn năm, lụn ngày,
mềm lụn, lụn xuống, lụn mạt.
Mấy ai còn nhớ, còn biết,
còn sử dụng những chữ cổ
trên. Nhưng có chết đi mới
có sống lại, cái chết đi ung
mầm ra cái mới. Nhờ vậy mà
chữ nghĩa thay đổi và tiến
bộ, mỗi ngày một đa dạng,
một phong phú và chuẩn xác
hơn. Thời gian đã là một
nhẽ, cộng thêm dụng ý của
người sử dụng chữ làm chữ
nghĩa sống dở, chết dở. Từ
nay, chữ có thêm nghĩa. Chữ
và nghĩa. Chữ dùng giống
nhau, nhưng nghĩa thì mỗi
người hiểu một nghĩa. Rầy rà
từ đấy mà ra.
Huyền thọai về việc xây tháp
cổ Babel phải chăng là một
bằng cớ báo trước về sự sa
đà của ngôn ngữ, chữ nghĩa
và đến cả số phận của nó
nữa.(2)
-----------------------------------------------------------------------------
Trong từ điển Từ Việt cổ,
nhà xuất bản Văn hóa thông
tin, Hà nội 2001 các tác gia
Nguyễn ngọc San, Đinh văn
Thiện cũng đã thu tập được
gần một ngàn chữ cổ như các
chữ vừa nêu trên..
Theo Thánh kinh, các con của ông Nô-ê (Noé, Noah) muốn xây một cái
tháp ở Babel (Thành
Babylone ) để tới được trời
cao.. Chúa thấy sự cao ngạo
đó nên muốn dẹp tan ý định
ngông cuồng đó bằng cách tạo
ra sự lẫn lộn và phức hợp
của các ngôn ngữ. Quả nhiên
ý định xây tháp không thành,
vì mỗi người nói và hiểu
khác nhau.
----------------------------------------------------------------------------
Số phận chữ nghĩa, cái sống,
cái chết của nó là sống mòn,
chết mòn, chết từ từ. Mỗi
ngày của nó là một bước ngắn
lại. Cả làng, cả nước đang
dùng, vậy mà không đâu biến
đi đằng nào.. Từ mòn đến là
hay, nó gợi lên văn ảnh của
một đồ vật mới đầu bóng
loáng , sáng choang, mầu sắc
rực rỡ, hấp dẫn người ta. Ai
ai cũng mê, cũng nói, cũng
dùng. Chữ trở thành thời
thượng. Càng được dùng, càng
nhiều người nhắc đi nhắc
lại, càng phổ biến thì cái
nguy cơ mất lúc nào không
hay. Chữ vẫn đó, mà nghĩa đã
mất dần . Cái xe chở chữ,
lúc chở chữ này, lúc khác
chở chữ khác, hoặc dán nhãn
hiệu khác. Nó đã chở như thế
bao nhiêu chuyến, đã thay
hình đổi dạng bao nhiêu lần.
Nói như thế thì chữ mòn hay
nghĩa mòn. Cái nào mòn
trước, cái nào mòn sau. Chữ
là cái chuyên chở nghĩa và
một chữ có thể có nhiều
nghĩa, tùy theo vị trí của
nó trong câu nên nghĩa dễ bị
mòn hơn chữ. Chẳng hạn , chữ
cái và con. Chữ chỉ có hai,
nhưng nghĩa thì nhiều lắm
nên nghĩa lúc thế này, lúc
thế khác. Cũng là con ,
nhưng con dao, con với cái,
nhỏ con, con dại cái mang,
con đĩ, cỏn con. Nhưng cũng
không thiếu trường hợp cả
hai đều mệnh yểu.
Chữ càng mòn nhanh nếu nó
chuyên chở nhiều nội dung, ý
hướng của người dùng.Tất cả
tuỳ thuộc vào ý hướng người
sử dụng.. Nhưng làm sao nắm
bắt được ý hướng đó. Dĩ
nhiên khó lắm. Vấn đề nay đã
lây lan sang một chủ đề
triết lý là : sự ngộ nhận,
sự thông cảm hay sự bất lực
trong việc tìm hiểu tha nhân
mà các triết gia hiện sinh
thường đề cập tới. Vì có
dụng ý chữ nghĩa đôi lúc trở
thành gian dối, lừa phỉnh và
trong chính trị trở thành
tuyên truyền. Một thứ bạo
lực ngôn ngữ, một thứ vũ khí
như con dao, khẩu súng.
Chẳng hạn chữ Việt gian thời
Việt Minh, hay chữ tay sai
Cộng Sản thời bây giờ.
Với cái nhìn nhân bản thì
chữ nghĩa có một cuộc sống ,
có dòng sinh mệnh, có thể
mất, có thể còn, trôi nổi
như đời sống một người.
Nhiều chữ nay đã chết, nằm
chôn vùi trong nghĩa địa của
các Bảo tàng hay sách cổ.
Nói ra cũng ngậm ngùi.
Xin trích dẫn một số chữ
nghĩa làm bằng chứng về sự
mất còn này. Trong lời mở
đầu báo Nam Kỳ địa phận, số
đầu tiên, năm 1907 có những
câu như sau :
" Bổn báo kỉnh cáo, tòa báo
đã ước ao cho con nhà Annam,
đua nhau tấn tài, tấn đức,
thông phần đạo, ngoan việc
đời… Tờ báo có ý khai đàng
văn minh cho nhân dân đặng
tấn phát cho mọi bề, việc
đạo việc đời đều thông
thuộc."
Xin trích dẫn một đọan
khác :
"Lời rao cần kíp. Bổn báo
gửi cho mỗi người hai số
nhựt trình đầu hết mà xem
thử, như ai bằng lòng mua
thì đem ba đồng bạc đến mượn
cha Sở mua dùm.."
Trong một trả lời bạn đọc,
chúng ta nghe thử lời rao
sau đây :
" Bổn báo có nhận được
một mandat của một ông nào
đó không đề tên, không đề
địa chỉ, nhưng yêu cầu gửi
báo "
Tức cười thật.
Nhưng 25 năm sau, trong tờ
L'Impartial viết vào ngày
20-11-1929, ta thấy lối viết
đã nhẹ nhàng thông thoát hơn
:
" Sự giải phóng người Annam
về phương diện thương mại và
kỹ thuật chỉ là một huyền
thoại."
Bạn đọc thấy có nhiều chữ
được sử dụng cách nay một
thế kỷ đã không còn được
dùng nữa như bổn báo kỉnh
cáo, nhựt trình, con nhà
Annam, tấn tài tấn đức, khia
đằng văn minh. Nhưng có
nhiều chữ vẫn được dùng cho
đến ngày nay như Chữ Cha Sở
và nhất là những chữ khá
chuyên môn cách nay 70 năm
như giải phóng, phương diện
thương mại và kỹ thuật,
huyền thoại vẫn còn được
dùng. Nhất là chữ Huyền
thoại mà người viết có cảm
tưởng là nó chỉ được dùng
sau này trong Triết học Tây
Phương mà thôi. Hóa ra nó đã
có một nguồn gốc lâu đời đến
thế.
Trong những chữ bị mòn, mất
đi..ở trên. Vấn đề là tìm
hiểu xem, tại sao chúng
không còn được dùng nữa. Sự
mất còn của một chữ trước
hết là thói quen, rồi sự xói
mòn, sự được dùng ít hay
dùng nhiều, tính địa phương,
sự sáng tạo của các nhà văn,
nhà báo, dụng ý chính trị và
cuối cùng là các cuộc di
dân. Và đặc biệt nhất là
cuộc di cư năm 1954 cũng là
mục tiêu của bài viết này.
Phần 2. Cuộc di cư của
chữ nghĩa.
Cuộc di cư năm 1954 không
phải chỉ là vấn đề chính trị
của một tập thể người chọn
lựa một thể chế chính trị.
Điều đó đúng nhưng không đủ.
Một triệu người di cư chuyên
chở theo cả một nếp sống văn
hóa, phong tục, tôn giáo,
cách làm ăn, cách suy nghĩ
sinh sống, tính nết và cuối
cùng cách ăn cách nói. Chữ
nghĩa đã làm một cuộc di cư
không tiền khoáng hậu trong
lịch sử của người Việt từ
Bắc vào Nam.
Khi lần đầu tiên tiếp xúc
lại với chữ nghĩa miền Bắc
sau 20 năm xa cách. Người
viết có cái cảm giác sung
sướng đến ngạc nhiên, đến bỡ
ngỡ vì nhớ lại những chữ
nghĩa tưởng chừng đã quên
nay nhớ lại. Sau bao năm xa
cách, hình như bắt lại được
mình, nối lại được dĩ vãng
thân thuộc, gần gũi. Chẳng
hạn, lúc đọc nhà văn miền
Bắc Vũ thư Hiên trong cuốn
Miền Thơ ấu và nhất là cuốn
Chuyện ở tỉnh lỵ, hay Tô
Hoài trong O chuột (1942),
Nhà nghèo (1944) và nhất là
Cát bụi chân ai (1992),
Nguyên Hồng, trong Cửa Biển,
Nguyễn Tuân Người Lái đò
trên sông Đà, Nam Cao với
Chí Phèo, Đôi mắt. Nguyễn
Khải với Mùa lạc. Lê Lựu với
Một thời xa vắng. Và gần đây
thôi Nguyễn khắc Trường với
Mảnh đất lắm người nhiều ma.
Họ, những nhà văn, đã làm
sống lại từ trong mồ nhiều
chữ mà người viết đã nghe,
hoặc chính mình đã dùng và
nay đã quên, đã không dùng
nữa. Người viết cảm động như
một khám phá, như một sưởi
ấm lại ký vãng đã quên.
Chẳng hạn thay vì nói, ông
ấy bệnh nặng, sắp chết, hay
ông ấy đang hấp hối, đã cấm
khẩu, tay bắt chuồn chuồn.
Nhưng hạ một câu : Ông ấy
sinh thì rồi thì đã quá. Và
cứ như thế dàn trải ra khắp
các cuốn sách quê hương cũ
tìm về, dấu chân kỷ niệm và
niềm thơ ấu sống lại.
Chữ nghĩa như có hồn được
vực dậy, thổi thêm sinh khí.
Phần lớn những thứ chữ này
có vào thời tiền chiến và
gần như bị * đoạn tuyệt *
vơi TLVĐ. TLVĐ chẳng những
đoạn tuyệt với phong tục,
nếp sống cũ mà cả với chữ
nghĩa cũ nữa. Như vậy, song
song với nhóm TLVĐ, vẫn còn
sót lại một dòng văn học
ngược chiều với nhóm Văn Hoá
Ngày nay và cứ thế nó kéo
dài đến bây giờ. Và một lần
nữa, nó lại phải đương đầu
với những nhà văn trẻ, thế
hệ sau 1975, thế hệ sau cởi
trói hay sau nữa Hậu Hiện
đại.
Cũng một cách thức tương tự,
người ta tìm thấy ở miền Nam
với Nhóm Sáng Tạo đổi mới
nội dung, giải phóng chữ
nghĩa bằng cách sử dụng
những từ có vóc dáng triết
lý thời thượng. Bên cạnh đó
có một dòng chảy văn học chữ
nghĩa như khe suối nguồn,
lau lách, rỉ giỏ giữ lại cội
nguồn, giữ lại bản sắc của
mình với Sơn Nam, Bình
nguyên Lộc và đặc biệt nhất
là nhà văn Lê Xuyên. Đây là
một hiện tượng văn học có
vóc dáng và đáng nể.
Nhưng chuyện phải đến đã
đến. Càng đọc các nhà văn
miền Bắc, càng thấy chữ
nghĩa mất nhiều lắm. Đếm
không hết, nói mấy cũng
không đủ.
Luật của đa số
Ở bầu thì tròn, ở ống thì
dài. Coi vậy mà đúng lắm.
Người mới đến phải vào
khuôn, phải thích ứng, phải
hội nhập. Sức ép của đa số
buộc người mới tới vứt lại
hành lý mang theo. Ngôn ngữ,
tiếng nói phải vứt dầu tiên
vì nó khác người ta quá.
Tiếng nói là cái phải điều
chỉnh đầu tiên. Phải vặn lại
đinh ốc hàm dưới, điều chỉnh
lưỡi, điều chỉnh tần số âm
thanh ở tai, nhất là một
thảo trình mới cho bộ óc.
Càng ít, càng thiểu số, càng
vào nhanh, càng giống khuôn
đúc (4). . Cái mà còn giữ lại
cuối cùng là giọng nói.
Thoạt đầu là các chữ chửi của dân miền Bắc vốn
là sắc thái văn hoá bản địa. Đặc thù và cá biệt. Ai chửi hay và chửi có
bài bản, có nghệ thuật, có vần điệu, ví von, có tay nghề bằng miền Bắc.
Chửi hay như thế nên có kẻ làm nghề chửi thuê kiếm ăn. Chẳng hạn, trong
chuyện Chí Phèo của Nam Cao, Chí Phèo chửi để lấy tiền uống rượu đến tay
sừng sỏ trong làng như lão Bá cũng chào thua. Có những chữ nghĩa thuộc
loại anh chị, chửi có tay nghề
ở miền quê nghênh ngang lên
tầu há mồm, coi ai chẳng ra
gì. Vậy mà vào đến miền Nam
gặp anh Hai ở cầu Ba Cẳng
hay bến Tầu Sàigòn, chị Ba
Cầu Muối, Chị Năm chợ cá
Trần quốc Toản đành tắt
tiếng. Các chị chữ nghĩa
miền Bắc vẫn có thói quen
đứng dạng háng, tốc váy,
hoặc vỗ đồ bồm bộp đứng xo
ro một góc khi nhìn thấy
những thằng cha bự tổ trảng,
cởi trần, cười thì mồm vàng
choé những răng vàng. Không im tiếng sao được. . Tiếng chửi
thề
của tay anh chị miền Nam
không có lời đáp trả. Tiếng
chửi tục (5) biết thân, biết
phận tan hàng.
Tất cả những tiếng chửi tục đủ loại đã có một thời khét tiếng tỉ như Tiên sư bố, tiên sư cha, tổ sư cha. Không
bao giờ được nghe nữa. Chả
bù với ở miền Bắc, nhớ lại
các anh chị chữ nghĩa này
chửi ra rả cả ngày, cả đêm
không ai dám đụng đến.
Trong suốt 20 năm sống ở
miền Nam, sống chung đụng
với dân miền Bắc, người viết
chưa nghe. Cùng lắm,
nghe chửi trên Tivi vào
những dịp tết.(6)
------------------------------------------------------------
Người viết đã sống một
thời gian ở các vùng Dầu
Tiếng, nơi mà dân Bắc vào
làm phu cạo mủ. Nơi đây,
không có một dấu tích dù là
nhỏ cho biết họ là gốc Bắc
nữa. Tiếng nói, giọng nói,
cách ăn mặc, tập tục tan hòa
loãng vào cái bản chất miền
nam. Cũng không có tháp
chuông nhà thờ, mái chùa,
không có đình đám, không hội
hè. Giải trí duy nhất của họ
là lâu lâu một gánh hát vọng
cổ ghé qua. Họ biến chất
hoàn toàn.
Chửi là một phong tục, hay
thói quen của người miền
Bắc. Chửi trở thành một nghề
như chửi thuê, khóc mướn. Vì
thế chửi cần có tay nghề,
chửi có bài bản, lớp lang,
bới móc chuyện xưa cũ,
nguyền rủa đến tam tứ đại.
Đàn ông thường chỉ là văng tục, còn đàn bà chửi tục như một nghề.
Một trong những người viết
về phong tục người miền Bắc
là ông Toan Ánh qua nhiều
tác phẩm như Phong tục Việt
Nam, Nếp xưa, Bó hoa Bắc
Việt vv Rất tiếc, ông né
tránh vấn đề chửi tục.
Giữa chửi thề trong Nam và
chửi tục miền Bắc, theo tôi,
có sự khác biệt. Người Nam
chửi thề vô tội vạ, chửi bất
cứ lúc nào, nhất là trong
lúc nhậu nhẹt, lúc vui, chửi
mà không nhằm đối tượng nào,
nhất là không có dụng ý bôi
nhọ. Người Bắc chửi thường
nhắm đích danh người nào và
thường trong lúc giận dữ, có
dụng ý. Vì thế, tiếng chửi
miền Bắc coi ra nặng nề hơn
tiếng chửi thề. Lại nữa,
chửi tục ở miền Bắc, sản
phẩm của chế độ phong kiến
------------------------------------------------------------
Thứ đến các chữ liên quan
đến bộ phận sinh dục, các
hành vi liên quan đến chuyện
sinh lý, bài tiết, đến
chuyện ăn nằm giữa hai vợ
chồng. Người Bắc có văn hoá
cao, tránh cái thô tục không
cần thiết nên đã có trăm
cách, trăm lối diễn tả xa
xôi, bóng gió được coi là
tao nhã. Vào trong Nam dẹp
hết tất tần tật. Cái nào ra
cái nấy phân minh, đơn giản
và vắn gọn. Đi cầu là đi
cầu. Không bầy đặt hoa hòe, hoa sói. Cái đơn giản, cái thực
tiễn không hàm ngụ, không gợi ý đôi khi lại thanh tao gấp mấy lần cái
thanh tao thứ thiệt.
Tính chơn chớt , thật
thà, có sao nói dậy đánh
văng chữ nghĩa miền Bắc.
Bên cạnh chửi tục, người Bắc
còn có lối nói mát, nói mỉa,
nói xéo, chê bai cũng độc
địa lắm. Chửi cha không bằng
pha tiếng là vì vậy. Những
lối nói này sử dụng trong
những liên hệ, tương quan
gần như người quen thuộc,
người làng, người hàng xóm,
bạn bè. Nó có nhiều cấp độ
từ chê bai, khinh bỉ, trách
móc, coi thường giận hờn,
bực bội.. Nó chứa chất chút
gì độc ác, bơi móc từ tính
nết chi li từng cử chỉ, gia
cảnh, cái nghèo, cái đói,
cái bần tiện, rạch ròi từng
cái dốt nát, cái ngu xuẩn,
cái kém cỏi, cái độc ác của
mỗi người.
- Tỉ dụ nói mỉa mai :
Cái mặt nó vác lên, trông nó
đú đởn, ăn cơm hớt ấy, cho
chó ăn. Thường sự mỉa mai
nhắm vào sự nghèo khổ, sự ăn
uống, vào tính nết, về phái
tính và sự đe dọa.
- Về nghèo khổ :
Dân miền Bắc túng quẫn nên
lấy cái ăn, cái uống làm
đầu. Lúc giận rủa nhau cũng
mang cái ăn uống ra mà nhiếc
móc nhau kể cũng không lấy
làm lạ. Tỉ dụ diếc móc người
ta như : nghèo rớt mồng tơi,
nghèo lõ đít, thí cho nó tý
tiền, cứ gọi là đói vàng
mặt, đói rã họng. Nghe những
chữ diếc móc trên đôi khi
đau lòng còn quá chửi. Vì
thế, người đời mới sợ tiếng
diếc móc đến cầm bát cơm lên
ăn không nổi..Vì thế có tâm
trạng khác nhau : Khi nghe
chửi, ta thấy tức giận, khi
bị diếc móc, ta cảm thấy
nhục. Từ tâm trạng đó kéo ra
hai lối phản ứng. Khi bị
chửi, ta chửi lại hoặc muốn
đánh trả lại, ăn miếng trả
miếng trong tương quan bình
đẳng và rất có thể tương
quan bất bình đẳng, kẻ yếu
chửi kẻ mạnh. Nhưng khi bị
diếc móc, bị sỉ nhục thì
tương quan lệch, kẻ trên-kẻ
dưới, nên nạn nhân hầu như
------------------------------------------------------------
của một xã hội bất công,
bị chà đạp, không có công
lý. Không dễ dầu gì kiện
tụng. Chửi là một bù trừ cho
pháp luật, trả lại lẽ công
bằng cho kẻ thua, kẻ mất, kẻ
thiệt thòi. Dĩ nhiên, không
thiếu trường hợp cha chửi
con. Nhưng cứ lý ra, lý giải
trên vẫn có cơ sở.
------------------------------------------------------------
không có đòn để đỡ, vì yếu
thế không dám đáp trả, cam
chịu ẩn nhẫn và cùng lắm
nuôi hận trả thù. Cho nên,
về mặt tâm lý, bị diếc móc
vẫn đau hơn bị chửi. Thông
thường những người có văn
hoá, những người có địa vị,
ở trên người khác có giáo
dục thường ít chửi mà nói
diếc, nói móc, nhẹ hơn là
nói bóng , nói gió..(7)
Về tính nết :
Phải quen biết, phải qua lại
mới biết nhau, biết từ chân
tơ kẽ tóc, đến lúc giận hờn
thì mang tính xấu người khác
ra rủa. Chẳng hạn rủa : mắt
ông viền cải tây rồi, đồ
thông manh, trông vậy mà đáo
để ra phết, đồ ông mãnh, cứ
giãy .. lên như đĩa phải
vôi, nhanh nhẩu đoảng, lanh
cha lanh chanh. Tất cả những
lối nói trên đều dựa vào một
sự vật, vào một biểu tượng
cụ thể có thật để gợi lên
một ý tưởng xấu. Biến cái cụ
thể thành một ý niệm trừu
tượng(8)
Cả một nếp sống văn hóa,
truyền thừa, kinh qua kinh
nghiệm mới nhận ra cái tế
vi, cái dị biệt mà biên giới
nghĩa chỉ cần xảy chân một
cái là dùng sai, hiểu sai.
Xử lý đúng chỗ, đúng trường
hợp hẳn không phải là dễ. Đồ
thông manh thì nặng hơn mắt
ông viền cải tây. Đồ cám hấp
thì nặng hơn đồ dở hơi. Đồ
láu cá láu tôm thì nặng hơn
đồ ông mãnh. Nói không đâu
vào đâu thì khác nói chua
như giấm. Cân nhắc vụ việc,
đánh giá từng trường hợp, xử
lý người – việc – rồi dùng
từ.. thích đáng.
------------------------------------------------------------
(7) Tùy theo trường hợp,
còn những chữ diếc móc tuỳ
thuộc cấp độ nặng nhẹ tùy
thuộc rất nhiều vào tình
huống, vào giọng nói, và
nhất là vào người nói. Có
những điều rơi vào miệng
người này nó nặng trở thành
chết người, nặng như búa bổ.
Nhưng ở người khác thì lại
chấp nhận được. Chắc là
nhiều người đã có kinh
nghiệm mấy bà mệnh phụ gốc
Bắc, chỉ cần bà khen chê,
kéo lê cái giọng thưỡn thẹo
mà người viết ở đây đành
chịu không cách chi mô tả
cho đúng được. Cứ thử rồi
biết. Chẳng hạn : ăn phải
đũa nhà người ta, đồ ăn bám,
thứ đó được mấy nả, theo voi
ăn bã mía, có khối nó chịu
nhả cho đấy, đồ đi bòn của,
đồ tha phương cầu thực. Cho
ăn uống ở nhờ đến lúc canh
không lành cơm không ngọt
thì rủa : ăn mòn đũa mòn bát
nhà người ta, ăn chậm như
sên, bà ấy nói như móc họng
đến gần phải mửa cơm ra mà
trả lại, thôi thì cũng phải
vắt mũi đút miệng, được bữa
hôm lo bữa mai. Tất cả những
lối diếc móc, nói bóng nói
gió chẳng hiểu bằng cách nào
chúng biến mất. Người viết
cũng không hiểu tại sao nữa.
(8) . Con đĩa giẫy trở thành
ý niệm cứ quýnh cả lên. Và
cứ như thế có những chữ khác
cũng theo quy trình đồ vật –
ý niệm như : đồ nỡm, thằng
nỡm, đồ giở quẻ, nó cứ trêu ngươi,
dấu như mèo dấu cứt, cứ ngồi
chầu hẩu ra đó, tưởng kín
bưng kỳ tình ai cũng biết,
nói chua như giấm, chua lòm
lòm, nói không đâu vào đâu,
không có đầu cua tai nheo
gì, thằng đó ba lăng nhăng,
chẳng đâu vào mới đâu, làm
gì cũng lau cha lau chau, đồ
láu cá láu tôm, cứ lững tha
lững thững, đứa nhãi ranh,
vênh vênh váo váo.
Chữ theo
voi ăn bã mía gợi lên một
văn ảnh rõ rệt : theo đuôi
chỉ ăn đồ thừa, đuôi thẹo.
Các chữ như : chỉ đâm ba
chầy củ, đồ láu cá láu tôm,
vênh vênh ngậu xị lên, đồ
cám hấp, ngu như lợn, đồ
miệng năm miệng mười, đồ dở
hơi, quá thể lắm, đồ phải
gió ở đâu, chuyên môn nói
kháy, nói leo, cái giống nhà
mày, thứ đó được mấy nả,
trốn như trạch, đồ thông
manh, đồ ông mãnh, đồ đi bòn
của. Mỗi chữ đều gợi lên một
văn ảnh và không chữ nào
giống nghĩa chữ nào .
------------------------------------------------------------
Tất cả đòi hỏi sự khôn
ngoan, tính toán và trải
đời. Đó là thứ văn hoá chửi
mà không ăn mòn bát mòn đĩa
ở miền Bắc không hiểu thấu
đáo được. Vào đến miền Nam
sau này, người dân miền Nam
với nếp sống giản dị đã trấn
áp người miền Bắc, quy kết
là khôn ranh. Bỏ đi Tám. Đù
má, nói gì thì nói mẹ nó đi
cho rồi, vòng vo tam quốc
hoài, mệt quá. Vậy là phải
dẹp cái thói xỏ xiên, văn
hoa chữ nghĩa. Người miền
Bắc di cư chỉ có mỗi một con
đường trong lối sống và cư
xử mới là dẹp bỏ tất cả
những từ chửi bới, diếc móc
ở trên. Vì thế, mấy ai còn
nhớ đến những lối diếc móc
trên.
- Về phái tính :
Người phụ nữ miền Bắc vốn là
nạn nhân của nhiều thứ, của
đủ thứ đến cái gì xấu đích
thị là của phụ nữ. Đến cái
gì khen thì thật sự cái đó
có lợi cho đàn ông. Khen tứ
đức tam tòng là lời khen
chết người, buộc chặt, trói
chân người phụ nữ thành tên
nô lệ không công. Khen tiết
hạnh khả phong là lời khen
trớ chêu nửa khóc, nửa cười.
Khen trinh tiết làm đầu là
một lối khen họan, khen
thiến không hơn không kém,
chẳng khác gì hoạn quan. Nói
tách bạch ra, con C… là
chúa, là vua.
Nhưng những lời nguyền rủa
quả không thiếu mà có thừa.
(9)
------------------------------------------------------------
(9) Những lời nguyền rủa
cũng lấy nữ giới làm đối
tượng, mà đặc biệt do chính
đàn bà rủa đàn bà. Quan niệm
trọng Nam, khinh nữ của thời
phong kiến tồn tích lại đẩy
xô thân phận phụ nữ thành
một phụ phẩm thấp kém, hèn
hạ dựa trên những thói đời
bất công, dựa trên nền đức
lý hủ lậu giả hình, man trá
đẩy họ xuống đất bùn. Chẳng
hạn có những câu diếc móc
nhẹ nặng đủ thứ, đủ kiểu
xuất phát từ tâm địa độc ác,
hận oán : người đâu có thứ
người..sáng bảnh mắt còn nằm
trương xác ra. Đàn ông nằm
đến bảnh mắt thì không sao
cả. Dậy muộn cũng là một tội
lỗi. Hoặc nặng hơn nữa : đồ
thối thây, nó bơi tro trát
trấu vào mặt, con gái con
đứa, cô ấy cong cớn, những
cô này mới nứt mắt nảy nòi
mà sao giống những mụ nạ
dòng già đời, da dẻ nó hon
hỏn thế này. Tất cả đều nhắm
vào phái tính hay đĩ tính :
õn à õn ẹo, đanh đá lắm cơ, một cô gái giăng hoa, một
lũ lĩ con gái, chửa buộm (
chửa với người khác không
phải với chồng), chó dữ mất
láng giềng, dâu dữ mất họ,
mẹ cái hĩm, con bé tình ra
phết, mà phải biết là đỏng
đảnh.
Chưa chồng có cái khổ
riêng lại thêm cái khổ của
miệng lưỡi thế gian : Già
kén kẹn hom . Ăn mặc lơ đễnh
một chút cũng khổ : cái yếm
xẹo xọ để trật ra cái sườn
nây nẩy, cái người đàn bà
dại dột đã nằm ềnh ệch ra
đấy, nói dại nếu mày chửa
thì ăn nói làm sao, cái yếm
cổ xây thật trắng, cái quần
lụa buông chùng xuống tận
gót, ăn bận sang đến cô đầu
cũng không ăn đứt, nó nhân
tình đến trăm thằng, bọn lý
dịch chẳng anh nào không
thậm thọt ra vào nhà nó, nó
mặc áo cánh xát xí, nào yếm
vải phin, nó tơ tuốt ghê lắm
(diện). Diện cũng chết mà
không diện cũng chết : chết
nỗi không tơ tuốt, chồng nó
chê, con đó phải lòng thằng
khác, nó chỉ nhong nhóng
suốt ngày, cơm bưng nước rót
đến tận mồm, nó lẳng lơ và
nhẹ dạ, hai con rồi mà vẫn
còn trẻ mau máu, trai làng
hay chớt nhả và bẻm mép, cô
gái mỏng mày ngày xưa bây
giờ là đàn bà sồ sề, cô ấy
chúa đời là khỏe.Thiệt là khổ. Khổ
đầu, khổ đuôi, khổ trên ,
khổ dưới, càng dưới càng
khổ.
Sưu tầm từ©
http://vietsciences.net
và
http://vietsciences.free.fr Nguyễn
Văn Lục
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét