Tranh của Văn Trưng Minh đời Minh Với công bút, tranh phải giống y như thực. Tác giả trước tiên phải dựng hình bằng những đường nét tinh tế (gọi là câu lặc) làm đường viền của đối tượng (hoa, lá, cành, chim, đá, v.v...) sau đó mới tô màu lên. Trái lại, ý bút là kỹ pháp phóng khoáng, đối tượng được thể hiện một cách tượng trưng, thí dụ một nhánh cây hay một chiếc lá lan lá trúc chỉ vẽ bằng một nét bút lướt đi.
Tuy nhiên trong các đời vua Tống sau đó, con cháu của Từ Hi (như Sùng Tự, Sùng Huân, Sùng Củ) cũng được vua sủng ái. Vì thế phong cách của viện phái là sự dung hợp của tả thực và tả ý. Các hoạ gia tiêu biểu là Thôi Bạch, Thôi Cốc, Ngô Nguyên Dũ, Triệu Xương, Dịch Nguyên Cát. Đời Nam Tống, Hàn Lâm Hoạ Viện có các hoạ gia danh tiếng như Lý An Trung, Lý Địch, Lâm Thung. Hội hoạ đời Nguyên không có gì đặc sắc, chẳng qua là mô phỏng đời Tống. Trong đời Minh, triều đình cũng bảo trợ các hoạ gia. Thời này nổi bật ba hoạ phái: Viện phái (của triều đình), Chiết phái, và Ngô phái. Đại biểu của Viện phái là Đường Dần, Cừu Anh, Chu Thần. Chiết phái gồm các hoạ gia quê Chiết Giang như Ngô Vĩ, Trương Lộ, Tưởng Tam Tùng, Tạ Thời Thần, v.v... Ngô phái tiêu biểu là Thẩm Chu, Văn Trưng Minh, Đổng Kỳ Xương, Vương Phất, v.v... Khi đời Thanh đạt đỉnh thịnh dưới triều vua Càn Long, phong cách Viện phái càng trau chuốt tỉ mỉ do ảnh hưởng thị hiếu của nhà vua và ảnh hưởng phong cách của các giáo sĩ Tây phương kiêm hoạ sĩ, thí dụ như Giuseppe Castiglione (1688-1768).
NGHỆ THUẬT
CỦA GIỚI
VĂN
NHÂN
Cuối đời Nam
Tống, các
văn quan như
Tô Thức, Mễ
Phất (Mễ
Phế), và Lý
Công Lân đã
khởi sinh
một phong
cách hội họa
gọi là «văn
nhân hoạ»
– cũng gọi
«sĩ đại phu
hoạ»
(hội họa của
các văn
nhân, sĩ đại
phu) – tương
phản với
phong cách
chính thống
của viện
phái. Khi
người Mông
Cổ chiếm
Trung Quốc,
giới nho sĩ
Hán tộc bị
nhấn chìm
dưới đáy xã
hội. Các nho
sĩ văn nhân
thường thành
lập những
hội tương
tế. Trong
hoàn cảnh
đó, các tác
phẩm hội họa
được xem là
phương thức
để đền ơn
đáp nghĩa.
Các hoạ gia thuộc văn nhân hoạ phái chuộng tranh đơn sắc, thường là màu mực đen với những mức độ đậm nhạt của mực. Những tranh vẽ tứ quân tử (mai, lan, cúc, trúc) chỉ bằng mực đen do đó được gọi tương ứng là «mặc mai, mặc lan, mặc cúc, mặc trúc». Tứ đại hoạ gia cuối đời Nguyên (gọi là Nguyên tứ gia: Hoàng Công Vọng, Nghê Tán, Vương Mông, và Ngô Trấn) đã phát triển cao độ nghệ thuật tranh sơn thủy theo phong cách văn nhân hoạ. Nghê Tán (1301-1374) là một trường hợp đặc biệt. Ông quê ở Vô Tích, gần Đại Vận Hà và Thái Hồ. Ông làu thông kinh điển nho gia và khổ công nghiên tập hội hoạ từ tranh của các hoạ gia tiền bối trong các bộ sưu tập của bạn bè khá giả của ông. Mùa xuân 1352, trong bầu không khí chính trị, kinh tế, và xã hội bất ổn của triều đại Nguyên đang sụp đổ, ông buộc phải rời quê hương, rồi sống trên một chiếc ghe lênh đênh 20 năm trên Thái Hồ. Cuộc sống phiêu bạt ẩn dật như một đạo sĩ đó là cách mà ông chọn để bảo vệ tiết tháo và tránh sự bức hại của quan quân triều Nguyên. Các hoạ gia đời Minh và Thanh hâm mộ và khen ngợi ông là «Nghê cao sĩ». Ông dụng bút công phu tinh tế mà tranh toát vẻ giản phác tiêu sơ, chủ yếu là tả cảnh Thái Hồ. Hoạ pháp sơn thủy của Nguyên tứ gia ảnh hưởng rất lớn đến các họa gia thuộc văn nhân phái đời Minh (như Thẩm Chu, Văn Trưng Minh, Đổng Kỳ Xương) và đời Thanh (như Tứ Vương: Vương Thời Mẫn, Vương Giám, Vương Huy, và Vương Nguyên Kỳ).
TỨ QUÂN TỬ
TRONG HỘI
HỌA
TRUNG
QUỐC
Hơn hai ngàn năm trước, thi nhân Khuất Nguyên đã so sánh hoa lan với mỹ nhân rằng: «Thu lan hề thanh thanh, lục diệp hề tử hanh. Mãn đường hề mỹ nhân, hốt độc dữ dư hề thả thành.» (Thu lan ơi mườn mượt, cọng tía cùng lá xanh. Đầy nhà toàn người đẹp, riêng với ta đưa tình.) Hoa cúc trác việt siêu phàm. Đào Tiềm, thi nhân đời Tấn, từng thốt rằng: «Thu cúc hữu giai sắc, ấp lộ chuyết kỳ anh, phiếm thử vong ưu vật, viễn ngã di thế tình.» (Hoa cúc mùa thu có sắc đẹp, phơi lộ nét anh tú, khiến ta quên tình buồn, lánh xa tình đời.) Đời Tống có ẩn sĩ Lâm Bô yêu hoa mai đến độ không cần có vợ con, chỉ chuyên tâm trồng hoa mai và nuôi hạc. Người đời tặng cho ông câu «mai thê hạc tử» (hoa mai là vợ, chim hạc là con).
Các họa gia cũng có cảm tình sâu đậm với tứ quân tử. Mai, lan, trúc, cúc và hội họa Trung Quốc quả có cái duyên không lìa. Trải bao tháng năm lịch sử, nhiều họa gia hậu bối đã cải tiến họa pháp, thể hiện nhiều nét tân kỳ bất tận. Chủ đề tứ quân tử có tự bao giờ vẫn là vấn đề còn tranh cãi. Theo quyển Thập Quốc Xuân Thu Ký một vị tướng quân của triều Nam Đường tên là Quách Sùng Thao khi chinh phạt nước Thục đã bắt nhiều người. Trong số ấy có Lý phu nhân bị ông ép làm vợ. Lý phu nhân thường u sầu ủ rũ, thích ngồi một mình dưới trăng, ngắm cành trúc la đà. Do xúc cảm, bà dùng bút và mực đen vẽ nên tranh. Người ta cho rằng mặc trúc (trúc vẽ bằng mực đen) bắt đầu từ dạo ấy. Nhưng vị tất mặc trúc bắt đầu từ Lý phu nhân. Người ta biết chắc chắn tranh hoa điểu bắt nguồn từ đời Đường vậy thì bảo mặc trúc có từ Hậu Đường cũng có thể tin được. Đến đời Minh, tranh mai, lan, trúc, cúc cực thịnh, danh họa gia cũng nhiều như Tống Khắc, Vương Phất, Hạ Xưởng, Lỗ Đắc Chi, v.v... Nổi tiếng nhất là Hạ Xưởng. Ông tự Trọng Chiêu, bắt đầu học vẽ trúc và đá nơi Vương Phất. Về sau ông tự cải tiến lối vẽ trúc: thân trúc thẳng tắp ngạo nghễ, có sắc khói sương, chỗ đậm chỗ nhạt chỗ xơ xác cực kỳ ảo diệu. Thuở ấy có câu ca: «Hạ hương nhất cá trúc, Tây lương thập đĩnh kim.» (Một cành trúc nơi quê ông Hạ Xưởng trị giá mười nén vàng ở Tây Lương).
Các họa gia đời Thanh vẫn tuân thủ họa pháp đời Minh. Nổi tiếng là Thạch Đào và Bát Đại Sơn Nhân, hai di thần triều Minh. Khi Mãn Thanh lật đổ nhà Minh, Bát Đại Sơn Nhân giả điên giả câm chạy trốn vào núi lánh nạn, một thời làm hòa thượng, một thời làm đạo sĩ. Bát Đại Sơn Nhân thuộc giòng dõi hoàng tộc, tên là Chu Đáp. Bút hiệu của ông ngụ ý sâu sắc: Sơn Nhân có nghĩa là người ẩn dật nơi sơn dã, còn Bát Đại 八大 khi viết thảo theo hàng dọc, chữ bát 八 thành hai chấm đè lên chữ đại 大, chúng gần giống chữ tiếu 笑 (cười) hay chữ khốc 哭 (khóc), bày tỏ tâm trạng dở khóc dở cười. Ông dùng hội họa để tiêu sầu, họa pháp chủ về tả ý, đơn sơ mạnh bạo nhưng sống động, chất chứa nỗi lòng u ẩn. Họa pháp của Thạch Đào và Bát Đại sơn nhân phóng túng tiêu sái không tuân theo những qui tắc sẵn có, nên có thể đứng riêng thành một tân họa phái. Ngoài ra có thể kể thêm một số danh họa gia đời Thanh như Trịnh Tiếp nổi tiếng về lan trúc, Lý Phương Ưng, Kim Nông, Uông Sĩ Thận nổi tiếng về mặc mai. Các họa gia cận đại như Triệu Huy Thúc, Ngô Xương Thạc, Tề Bạch Thạch sáng tạo nhiều nét tân kỳ có thể gọi là cao thủ về mai, lan, trúc, cúc. Tứ quân tử chiếm một vị trí đặc biệt trong hội họa Trung Quốc. Qua từng thời đại các danh họa gia đã góp phần sáng tạo và thể hiện tứ quân tử thêm tân kỳ. Ngày nay các họa gia Trung Quốc đã mạnh dạn thâu hóa họa pháp Tây phương. Môn họa truyền thống này sẽ phát triển như thế nào vẫn còn là vấn đề thú vị mà người ta chưa tiên đoán được.● |
Translate
Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013
HỘI HỌA CUNG ĐÌNH
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét