Ngày 23 tháng 11 năm 1863 (tức năm Đồng Trị thứ hai, đời Thanh) tại ngôi làng Tinh Đẩu, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam Trung Quốc, một bé trai đã chào đời trong một gia đình nông dân nghèo. Gia đình này bấy giờ đã có bốn người, gia chủ là ông Tề Quán Chánh (25 tuổi) và bà Chu (19 tuổi) cùng với song thân của gia chủ (56 tuổi và 51 tuổi.) Người thành viên thứ 5 bé nhỏ trong gia đình này là niềm hạnh phúc biết bao cho gia đình gồm bố mẹ và ông bà nội. Tiếc thay, cậu bé thật yếu ớt, bệnh hoạn, thiếu ăn, tưởng chừng không sống quá 4 tuổi. Nhưng rồi cậu cũng giành được sinh mệnh của mình trên tay tử thần. Đó là cuộc tranh đấu thứ nhất trong đời, mở đầu cho biết bao cuộc tranh đấu khác sau này, cuộc đấu tranh cho đời sống tinh thần đầy ý nghĩa mãi đến phút lìa trần, 16-9-1957. Tề Bạch Thạch 齊白石 tên thực là Tề Thuần Chi, tự là Vị Thanh, biệt hiệu Lan Đình. Năm 27 tuổi học vẽ, được thầy là Hồ Thâm Viên đặt tên cho là Hoàng (nghĩa là ngọc hình bán nguyệt), tự là Tần Sinh, hiệu là Bạch Thạch. Ông còn vô số tên hiệu khác, chẳng kém gì hai đại danh họa Nghê Vân Lâm (đời Nguyên) và Thạch Đào Hòa Thượng (đầu đời Thanh.) Đại khái có thể kể như: Tề Đại, A Chi, A Trường, Mộc Nhân, Lão Mộc, Lão Mộc Nhất, Mộc Cư Sĩ, Ký Viên, Ký Bình, Lão Bình, Bình Ông, Ký Bình Đường Lão Nhân, Bạch Thạch Sơn Ông, Bạch Thạch Lão Nhân, Tá Sơn Ngâm Quán Chủ Giả, Tinh Đường Lão Ốc Hậu Nhân, Hạnh Tử Ô Lão Dân, Tam Bách Thạch Ấn Phú Ông... Nhưng cái thời gian hồn nhiên với sách vở và vẽ vời như thế chẳng được lâu là bao. Mùa thu 1870, cảnh nhà sa sút, cậu bèn bỏ học, ở nhà phụ cha mẹ những việc như gánh nước, trồng rau, bổ củi, chăn trâu... Một năm học nơi ông ngoại, tuy ngắn ngủi, nhưng chính là những ngày tháng hạnh phúc nhất trong tuổi thơ của cậu. Cậu bé vừa lên 9 thuở ấy đã sớm hiểu thế nào là kiếp nghèo, là số phận con nhà nghèo. Niềm ao ước đơn sơ của cậu là mỗi ngày được xong việc sớm để xem lại những trang sách cũ, để hồi tưởng lại những lúc vui đùa cùng với chúng bạn và để rồi mơ ước, ước mơ... Theo cổ tục tảo hôn, cậu bé 12 tuổi này phải sánh duyên cùng cô bé Trần Xuân Quân, lớn hơn cậu một tuổi. Năm ấy cũng là năm ông nội cậu tạ thế. Gia cảnh càng ngày càng suy sụp, năm 13 tuổi cậu bắt đầu chân lấm tay bùn với việc đồng áng. Nhưng rồi vì thể lực yếu ớt, sau hai năm, cậu xoay qua học nghề thợ mộc nơi ông Tề Tiên Hựu, em ruột của ông nội cậu. Rồi công việc vất vả lao nhọc của nghề mộc cậu cũng không kham nổi, nên đeo đuổi được một năm cậu xoay qua học nghề chạm trổ gỗ nơi ông Chu Tử Mỹ. Sau 3 năm, thành nghề, cậu đủ khả năng gánh vác kinh tế gia đình. Năm ấy cậu 19 tuổi và bắt đầu làm lễ động phòng với vợ, cô Trần Xuân Quân, lễ này gọi là «Lễ Viên Phòng». Chàng thợ chạm gỗ họ Tề dần dần được làng trên xóm dưới biết danh, họ gọi chàng là «Chi mộc tượng» (Thợ mộc tên Chi). Tề Bạch Thạch thể chất nhu nhược, nhưng thông minh đĩnh ngộ. Ông không mô phỏng những mẫu mã có sẵn. Những hình chạm gỗ kỳ lân, long, phụng, trạng nguyên vinh qui, hoa lá... đã được ông thông minh khéo léo cải biên, thay đổi, thêm đẹp mắt, khiến khách hàng phải trầm trồ khen ngợi.
Ông bắt đầu học vẽ tranh chân dung và bồi tranh nơi ông Tiêu Hương Cai. Năm ông 27 tuổi, một người đồng hương của ông tên là Hồ Thâm Viên – một họa sĩ chuyên về công bút vẽ hoa điểu thảo trùng – đã nhận ông làm đệ tử, đồng thời khuyên ông nên vẽ và bán tranh mưu sinh. Ông Hồ Thâm Viên mời thêm danh sĩ Trần Thiếu Phồn về dạy cho Tề văn chương thi phú. Ông Hồ Thâm Viên đặt tên cho Tề là Hoàng, tự là Tần Sinh. Vì gia đình ông ở gần phố Bạch Thạch nên ông lấy tên là Tề Bạch Thạch và Bạch Thạch Sơn Nhân... Dưới sự dạy dỗ tận tụy của hai lương sư Hồ và Trần – một hội họa, một thi phú – Tề Bạch Thạch tiến bộ rất nhanh. Rồi ông thầy họ Hồ lại nhiệt thành giới thiệu đệ tử ruột của mình theo học vẽ sơn thủy nơi một người bạn của thầy nữa. Thế là sau một thời gian khổ luyện, Tề Bạch Thạch bắt đầu sống bằng nghề vẽ và bán tranh, năm đó ông 30 tuổi. Ngoài các tranh thờ, ông còn vẽ phong cảnh (tranh sơn thủy), hoa điểu, nhân vật... ông vẽ thiếu nữ rất đẹp cho nên thiếu nữ trong tranh được người đời mệnh danh là «Tề Mỹ Nhân» (Người đẹp họ Tề.) Ngoài việc vẽ tranh, ông còn ngâm thơ vịnh phú với mặc khách tao nhân. Ông cùng 6 người bạn thành lập Long Sơn Thi Xã, và xưng nhóm là «Long Sơn Thất Tử» (Bảy Thi Nhân của Long Sơn Thi Xã). Năm 33 tuổi ông lập thêm nhóm La Sơn Thi Xã, tạo thêm dịp ngâm vịnh với bạn bè. Đến năm 34 tuổi, ông bắt đầu học thư pháp (viết chữ đẹp), đặc biệt chuyên tập luyện kiểu chữ Lệ và chữ Triện, đồng thời quyết tâm học nghề khắc ấn triện. Trên đường về Kinh đô, phong cảnh núi non sông nước hùng vĩ và hữu tình đã khơi nguồn sáng tạo đầy hứng khởi say mê cho ông. Tại Bắc Kinh, vị quan họ Hạ và đại nho Phàn Phàn Sơn hết lòng tiến cử ông vào làm họa sư của triều đình. Nhưng ông từ chối, cam chịu đạm bạc, không thích quan tước, bèn quay về cố hương là Hồ Nam. Bước phiêu lãng của Tề Bạch Thạch từng qua Hoa Sơn, Tây Nhạc, Trung Sơn, Tung Sơn, Lư Sơn, Nam Xương, Quảng Đông, Quảng Tây, Quảng Châu, Quế Lâm, Nam Kinh, Tô Châu, Giang Tây, Thiểm Tây, Giang Tô, Chiết Giang, Thượng Hải, Hương Cảng... Năm 1907, ông sang Việt Nam, và ghi lại sông núi hoa gấm của nước Nam qua tác phẩm Lục Thiên Quá Khách. Năm 45-46 tuổi ông sống tại Quảng Châu, mưu sinh bằng nghề khắc triện. Tại đây ông hân hạnh kết giao với các danh họa gia Bát Đại Sơn Nhân, Từ Thanh Đằng, Kim Đông Tâm ... Sau 5 năm giang hồ phiêu lãng, từ năm 43 đến 48 tuổi, ông về quê cũ, chuyên rèn luyện cổ văn, thi từ, đồng thời soạn lại những bút ký và họa cảo qua các cuộc viễn du, viết thành tác phẩm Tá Sơn Đồ Quyển gồm 52 bức họa và 24 bức chuyên vẽ đá. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) ông cư gia bất xuất, tự tay trồng cây, hoa kiểng, và nuôi cá quanh nhà. Tháng 5 năm 1914, ông mang một cái tang đau đớn nhất: vị ân sư của ông là họa gia Hồ Thâm Viên lìa trần. Tình nghĩa sư đệ sâu dày như non cao bể thẳm, Tề Bạch Thạch nuốt lệ ngậm ngùi. Trong giây phút sinh ly tử biệt não nề, ông chọn 20 họa phẩm đắc ý của ông – cũng là những tác phẩm mà thầy từng khen ngợi – đem đốt trước linh sàng, mượn làn hương bay khói tỏa minh chứng lòng tri ân thành kính bậc tôn sư đã nhiệt tâm giáo huấn tài bồi. Năm 1917, tức năm Dân Quốc thứ 6, giặc giã loạn lạc nổi lên. Ông đơn thân đi Bắc Kinh. Nhân dịp này ông kết giao với những danh họa gia như Trần Sư Tăng, Trần Bán Đinh, Vương Mộng Bạch, Dao Mang Phu. Lúc trở về quê, đau lòng trước cảnh quê hương điêu linh, cửa nhà bị thổ phỉ cướp sạch, ông di tản gia đình về chân núi Từ Kinh Sơn. Bấy giờ cha ông 81 tuổi, mẹ ông 75 tuổi. Nhưng ông chẳng ở chung với gia đình lâu, được vài tháng lại lên đường về Bắc Kinh. Năm sau vợ ông cũng theo về Bắc Kinh và chủ trương lấy vợ lẽ cho ông. Cô vợ lẽ mới 18 tuổi, tên Hồ Bảo Châu, người huyện Phong Đô tỉnh Tứ Xuyên, lúc đó Tề Bạch Thạch đã 57 tuổi. Năm 58 tuổi, ông kết giao với Từ Bi Hồng, Lâm Cầm Nam, Mai Lan Phương... Nhân dịp này, vâng lời khuyên của Trần Sư Tăng, ông cải biến họa pháp và tự sáng chế lối vẽ «Hồng Hoa Mặc Diệp» (Hoa đỏ, lá đen) rất độc đáo. Hai năm sau, 1922, ông lại vâng lời Trần Sư Tăng, cùng với họ Trần đi Paris tham gia cuộc triển lãm tranh. Trở về cố quốc, ông viết hồi ký «Tam Bách Thạch Ấn Tề Ký Sự» (Ký sự của gã họ Tề, biệt hiệu Tam Bách Thạch Ấn.) Cũng chính năm đó người bạn tri kỷ của ông là Trần Sư Tăng qua đời. Quả là một tổn thất lớn lao. Trong đời ông, chỉ có Từ Bi Hồng và Trần Sư Tăng là kẻ tri kỷ, thân thiết tâm giao. Đó là hai cố vấn tối cao trong đời ông, nay mất một làm sao không đớn đau đứt ruột. Hai năm sau, 1924, ông bị bệnh thập tử nhất sinh, mê man 7 ngày 7 đêm. Nhưng một lần nữa, ông lại giành được sinh mệnh của mình trên tay tử thần. Rồi năm sau, ông trở về quê cũ viếng thăm cha mẹ để rồi chẳng bao lâu chứng kiến đấng sinh thành ra đi trong cùng một năm (1926): mẹ chết hồi tháng 3, thọ 82 tuổi, đến tháng 7 thì cha cũng ra đi, thọ 88 tuổi. Đến năm 1927 thì danh tiếng Tề Bạch Thạch lẫy lừng chốn đế đô. Ông được mời giảng dạy tại Quốc Lập Bắc Kinh Nghệ Thuật Chuyên Môn Học Hiệu (năm 1928, trường đổi tên là Mỹ Thuật Học Viện.) Nhân dịp này ông xuất bản «Tá Sơn Ngâm Quán Thi Cảo Ấn Phổ». Tề Bạch Thạch nổi tiếng không kém đại danh họa tiền bối là Ngô Xương Thạc, bấy giờ người đời xưng tụng câu «Nam Ngô Bắc Tề» (phương Nam có Ngô Xương Thạc, phương Bắc có Tề Bạch Thạch) đủ thấy thanh thế của ông uy chấn giang hồ thế nào. Nhưng họ Ngô tạ thế trong năm 1927 này, thọ 84 tuổi. Thành thử chỉ còn «Bắc Tề», bấy giờ 65 tuổi, lừng lẫy một phương. Bi thống chập chùng bi thống, thương đau nối tiếp thương đau, và ngày 16-9-1957, Tề Bạch Thạch đã ra đi mãi mãi, để lại nỗi thương tiếc ngậm ngùi trong lòng thân bằng quyến thuộc cũng như người ái mộ bốn phương. Tề Bạch Thạch là một tấm gương vươn lên từ nghịch cảnh. Ông có một tuổi thơ vất vả gian lao chốn điền dã nghèo nàn. Thời gian học tập của cậu bé họ Tề quá ngắn ngủi, độ một năm. Dù là học nơi ông ngoại, cậu cũng không có cơ hội đeo đuổi sách đèn, bởi lẽ cảnh nhà suy sụp đã đẩy cậu đến chỗ lam lũ ruộng đồng, gánh nước, bổ củi, chăn trâu... Nhưng tâm hồn Tề Bạch Thạch đã phong phú thêm, ông đã biết thưởng thức cái đẹp lúc bình minh hay bóng xế chiều hôm, cảnh vật thiên nhiên bốn mùa thay đổi, cảnh nước chảy hoa trôi, cây cỏ thảo trùng. Chính sự tiếp cận với thiên nhiên trong cảnh hòa âm điền dã đã giúp ông sớm có nhận thức khách quan về cuộc sống và thẩm mỹ trước khi bắt đầu vào ngành hội họa. Và chính cái cảnh ngộ nghèo khó đã giúp ông thông cảm sâu sắc với đại chúng bình dân. Thành thử đề tài trong tranh ông bao giờ cũng gắn liền với thiên nhiên, với cuộc sống của dân quê, và toát ra vẻ dung dị mộc mạc rất gần gũi đời thường. |
Translate
Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013
DANH HỌA TỀ BẠCH THẠCH
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét